Qua bài giảng Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh (TT), giúp các em thấy được giá trị nhiều mặt và ý nghĩa to lớn của bản Tuyên ngôn độc lập. Hiểu vẻ đẹp của tư tưởng và tâm hồn Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập. Chúc các em có một tiết học thật tốt và hiệu quả.
Anh (chị) hãy phân tích giá trị lịch sử và giá trị văn chương của Tuyên ngôn Độc lập.
Tuyên ngôn độc lập là bản tuyên ngôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc vào ngày 2/9/1945 khai sinh ra nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Từ đây, nước ta được được đứng ngang bằng về nhân quyền và tự do với các nước trên thế giới. Để nắm được nội dung chi tiết bài học, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Soạn bài Tuyên ngôn độc lập
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh là văn kiện khai sinh ra nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Kể từ ngày Người đọc bản tuyên ngôn tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Bản tuyên ngôn đã trở thành một văn kiện lịch sử quan trọng đánh dấu nền độc lập, tự do của nước ta. Để hiểu được những đặc sắc về mặt nội dung và nghệ thuật ấy, các em có tể tham khảo một số bài văn mẫu sau đây:
- Đoạn văn tố cáo tội ác của thực dân Pháp trong Tuyên ngôn Độc lập
- Phân tích giá trị tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh
- Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh
- Chứng minh Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử vô giá
- Chứng minh Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực
- Nghị luận về sức lay động của Tuyên ngôn Độc lập
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
19.8.1945 chính quyền ở thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. 23.8 tại Huế, trước 15 vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Ngày 15.7, hơn 80 vạn đồng bào Sài Gòn, Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy mười ngày, Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ. Chế độ thực dân kéo dài 80 năm cùng với chế độ phong kiến hàng ngàn năm sụp đổ tan tành.
Ngày 2.9.1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới Độc lập. Dự do. Hà Nội tưng bừng màu đỏ, cả một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa.
Đọc bản Tuyên ngôn Độc lập đến nửa chừng, Hồ Chủ tịch dừng lại và hỏi: “Tôi nói đồng bao nghe rõ không?” Tức thì một tiếng “có” của một triệu con người cùng đáp, vang dậy như sấm.
“Việt Nam độc lập muôn năm”. Một triệu con người, một triệu tiếng hô cùng hòa làm một, vang dội núi sông, khi Hồ Chí Minh vừa kết thúc bản Tuyên ngôn:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Có thể nói: bản Tuyên ngôn độc lập thể hiện một cách hùng hồn, khát vọng ý chí và sức mạnh Việt Nam. Nó có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Nó phản ánh một cách tập trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh.
Nếu như Nam Quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt mở đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư", Bình ngô đại cáo khẳng định một chân lý lịch sử: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", thì Tuyên ngôn Độc lập lại mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản "Tuyên ngôn" nổi tiếng thế giới.
Câu thứ nhất trích dẫn từ bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776:
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc".
Câu thứ hai rút từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791.
Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn bình luận, suy rộng ra" "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và tự do", và đi tới khẳng định: "đó là những lẽ phải không ai chối cãi được." Qua đó, ta thấy lý tưởng cao cả, sâu sắc của Hồ Chí Minh là từ sự xác nhận và đề cao một lý tưởng thời đại về tự do, bình đẳng, bác ái, về nhân quyền đi đến một yêu cầu, một khát vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam và độc lập dân tộc. Và "Độc lập – Tự do – Hạnh phúc" là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Câu trả lời của bạn
Ngày 02/ 09/ 1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước sự chứng kiến của hàng triệu nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" đánh dấu sự thắng lợi vẻ vang của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 và tuyên bố khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng Hòa. Ra đời trong bối cảnh đó, tác phẩm trên đã trở thành văn kiện lịch sử vô giá đóng vai trò quan trọng đối với lĩnh vực chính trị - quân sự, đồng thời còn là áng văn chính luận mẫu mực trong nền văn học nước nhà.
Trước hết, "Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá". Bản Tuyên ngôn ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta vừa dành được nền độc lập dân tộc và phải đối mặt với vô vàn khó khăn về kinh tế - văn hóa - xã hội, đặc biệt là về mặt chính trị - quân sự. Tuy nhân dân ta là lực lượng trực tiếp đánh đuổi phát xít Nhật ra khỏi bờ cõi quê hương nhưng thực dân Pháp vẫn tuyên bố Đông Dương vốn là khu vực dưới sự "bảo hộ" của người Pháp, nay Nhật rút quân thì dĩ nhiên nước ta phải tiếp tục trở về là thuộc địa của người Pháp. Bên cạnh đó, các lực lượng khác như quân đội Anh, Mỹ dưới danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật lũ lượt kéo vào nước ta. Trong bối cảnh rối ren đó, sư ra đời của bản Tuyên ngôn đã trở thành văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với dân tộc Việt Nam. Trước hết, văn bản đã khẳng định quyền độc lập, tự do và quyền làm chủ của nhân dân Việt Nam sau khi giành được hòa bình. Lời tuyên bố đó hướng đến toàn bộ các nước trên thế giới, đặc biệt là các thế lực đang lăm le quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Đồng thời, nêu bật ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập, chủ quyền của toàn thể nhân dân ta: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Đặc biệt, giá trị vô giá về phương diện lịch sử đã được khẳng định hơn nữa qua việc "Tuyên ngôn độc lập" là tiếng nói đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Nam, trở thành văn kiện lịch sử mang tầm cỡ quốc gia: "Chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng...". Qua những gì đã phân tích, chúng ta có thể thấy được giá trị, ý nghĩa lịch sử của văn kiện "Tuyên ngôn độc lập".
Không chỉ dừng lại ở đó, "Tuyên ngôn độc lập" còn là "một áng văn chính luận mẫu mực". Tác phẩm đã thể hiện rõ đặc trưng của thể văn chính luận qua hệ thống lập luận logic, chặt chẽ cùng hệ thống luận điểm rõ ràng, lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục cùng văn phong súc tích, ngắn gọn, đanh thép. Trước hết, tác giả nêu lên nguyên lý chung làm cơ sở của nền độc lập qua việc trích dẫn hai bản "Tuyên ngôn độc lập" (1776) của Mỹ và "Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền" (1791) của Pháp, tạo nên tác dụng to lớn trong việc đáp trả lại những luận điệu xảo trá của giặc ngoại xâm, đồng thời đặt cuộc cách mạng của nhân dân ta ngang hàng với các cuộc cách mạng khác trên thế giới. Như vậy, cơ sở pháp lí vững chắc đã được trình bày một cách khéo léo nhưng vẫn đầy kiên quyết. Tiếp theo, tác giả đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khẳng định các cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Luận điểm này đã được triển khai qua những lí lẽ hùng hồn, bằng chứng xác thực, đập tan luận điệu xảo trá muốn "hợp pháp hóa" mong muốn tiếp tục đô hộ dân tộc ta một lần nữa. Đó là những tội ác về sự áp bức bóc lột tàn bạo qua việc tiến hành chính sách cai trị về mọi mặt như văn hóa, chính trị, giáo dục; và khi Nhật tiến vào Đông Dương, Pháp không ngần ngại dâng nước ta cho Nhật. Tính mẫu mực của văn kiện lịch sử vô giá này còn được thể hiện qua lời tuyên ngôn về ý chí cùng quyết tâm cao độ bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc ta. Đặc biệt, tuy là văn kiện chính trị nhưng tác phẩm không hề khô khan mà vẫn chứa đựng tình cảm nồng nhiệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là sắc thái chắc chắn khi nêu lên nguyên lí cơ sở của nền độc lập cùng quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc, là sự căm giận khi liệt kê những tội ác man rợ của thực dân Pháp. Điều này đã khiến cho "Tuyên ngôn độc lập" không chỉ là một văn bản chính luận khô khan với những lí lẽ đanh thép mà còn mang giọng điệu riêng của niềm tự hào và sự hùng tráng.
Qua những gì đã phân tích, chúng ta có thể khẳng định hai ý kiến trên không hề đối lập, mâu thuẫn mà thống nhất, bổ sung cho nhau để làm nổi bật giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Về mặt nội dung, Tuyên ngôn độc lập là văn kiện lịch sử vô giá, về nghệ thuật, đó là văn bản chính luận mẫu mực. Tất cả đã được thể hiện qua kết cấu lập luận chặt chẽ, logic, lập luận đầy sức thuyết phục, hệ thống luận điểm rõ ràng, lí lẽ hùng hồn, đanh thép. Giọng điệu của tác phẩm có sự linh hoạt qua những câu văn uyển chuyển và giàu sức thuyết phục, thể hiện rõ nhãn quan chính trị sắc bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Như vậy, "Tuyên ngôn độc lập" là một áng văn chính luận mẫu mực, đồng thời là văn kiện có giá trị lịch sử to lớn của dân tộc Việt Nam. Đó là sự tiếp nối, kế thừa và phát huy, mở rộng những tư tưởng, quan điểm về độc lập, tự do dân tộc đã được nêu bật qua những tác phẩm như "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt và "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi. Chính điều này đã tạo nên giá trị vô giá cùng sức sống bất hủ, trường tồn theo thời gian của bản tuyên ngôn.
Câu trả lời của bạn
Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, một nhân cách lớn lao và một tâm hồn vĩ đại. Bác đã để lại cho nền văn học nước nhà những trang thơ, trang văn thấm đẫm lòng yêu Tổ quốc, yêu nhân loại.
"Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bác ngát tình"
Và có lẽ không chỉ với riêng thơ đâu, những câu chuyện kể hay những trang văn chính luận mẫu mực cũng được ngòi bút của Người viết nên đầy sâu sắc mà kiên định như thế. Bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử được trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể nhân dân ngày 2-9-1945 đã trở thành áng văn bất hủ mang giá trị lịch sử to lớn và thể hiện tính chính luận rõ rệt, đầy sức thuyết phục.
Về tính lịch sử, bản Tuyên ngôn đã vạch rõ âm mưu tàn độc của bọn thực dân. Sự tính toán ích kỉ, xảo quyệt của thực dân Pháp đã được chứng minh qua thực tế lịch sử, chúng đã "lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta". Chúng đã phản bội lời lẽ thiêng liêng của cha ông chúng để lại, lời tuyên ngôn của Pháp vẫn còn đó, là chứng cứ rành rành cho việc làm thất đức và vô lương tâm của quân đội Pháp. Bác đã vạch rõ tội ác qua hành động tàn nhẫn của chúng trên mọi mặt của đất nước ta cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục. Hành động của chúng khiến nạn đói hoành hành, sưu cao thuế nặng làm người dân cơ cực. Tự do, dân chủ bị kìm hãm, bao người yêu nước bị tàn sát dưới lưỡi gươm lạnh lùng của chúng, chính sách ngu dân tàn bạo với âm mưu đồng hoá dân tộc ta, tất cả đều được dựng lên những năm tháng bi thương với tiếng nói căm phẫn và uất ức. Đó là tất cả những gì mà người dân của một đất nước nhỏ bé yêu hoà bình phải gánh chịu. Đó là sự thật được lịch sử chứng minh, bao thảm hoạ đau thương mà nhân dân Việt Nam phải gánh chịu. Và còn nhục nhã, đê hèn hơn khi Pháp bán rẻ nước ta cho Nhật, buộc nhân dân ta phải chịu đựng hai tầng áp bức, thẳng tay giết chết tù binh, khủng bố Việt Minh. Những tội ác tày trời, man rợ và đầy đê tiện của Pháp. Bản tuyên ngôn còn thể hiện được tinh thần anh dũng chiến đấu của nhân dân ta từ bao đời này, suốt ngàn năm lịch sử vẫn một lòng đoàn kết đánh đổ xiềng xích thực dân. Nhân dân đồng lòng nổi dậy giành chính quyền về tay. Khẳng định xoá bỏ chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm trên đất nước, lập nên một kỉ nguyên mới cho dân tộc - kỉ nguyên của độc lập tự do, xây dựng nên chế độ Dân chủ Cộng hoà, xoá bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi và mọi liên quan với Pháp trên đất nước ta, khẳng định mạnh mẽ tính tất yếu của độc lập trên đất nước ta.
Không chỉ là một tác phẩm có giá trị lịch sử to lớn, bản Tuyên ngôn còn là văn kiện có tính chính luận mẫu mực, thể hiện tài năng trong bút pháp của Hồ Chí Minh. Mở đầu tác phẩm, Bác sử dụng trích dẫn hai bản Tuyên ngôn của Pháp và Mĩ để chứng minh cho hành động tàn ác của Pháp là đi ngược lại với đạo lí cha ông, chặn đứng âm mưu thôn tính của chúng. Nghệ thuật "gậy ông đập lưng ông" được tác giả vận dụng đầy hợp lí, khẳng định được nền độc lập của dân tộc ta là tất yếu không ai có quyền xâm phạm.
Bằng hàng loạt các dẫn chứng chính xác, lí lẽ thuyết phục, lập luận chặt chẽ trong từng câu chữ, Bác đã vạch mặt tội ác tày đình của Pháp, lên tiếng bày tỏ nỗi căm phẫn và lời tố cáo đanh thép về phía quân thù. Đồng thời, với những cảm xúc chân thật, lời lẽ chân thành mà thấu tính đạt lí, Bác đã khơi gợi trong lòng người bao cảm xúc, sự đồng cảm của nhân dân Việt Nam và bạn bè yêu hoà bình trên thế giới. Giọng văn thay đổi linh hoạt, khi thiết tha xúc động, khi phẫn uất căm hờn, khi hùng hồn cứng rắn. Bác đã viết nên bản Tuyên ngôn bất hủ giàu giá trị lịch sử và chất chính luận cho nhân dân, cho dân tộc.
Câu trả lời của bạn
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh khi Hồ Chí Minh đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập" ngày 2/ 9/1945 tại quảng trường Ba Đình trước hàng triệu đồng bào. Nếu ở phần đầu tác phẩm Hồ Chí Minh đưa ra bản "Tuyên ngôn độc lập" của Mĩ và "Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền" của Pháp để làm cơ sở pháp lí thì đến phần hai Người đã nêu lên cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn.
Cơ sở ấy bắt nguồn từ việc Hồ Chí Minh tố cáo những tội ác của thực dân Pháp. Người đã liệt kê ra những hành động mà chúng đã thực hiện đối với dân tộc ta. Những việc chúng làm luôn đi ngược lại với chính nghĩa và lòng nhân đạo. Thực dân Pháp đã lợi dụng "lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái" để áp bức nhân dân ta, xâm chiếm lãnh thổ đất nước ta trong suốt hơn tám mươi năm nay. Những chính sách cai trị của chúng vô cùng hà khắc và tàn bạo.
Về chính trị, chúng "tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào", những nhà tù được chúng lập ra nhiều hơn cả trường học". Chúng "thẳng tay chém giết" những người con yêu nước của dân tộc. Chúng "thi hành chính sách ngu dân", làm giống nòi ta suy nhược bằng thuốc phiện và rượu cồn. Thực dân Pháp có dã tâm lớn khi lập ra ba chế độ chính trị khác nhau ở ba miền để ngăn không cho nước ta thống nhất và chia cách sự đoàn kết của nhân dân ta.
Về kinh tế, chúng "bóc lột nhân dân ta đến xương tủy", "cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu", đặt ra vô số thứ thuế vô lí khiến dân ta lâm vào tình cảnh khốn đốn, bần cùng. Độc ác nhất là chúng gây ra nạn đói năm 1945 giết chết hơn hai triệu đồng bào ta. Những thủ đoạn của chúng vô cùng tàn nhẫn bộc lộ bản chất vô nhân đạo. Đó là tội ác diệt chủng. Chúng muốn xóa bỏ nước ta trên bản đồ thế giới, muốn tiêu diệt hết nòi giống ta để chúng dễ bề xâm chiếm và cai trị. Chỉ trong vòng năm năm mà "chúng bán nước ta hai lần cho Nhật" vậy mà chúng còn kể công "bảo hộ", "khai hóa". Hơn thế nữa, chúng còn khẳng định Đông Dương là thuộc địa của mình trong khi sự thực thì chúng đã đầu hàng Nhật, Đông Dương trở thành thuộc địa của Nhật và nhân dân ta đã giành lại quyền tự do, độc lập từ tay phát xít Nhật chứ không phải từ tay thực dân Pháp. Chúng thẳng tay khủng bố Việt Minh, "thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng". Thủ đoạn của chúng không chỉ tàn nhẫn mà nhân cách của chúng còn đê tiện, tráo trở. Tuy vậy, bằng lòng nhân đạo của mình, "sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ". Nhân dân ta luôn dương cao lá cờ chính nghĩa và "vẫn giữ thái độ khoan hồng" với chính kẻ thù của mình. Còn thực dân Pháp thì tàn ác, vô nhân đạo, cuộc chiến tranh mà chúng gây ra cho dân tộc ta là một cuộc chiến tranh phi nghĩa. Chúng đã phản bội phe Đồng minh, bắt tay thông đồng với bọn phát xít để chúng mở rộng công cuộc xâm chiếm thuộc địa. Những từ ngữ "tuyệt đối không cho", "dã man", "thẳng tay chém giết", "tắm", "bể máu", "bóc lột đến tận xương tủy",...đã thể hiện thái độ căm phẫn của tác giả trước những tội ác của chúng.
Qua việc vạch trần bản chất của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã khẳng định tinh thần chiến đấu và truyền thống đoàn kết của dân tộc. Người tuyên bố "thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Chúng ta đã "lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải. Như vậy, nước ta không còn mối liên quan nào đến thực dân Pháp nữa. Chúng ta "một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của chúng" và chúng ta cũng một lòng quyết chiến quyết thắng để giành lại nền độc lập, tự do cho dân tộc. Với những dẫn chứng, lí lẽ thuyết phục ấy các nước Đồng minh không thể không công nhận nền độc lập của dân tộc ta. Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập"! Từ cơ sở thực tiễn là những tội ác của thực dân Pháp, Người đã tuyên bố với toàn thể thế giới rằng: "Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vùng quyền tự do, độc lập ấy".
Với giọng điệu hùng hồn, đanh thép cùng những bằng chứng xác thực và cách lập luận chặt chẽ, cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn nói riêng và toàn bộ bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh nói chung đã khẳng định nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, tự do. Đồng thời tác phẩm này cũng thể hiện phong cách chính luận của Người một cách rõ rệt.
Câu trả lời của bạn
Xuyên suốt nền văn học Việt Nam, có những văn kiện ra đời nhằm phục vụ mục đích chính trị, quân sự, nhưng đồng thời cũng trở thành những tác phẩm văn học mẫu mực xứng tầm kiệt tác. "Tuyên ngôn độc lập" ra đời vào năm 1945 là một trong những tác phẩm thể hiện rõ điều này. Bằng ngòi bút sắc bén, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiến tạo nên một áng văn chính luận mẫu mực. Điều này đã được thể hiện rõ ngay từ phần mở đầu của tác phẩm.
Trong phần đầu tiên của tác phẩm, tác giả đã nêu lên nguyên lí chung của bản tuyên ngôn thông qua việc trích dẫn hai bản Tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 với nội dung chính là khẳng định các quyền lợi cơ bản của con người. Đó là quyền sống, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc", "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Hai bản tuyên ngôn mà Người trích dẫn không chỉ đóng vai trò là dẫn chứng của áng văn chính luận mà còn thể hiện rõ dụng ý nghệ thuật đầy sâu sắc. Đặt vào hoàn cảnh lịch sử cấp bách của nước ta thời bấy giờ, khi mà nền độc lập vừa giành được sau cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 đang bị đe dọa bởi các thế lực đế quốc thực dân: quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc, đằng sau là đế quốc Mĩ tiến vào từ phía Bắc và quân đội Anh, sau lưng là quân viễn chinh của Pháp tiến vào từ miền Nam với âm mưu xâm chiếm lại nước ta một lần nữa. Như vậy, trước hành động của đối phương, tác giả đã khéo léo trích dẫn hai bản tuyên ngôn để tạo nên chiến thuật "Gậy ông đập lưng ông" ngay trên trang giấy nhằm nhắc nhở những hành động của bọn đế quốc, thực dân đang đi ngược lại và làm trái với những điều mà đất nước họ từng dõng dạc tuyên bố. Đồng thời, điều này còn thể hiện rõ tác giả đang ngầm đặt cuộc cách mạng của nước ta ngang hàng với hai cuộc cách mạng của Pháp và Mĩ.
Điều đặc biệt của bản tuyên ngôn là từ việc trích dẫn về quyền con người để làm dẫn chứng, tác giả đã nâng tầm và mở rộng thành quyền dân tộc, tạo nên một lí lẽ hết sức thuyết phục và sắc bén. Suy luận này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước thuộc địa và thường xuyên phải đấu tranh chống lại gót giày xâm lược như nước ta, bởi con người chỉ được hưởng tự do, bình đẳng khi dân tộc giành được độc lập. Mối quan hệ giữa quốc gia dân tộc và con người đã được tác giả khẳng định thông qua một tư tưởng độc đáo và mang tính nhân văn vô cùng sâu sắc.
Với nội dung là nêu nguyên lí chung, phần mở đầu của tác phẩm đã thể hiện rõ tài năng của tác giả trên địa hạt văn chương. Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn đã tạo nên một dẫn chứng xác thực góp phần củng cố lí lẽ, luận điểm đanh thép của tác phẩm.Tất cả đã tạo nên một lập luận chặt chẽ và giàu sức thuyết phục, vừa khôn khéo vừa kiên quyết để tạo nên nền tảng pháp lí vững vàng để tác giả tố cáo tội ác của bọn thực dân.
Như vậy, thông qua nguyên lí chung được thể hiện ở phần mở đầu, chúng ta có thể thấy được tài năng của tác giả Hồ Chí Minh khi tạo lập một văn kiện chính trị - lịch sử, một áng văn chính luận mẫu mực. Thông qua việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, phần mở đầu đã trở thành một nền tảng vững chắc cho những luận điểm mà tác giả triển khai ở những phần còn lại, đồng thời khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của bản "Tuyên ngôn độc lập" bất hủ.
Câu trả lời của bạn
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, người Cha già của dân tộc đã dành cả cuộc đời mình để lo cho dân, phục vụ nước. Người không chỉ là nhà chính trị tài giỏi mà còn là một nhà văn, nhà thơ đa tài với kho tàng văn học đồ sộ. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Người đã nhận ra sức mạnh của văn chương và dùng nó như một thứ vũ khí để tấn công kẻ thù, khích lệ quần chúng nhân dân. Trong vô vàn những tác phẩm để đời đó, nổi bật lên là tác phẩm "Tuyên ngôn độc lập" được chắp bút khi Người rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Đó không chỉ là ẩn chứa khát vọng, khát khao cháy bỏng về độc lập tự do dân tộc mà còn nêu lên tội ác của kẻ thù, vạch trần bộ mặt xảo trá của chúng.
Ngay từ đầu tác phẩm, Bác đã khéo léo trích dẫn bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền, dân quyền của Pháp để khẳng định chân lí lịch sử: "Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Thật vậy, con người tất cả đều bình đẳng như nhau, bất kể kẻ giàu người nghèo thì đều được hưởng những quyền cơ bản của con người, đó là quyền được được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Những điều trên rõ ràng được trích trong những bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và Pháp, vậy cớ sao chúng lại nói một đằng làm một nẻo. Trong khi hùng hồn tuyên bố về quyền của con người, bên ngoài thì ca ngợi tung hô về lí tưởng cao đẹp quyền tự do của con người thì lại chính tay tước đi quyền của người khác. Lí lẽ của Bác không chỉ dừng lại ở đó mà nó còn được mở rộng ra với các dân tộc trên thế giới, bất kể một dân tộc nào cũng đều có quyền tự do, độc lập của mình. Thật vậy, đây không còn là bản tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mà đã trở thành bản tuyên bố chính thức về quyền độc lập tự do của các dân tộc nhỏ bé đang bị áp bức trên thế giới.
Viết đến đây, dường như bao xúc cảm của Bác bùng cháy, để rồi với những dòng tiếp theo, Người đặt bút vạch lên tội ác của những kẻ giả nhân giả nghĩa. Đó chính là lũ thực dân Pháp cùng bọn phát xít Nhật tàn bạo dã man khiến dân ta rơi vào cảnh cùng cực tan cửa nát nhà. Pháp tự hào rêu rao với thế giới về công lao to lớn của mình khi đến bảo hộ rồi lại thêm công trạng khai sáng cho người dân ta, thế nhưng sự thật lại hoàn toàn khác. Khai hóa kiểu gì mà lại thi hành chính sách ngu dân, bảo hộ thế nào mà lại để người dân khởi nghĩa biểu tình rồi lại dã man đàn áp, tắm các cuộc khởi nghĩa bằng những biển máu. Đã bao người chết vì cái lương tâm "cha mẹ hiền" của chúng. Hơn thế nữa, chúng còn bắt nhốt nhiều cán bộ cách mạng của ta, dùng mọi thủ đoạn để ngăn cản nước ta thống nhất, bóc lột con dân ta đến tột cùng. Rồi sau đó, khi không chống cự được với phát xít Nhật thì lại quỳ gối hai tay dâng nước ta cho chúng để nước ta một cổ hai xiềng. Bao đau thương cứ như thế mà nhân lên gấp bội, nhân ta phải chịu đủ mọi thứ thuế, bị bóc lột dã man và cao trào đỉnh điểm là hơn hai triệu đồng bào chết đói năm 1945. Đó là tội ác trời không dung đất không tha, những kẻ xảo trá ác bá đến vậy mà lại tự tung hô mình với thế giới là đang khai sáng, đang bảo hộ thì thật là nực cười và không biết nhục nhã.
Pháp đã gây đủ mọi đớn đau cho dân tộc Việt Nam, thế nhưng thái độ của dân ta đối với dân Pháp thì thực sự khoan hồng. Sau cuộc biến động ngày 9-3, Việt Minh đã nhân đạo cứu giúp nhiều đồng bào Pháp chạy qua biên giới, thoát khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tài sản cho họ. Dân tộc Việt Nam vốn lương thiện và nhân đạo, chúng ta không vơ đũa cả nắm và đổ mọi tội lỗi cho người dân Pháp, vì họ cũng là những người dân thấp cổ bé họng chịu bất hạnh, những kẻ cầm quyền ác bá mới đáng tội, trời đất không thể dung tha.
Sau khi vạch tội lũ ác nhân, Bác bắt tay vào mục đích chính của mình đó là tuyên bố nền độc lập của nước Việt. Bác khẳng định quyền độc lập của dân tộc Việt Nam với thế giới, dân tộc ta đã trải qua nhiều đau đớn nhưng vẫn sát cánh cùng nhau vực dậy đấu tranh đạp đổ ách thống trị của cả một đế chế, tinh thần bất khuất kiên cường như thế xứng đáng và đủ tư cách để có quyền độc lập tự do cho riêng mình. Sau vô số tội ác không đếm xuể của bọn thực dân thì nay dân tộc ta quyết tâm thoát ly, cắt đứt quan hệ với Pháp và đồng thời kêu gọi toàn dân đồng lòng, đồng sức chống lại kẻ thù bên ngoài.
Xuyên suốt tác phẩm, Bác đã cho chúng ta thấy tài nghệ văn chương của mình, đó là cách lập luận, dẫn chứng cụ thể đanh thép khiến kẻ thù không thể chối cãi. Lời văn để lại ấn tượng sâu sắc với người đọc, tố cáo tội ác của kẻ thù đồng thời lấy được sự đồng cảm của người dân trên thế giới. Đây là áng văn chính luận mang giá trị lịch sử sâu sắc, đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nước ta và các nước yếu đang bị áp bức trên thế giới.
Câu trả lời của bạn
Không chỉ là một lãnh tụ, một nhà quân sự, chính trị xuất sắc trong lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh còn là nhà văn lớn với nhiều tác phẩm xuất sắc. Nhớ đến những trang viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bên cạnh những vần thơ "thép" chúng ta không thể nào quên "những áng văn chính luận mẫu mực' của Người. Và có thể nói, tác phẩm "Tuyên ngôn độc lập" là một trong số những tác phẩm chính luận như thế. Đọc "Tuyên ngôn độc lập" người đọc sẽ thấy được nghệ thuật lập luận xuất sắc của Hồ Chí Minh.
Trước hết, nghệ thuật lập luận trong "Tuyên ngôn độc lập" được thể hiện ở bố cục, cấu trúc lập luận lô-gic và chặt chẽ. Đoạn mở đầu tác phẩm, tác giả Hồ Chí Minh đã nêu lên cơ sở pháp lí, làm tiền đề vững chắc cho toàn bộ bản tuyên ngôn. Và nếu như phần đầu tác giả nêu lên cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn thì trong phần tiếp theo, tác giả đã nêu lên cơ sở thực tiễn, đó chính là việc vạch trần những tội ác dã man của giặc và cuộc đấu tranh chính nghĩa, bảo vệ đất nước của dân tộc ta. Đề rồi, trên cơ sở pháp lí và thực tiễn đã nêu, phần cuối của tác phẩm chính là lời tuyên bố độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và thể hiện ý chí, lòng quyết tâm bảo vệ nền độc lập ấy. Như vậy, bản tuyên ngôn có một bố cục chặt chẽ và hợp lí với ba vấn đề nổi bật, ba vấn đề ấy có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo nên tính thống nhất trong toàn bộ bản tuyên ngôn.
Đồng thời, nghệ thuật lập luận của bản tuyên ngôn còn được thể hiện ở cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, chứng cứ xác thực trong cách tác giả triển khai, làm rõ từng vấn đề. Trước hết, trong phần mở đầu tác phẩm, để nêu lên cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn, tác giả đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ - hai bản tuyên ngôn đề cao quyền tự do, bình đẳng của con người. Nhưng điều sáng tạo của Người chính là từ quyền con người ấy để suy ra quyền dân tộc, với cụm từ "suy rộng ra". Có thể nói, đây chính là sự suy luận rất lô-gic và chặt chẽ của Hồ Chí Minh bởi lẽ nếu nhân loại thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của cá nhân thì tất yêu phải thừa nhận quyền của dân tộc. Đồng thời, ở đây, chính việc trích dẫn này cũng đã tạo tiền đề cho bản tuyên ngôn của dân tộc Việt Nam có sức thuyết phục hơn bởi cả hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ đều đã được nhân loại thừa nhận. Thêm vào đó, trong phần nêu cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn tác giả đưa ra những lí lẽ đanh thép, hùng hồn cùng những chứng cứ xác thực. Liên kết giữa phần một và phần hai của bản tuyên ngôn tác giả đã sử dụng quan hệ từ "thế mà". Với việc sử dụng quan hệ từ này đã hé mở ra một sự đối lập giữa lí lẽ và hành động của thực dân Pháp - những hành động phi nhân đạo, trái với chính nghĩa. Tác giả đã vạch trần những tội ác của thực dân Pháp trên đất nước ta. Với nghệ thuật liệt kê cùng lối nói giàu hình ảnh, tác giả Hồ Chí Minh đã vạch rõ tội ác của thực dân Pháp trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị đến kinh tế, xã hội và chính sách bảo hộ của thực dân Pháp. Đồng thời, để nhấn mạnh những tội ác của Pháp tác giả còn sử dụng nghệ thuật điệp ngữ với việc lặp lại nhiều lần từ "chúng" và sử dụng hàng loạt động từ mạnh như "thẳng tay chém giết", "tắm các cuộc khởi nghĩa trong bể máu", "bóc lột nhân dân đến tận xương tủy" khi liệt kê những tội ác phi nhân đạo, trái với chính nghĩa của Pháp. Đồng thời, tác giả còn làm bật lên thực tiễn về cách mạng Việt Nam - đó là một cuộc cách mạng chính nghĩa và hoàn toàn nhân đạo. Đặc biệt, trên cơ sở pháp lí và thực tiễn đã nêu, đoạn cuối tác phẩm đã nêu lên lời tuyên bố độc lập như một lẽ tự nhiên, tất yếu và có lẽ bởi thế nên ngay từ đầu đoạn kết thúc bản tuyên ngôn, tác giả đã sử dụng cụm từ "bởi thế cho nên" để thể hiện mối quan hệ nguyên nhân - kết quả với những cơ sở tiền đề đã được nêu lên từ trước đó. Bản tuyên ngôn khép lại với lời tuyên bố độc lập dõng dạc, đanh thép và hùng hồn trước toàn thể nhân dân trong và ngoài nước. Đồng thời qua đó đã thể hiện rõ thái độ, ý chí, lòng quyết tâm bảo vệ, giữ vững nền độc lập, thống nhất đấy.
Thêm vào đó, nghệ thuật lập luận của tác phẩm còn được thể hiện qua việc sử dụng ngôn ngữ ngắn gọn, hàm súc, chặt chẽ. Trong tác phẩm, tác giả đã sử dụng với một tần suất cao các từ liên kết như "lời bất hủ ấy", "đó mà", "thế là", "tuy vậy", "bởi thế cho nên", "vì những lí lẽ trên",... Những từ ngữ ấy đã góp phần tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa các câu, các đoạn và tạo nên tính lô-gic cao trong toàn bộ tác phẩm. Đồng thời, hệ thống từ ngữ trong tác phẩm cũng được tác giả sử dụng chính xác cao độ, điều đó thể hiện qua việc sử dụng các từ ngữ như "xóa bỏ hiệp ước mà Pháp đã kí về Việt Nam", "tuyên bố thoát li hẳn quan hệ với thực dân Pháp",...
Tóm lại, "Tuyên ngôn độc lập" của Hồ Chí Minh không chỉ là một văn kiện lịch sử trọng đại của đất nước mà nó còn là một "áng văn chính luận mẫu mực" với nghệ thuật lập luận sắc sảo, chặt chẽ và giàu sức thuyết phục.
Câu trả lời của bạn
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh là một áng văn chính luận bất hủ của thời đại. Bằng những lí luận chặt chẽ, luận điểm khách quan, luận cứ thuyết phục, tác giả đã đập tan luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, đồng thời khẳng định cuộc chiến chính nghĩa, nền độc lập của dân tộc ta. Bản tuyên ngôn đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp trên nhiều phương diện như về kinh tế, chính, trị, giáo dục,... Đặc biệt là láy đi láy lại hai sự thật lịch sử là minh chứng hùng hồn cho sự tàn độc của chính quyền Pháp.
Đó là:
"- Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy dành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa."
"- Sự thật là dân ta đã lấy lại đất nước từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp."
Bằng việc láy đi láy lại hai sự thật lịch sử này, tác giả đã đập tan hành vi gian dối của thực dân Pháp, giáng đòn nặng nề vào luận điệu xảo trá, xuyên tạc của chúng trong việc mang danh quân Đồng Minh để cướp nước ta rồi rêu rao với dư luận "Đông Dương là của thực dân Pháp". Nước ta sự thật là giành lại chính quyền từ tay phát xít Nhật, không liên quan đến Pháp, qua đó vạch rõ âm mưu đê hèn, ti tiện của chúng. Đồng thời, khẳng định tinh thần chính nghĩa trong cuộc chiến của ta, thể hiện niềm tự hào chiến thắng của nhân dân ta trong trận chiến với quân thù, đập tan chế độ phong kiến tồn tại lâu dài trên đất nước ta. Việc dùng cách lặp từ" sự thật là" như một lời khẳng định chắc chắn, tăng tính xác thực, tạo tính thuyết phục cho luận điểm, chứng cứ. Bởi chỉ có sự thật được chứng minh qua thực tế, kinh nghiệm qua lịch sử với những năm tháng gian nan mới gợi được cảm xúc lớn lao, tăng khả năng thuyết phục người đọc, người nghe.
Câu trả lời của bạn
Trong suốt sự nghiệp văn chương của mình, Hồ Chí Minh đã để lại cho thế hệ đời sau những kiệt tác văn học. Phần lớn thơ ca của Người là để ca ngợi thiên nhiên hoặc kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên kháng chiến. Nổi bật hơn cả là áng văn nghị luận "Tuyên ngôn Độc lập", một văn kiện mang tính lịch sử, chính thức khai sinh ra nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Được đánh giá là sự chuẩn mực của thể loại nghị luận, ngay từ đầu tác phẩm, Hồ Chí Minh đã viết rất cao tay, vừa khéo léo, vừa kiên quyết lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Nghị luận là một thể loại văn chương mang tính thuyết phục rất cao, thường có tích triết lý hàn lâm, dùng để diễn tả và truyền đạt một tư tưởng nào đó đối với các sự việc, hiện tượng trong đời sống thông qua các hệ thống luận điểm, luận cứ và lập luận. Tác phẩm nghị luận mang ý kiến, tư tưởng của người viết, thường sẽ là tư tưởng đúng đắn, tích cực, có tầm ảnh hưởng tới định hướng xã hội. Đặt trong bối cảnh lịch sử, bản "Tuyên ngôn Độc lập" đã đáp ứng tất cả những yêu cầu cũng như tuân thủ chuẩn mực những quy tắc của một văn bản nghị luận. Việt Nam chính thức thoát khỏi ách nô lệ, trở thành một nước độc lập sau Cách mạng Tháng tám năm 1945. Với sự kiện tối quan trọng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo "Tuyên ngôn Độc lập" để đọc trước toàn thể nhân dân. Phần mở đầu của tác phẩm đã tạo nên một hệ thống cơ bản, làm cơ sở lý luận vững chãi cho toàn bộ ba phần phía sau, đồng thời trình bày lý lẽ sắc bén, bao hàm tầng ý nghĩa sâu xa, châm biếm.
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Khẳng định quyền tự do của dân tộc Việt Nam, Hồ Chủ tịch không đưa ra những lời lẽ kêu gọi sáo rỗng mà lựa chọn cách trích dẫn trực tiếp "Bản tuyên ngôn Độc lập" năm 1778 của Mỹ.Sau đó, Người đưa ra dẫn chứng về "Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền" của Cách mạng Pháp năm 1791 để khẳng định "quyền bình đẳng", "quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Cái hay trong thủ pháp nghệ thuật ở đây là "gậy ông đập lưng ông", lấy chính cái mà Đế quốc Mỹ, Thực dân Pháp khẳng định và tuyên bố về quyền con người, quyền tự do để phản bác lại những hành động dơ bẩn của chúng. Bản thân chúng là người đề cao sự tự do, khẳng định con người "luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi" lại đi xâm lược nước khác. Dùng chính những lý lẽ, lập luận của kẻ thù, những lý luận đã đưa Pháp và Mỹ lên tầm "thượng đẳng", cao quý lại đi ngược lại với lời của chính tổ tiên họ để lại. Hồ Chí Minh viết rất cao tay, mang hàm nghĩa sâu sắc, khéo léo và có phần mỉa mai, châm biếm. Những lời này giống như một cái tát vào chính quyền tư bản thực dân lăm le xâm chiếm Việt Nam suốt vài thập kỉ. Rõ ràng là trích dẫn một cách trang nghiêm, tôn trọng nhưng thực chất là "chặn họng" những tên mang tư tưởng bá chủ, thống trị thế giới, đi ngược lại với lẽ tự nhiên, với những lời đã được cha ông họ truyền lại.
Một ẩn ý sâu sắc không phải ai cũng nhận ra khi Bác nhắc đến Mỹ và Pháp ngay từ đầu Bản Tuyên ngôn độc lập, trước khi liên hệ với Việt Nam là sự ngang hàng. Đặt Việt Nam sánh vai với hai cường quốc kinh tế là Pháp, Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định tầm quan trọng của quyền tự do tại Việt Nam cũng quan trọng như tại hai nước đế quốc này. Nền độc lập của bất kì quốc gia nào, bất kì lãnh thổ nào cũng đáng tôn trọng và đáng giữ gìn. Ý nghĩa sâu sắc không phải ai cũng ngộ ra được đã thể hiện tài năng văn học, đồng thời thể hiện trí tuệ xuất chúng của Hồ Chủ tịch.
"Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Không chỉ gói gọn trong khuôn khổ Việt Nam, Hồ Chí Minh còn mở rộng vấn đề nhân quyền, tự do ra tầm thế giới. Một mặt, tác giả muốn khẳng định sự tự do của Việt Nam đáng để được quốc tế quan tâm và ghi nhận, một mặt là lời kêu gọi vừa kín đáo, vừa quật khởi với các nước đang chìm đắm dưới ách nô lệ. Sau Cách mạng Tháng tám của Việt Nam, các dân tộc thuộc địa như Lào và Campuchia đã được tiếp thêm sức mạnh tinh thần mạnh mẽ cũng như niềm tin vào chế độ Xã hội Chủ nghĩa, đồng thời, sự keienj ngày 2/9 cũng đặt một mốc son vàng chói lọi vào công cuộc chiến thắng chủ nghĩa Phát xít trên toàn thế giới.
Đoạn mở đầu của "Tuyên ngôn Độc lập" được viết rất khéo và đắt, vừa kiên quyết khẳng định quyền tự do của Việt Nam, vừa khéo léo lên án, chỉ trích chủ nghĩa thực dân bất công, vô lý. Không chỉ mang tầm lịch sử đối với lãnh thổ Việt Nam, đây cũng là một tác phẩm có ý nghĩa quốc tế, là động lực đứng lên kháng chiến cho nhiều quốc gia khác. Về mặt nghệ thuật, "Tuyên ngôn Độc lập" là hình mẫu chuẩn mực về văn nghị luận với những lớp lang, lý lẽ rõ ràng, đặc biệt là đoạn mở đầu đầy tính thuyết phục, mang tầm thời đại.
Câu trả lời của bạn
Nội dung lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập là: Khẳng định quyền hưởng tự do và độc lập của Việt Nam, đồng thời khẳng định quyết tâm bảo vệ đến cùng nền độc lập.
Câu trả lời của bạn
Bản "Tuyên ngôn độc lập" của Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trước công chúng ngày 2/9/1945 được xem như bản tuyên ngôn độc lập thứ ba của lịch sử nước nhà, sau bài "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt và "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi. Bản tuyên ngôn mang giá trị cả về chính trị, lịch sử và văn học nghệ thuật, riêng về giá trị văn học, đây là một bài văn chính luận mẫu mực, hào hùng, đặc biệt có sức hấp dẫn và thuyết phục cao.
Có thể khẳng định "Tuyên ngôn độc lập" là một áng văn chính luận kiệt xuất của nền văn học Việt Nam, tuy nhiên văn bản này vẫn mang trong mình những đặc điểm đặc trưng của của thể loại văn chính luận đó chính là hệ thống những lí lẽ, lập luận, chứng cứ để không chỉ trình bày trước công chúng mà còn phải thuyết phục được người đọc, người nghe. Tác giả Hồ Chí Minh đã bằng chính những lí lẽ đanh thép, lập luận sắc bén, và chặt chẽ xuyên suốt các phần của văn bản, tạo nên một hệ thống lập luận chặt chẽ từ việc đưa ra cơ sở pháp lý đến cơ sở thực tiến và cuối cùng là lời tuyên bố.
Mở đầu bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích nguyên văn những lời tuyên bố của người Pháp và người Mĩ trong các bản tuyên ngôn của họ về khẳng định quyền tự do, bình đẳng của con người là quyền sống. Để có được những lời khẳng định đó, bản thân người Pháp và Mĩ cũng đã phải trải qua các cuộc cách mạng xương máu và đó là những quyền lợi chính đáng, đã được cả thế giới công nhận. Chính người Pháp và người Mĩ lại đang là những đối tượng có âm mưu xâm lược, cướp đoạt quyền tự do, bình đẳng của dân tộc Việt Nam, mở đầu như vậy để thấy rằng họ đang đi ngược lại với chính tổ tiên của họ. Hơn nữa, cách mở đầu ấy còn khẳng định rõ hơn quyền tự do, bình đẳng là quyền lợi chính đáng, tất yếu và luôn là mục tiêu của các cuộc cách mạng. Như vậy, có thể thấy bằng việc mở đầu, tác giả đã tiếp nối và phát huy tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, đặt cuộc cách mạng của dân tộc ngang hàng với những cuộc cách mạng lớn trên thế giới, đặt bản tuyên ngôn của dân tộc Việt Nam ngang hàng với những bản tuyên ngôn bất hủ trên thế giới và đặt tư thế của đất nước ta ngang hàng với các cường quốc. Cách mở đầu theo cách "gậy ông đập lưng ông" đã tạo cho văn bản sức hấp dẫn và thuyết phục ngay từ đầu.
Trong phần tố cáo, Hồ Chí Minh đã sử dụng những lời tố cáo kèm theo chứng cứ là những sự thật lịch sử không thể chối cãi được để khẳng định các tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam. Nếu Pháp nói có công khai hóa thì bản tuyên ngôn chỉ rõ Pháp không có công mà chỉ có tội: tước đoạt quyền tự do dân chủ, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, thi hành chính sách ngu dân, phong tỏa nền kinh tế, đặt ra hàng trăm thứ thuế... Nếu Pháp luận điệu có công bảo hộ thì bản tuyên ngôn chỉ rõ Pháp đã mở cửa nước ta để rước Nhật, trong năm năm Pháp đã hai lần bán nước ta cho Nhật. Hỗ trợ cho những lời tố cáo, tác giả còn nên những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam như: truyền thống khoan hồng và nhân đạo (cứu người Pháp ra khỏi trại giam Nhật), truyền thống anh hùng (không chỉ kiên cường chống Pháp mà còn bền bỉ kháng Nhật). Nói như vậy để thấy dân tộc Việt Nam không chỉ đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100 năm mà còn đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ để lập nên một chế độ mới, khẳng định Việt Nam đủ tư cách để hưởng quyền độc lập. Cuối cùng, ở phần tuyên bố, người viết đã thay mặt Chính phủ Lâm thời tuyên bố phủ nhận hoàn toàn vai trò của Pháp trên đất nước Việt Nam bằng cách thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết hiệp ước mà Pháp đơn phương kí, các đặc quyền của Pháp trên Việt Nam. Bên cạnh đó tác giả còn tranh thủ dư luận thế giới bằng cách nêu cao tinh thần độc lập, dân chủ mà thế giới đã công nhận qua hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn để khẳng định thế giới không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Sau cùng là lời tuyên bố và tuyên thệ, tuyên bố về nền độc lập và tư cách độc lập của dân tộc, thề hi sinh tất cả để bảo vệ nền tự do, độc lập ấy.
Câu trả lời của bạn
Giá trị nghệ thuật:
- Là một áng văn chính luận mẫu mực
- Lập luận chặt chẽ
- Lý lẽ đanh thép
- Ngôn ngữ hùng hồn
- Dẫn chứng xác thực, lấy ra từ lịch sử cụ thể.
Câu trả lời của bạn
- “Tuyên ngôn độc lập” để lại giá trị to lớn cả về nội dung và nghệ thuật.
+ Là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta.
+ Đánh dấu kỉ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam mới.
Câu trả lời của bạn
Tuyên ngôn Độc lập thể hiện một cách sâu sắc và hùng hồn tinh thần yêu nước, yêu chuộng độc lập tự do và lí tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc của tác giả cũng như của toàn thể dân tộc ta.
Câu trả lời của bạn
Hoàn cảnh thế giới:
- Chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc.
- Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh.
Câu trả lời của bạn
- Bản tuyên ngôn gồm ba phần:
+ Cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn.
+ Cơ sơ thực tiễn của bản tuyên ngôn.
+ Lời tuyên bố độc lập.
Câu trả lời của bạn
Bố cục:
- Phần 1: “Hỡi đồng bào cả nước,…Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” : Nêu nguyên lí chung của bản Tuyên ngôn Độc lập
- Phần 2: “Thế mà hơn 80 năm nay,…Dân tộc đó phải được độc lập” : Tố cáo tội ác của thực dân Pháp, khẳng định thực tế lịch sử nhân dân ta đấu tranh giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- Phần 3: “Vì những lẽ trên…giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” : Lời tuyên bố độc lập và ý chí bảo vệ nền độc lập ấy.
Câu trả lời của bạn
Hoàn cảnh trong nước: Cả nước giành chính quyền thắng lợi:
- 26/8/1945: Hồ Chí Minh về tới Hà Nội
- 28/8/1945: Bác soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập tại tầng 2, căn nhà số 48, phố hàng Ngang, Hà Nội
- 2/9/1945: Đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.
Câu trả lời của bạn
Ý nghĩa:
- Tôn trọng những tuyên ngôn bất hủ của người Mĩ và người Pháp vì những điều được nêu là chân lí của nhân loại
- Dùng cách lập luận “gậy ông đập lưng ông” để buộc tội Pháp và ngăn chặn âm mưu tái xâm lược của chúng
- Thể hiện quyền tự hào dân tộc: đặt 3 cuộc cách mạng, 3 dân tộc, 3 bản tuyên ngôn ngang hàng nhau.
Câu trả lời của bạn
Trích dẫn hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1791)
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *