Bài học Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên giúp các em cảm nhận được khát vọng và niềm hân hoan trong tâm hồn nhà thơ khi trở về với nhân dân, đất nước, cũng chính là tìm thấy nguồn nuôi dưỡng cho sự sáng tạo nghệ thuật, cho hồn thơ của mình. Thấy được những nét đặc sắc của của bài thơ, liên tưởng phong phú, bất ngờ, cảm xúc gắn với suy tưởng triết lí. Thông qua bài học, DapAnHay chúc các em có thêm nhiều tiết học hiệu quả và hấp dẫn hơn tại lớp.
⇒ “Tiếng hát con tàu”: Là tiếng hát của một tâm hồn tràn ngập niềm tin vào lí tưởng, vào cuộc đời với khát vọng ra đi.
⇒ Tác giả kêu gọi mọi người cũng chính là tự nói với lòng mình, thể hiện nhận thức mới tiến bộ của người nghệ sĩ.
⇒ Gợi lên một cách thành kính, đầy ân tình về những kỉ niệm thiêng liêng đẹp đẽ ở Tây Bắc trong những năm kháng chiến gian khổ.
Phân tích bốn câu thơ đề từ trong bài “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên.
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu
Gợi ý làm bài:
a. Mở bài
b. Thân bài
c. Kết luận
Bài thơ với hình ảnh con tàu là một hình ảnh là ẩn dụ nghệ thuật có ý nghĩa tượng trưng cho ước mơ, khát vọng vượt ra khỏi cuộc sống chật hẹp quẩn quanh để đến với cuộc sống rộng lớn của nhân vật trữ tình. Nhà thơ đã khéo léo ví von tâm hồn mình như một con tàu đang mở hết tốc lực về với nhân dân, đất nước. Để hiểu hơn về bài thơ, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Tiếng hát con tàu.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Cảm hứng bao trùm trong bài thơ Tiếng hát con tàu là lòng biết ơn và hiềm hạnh phúc trong sự gắn bó với cuộc sống, với nhân dân và đất nước của một tâm hồn đã từ thung lũng đau thương ra cảnh đồng vui. Con tàu tâm tưởng chở đầy ước mơ, khát vọng đang băng băng tới những vùng đất xa xôi của Tổ quốc, đồng thời cũng là mảnh đất mỡ màu nuôi dưỡng hồn thơ, hứa hẹn những mùa vàng bội thu trong một tương lai không xa. Để có thể viết hoàn chỉnh một bài văn phân tích về bài thơ, các em có thể tham khảo một số abif văn mẫu dưới đây:
- Phân tích khổ thơ 5 trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
- Phân tích khổ thơ 6, 7, 8, 9 trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
- Phân tích khổ thơ đề từ bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
- Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của nhà thơ Chế Lan Viên
- Bình giảng đoạn thơ trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Giá trị nghệ thuật:
- Nghệ thuật so sánh, điệp từ, điệp ngữ.
⇒ Nhấn mạnh vai trò của nhân dân trong kháng chiến.
- Thơ giàu chất suy tưởng, triết lí.
Câu trả lời của bạn
Giá trị nội dung:
- Bài thơ thể hiện khát vọng, niềm hân hoan trong tâm hồn nhà thơ khi trở về với nhân dân, đất nước, cũng là tìm thấy nguồn nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo nghệ thuật cho hồn thơ.
Câu trả lời của bạn
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ… Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.
Câu trả lời của bạn
Bài thơ ra đời trong thời kì miền Bắc đang náo nức, khẩn trương xây dựng cuộc đời mới vào những năm đầu thập niên 1960. Khúc hát lên đường của bài thơ mang không khí xã hội say mê, hào hứng ấy.
Bài thơ nằm trong đề tài chung của thơ ca viết về quê hương đất nước thời kì này. Những kỉ niệm về nhân dân nghĩa tình trong kháng chiến đã khơi dòng cho nguồn cảm xúc tuôn trào: tình đất nước, tình nhân dân. Nội dung tình cảm ấy được thể hiện sâu sắc qua đoạn thơ:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.
Theo mạch cảm xúc, tiếp nối với nỗi nhớ người ở những khổ thơ trước đến khổ thơ này là nỗi nhớ cảnh, nhớ quê hương Tây Bắc.
Hình ảnh bản làng hiện ra mơ màng trong sương khói hoài niệm.
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ,
Người Tây Bắc thường làm nhà chon von trên sườn núi nên sớm chiều giăng mắc một màn sương, còn đường đèo lên cao vút chìm trong mây. Hai hình ảnh gợi tả bức tranh hùng vĩ nhưng thơ mộng, mơ màng, êm ả, nhẹ nhàng, có chút hư ảo chập chờn trong cõi mộng. Điệp từ nhớ trong một câu thơ cho thấy tâm trạng nhà thơ đang đắm chìm trong những kỉ niệm ân tình và quê hương Tây Bắc hiện lên đẹp đẽ trong nỗi nhớ càng bộc lộ tình yêu sâu nặng của nhà thơ.
Cảnh thơ ấy trong thơ Tố Hữu có vẻ đẹp riêng:
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Nơi quê hương ấy có biết bao con người nghĩa tình, mỗi nơi là một kỉ niệm đẹp mà bước chân tác giả đã từng đi qua suốt chiều dài kháng chiến.
Theo dòng hoài niệm tâm tư hướng ra ngoại cảnh, rồi trong khoảng cách của không gian thời gian tác giả quay lại soi vào lòng mình, suy ngẫm, kiểm nghiệm và nhận ra rằng:
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương
Câu thơ vừa tự hỏi lòng, vừa như muốn tâm sự, chia sẻ rồi ngầm khẳng định. Tình cảm với đất nước con người Tây Bắc đã được thử thách qua thời gian, đã được lọc qua nỗi nhớ nên câu thơ có sự lắng kết tình cảm nhưng vẫn giàu cảm xúc.
Từ tình cảm cụ thể, những suy ngẫm ấy và đang trên đỉnh cao trào của cảm xúc, ý thơ nâng lên thành khái quát.
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn
Khi ta ở miền đất ấy bình thường, là mảnh đất ở vô vị, bên ngoài vùng tri giác của con người nhưng khi đi xa đất hóa ra đẹp như tâm hồn. Mảnh đất tâm hồn ấy lúc nào cũng thao thức mãi trong hồn ta, làm sống dậy vô vàn những kỉ niệm ngọt ngào. Ý thơ cũng có thể hiểu: khi đi xa tâm hồn ta như gởi về với chốn cũ, gắn chặt với mảnh đất ấy, nhiều khi nó thức dậy bao nhiêu hình ảnh bình dị thân thương như muốn kéo ta về. Mảnh đất từng sống trong quá khứ như phần hồn, phần đời không thể thiếu của mỗi người. Nó trở thành quê hương thứ hai. Đó là một chân lí của đời sống tình cảm mà ai cũng có thể tự kiểm nghiệm.
Triết lí này không phải hội tụ từ ánh sáng của trí tuệ mà kết tinh từ cảm xúc mãnh liệt và sâu lắng của tâm hồn – một dạng cảm xúc trí tuệ và được rút ra từ sự trải nghiệm thấm thía của chính cuộc đời nhà thơ. Đúng như Tố Hữu nói: “Đốt cháy trái tim đến cùng nó trở thành trí tuệ”. Điều này thể hiện một quy luật tâm lý sáng tạo nghệ thuật: khi cảm xúc mãnh liệt thì nảy sinh ý tưởng sâu sắc, phổ quát. Vì quá nhớ thương con người và đất mình sống, cảm xúc dâng lên lần lượt qua từng hình ảnh: người anh, người em, người mẹ rồi cảnh bản làng, đến đỉnh cao trao Chế Lan Viên khám phá chân lý bằng trực giác về mối quan hệ giữa con người và đất ở. Hiện tượng này cũng đã diện ra trong tâm hồn Hồ Dzếnh:
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Để lòng buồn tôi dạo khắp sân,
Nhó trên tay, thuốc lá cháy lụi dần…
Tôi nói khẽ: Gớm, làm sao nhớ thế?
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Em tôi ơi! Tình có nghĩa gì đâu?
Nếu là không lưu luyến buổi sơ đầu?
Thuở ân ái mang manh như nắng lụa.
Hoa bướm ngập ngừng cỏ cây lần nữa,
Hẹn ngày mai mùa đến sẽ vui tươi,
Chỉ ngày mai mới đẹp, ngày mai mới thôi!
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Tôi sẽ trách – cố nhiên! – nhưng rất nhẹ
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề
Lời chỉ đẹp những khi còn dang dở.
(Ngập ngừng)
Chính vì triết lí được rút ra từ cảm xúc nên nó không khô khan mà tự nhiên, truyền cảm. Sức hấp dẫn của thơ Chế Lan Viên là cảm xúc mà giàu trí tuệ. Hai câu thơ triết lí này hay nhất của bài thơ và nó có đời sống riêng, thường xuất hiện riêng như một danh ngôn. Giọng thơ nhẹ, da diết, sâu lắng phù hợp với tâm tư đang hoài niệm, tưởng nhớ. Mạch thơ là sự vận động đi từ tình cảm đến suy tưởng rồi đúc kết thành chân lý, triết luận. Đoạn thơ ca ngợi quê hương Tây Bắc tươi đẹp đã gắn bó máu thịt với tâm hồn nhà thơ. Tình yêu quê hương Tây Bắc đã bồi đắp và làm phong phú thêm tâm hồn nhà thơ.
Câu trả lời của bạn
Phân tích về nghệ thuật xây dựng hình ảnh trong Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên?
Câu trả lời của bạn
Một trong những thành công nổi bật của bài thơ Tiếng hát con tàu là nghệ thuật sáng tạo hình ảnh. Có những hình ảnh được xây dựng theo thủ pháp tả thực, song tiêu biểu là những hình ảnh - biểu tượng chứa đựng những khái quát triết lí sâu sắc, thể hiện chất riêng của phong cách thơ Chế Lan Viên.
Trong dòng hồi nhớ, những hình ảnh tả thực gắn liền với những kỉ niệm kháng chiến, là hình bóng của con người và thiên nhiên Tây Bắc đã in sâu trong kí ức nhà thơ: Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn; Lửa hồng soi tóc bạc; bản sương giăng, đèo mây phủ; Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng,... Như thế, kỉ niệm đã hiện hình bằng những chi tiết xác thực.
Ngay nhan đề của bài thơ đã là một hình ảnh biểu tượng: Tiếng hát con tàu. Biểu tượng về khát vọng và niềm hân hoan lên đường này có cơ sở từ thực tế: những năm 1958
1960 có một cuộc vận động lên Tây Bắc xây dựng kinh tế miền núi. Chỉ có điều là vào thời điểm ấy chưa hề có đường tàu và con tàu lên Tây Bắc. Cho nên, Tây Bắc ở đây không chỉ dừng lại ở ý nghĩa một địa danh cụ thể mà nó còn có ý nghĩa biểu trưng cho cuộc sống của nhân dân, là mảnh đất lớn chứa đựng nhiều hứa hẹn, nơi khởi nguồn của mọi cảm hứng nghệ thuật chân chính. Chúng ta còn bắt gặp nhiều hình ảnh được xây dựng theo phương thức ẩn dụ như thế trong suốt bài thơ: gió ngàn đang vẫy gọi; vầng trăng; trái đầu xuân; Mẹ yêu thương; Mùa nhân dân giăng lúa chín; mẹ của hồn thơ; vàng ta đau trong lửa; Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân,... Những hình ảnh biểu tượng kích thích trí tưởng tượng, suy ngẫm của người đọc để tạo ra những liên tưởng sâu xa, bất ngờ. Bên cạnh đó, người đọc còn thấy hàng loạt các hình ảnh so sánh độc đáo: ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa - Mười năm sau còn đủ sức soi đường; Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ - cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa - Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa - Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa; Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng,... Những hình ảnh so sánh sinh động, liên tiếp, trùng điệp như thế có tác dụng trực tiếp thể hiện, cụ thể hoá những ý nghĩa vốn trừu tượng: ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống Pháp đối với sự sống nhân dân nói chung, người nghệ sĩ nói riêng; mối quan hệ khăng khít, máu thịt giữa nghệ thuật với cuộc sống nhân dân, đất nước; nỗi nhớ, tình yêu,...
Qua Tiếng hát con tàu, có thể khẳng định: sức mạnh lay động của thơ Chế Lan Viên chính là nghệ thuật sáng tạo hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.
Bình giảng bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên?
Câu trả lời của bạn
Lấy cả những cơn mơ!
Ai bảo con tàu không mộng tưởng
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân
Trong sóng nhạc tâm tình ấy, ánh lên lớp lớp những hình ảnh lung linh, với những so sánh, ẩn dụ, tượng trưng mỗi lúc một mới lạ, bất ngờ. Cái thi tứ chủ đạo Tâm hồn ta đã hóa những con tàu với hình ảnh trung tâm là con tàu đang hăm hở băng về những miền xa, những chân trời rộng rãi, đã làm “bệ phóng” cho mọi tưởng tượng sáng tạo, kết liền cả hoài niệm quá khứ về cuộc kháng chiến chống Pháp với những trăn trở và dự cảm về tương lai.
Cái ấn tượng nổi đậm tiếp theo ở bài thơ này là sự kết hợp giữa thực và ảo, thật và mơ. Hình tượng con tàu lên Tây Bắc đã là một tưởng tượng đầy mơ mộng: Sự thực thì cho đến nay cũng chưa có đường tàu lên Tây Bắc, nhưng điều đó không ngăn cản nhà thơ hình dung ra con tàu tâm tưởng của mình vượt trăm ga ngói đỏ, đêm đêm lại uống một vầng trăng... Trong bài, chúng ta còn gặp rất nhiều hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng biến hóa được sáng tạo từ sức tưởng tượng phong phú của nhà thơ. Nhưng mặt khác, bài thơ cũng lại chất chứa những hình ảnh thật cụ thể như được kết tinh từ những kỷ niệm, những cảnh sống thực đã đã trải của tác giả, những so sánh dung dị lấy từ đời sống quen thuộc mà không kém rung động (Những hình ảnh cụ thể về nhân dân và kỷ niệm kháng chiến ở phần hai bài thơ). Có thể nói, cảm xúc của tác giả đi về giữa thực và ảo, giữa thật và mơ, làm cho thi tứ của bài luôn vận động bất ngờ, mới lạ, tạo ra sức cuốn hút nhiều mặt cho tác phẩm.
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu,
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.
Bây giờ chắc ít ai còn nhớ đến sự kiện kinh tế - xã hội đã khơi gợi cảm hứng cho Chế Lan Viên viết bài Tiếng hát con tàu. Đó là cuộc vận động nhân dân miền xuôi lên xây dựng kinh tế vùng núi Tây Bắc diễn ra vào những năm 1958 - 1960 ở miền Bắc. Nhưng bài thơ không phải là một sự minh họa đơn giản, phục vụ kịp thời cho nhiệm vụ kinh tế và chính trị. Sự kiện thời sự ấy chỉ là điểm xuất phát, gợi ý cho tác giả khơi dậy những ấn tượng, cảm xúc, suy ngẫm về nhân dân, đất nước và thơ ca. Bài thơ là niềm hân hoan và lời giục giã của một tâm hồn đã thức tỉnh một chân lý lớn, lẽ sống lớn của đời người và đời thơ: đó là nhân dân... được cảm nhận như là ngọn nguồn của đời sống, của thơ ca.
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc, Tây Bắc ở đây chỉ là một biểu tượng của những miền xa xôi của Tổ quốc, nơi đã ghi sâu những kỷ niệm kháng chiến, nơi đang vẫy gọi, nơi tình dân đang chờ những cánh tay và tấm lòng đốn chung sức xây dựng. Nhưng tiếng gọi của Tây Bắc, của cuộc sống đất nước cùng là tiếng gọi của chính lòng mình: Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi. Lên với Tây Bắc cũng là về với chính lòng mình, với những kỷ niệm và nghĩa tình sâu nặng của nhân dân trong những năm kháng chiến gian lao vừa qua. Bởi thế Khi lòng ta đã hóa những con tàu giữa cảnh sôi động dựng xây, hồi sinh của đất nước bốn bề lên tiếng hát thì soi vào lòng mình mà có thể tìm thấy Tây Bắc, và tâm hồn nhà thơ cũng chính là Tây Bắc, chứ còn đâu. Cái điều tưởng chừng như nghịch lý (tâm hồn đã hóa con tàu, lại có thể cũng là Tây Bắc) lại nói lên một quy luật của tâm lý, của đời sống tâm hồn con người, đó là cái sự thật của nội tâm dưới cái vẻ ngoài dường như vô lý kia.
Bài thơ kết câu theo trình tự diễn biến tâm trạng. Ngoài bốn câu đề từ, hai khổ đầu là sự trăn trở, lời giục giã lên đường. Chín khổ tiếp là thể hiện khát vọng về với nhân dân, với Tây Bắc, được gợi lên qua những hình ảnh, kỷ niệm nặng nghĩa tình của nhân dân trong kháng chiến chống Pháp. Bốn khổ cuối là khúc hát lên đường say mê, sôi nổi, rạo rực.
Âm hưởng, giọng điệu của bài thơ cũng biến đổi theo diễn biến của mạch tâm tư ấy. Ở đoạn đầu, lời giục giã với những câu hỏi ngày càng thôi thúc (Anh đi chăng? Anh có nghe, Sao chửa ra đi?). Đây là sự phân đôi chủ thể trữ tình để đối thoại, như là lời thuyết phục một người khác: Tàu gọi anh sao chửa ra đi? Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép. Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kìa. Ở đoạn giữa, những kỷ niệm kháng chiến được gợi lại trong giọng hồi tưởng thiết tha, cảm động, với lối xưng hô thân mật: Con nhớ anh con - Con nhớ em con - Con nhớ mế. Xen với những hình ảnh lung linh của hồi tưởng là những đúc kết chiêm nghiệm triết lý trong giọng trầm lắng. Đoạn cuối là khúc hát lên đường say mê lôi cuốn, giàu chất lãng mạn với nhiều hình ảnh biến hóa bất ngờ, kỳ ảo, với sự trùng điệp tăng tiến của từ ngữ và hình ảnh tạo ra âm hưởng dồn dập, hối hả như một con tàu đang băng băng tới chân trời xa rộng.
Tiếng hát con tàu là sự bừng sáng trong tâm và trí của nhà thơ về một chân lý lớn:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
Sự sống bình dị của thiên nhiên và con người
Đó là những câu thơ thật chân thành và cảm động của một hồn thơ khi nhận ra cái lẽ sống, nguồn sống của đời mình, của thơ mình. Trong khổ thơ trên, Chế Lan Viên dùng liên tiếp tới năm hình ảnh so sánh như để nói cho đủ, khắc cho sâu tư tưởng này: hồn thơ ấy đã thuộc về nhân dân, đã tìm thấy nguồn nuôi dưỡng từ nhân dân, đã được hồi sinh trong cuộc đời rộng lớn của nhân dân. Những hình ảnh so sánh ở khổ thơ này đều rất dung dị, gần gũi với sự sống bình dị của thiên nhiên và con người, nó rất ít dấu vết của trí tuệ, của lý lẽ, mặc dù là để nói về chân lý lớn của cuộc đời mình.
Nhân dân trong tâm cảm của nhà thơ không phải là một ý niệm trừu tượng, đó là những con người cụ thể, với những số phận cụ thể. Nhân dân đó là người anh du kích với “Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách. Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con”, là em liên lạc đưa đường, là cô gái với “vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng”, là bà mế “lửa hồng soi tóc bạc. Năm con đau mế thức một mùa dài”. Những câu thơ bằng chi tiết cụ thể, bình dị khắc họa được hình ảnh nhân dân với những tấm lòng rộng lớn và hy sinh thầm lặng, đồng thời cũng biểu hiện lòng biết ơn sâu nặng, những xúc động thấm thía của một tấm lòng, nó là tâm cảm của Chế Lan Viên, là những trải nghiệm của tác giả qua những năm kháng chiến.
Theo dòng hoài niệm, mạch thơ dẫn đến những câu thơ chất chứa những khái quát, triết lý về cuộc sống được kết tinh từ những chiêm nghiệm:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn
Nói đến Chế Lan Viên, chúng ta nghĩ ngay đến một giọng thơ triết lý với trí tuệ sắc sảo, những hình ảnh ý niệm. Cái đặc sắc của những câu thơ “triết lý” trên đây là ở sự tự nhiên, bình dị mà sâu sắc của tư tưởng đã được rút ra bằng chính sự sống, bằng những trải nghiệm của lòng người. Câu thơ có thể gợi nghĩ đến nhiều điều, nhưng trước hết là nói đến cái quy luật của đời sống tâm hồn; tâm hồn con người đã được bồi đắp, tạo dựng nên bằng chính những gì người ta đã trải qua, đã gắn bó, chia sẻ. Cái khách thể đã hóa thành chủ thể, cái ở ngoài ta đã hòa nhập và làm phong phú cho đời sống bên trong của mỗi cuộc đời. Một lần khác, Chế Lan Viên đã viết:
Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi vào
Thấy ngàn núi trăm sông diễm lệ
Con ngọc trai đêm hè đáy bể
Uống thủy triều bỗng hóa hạt châu.
(Chim lượn trăm vòng)
Thì cũng là nói về chân lý ấy, về sự tái sinh và giàu có của tâm hồn nhà thơ khi đã được hình hài của đất nước, đời sống của nhân dân in dấu, soi bóng vào đó.
Mạch thơ chuyển sang sự rung cảm và suy tưởng về tình yêu:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hóa hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
Cũng được dẫn dắt từ những cảm xúc và hình ảnh cụ thể đến một triết lý khái quát như ở khổ trên, nhưng ở đây, khi nói về tình yêu, câu thơ bỗng ngời lên lấp lánh trong những hình ảnh rực rỡ sắc màu. Chúng ta lại bắt gặp nét quen thuộc của phong cách Chế Lan Viên: hồn thơ ấy ham triết lý ngay cả khi đắm mình trong những xúc cảm của tình yêu. Nhà thơ phát hiện một quy luật của tình yêu qua những so sánh từ đời sống tự nhiên: sự gắn bó của hai trái tim, hai tâm hồn trong đời sống tình yêu là một tất yếu như cái rét với mùa đông, như mùa xuân với bộ lông biếc của chim rừng. Đến đây, tâm trí nhà thơ như reo lên khi phát hiện một tương quan gắn bó giữa tình yêu và đất lạ:
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
Đoạn thơ nói về tình yêu, nhưng rốt cuộc thì cũng là nói về sự gắn bó với đất nước, nhân dân. Có điều là ở đây, sự gắn bó ấy đã được bền chặt và sâu xa như tình quê hương, bởi chất “kết dính” tâm hồn và đất lạ chính là tình yêu! Chính vì thế mà bốn câu thơ về tình yêu có vẻ như bất ngờ chuyển mạch đột ngột giữa mạch thơ hoài niệm về nhân dân, thực ra lại vẫn là nằm trong mạch suy tưởng ấy, thậm chí, như là sự kết tinh những suy ngẫm và xúc cảm về nhân dân, đất nước của bài thơ.
Phần cuối (4 khổ thơ) là khúc hát lên đường trong một nhịp điệu lôi cuốn, dồn dập, say mê, đồng thời tiếp tục mạch suy tưởng của bài thơ, với những hình ảnh kết hợp giữa thực và mộng, cảm xúc và tưởng tượng lãng mạn, bay bổng.
Tiếng gọi của đất nước, của tình dân cũng là lời giục giã của chính tâm hồn tác giả (Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi), thành sự thôi thúc, nỗi khát khao bồn chồn không thể cưỡng lại (Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng; Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga).
Tạo ra âm hưởng dồn dập lôi cuốn của đoạn thơ này có vai trò của thủ pháp trùng điệp, những từ ngữ và hình ảnh ở khổ trên được láy lại và mở rộng ở khổ dưới, làm cho các khổ thơ liền mạch, nhịp điệu trở nên dồn dập, tuôn chảy dạt dào (mắt ta thèm... / Mắt ta nhớ mặt người... Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao / Nhựa nóng cần lao...). Trong sóng nhạc xúc cảm dồn dập lại ánh lên những hình ảnh phong phú, biến hóa sáng tạo, chủ yếu là những hình ảnh ẩn dụ, những biểu tượng, tượng trưng. Hình ảnh con tàu ở phần đầu được trở lại như hình ảnh trung tâm, cùng với hình ảnh mùa nhân dân giăng lúa chín, vàng ta đau trong lửa, uống một vầng trăng, mặt hồng em v.v.. Các hình ảnh được tạo ra bằng những liên tưởng độc đáo, tưởng tượng táo bạo nhưng không xa lạ. Câu thơ của Chế Lan Viên như được xâu chuỗi bằng hình tượng, hình tượng liên kết từng chùm, tầng tầng, lớp lớp, với nhiều dạng thức cấu tạo: so sánh, liên tưởng, biểu tượng.
Tiếng hát con tàu là một trong những thành công nổi trội nhất của thơ Chế Lan Viên. Bài thơ đạt đến cái mà người ta thường gọi là độ chín. Không phải là cái hay của một hồn thơ non tơ tươi trẻ mới phát lộ, mà là sự nhuần nhuyễn của tài năng, tư tưởng và tâm hồn. Kỹ thuật và chữ nghĩa điêu luyện (cái tài) ở trường hợp này không lấn át mà nhuần nhuyễn với tình cảm chân thành, cảm xúc hòa quyện với suy tưởng, triết lý,... tất cả, tạo cho bài thơ có một vẻ đẹp riêng, mang đậm phong cách Chế Lan Viên và cũng tiêu biểu cho giai đoạn “Ánh sáng” và “Phù sa” của tác giả.
Giải thích ý nghĩa nhan đề bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên?
Câu trả lời của bạn
Chúng ta từng biết đến một Chế Lan Viên siêu hình trước Cách mạng đã "từ thung lũng đau thương" đến với "cánh đồng vui", từ "cái tôi" cô đơn bế tắc đến với cuộc đời rộng lớn của nhân dân, đất nước, cách mạng. Cuộc "trở về" ấy đã được Chế Lan Viên thể hiện trong những vần thơ chan chứa niềm biết ơn trong tập Ánh sáng và phù sa mà Tiếng hát con tàu. là một bài thơ tiêu biểu.
Bài thơ được sáng tác nhân cuộc phát động nhân dân, nhất là thanh niên đi xây dựng khu kinh tế mới ở miền núi Tây Bắc. Từ sự kiện kinh tế - chính trị này, Chế Lan Viên đã có dịp bộc lộ những trăn trở, xúc động, và lòng biết ơn của mình đối với Tổ quốc, Nhân dân cùng những suy nghĩ về ngọn nguồn sáng tạo của thi ca. Bài thơ hấp dẫn người đọc bởi chất trữ tình - triết luận, bởi những sáng tạo độc đáo, bất ngờ, mới lạ ngay từ nhan đề và lời đề từ.
Trước hết phải giải thích hình tượng con tàu.
Đây là hình ảnh mang tính biểu tượng. Trên thực tế, ta chưa có đường tàu lên Tây Bắc. Nhưng Chế Lan Viên vẫn nghĩ tới hình tượng một con tàu. Con tàu ở đây tượng trưng cho một cuộc hành trình. Vậy, Tiếng hát con tàu - nhan đề bài thơ - nghĩa là lời ca ngợi cuộc hành trình.
Căn cứ vào nội dung bài thơ, ta có thể thấy thêm ý nghĩa của nhan đề bài thơ. Cuộc hành trình lên Tây Bắc, cũng là cuộc hành trình về với nhân dân, về với Tổ quốc và về với cội nguồn của cảm hứng thi ca... Cho nên, Tiếng hát con tàu là bài ca về cuộc hành trình với ý nghĩa biểu tượng nhiều nghĩa như trên.
Chính Chế Lan Viên cũng đã từng nói: "Thực ra làm thơ chính là nói là viết về cái điều tỏa ra trước thực tế chứ không phải bằng bản thân thực tế". Khi viết bài thơ này, nhà thơ cảm thấy "trong lòng rất day dứt... cảm thấy cuộc sống của mình sẽ chật hẹp bé nhỏ nếu không hòa được với cuộc đời chung" (Chế Lan Viên). Con tàu - hồn thơ đang trong cuộc hành trình về với nhân dân thoát khỏi đời riêng nhỏ hẹp. Đây không phải hành trình lãng tử bơ vơ mà là một chuyến tàu giục giã, hối thúc tràn đầy hưng phấn. Con tàu đã làm nên phần nhạc của bài thơ mà năng lượng là niềm vui, là cảm xúc dạt dào, là "tiếng hát". Con tàu là biểu tượng cho khát vọng ra đi. đi đến những miền đất xa xôi của Tổ quốc. Với Chế Lan Viên, ra đi thực chất là trở về (Con đã đi nhưng con cần vượt nữa/ Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương) bởi vì trước đây nhà thơ đã đi quá xa (vào thế giới siêu hình), xa đến nỗi tưởng quên cả đường về. Chế Lan Viên đã đi theo cách mạng cũng hết sức tự nhiên nhưng còn nhiều lực cản đặc biệt là phải vượt lên chính mình, vượt lên những "buồn rớt", "mộng rớt" trong tâm hồn để tìm thấy ý nghĩa đích thực của cuộc đời, tìm thấy ngọn nguồn của sáng tạo. Cuộc ra đi - trở về này được nhà thơ hình tượng hóa thành một chuyên tàu lên Tây Bắc, nơi quê hương cách mạng, nơi đất nước đang gọi, nơi "tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu".
Con tàu là biểu tượng cho khát vọng lên đường. Tiếng hát biểu thị sự phấn chấn hăm hở, tin yêu và tự hào. Có một thời chàng thi sĩ này đã khóc. Nhiều người nhầm chàng là hậu duệ của Chế Bồng Nga bởi chàng trong thân phận của một người dân vong quốc đã khóc thương cho sự đổ nát "điêu tàn" của đất nước Chiêm Thành. Trong thơ chàng, người ta nghe thấy tiếng xương gãy, đầu rơi, tủy vọt, tiếng voi gầm ngựa hí, tiếng binh khí thành Đồ Bàn và tiếng "muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi". Đến với cách mạng, người thi sĩ ấy đã thoát ra khỏi "những tháp Chàm lẻ loi, bí mật" và sau một quá trình "nhận đường, "tìm đường" đã cất lên tiếng hát, tiếng hát của lòng biết ơn vì Đảng, Bác, nhân dân, đất nước đã đem "ánh sáng và phù sa" đến làm sống dậy một hồn thơ.
Tiếng hát con tàu là tiếng hát của một tâm hồn đang phấn chấn, hăm hớ với khát vọng lên đường đến những miền đất mới mà thực chất là trở về với nhân dân, đất nước - ngọn nguồn của hồn thơ, của những sáng tạo.
Những nội dung trên đây của bài thơ đã được Chế Lan Viên dồn nén một cách cô đọng, hàm súc trong bốn câu đề từ:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu!
Trong các tác phẩm văn học. lời đề từ như một tín hiệu chỉ dẫn, lời mách bảo kín đáo con đường khám phá tác phẩm. Tuy nhiên, không phải một lúc chúng ta có thế nhận thức được hết ý nghĩa của lời đề từ. Muốn hiểu được lời đề từ phải nắm được nội dung tác phẩm. Vì thế, lời đề từ và nội dung tác phẩm luôn soi chiếu lẫn nhau để vừa hiểu sâu tác phẩm vừa nhận ra ý vị của lời đề từ vốn có hình thức như một câu đố:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Câu thơ cho ta thấy Tây Bắc là một biểu tượng, tượng trưng cho nhiều địa danh, mang nhiều ý nghĩa. Tâv Bắc là cách nói về Tổ quốc, về Nhân dân, và với tác giả thì Tây Bắc còn có ý nghĩa là nơi ngọn nguồn của cảm xúc mà lí tưởng, cuộc đời nhà thơ đang hướng tới.
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?
Chế Lan Viên đã thống nhất nhiều sự việc trong một biểu tượng: Con tàu - Tâm hồn ta - Tây Bắc - Tổ quốc - Nhân dân - Cội nguồn sáng tạo... để lôi cuốn độc giả. Khi "phá cô đơn ta hòa nhập với người", khi mỗi con người phá bỏ chú nghĩa cá nhân, phá bỏ những quan niệm nghệ thuật siêu hình bế tắc để hòa nhập với cộng đồng, với thế giới, với nhân dân đất nước thì tâm hồn mỗi con người sẽ trớ thành một thế giới không tầm thường chút nào. Tâm hồn anh thuộc về nhân dân. được sinh ra từ nhân dân, được nhân dán nuôi sống. Cuộc đời và thế giới cá nhân đã hóa thân, chưng cất thành tâm hồn nhân dân. Vì thế tâm hồn anh có sự giao cảm đặc biệt với muôn triệu tâm hồn. Chế Lan Viên đã nhiều lần nói về sự thay đổi kì diệu này:
"Tâm hồn tôi khi thế giới soi vào
Thấy nghìn núi trăm sông diễm lệ".
Hoặc:
"Sợi chỉ lòng anh nghèo có một màu
Xe vào cái đa sắc của cuộc đời thêm chói lọi"
Tiếng hút con tàu, Tây bắc cũng soi vào hồn nhà thơ và nhìn vào tâm hồn nhà thơ bỗng phát hiện ra Tây Bắc đâu chỉ là một miền đất, một vùng quê. Tây Bắc còn sống trong mỗi con người với những kỉ niệm "máu rỏ tâm hồn ta thấm đất". Tây Bắc là "anh con", "em con", là "mế", là "bản sương giăng", "đèo mây phủ" là vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng", là cuộc sống gian lao nhưng trọng nghĩa tình, là tất cả những kỉ niệm tươi rói để kết lại thành: "Tây Bắc - người là mẹ của hồn thơ".
Lời đề từ chính là một lời tâm niệm: tâm hồn ta thuộc về nhân dân, đất nước. Nhìn vào tâm hồn thấy nhân dân, đất nước. Soi vào đất nước, nhân dân lại thấy được lòng mình. Ra đi đến với cuộc đời, đến với đất nước, nhân dân cũng chính là tìm đến tâm hồn đích thực của mình với những tình cảm trong sáng, những nghĩa tình sâu nặng. Đó chính là ngọn nguồn của sáng tạo bởi "chẳng có thơ đâu giừa lòng đóng khép". Tiếng hát con tàu có vẻ đẹp hài hòa giữa cảm xức và suy tư, giữa tình cảm và trí tuệ. Đây cũng là đặc điểm phong cách Chế Lan Viên trong Ánh sáng và phù sa.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên?
Câu trả lời của bạn
A. Mở bài
* Giới thiệu vài nét vể tác giả: Chế Lan Viên
B. Thân bài
Bốn khổ thơ cuối là khúc hát lên đường sôi nổi, tin tưởng và say mê.
C. Kết bài
Hoàn cảnh ra đời bài thơ Tiếng hát con tàu?
Câu trả lời của bạn
“Tiếng hát con tàu” (in trong tập “Ánh sáng và phù sa”, xuất bản năm 1960) được gợi cảm hứng từ một chủ trương lớn của Nhà nước vận động nhân dân miền xuôi lên xây dựng kinh tế miền núi vào những năm 1958 - 1960 ở miền Bắc. Tuy nhiên, bài thơ của Chế Lan Viên không chỉ dừng lại ở đó, mà nội dung ý nghĩa của nó đã vượt khỏi phạm vi một vấn đề thời sự để mở ra những suy tưởng về đất nước đang dựng xây và đặc biệt là về nhân dân và nghệ thuật.
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ... Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương?
Câu trả lời của bạn
Chế Lan Viên là nhà thơ lãng mạn nổi tiếng trong phong trào Thơ mới. Nếu trước Cách mạng, tác giả đã từng viết:
Với tôi tất cả đều vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau
và ông đã từng mong có được một "tình cầu giá lạnh" để ẩn thân trốn tránh mọi đau khổ, thì sau cách mạng, trong sự đổi mới của đất nước, của nhân dân, nhà thơ đã làm một cuộc hóa thân kì diệu tìm về với nhân dân và cũng là với chính mình. Tiếng hát con tàu chính là tiếng thơ tiêu biểu cho sự đổi mới ấy của thơ Chế Lan Viên. Bài thơ là khúc ca say mê rạo rực và lãng mạn của một hồn thơ đang tìm đến "cánh đồng vui". Nó tiêu biểu cho phong cách thơ Chế Lan Viên vừa trữ tình, lãng mạn, vừa đậm chất triết lý, giàu chất trí tuệ. Trong khúc hát ấy, hay nhất, dễ thuộc, dễ nhớ nhất có lẽ là đoạn thơ:
... Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn!
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng.
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương...
Bài thơ ra đời trong những năm tháng miền Bắc đang bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đất nước đang rất cần những con người đi khai phá vùng đất mới xây dựng kinh tế. Các văn nghệ sĩ cũng đang tự vượt mình để đi tới "cánh đồng vui", nhằm góp sức xây dựng đất nước. Chế Lan Viên cũng vậy, ông đang cùng con tàu tâm hồn của mình tìm về với nhân dân, với cảnh vật Tây Bắc, với cuộc sống bình dị mà đầy ắp chất liệu và cảm hứng nuôi dưỡng thơ ông. Trên con tàu trong cuộc hành trình ấy, Chế Lan Viên đã nhớ lại, gặp lại những con người, những cảnh vật Tây Bắc thân thương. Ông nhớ những con người bình dị, những anh du kích, những em liên lạc, những chị nuôi quân và cả người mế già đầy tình nghĩa. Tất cả đã trở thành sợi dây thiêng liêng nối kết nhà thơ với mảnh đất này:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?
Thường trực trong tâm hồn nhà thơ là nỗi nhớ, một nỗi nhớ không "chơi vơi" như Quang Dũng mà nó là một nỗi nhớ rất cụ thể. Cảnh vật Tây Bắc hiện lên thật đẹp, thật hùng vĩ. Những ngọn núi, những sườn đèo, những áng mây, tất cả đều rất tự nhiên đi vào thơ ông, sống động và đẹp đến diệu kỳ. Nhớ con người rồi nhớ đến mảnh đất, nỗi nhớ của nhà thơ đi từ cái nhỏ đến cái lớn, từ chi tiết đến tổng thể. Ông nhớ đất Tây Bắc bởi vì đó là nơi những con người nhân nghĩa thủy chung đang sống. Và kia, cảnh vật Tây Bắc vẫn còn đó, vẫn ẩn hiện thấp thoáng trong sương khói mây ngàn. Sương khói ở đây, có lẽ cũng chính là sương khói của hoài niệm, của nỗi vấn vương lưu luyến trong lòng nhà thơ về một Tây Bắc ân tình thủy chung. Vì thế cho nên:
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?
Câu thơ là một sự thực của tình cảm con người tuy rất giản dị nhưng sâu sắc mà thấm thìa. Câu thơ như là minh chứng cho sự thật, một sự thật được rút ra từ chính sự trải nghiệm thấm thía của nhà thơ. Hai câu thơ với đôi ba hình ảnh, tuy ngắn gọn nhưng gợi thật nhiều, thật sâu sắc, là cái gì đó cụ thể, là điểm tựa để nhà thơ viết tiếp hai câu thơ tuyệt bút:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn
Rõ ràng từ nghĩa thực, nghĩa cụ thể, nỗi nhớ Tây Bắc, nhà thơ đã nâng lên thành nghĩa khái quát tượng trưng.
Đất là nơi ta đến và cũng là nơi ta ở với bao kỉ niệm buồn vui, bao nghĩa tình sâu nặng. Đất là nơi chứng kiến và ghi nhận toàn bộ những hành động những công việc, những niềm vui, nỗi buồn, và có khi là toàn bộ cuộc đời của một con người. Mảnh đất cũng như "con người", cũng sinh ra, cũng sống rồi cũng chết nhưng đất là một "con người câm". Nó chỉ nhìn, chỉ nắm bắt, chỉ phát sinh ra sự sống nhưng nó không thể nói thành lời. Có lẽ chính vì vậy mà trong cuộc sống bươn chải hằng ngày, mấy người chúng ta nghĩ tới đất và tình yêu với mảnh đất mình sống cũng bị bỏ qua. Nhưng rồi, một ngày ta đi xa, ta trở thành người của một vùng đất khác thì ta sẽ thấy đất hóa thành ngọc thành vàng. Nó trở nên cao quý và đáng trân trọng, bởi vì toàn bộ mảnh đất ấy được bao bọc bởi kỉ niệm. Mảnh đất Tây Bắc, nơi ta sống những ngày gian khổ, nơi cái chết và sự sống không có ranh giới lại càng đáng nhớ đáng trân trọng hơn. Có lẽ chính vì thế mà hai câu thơ chứa chan, tràn đầy tình cảm yêu thương.
Khi ta ở, đất chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn
Quả đúng là khi ta ở thì đất chưa hóa tâm hồn. Nhưng lẽ nào vườn rau, bụi chuối, căn nhà, tiếng chim... không đọng lại chút gì trong tâm hồn ta, không đáng để ta biến nó thành tâm hồn? Quá trình để đất thành hồn là cả một quá trình vận động của tiềm thức. Khi kỉ niệm lắng sâu vào kí ức, khi khách thể hòa nhập vào chủ thể, khi sự sống bên ngoài được soi bóng, được in dấu vào đời sống của mỗi người thì nó sẽ trở thành một phần của cuộc đời, sẽ thành một mảng tâm hồn theo ta trong cả cuộc đời. Lúc chúng ta nhận ra đất "hóa tâm hồn'' cũng chính là lúc chúng ta xa đất. Quả thực, Chế Lan Viên đã rất tinh tế và tài tình khi nhận ra được quá trình vận động phức tạp mà mãnh liệt ấy, lại càng tài tình hơn khi ông đưa được nó vào thơ, làm cho nó trở thành linh hồn của bài thơ, trở thành một triết lý. Đó cũng là nét độc đáo, nét rất riêng của thơ Chế Lan Viên.
Có nhiều người không biết vô tình hay hữu ý đã thay chữ "dã" trong câu thơ: "Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn" thành chữ "bỗng". Quả thực chữ "bỗng" gợi cho ta một cảm giác mạnh hơn nhưng sao nó có vẻ bột phát và tức thì làm vậy. Ca dao Việt Nam có câu:
Cầm lược thì nhớ tới gương
Cầm khăn nhớ áo, nằm giường nhớ nhau
Phải có gương, lược, khăn, áo rồi mới nhớ nhau. Đó là cả một quá trình thay đổi từ từ trong tâm lý của một con người chứ đâu có bột phát. Là một "kĩ sư tâm hồn", Chế Lan Viên đã nắm chắc được quy luật ấy vì vậy ông đã chọn chữ "đã". "Đã" gợi đến cả một quá trình, nó dần dần, sâu lắng, thủ thỉ, thấm dần thấm dần cô đúc dần thành tâm hồn để rồi khi đi xa, thì ta nhận ra "đất đã hóa tâm hồn". Chữ "đã" đắt hơn chữ "bỗng" chính là ở chỗ đó. Quả thực, nghệ thuật chọn từ ngữ của Chế Lan Viên đã trở thành bậc thầy, không câu nào thừa, không từ nào thừa, dù chỉ là một chữ, không chữ nào có thể đổi chỗ cho nhau và cũng như không chữ nào có thể thay cho chữ "đã" trong câu trên. Quả thực Chế Lan Viên đã:
... trả chữ với giá cắt cổ
Như khai thác chất hiếm (radium)
Lấy một gam phải mất hàng năm lao lực
Lấy một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ
(Malakôpxki)
Đó có lẽ nào không phải là một phong cách, một nghệ thuật độc đáo của thơ Chế Lan Viên.
Hai câu thơ như một phát điện, một triết lý về quy luật tình cảm mà không khô khan, giáo huấn vì nó được rút ra từ sự rung động của trái tim, kết tinh từ sự sống, tình cảm của chính tác giả. Có lẽ chính vì thế mà người đọc yêu thơ ông, thích đọc thơ ông.
Mạch thơ tiếp theo là sự suy ngẫm về tình yêu và miền đất lạ.
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
...
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương
Bốn câu thơ lấp lánh màu sắc rực rỡ, xôn xao của sự sống. Tâm trạng nhà thơ như rung động mơ hồ trong thế giới đầy ắp tình yêu và căng tràn nhựa sống. Nhà thơ bỗng nhớ đến em, nhớ đến tình yêu thủy chung đậm đà. Trên con tàu tìm về quê hương lại nhớ đến người yêu, lãng mạn quá, tươi đẹp quá. Nhưng đúng như mọi bài thơ khác của Chế Lan Viên, như phong cách nghệ thuật của thơ ông, trong cái lãng mạn bao giờ cũng có một triết lý sâu sắc. Nói tới nỗi nhớ trong tình yêu lãng mạn giữa anh và em, nhà thơ ví với những quy luật đất - trời "đông về nhớ rét", với cái gần gũi của tình yêu "như cánh kiến hoa vàng" và vẻ đẹp của tình yêu thì như "xuân đến chim rừng lông trở biếc". Mỗi sự vật hiện tượng chỉ tồn tại và sinh thành được trong mối quan hệ với sự vật và hiện tượng khác. Tình yêu cũng vậy. Nó sinh ra trong cuộc sống, trong lao động chiến đấu và trong cả những cuộc gặp mặt hằng ngày. Có tình yêu là có sự sống và có sự sống là có tình yêu, chúng khăng khít và gắn chặt như mùa đông với giá lạnh. Dùng hai sự vật đối lập nhau: tình yêu và giá lạnh, mùa đông và sự sống, quả thực Chế Lan Viên đã rất tài tình, rất tinh tế. Nhà thơ đã so sánh rất đúng và rất trúng. Và rồi ông reo lên khi phát hiện ra một quy luật nữa của tình yêu, một chân lí nữa của cuộc sống:
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương
Các cụ ta thường nói "Đất lành chim đậu", con người cũng vậy luôn tìm nơi yên ổn thanh bình để sinh sống, làm ăn. Và hình như nơi đâu có tình yêu nơi đó có sự sống. Tình yêu là cái gì đó rất cao cả, nó nhân đạo hóa con người, làm cho cuộc sống trở nên gắn bó thân thương:
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương
Câu thơ như một mệnh đề ngắn gọn mà cô đúc, thật giản dị nhưng cũng thật cao cả. Ý nghĩa của câu thơ không bó hẹp trong tình yêu nam nữ, lứa đôi mà đó chính là tình yêu của con người với con người, con người với đất nước, quê hương, ở đâu thắm thiết tình người thì ở đó là quê hương. Đó có lẽ chính là ý nghĩa sâu xa của câu thơ.
Rõ ràng khổ thơ là sự kết hợp hài hòa nhuần nhị giữa chất trữ tình bay bổng và triết lý sâu sắc, thâm thúy.
Cũng là triết lý, nhưng triết lý của Chế Lan Viên không giống Huy Cận, cũng không giống Tố Hữu. Chế Lan Viên có một nét gì đó rất riêng, rất hiện đại. Những triết lí của ông không quá cao siêu rộng lớn, nó chỉ là những triết lý nhỏ nhưng quan trọng của tâm hồn con người, nó rất sống, rất gần gũi và rất dễ đi vào lòng người. Và vì thế, thơ ông ai cũng có thể đọc được, ngâm nga cũng được, bình phẩm cũng được. Nhưng để hiểu sâu, hiểu kĩ thì thật khó khăn. Sự kết hợp cảm xúc trữ tình và suy tưởng, nâng cao cảm xúc thành những suy nghĩ triết lí là thành công của đoạn thơ này. Hình ảnh trong thơ Chế Lan Viên thường mới lạ, độc đáo, tạo nên bởi những liên tưởng so sánh thông minh, tài hoa sáng tạo đó là thế mạnh của ngòi bút Chế Lan Viên. Phát huy thế mạnh ấy, nhà thơ đã kết lên hàng chùm những câu thơ, những hình ảnh đặc sắc vừa gần gũi dung dị, lại vừa sâu lắng cao cả. Cái tài trong năng lực dùng từ, sáng tạo hình ảnh của nhà thơ không lấn át mà lại càng tôn lên cái tình của nhà thơ đối với đất nước, đối với .con người tạo nên một ấn tượng thẩm mĩ độc đáo đầy cá tính. Tất cả thành công đó đã tạo nên một phong cách nghệ thuật độc đáo nhất, vừa trữ tình sâu lắng vừa giàu chất trí tuệ suy tưởng - phong cách Chế Lan Viên.
Phân tích đoạn thơ: Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ… Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi?
Câu trả lời của bạn
Chế Lan Viên là nhà thơ có tài năng nảy nở rất sớm. Năm 17 tuổi, tập thơ Điêu tàn của nhà thơ "đột ngột xuất bản ra giữa làng thơ như một niềm kinh dị”, rồi hồn thơ ấy cũng sớm bị mai một, khô héo trong sự bế tắc chung của phong trào Thơ mới. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ánh sáng của Đảng và Cách mạng đã soi đường, dẫn lối cho nhà thơ đến với nhân dân và đất nước mến yêu. Tập thơ Ánh sáng và Phù sa ra đời đánh dấu bước trưởng thành vững chắc của Chế Lan Viên trên con đường thơ Cách mạng, rất có ý nghĩa đối với nền văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975. Tập thơ thể hiện hành trình tư tưởng và tâm hồn của người nghệ sĩ đi “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui", “từ chân trời của một người đến chân trời của mọi người”. Tập thơ còn thể hiện lòng biết ơn, sự gắn bó của nhà thơ với Đảng, đất nước, nhân dân và cuộc đời. Tiếng hát con tàu là bài thơ vượt thời gian năm trong tập thơ ấy. Đây là bốn khổ thơ đặc sắc của bài thơ:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa,
Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh để lại cho con.
Con nhớ em con, thằng em liên lạc.
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư.
Con nhớ mế Lửa hồng soi tóc bạc.
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
Trước khi tìm hiểu đoạn thơ trên, chúng ta cần hiểu hoàn cảnh lịch sử của bài thơ. Đó là giai đoạn 1955 - 1960, sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cứu nước dân tộc ta toàn thắng với chiến dịch Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Miền Bắc hòa bình đang dành nhiều công sức hàn gắn vết thương chiến tranh, hăng hái bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cũng ở miền Bắc những năm 1958 - 1960, Đảng và nhà nước ta có cuộc vận động nhân dân miền xuôi lên Tây Bắc xây dựng kinh tế miền núi, hưởng ứng cuộc vận động, có rất nhiều văn nghệ sĩ nhiệt tình lên Tây Bắc, trong đó có nhà thơ Chế Lan Viên.
Chủ đề của bài thơ Tiếng hát con tàu cũng là chủ đề của cả tập thơ Ánh sáng và Phù sa. Ngoại trừ lời đề từ, bài thơ có tất cả 15 khổ thơ, mỗi khổ bốn dòng, chia làm ba đoạn. Đoạn đầu (gồm bốn khổ) là sự trăn trở, giục giã lên đường. Đoạn giữa (7 khổ) là hồi tưởng về những kỉ niệm với nhân dân trong kháng chiến. Đoạn kết (4 khổ thơ cuối) là khúc hát lên đường say mê háo hức.
Bốn khổ thơ trích trên thuộc đoạn giữa. Khổ đầu của trích đoạn nói lên khát vọng trở về như là trở về ngọn nguồn của sự sống:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
Chúng ta cần phải hiểu Chế Lan Viên trước khi đến được, gặp được nhân dân mới cảm được “con gặp lại nhân dân” là xúc động đến chừng nào. Thật vậy, trước thời điểm ấy, trong thơ Chế Lan Viên, tập Điêu tàn xuất hiện một thế giới kinh dị đầy sọ người, xương máu, yêu ma”, những ngọn tháp Chàm huyền bí, gầy mòn, đổ nát, những nấm mồ hiện ra trong bóng đêm dày đặc hoặc ánh trăng đơn côi, lạnh lẽo:
Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới thời gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than.
Đồng thời, trong trí tưởng tượng của nhà thơ, còn hiện về những hình ảnh vật vờ của những hồn ma sờ soạng dắt nhau đi “những khớp xương rợn trắng”, những dòng huyết đẫm khí tanh hôi”, những bóng dáng thấp thoáng, hư ảo của chiêm nữ:
Đây những cánh ngàn sâu cây lả ngọn,
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn
(…)
Rồi lấy ra một khúc xương rợn trắng,
Nút bao dòng huyết đầm khí tanh hôi,
Tìm những miếng "trần gian” trong tủy cạn,
Rồi say sưa vang cất tiếng reo cười.
(Trên đường về)
Như vậy, khi chưa được gặp nhân dân, nhà thơ hoàn toàn bế tắc vì “chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng sáng tác của nhà thơ bằng những nguồn nhựa sống”.
Khổ thơ hàm chứa một tiền giả định. Khi Chế Lan Viên viết: “Con gặp lại nhân dân” nghĩa là giữa nhân vật trữ tình và nhân dân vốn đã có một mối quan hệ nhất định. Đó là một mối quan hệ khăng khít, máu thịt. Chính nhân dân đã nuôi nấng, bao bọc, chở che, đồng cam cộng khổ với nhân vật trữ tình và nhiều bộ đội Cụ Hồ khác. Đại từ xưng hô “con” vừa xác định được tính chất, mức độ của mối quan hệ ấy vừa biểu lộ nỗi vui mừng, hạnh phúc vô biên khi nhà thơ tìm gặp được nhân dân - nhịp đập của trái tim mình.
Xét cho cùng, đây là một nghệ thuật thông minh, hội tụ ý nghĩa lớn lao; sự gắn bó không thể chia tách, sự hòa hợp tuyệt đối giữa nhân vật trữ tình với nhân dân. Vả lại, chúng ta vẫn có cảm giác nhà thơ chưa bằng lòng với sự biểu hiện tình cảm qua tập hợp hình chùm ấy. Nhân vật trữ tình dường như muốn bộc bạch nhiều hơn nữa sự gắn bó của mình đối với nhân dân. Mặt khác, thủ pháp nghệ thuật trên còn biểu hiện một sắc thái tình cảm tiềm ẩn: lòng biết ơn vô bờ bến; sự trân trọng, kính yêu vô hạn của nhân vật trữ tình đối với nhân dân.
Nhìn chung, ở khổ thơ đầu của trích đoạn, Chế Lan Viên đã phát huy được sức mạnh cổ điển của phép so sánh tu từ mà Paul, nhà ngôn ngữ học người Đức, thế kỉ XIX đã từng nhận xét rằng: Sức mạnh của so sánh là nhận thức”. Tuy nhiên, đối với Chế Lan Viên, nó không chỉ đơn thuần là một thủ pháp, mà còn nằm trong đặc điểm tư duy của nhà thơ. Vì thế, qua tài năng sáng tạo của nhà thơ, tính trí tuệ của nhà thơ trở nên dồi dào. Từ đó, tính hình tượng, tính truyền cảm lan tỏa khắp tứ thơ, làm rung động tâm hồn những độc giả yêu thơ, say thơ. Vậy nên, hai tiếng “nhân dân” cất lên thiêng liêng, ấm áp, gần gũi lạ thường.
Nếu như ở khổ thơ trên, lòng biết ơn của nhân vật trữ tình còn chất chứa trong một sắc thái tình cảm tiềm ẩn thì ở các khổ thơ sau, tấm lòng ấy bày tỏ cụ thể, chi tiết:
Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh để lại cho con.
Con nhớ em con, thằng em liên lạc.
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư.
Con nhớ mế Lửa hồng soi tóc bạc.
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
Đối với nhà thơ, nhân dân chính là anh du kích hình ảnh “chiếc áo nâu” mộc mạc, dung dị, không chủ yếu gợi sự nghèo khó mà gợi nỗi vất vả, nhọc nhằn của đời lính trong quá trình đi theo tiếng gọi của quê hương, của hồn thiêng sông núi. Nhưng cao cả làm sao cái tấm lòng dũng cảm, sự hy sinh thầm lặng, vì nước quên mình của anh bộ đội.
Hai câu thơ:
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh để lại cho con.
Dấy lên trong lòng độc giả nỗi xúc động nghẹn ngào, từng giọt lệ thấm dần qua trang sách, thổn thức canh khuya bởi cái nghĩa cử cao đẹp, cái tình thủy chung tuyệt đối của anh bộ đội Cụ Hồ với đồng chí, đồng đội trước khi trở về hơi ấm của lòng đất mẹ. Ở đây, nghệ thuật điệp ngữ: “chiếc áo nâu” và điệp cấu trúc cú pháp đã khắc họa sâu sắc tình cảm cao thượng, đẹp đẽ của người chiến sĩ cách mạng bất khuất, kiên cường.
Đối với nhà thơ, nhân dân chính là em liên lạc. Em đã dũng cảm, linh hoạt, nhanh nhẹn, băng rừng, lội suối, trèo đèo để đến từng bản làng giao thư, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân. Em làm tròn trách nhiệm không phải chỉ một ngày, một bữa, mà trong quãng thời gian dài: "Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư”, ở đây, nghệ thuật liệt kê: "rừng thưa”, "rừng rậm”, "băng”, "chờ”, “sáng”, “chiều”, “bản Na”, “bản Bắc”, “mười năm tròn” kết hợp với nghệ thuật đối ngữ tương hỗ (Rừng thưa em băng >< Rừng rậm em chờ) và đối ngữ tương phản (Sáng bản Na >< Chiều em qua bản Bắc) có tác dụng khắc họa đậm nét hình ảnh đáng yêu và sự tận tụy hết lòng, công lao không nhỏ của “em liên lạc”.
Đối với nhà thơ, nhân dân chính là “mế”. Trong thi ca từ xưa đến nay, hình ảnh người mẹ hiện lên bao giờ cũng cao đẹp. Nhưng đẹp trong đau thương chắc có lẽ là hình ảnh những người mẹ trong thơ văn thời kì kháng chiến như Mẹ Tơm, Mẹ Suốt, Bà má Hậu Giang, Mẹ đào hầm... Đặc biệt, hình ánh người mẹ nuôi vùng Tây Bắc thời kháng Pháp trong thơ Chế Lan Viên gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ, cảm xúc. Tuy người mẹ ấy không trực tiếp mang nặng đẻ đau, nuôi dưỡng nhà thơ từ thuở còn nằm nôi nhưng trong những giờ phút đau thương nhất của lịch sử dân tộc đã dành hết tình cảm nơi trái tim mình cưu mang, chăm sóc nhà thơ và các cán bộ trung kiên. Ôi! Đẹp làm sao bóng dáng mế kính yêu bên ngọn lửa hồng bập bùng. Tuổi đã cao, sức yếu, mắt mờ, tóc bạc nhưng còn đau” là lòng mế không yên. Mế “thức một mùa dài” để lo cho con từng bát thuốc, bát cháo. Ôi! Tình mế mênh mông như biển cả, cao như những ngọn núi trùng điệp của vùng Tây Bắc. Ôi! Ngọn lửa tình thương của mế ấm áp hơn bất cứ lò sưởi nào vào những đêm đông gió lùa qua khe cửa, gió cắt da cắt thịt.
Ở đây, nghệ thuật liên tưởng (mế - tóc bạc - hòn máu cất; đau - thức - nuôi; một mùa dài - trọn đời) và nghệ thuật đổi trật tự cú pháp (Năm con đau, mế thức một mùa dài; Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi) đã cho thấy tinh thần quân dân thắm thiết, sâu nặng, đẹp đến muôn đời.
Thêm vào đó, cả ba khổ thơ đều xuất hiện điệp từ “nhớ” kết hợp với cách xưng hô thân tình, ruột thịt của chủ đề trữ tình với những con người đại diện cho nhân dân: “con nhớ anh con”, “con nhớ em con”, “con nhớ mế” có sức khơi gợi sâu xa. Lời thơ như tiếng “cám ơn” từ đáy lòng nhà thơ thốt ra, truyền cảm đến tận lòng người. Ngoài ra, tình cảm ấy còn khơi gợi ý thức trách nhiệm của thế hệ mai sau đối với nhân dân, đối với Tổ quốc mến yêu.
Xét cho cùng, hơi thở ở cả bốn khổ thơ cũng như cả bài thơ tràn đi như một khúc hát tâm tình đưa chúng ta trở về hoài niệm - hoài niệm về quá khứ tốt đẹp bởi lẽ quá khứ là gốc rễ, là nền tảng, là sức mạnh của hiện tại, của tương lai. Đặc biệt, nhiều câu thơ trong đoạn thơ rất giàu hình ảnh, nhất là khổ đầu tiên, hình ảnh so sánh được tập hợp thành tầng tầng lớp lớp vừa lan tỏa, vừa mới lạ, vừa bất ngờ và tài hoa. Ở ba khổ thơ còn lại nhà thơ phối hợp thêm các biện pháp nghệ thuật độc đáo như liệt kê, đối ngữ, liên tưởng, đổi trật tự cú pháp, điệp từ, điệp ngữ đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức lí trí, khoái cảm thẩm mĩ và nhiều tình cảm khác của độc giả.
Tóm lại, đoạn trích thơ trên đây tiêu biểu nhất, là sự kết tinh nghệ thuật của cả bài thơ Tiếng hát con tàu. Có thể nói, chính cái “tài” của Chế Lan Viên đã làm tôn lên cái “tình” của nhà thơ với nhiều cung bậc: tình cảm với nhân dân, với đất nước, với kháng chiến. Do đó, thưởng thức Tiếng hát con tàu, chúng ta “càng nghĩ thì thấy sâu xa”, càng “nghe thì xúc động” dâng tràn.
Phân tích khổ thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu: "Con tàu này lên... đã hóa những con".
Câu trả lời của bạn
Không phải ngẫu nhiên Chế Lan Viên đã lấy hai câu thơ trên đề tựa cho bài Tiếng hát con tàu của mình. Một bài thơ ra đời trong những năm tháng miền Bắc đang cuồn cuộn chảy theo dòng thác xây dựng lại đất nước. Một bài ra đời trong muôn ngàn sợi nhớ sợi thương vấn vương lòng nhà thơ, lòng tác giả. Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên đã cất tiếng chào đời như thế - ví như một vì sao đến giao hòa với tập Điêu tàn Chế Lan Viên để kết thành một vòm tinh tú, tỏa sáng lung linh trên bầu trời văn học Việt Nam. Tựa như khi nhắc đến sông là nhắc đến vô vàn gợn sóng, nhắc đến trăng là nhắc đến muôn triệu sao óng ánh trên trời, thì đây, nhắc đến Chế Lan Viên là nhắc đến Tiếng hát con tàu. Bài thơ nhỏ mà tư tưởng lớn. Bài thơ bình dị mà sáng hơn sao, gợi nhiều suy nghĩ hơn sóng biển.
Có ai đó đã bảo "thơ là một nghệ thuật kì diệu của trí tưởng tượng". Đành rằng, những định nghĩa về thơ là vô biên, nhưng theo ý tôi thì thơ đâu chỉ là một nghệ thuật tưởng tượng bình thường. Đó là cả một sự suy tư liên kết từ hiện thực, từ quá khứ, từ tương lai. Nếu thơ anh không có hiện thực mà bản thân anh đã trải qua, bài thơ ấy bỗng trở nên sáo rỗng, rập khuôn một cách kệch cỡm. Trở về với Tiếng hát con tàu ta nhận thấy hiện thực nổi lên rất rõ trong thơ Chế Lan Viên. Một hiện thực mà nhà thơ đã lăn mình vào, ôm ấp nâng niu suốt mười mấy năm trường!
Đã qua rồi một cậu bé mười bảy tuổi với nỗi đau khôn nguôi về đất nước Chàm "loang lổ máu", một cậu bé với mắt nhìn oán hận "mang chi xuân đến gợi thêm sầu". Thay vào đó là một chàng trai trưởng thành, hồn lồng lộng gió thời đại, tay vơ trọn muôn nỗi niềm ray rứt của thế hệ tương lai và hiện tại:
Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? tàu đói những vành trăng
Đất nước mênh mông đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia
Mở đầu khổ thơ là một câu hỏi lớn. Mở đầu bài thơ là một câu hỏi có tầm vóc khá cao. Lớn bởi vì đó là âm hưởng chung của cả một thời kỳ lịch sử. Cao vì nó mang nặng những ưu tư. Những biến chuyển vừa rõ rệt vừa mơ hồ trong lòng nhà thơ. Một câu hỏi để mà hỏi? Một câu hỏi Chế Lan Viên tự hỏi mình hay hỏi muôn lớp thanh niên đang sống trên đời này, trên mảnh đất bình yên Hà Nội này? Có những nhà thơ thiên về lối trữ tình chính trị mộc mạc, đơn giản, dễ gần, dễ hiểu như thơ của Tố Hữu. Nhưng có những nhà thơ thiên về lối bất khả giải, trong tầm tư tưởng được đè nén trong từng câu, nhưng vẫn rất khó hiểu! Càng đọc để thấy mình càng như lạc vào mê cung, mà vẫn thích thú lao đi vì trong mê cung ấy nhiều hoa, nhiều hương quá! "tàu đói những vành trăng", câu thơ đã đặt Chế Lan Viên thành một người thơ thứ hai, khó hiểu nhưng dễ mến!
Quang Dũng ngày xưa đã từng mơ mình là "mây ở đầu ô mây lang thang", để thoát khỏi sự gò bó khó chịu của đô thành phồn hoa chật hẹp. Chế Lan Viên không trực tiếp nói vậy! Bởi nhà thơ đã hóa thành muôn người cùng một ý tưởng, cùng một suy nghĩ. Nhắc đến "vành trăng" là nhắc đến những gì cao đẹp nhất, trong lành nhất. Há chẳng phải nhà thơ muốn ví những linh hồn người là những vầng trăng đó sao? Không phải vô tình khi Chế Lan Viên viết "tàu đói những vành trăng" rồi lại nhắc "Tàu gọi anh đi, sao anh chửa đi?" Theo ý, tôi con tàu ở đây ví như nền văn học Việt Nam ta lúc bấy giờ. Một nền văn học biết chuyển động, biết hướng đến những mục đích cao xa và rộng đằng trước mặt và nền văn học ấy không thể chấp nhận những tâm hồn bị gò ép bởi những "giấc mơ con đè nát cuộc đời con" (Chế Lan Viên). Nền văn học ấy, đòi hỏi sự uyển chuyển trong muôn tâm hồn nghệ sĩ. Những tâm hồn có "gió ngàn", có trời rộng, có sông dài, có đường xa. Ba câu hỏi liên tiếp như ba cái móc đưa ta lên cao, để từ đó ta nhìn xuống trần gian, để ta thốt lên "Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp". Một câu thơ mà chứa đựng bao ý tình! Đặt con người là hữu hạn bên đất nước vô hạn, Chế Lan Viên đã tự đưa nhiệm vụ cho mình và bạn hè. Tám câu thơ là một lời trách móc, là một lời khuyên lớn của người cha, người mẹ, người chị, người bạn thương yêu "Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép - Tâm hồn anh đang đợi anh trên kia". Câu thơ giục ta quay về không gian của Đôi mắt (Nam Cao). Trong truyện ngắn đó, thay thế cho cái nhìn cũ kĩ, thiên lệch, hẹp hòi của cả một tầng lớp trí thức cũ - họ đi ngoài lề của cuộc kháng chiến, của cuộc sống nên không thấy được vẻ hoành tráng của một dân tộc đang rẽ sóng, vạch gió đi lên. Họ không biết rằng những suy tư trong tầm hồn họ đã mục rỗng, đã bị ủ thành men chua chát! Chế Lan Viên đã ý thức được điều đó. Và ông đã tình nguyện làm người dẫn đường cho mọi lớp người đi lên, đi lên xây dựng quê hương, xây dựng Tây Bắc.
Đã là người dẫn đường thì bao giờ cũng thuộc đường nẻo. Chế Lan Viên thuộc con đường Tây Bắc ấy, bởi nhà thơ đã hòa mình vào cuộc kháng chiến "mười năm qua như ngọn lửa", hòa mình và rỏ máu lên mảnh đất yêu thương, nên cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi lời thơ bỗng reo lên trong trẻo:
Con gặp tại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
"Nai về suối cũ" lòng ta lại thấy dấy lên những vần thơ êm đềm, sâu lắng của Lưu Trọng Lư:
Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
(Tiếng thu)
Đã qua rồi những năm tháng đất nước chơ vơ không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, đã qua rồi những chiếc lá úa vàng buồn thê lương của mùa thu. Con nai vàng ngây thơ, ngơ ngác giữa đêm trăng cũng ra đi! Hay nói đúng hơn, chú đã lột xác để trở thành chàng nai "về suối cũ", một chàng trai với những suy nghĩ mà luồng gió của thời đại đã thổi vào lòng chàng những mùa xuân mới. Không biết khi viết những dòng này, Chế Lan Viên có nghĩ đến con nai vàng huyền thoại của Lưu Trọng Lư mà sao tôi thấy thương, thấy mừng, thấy lòng run rẩy xúc động quá! Tôi tiếc cho một chú nai ngây thơ, xinh đẹp ngày xưa! Sự chuyển biến giữa lời thơ từ dịu dàng, chua xót đến trong như tiếng ngọc gieo hoàn toàn phù hợp với sự chuyển biến ý tưởng trong câu thơ. Chúng đã phải trải qua nhiều gian khổ, nhiều lao đao mới hình thành được như ngày nay - chú nai tơ vững chãi và anh dũng.
Một loạt hình ảnh so sánh nối tiếp nhau dồn dập như bước chân ngày nào tiến quân lên Tây Bắc như "nai về suối cũ", "cỏ đón giêng, hai chim én gặp mùa" hay "trẻ thơ đói lòng gặp sữa", "chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa". So sánh là biện pháp nâng cao ý tưởng, lời thơ rất dễ sáo mòn. Với Chế Lan Viên thì không! Những so sánh của ông đều có những mục đích nhất định. Nhân dân là tất cả những gì đẹp nhất, thơm hương nhất của cuộc đời. Đó là bình sữa ngọt là mùa chim chóc về làm tổ, là nguồn sống tiếp xúc cho nhà thơ, cho con người thêm sức lực vươn tới để sống và chiến đấu.
Trừ hai khổ thơ đầu, còn lại toàn bài thơ là chìm lấp trong một biển nhung nhớ đến ray rứt lòng. Nhà thơ đang đi trên bờ hiện tại mà linh hồn ngóng vọng về quá khứ. Áp mặt lên bờ suy tưởng, nhà thơ suy nghĩ về những tháng ngày đã sống đầy gian lao và yêu thương. Hạnh phúc nhất là khi ta có những kỉ niệm để thương yêu, ấp ủ bên lòng. Hạnh phúc nhất là khi người ta có quá khứ để quay lại và nhìn xem mình đã lớn được bao nhiêu. Chế Lan Viên là người hạnh phúc nhất trong những hạnh phúc. Bởi vì ông không chỉ có kỉ niệm đẹp, mà ông còn ôm ấp, biết giữ gìn, biết ghi lòng tạc dạ không quên những kỉ niệm xa xưa ấy.
Mỗi nỗi nhớ của nhà thơ đều mang âm hưởng của dân tộc. Nhớ về "người anh du kích" là nhớ về "chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn", "chiếc áo nâu suốt một đời vá rách". Hay chính là Chế Lan Viên cũng đang nhớ về một đất nước của những anh hùng áo vải cờ đào, những anh hùng nông dân nghèo khổ nhưng tâm hồn không nghèo không hạn hẹp? Nhớ đến "thằng em liên lạc" cũng chính là nhớ đến lòng dũng cảm của em "Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ - Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư". Hay Chế Lan Viên đang nhớ về lòng dũng cảm của một dân tộc anh hùng qua bốn ngàn năm văn hiến? Nỗi nhớ như trải qua suốt chiều dài của "đêm công đồn", chiều sâu, chiều rộng của những con đường người em liên lạc đã đi qua. Để rồi chúng tập họp lại thành nỗi nhớ bóng dáng của người mế nuôi trong ngọn lửa. Cái bóng dáng gợi lên trong lòng thao thức về hình ảnh người mẹ Việt Nam hiền hòa như dòng sữa, xanh mát như một bóng cây cổ thụ ngã trên đường dài nhiều truân chuyên, nâng đỡ cho ta từng bữa ăn, giấc ngủ. Đọc hai câu thơ:
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau mế thức một mùa dài
Tôi tin rằng, giữa những ngày giá rét, không phải ngọn lửa đã sưởi ấm lòng tác giả mà chính là tình mẹ mênh mông, sưởi ấm lòng tác giả dù với mế không phải hòn máu cắt".
Nhưng nỗi nhớ của Chế Lan Viên trong bài thơ không "chơi vơi" như nỗi nhớ của Quang Dũng (Tây Tiến) cũng chẳng phải là nỗi nhớ bồn chồn mơ hồ của Nguyễn Đình Thi (Đất Nước). Nỗi nhớ của Chế Lan Viên bao gồm những gì rất cụ thể, rất sâu sắc. Nó đã sống trong lòng tác giả, cựa quậy như một cái bào thai để rồi nhà thơ phải ngồi vào bàn mà viết, mà suy tư. Sự lặp lại "nhớ" trong thơ Chế Lan Viên không khiến người ta nhàm chán mà còn cảm thấy thích thú vì mình đang được đi vào mộng tưởng của nhà thơ rồi cùng nhà thơ tắm mình trong biển nhớ bao la đó:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
Dường như Chế Lan Viên đi theo hướng thơ với Huy Cận. Trong đó mỗi câu, mỗi từ đều được đem ra ngắm nghía kĩ lưỡng, rồi phối lên đó một vầng suy tưởng sâu xa. Thơ triết lí dễ làm người ta chán, người ta bỏ đi nhưng khi đã hiểu họ, bỗng ta yêu nó đến cuồng nhiệt, yêu tưởng như sẽ chẳng bao giờ yêu được như thế! Nhất là đối với hai câu thơ của Chế Lan Viên:
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
Tôi đã gặp rất nhiều người ngâm nga hai câu thơ trên một cách thích thú mặc dù không biết chắc chúng được ai viết ra! Hỏi, họ bảo chỉ vì họ thích, vì những điều đó có thật mà họ không bao giờ để ý đến điều đó. Tôi cũng đồng ý với họ và khen Chế Lan Viên. Khen rằng trong thơ Việt Nam hai câu thơ sẽ không ai viết được nữa! Còn gì tài hơn Chế Lan Viên đã nắm bắt người vốn lãng quên để đưa vào thơ mình, để khơi gợi một sức sống mãnh liệt trong linh hồn bài thơ. Phải, tôi cho rằng hai câu thơ này chính là linh hồn của bài thơ. Nó trong sáng và đẹp như buổi ban mai đầy ánh dương. Thường thì những gì mình có, mình gặp gỡ hàng ngày là tầm thường với mình quá rồi! Kể cả đất cũng vậy, đất quê hương, đất xứ người, đất trên muôn vàn mảnh đất khác lạ! Nhưng rồi một ngày ta đi xa, một ngày ta bỗng là người của một miền khác. Những tầm thường kia bỗng thành ngọc, thành vàng. Thật ra đó chỉ là những viên đá tầm thường nhưng vì được bọc trong kỉ niệm, bọc trong thương nhớ, yêu thương bỗng có sức hút mãnh liệt. Nó giăng níu, xô đẩy ta trong một vùng của sự suy tư. Ta bỗng thấy lòng ray rứt, thấy lòng bâng khuâng nuối tiếc tháng ngày đã qua đến phát khóc đó, thấu hiểu được điều đó bởi vì chính ông cũng đã từng thốt lên:
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương
Tình yêu ở đây được hiểu theo nhiều nghĩa. Lòng yêu của nhà thơ với mảnh đất xa lạ Tây Bắc, với những con người Tây Bắc đã ấp ủ, đùm bọc nhà thơ suốt những năm dài kháng chiến. Tình yêu của nhà thơ với quá khứ, với kỉ niệm xa. Và đó cũng có thể là tình yêu của rừng núi Tây Bắc, của người dân Tây Bắc đối với nhà thơ - một con người, một người anh, một người bạn, một con người gắn bó máu thịt với mảnh đất anh hùng này:
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân
Hai câu thơ đối nghịch để cho thấy một sức sống vĩ đại của miền Tây Bắc. Máu rỏ xuống và cây mọc lên. Mỗi khi đọc lại hai câu thơ này, ta lại hình dung ra những trái cây mang hình một giọt máu. Động từ "rỏ" cũng được nhà thơ sử dụng rất hay, rất độc đáo! Ai cũng muốn nói máu trào, máu sôi, máu tuôn... Mà quên đi "máu rỏ", "rỏ" cho ta thấy một sự quá bền bỉ, quá kiên nhẫn, quá kiên cường và quá nhiều! Máu ấy đã "rõ" trong suốt mười năm, trong suốt những dòng thơ sẽ rỏ xuống gấp bội, gấp vạn lần nữa! Một giọt máu rỏ, một sự hi sinh bền bỉ và kiên gan như những người con đất Việt nói chung và Tây Bắc nói riêng.
Trở về với linh hồn thơ, trở về với những niềm tâm sự sâu lắng của nhà thơ để bắt gặp chính linh hồn ta trong ấy! Một linh hồn không phải cứu vớt từ Chúa Trời, mà được cứu vớt bởi lương tâm và trách nhiệm với những gì mình đã sống, đã đi qua. Không chỉ đơn thuần "đất đã hóa tâm hồn!", đất đã trở thành một phần máu xương trong cơ thể ta mà đất còn là một ngọn lửa nhỏ sưởi lòng ta khi lạnh giá, là một vì sao soi đường mỗi khi ta lầm lạc. Vậy mà trong cuộc sống, đã có biết bao nhiêu người tìm mọi cách lãng quên quá khứ, rũ bỏ những ngày qua. Đành rằng không thể sống mãi với quá khứ nhưng đừng bao giờ quên đi quá khứ. Bởi đó là những nấc thang đầu tiên đưa ta đến với đời. Tôi chỉ ước mong rằng, những ai đã và đang lãng quên dần với kỉ niệm hãy ngân nga hai câu thơ linh hồn của Chế Lan Viên:
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
Khi ấy bạn sẽ thấy thật thanh thản, nhẹ nhàng, giống như mình đang đi trên mây lướt trên gió muốn thơ thấm dạt vào người. "Thơ là tổng kết của nhạc, họa và chạm khắc khi cần thiết". Thì đây, giữa những dòng nhạc êm dịu đang chảy bờ quá khứ và hiện tại, màu vàng của cánh kiến bỗng sống lại nao nức. Màu vàng của nhớ nhung, của tình yêu, của kỉ niệm, thoát xác, biến thành một nàng tiên xinh đẹp, tay ôm một mớ sắc vàng mà vang lên bài thơ, mà vung lên trần gian và nỗi nhớ. Đọc bài thơ mà như cảm thấy, tay mình sờ vào đâu cũng là màu vàng sặc sỡ mà ấm áp, hồn mình phiêu bạc về đâu cũng đụng phải nỗi nhớ thương, sắc vàng và nỗi nhớ quyện vào nhau, đung đưa trước gió như một tấm mạng nhện óng ánh nhiều màu sắc, vây hãm ta bằng muôn sợi tơ êm dịu. Chưa bao giờ tôi được đọc một tập thơ nhiều nỗi nhớ đến thế! Càng chưa bao giờ tôi được đọc bài thơ nhiều sự so sánh liên tưởng kì lạ đến thế! Trong những dòng thơ ấy tràn ngập màu sắc hương vị của mùa xuân. Tràn ngập một cái gì như tình người mà nhiều hơn tình người nhiều lắm!
Đoạn trích được dừng lại ở khổ thơ:
Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga
Kết thúc bằng một câu hỏi. Mở đầu cũng bằng một câu hỏi. Để từ đó ta nhận ra một Chế Lan Viên luôn trăn trở, lo âu, luôn tự hỏi mình, hỏi người để sống và vươn tới. Câu hỏi như một lần nhấn mạnh cuối cùng: đã sống thì phải sống như một con người chân chính. Một con người có thủy có chung có nghĩa có tình. Một con người biết hi sinh sự ấm áp nhỏ bé của riêng mình mà gánh lên vai trách nhiệm đối với đất nước.
Cả bài thơ là một bản giao hưởng kéo con người về kỉ niệm, về quá khứ, về tình người. Chế Lan Viên đã yêu như yêu những người dân Chàm! Chế Lan Viên đã yêu quá khứ, thủy chung với kỉ niệm như ông đã từng yêu người, yêu đời! Không gian trong bài thơ tụ lại rồi loãng ra, trải dài qua suốt mười năm kháng chiến. Một bài thơ nhỏ mà thời gian thật là dài và nỗi nhớ thật là lớn. Những dòng thơ vẫn mang âm hưởng mạnh mẽ của một thời (Điêu tàn) nhưng thấp thoáng sau đó là cả một trời tươi sáng, nơi mặt đất nở hoa và ngàn cây ra trái, nơi những ánh dương của một tâm hồn mới soi rọi đến muôn đời.
Thơ hay không bởi vì kĩ thuật viết, mà bởi vì con mắt nhìn của nghệ sĩ càng kết đọng càng sâu sắc bao nhiêu thơ càng dễ sống, càng để bất tử .
Thời gian ba mươi năm đã qua đi. Chế Lan Viên cũng đã ra đi. Nhưng cũng hình người đã nói "Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn". Chế Lan Viên ra đi là để những mảnh đất nơi ông đã từng qua, từng sống để trở thành một tâm hồn bình dị với nhớ nhung tha thiết. Mảnh đất Việt này nhớ ông, một người lớn lên trong phong trào thơ đang chuyển mình trong cuộc đời mới của đất nước quê hương.
Đọc thơ ông, hiểu thơ ông, ta biết thêm một Chế Lan Viên thủy chung nhân hậu, một Chế Lan Viên lúc nào cũng muốn mình và người sống tốt hơn, thi vị hơn và rồi bỗng nhiên, tôi ước mình cũng có bài thơ hay như thế của riêng mình! Mình cũng là một người từng sống, từng yêu thương như Chế Lan Viên!
Ý nghĩa của nhan đề Tiếng hát con tàu?
Câu trả lời của bạn
a. Bài thơ ra đời khi chưa có đường tàu lên Tây Bắc. Ở đây, con tàu đã trở thành hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng: biểu tượng cho khát vọng lên đường, đi xa mơ ước trở về mọi miền rộng lớn của đất nước và nhân dân: trở về những kỉ niệm đẹp đẽ, thắm thiết, trở về với ngọn nguồn thơ ca chân chính .
b. Như vậy, “Tiếng hát con tàu” là tiếng hát của một tâm hồn thơ khao khát được bày tỏ tình cảm ân nghĩa, lòng biết ơn sâu nặng của nhà thơ đối với nhân dân, đối với cuộc đời và cách mạng, một tâm hồn thơ tràn đầy niềm vui và khát vọng sáng tạo, tràn đầy niềm tin vào cuộc đời khi đã được giác ngộ một lẽ sống lớn của người nghệ sĩ (làm người ca sĩ của nhân dân, đem nghệ thuật phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng) và chân lý lớn của nghệ thuật (“Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ”; nghĩa là cuộc đời đẻ ra nghệ thuật, thơ ca). Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã khẳng định “cuộc đời là nơi xuất và cũng là nơi đi tới của thơ ca”
Hãy phân tích khổ thơ đầu của bài thơ Tiếng Hát con tàu của Chế lan Viên.
Câu trả lời của bạn
Chế Lan Viên là nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, những sáng tác của ông có ý nghĩa to lớn trong các cuộc kháng chiến, với sự tinh tế trong cách sáng tác, tác phẩm của ông đã mang đến cho người đọc những tia sáng mới trong cuộc sống của con người, mỗi câu thơ đều là lời thể hiện nhẹ nhàng, tinh tế, mang màu sắc cho cuộc sống của mỗi người.
Từng gắn bó trong các cuộc kháng chiến, ông luôn hiểu được tấm lòng của những người chiến sĩ cách mạng, từng gắn bó với những vùng đất đã từng gắn bó máu thịt nơi chiến trường xa xưa, chính những điều đó đã để lại cho người đọc biết bao nhiêu khát vọng to lớn cho cuộc sống, con người, thể hiện tình cảm sâu sắc trong cuộc sống, khát vọng về một tương lai tươi sáng, rộng mở, đưa đến cho người đọc những cái nhìn sâu sắc, tinh tế, luôn chứa tran biết bao nhiêu giá trị cho cuộc sống của mỗi con người, mỗi lời thơ đều thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả đối với bài thơ của mình.
Con tàu trong lời đề tựa có thể thấy là khát vọng, là công cụ chuyên trở mong ước, khát khao của những con người đã sống ở nơi đây, họ đưa những ước mơ đi xa hơn, con tàu đó có thể trở được những miền đất hứa:
Tây bắc ư?Có riêng gì Tây Bắc?
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc,chứ còn đâu.
Khi tổ quốc vẫy gọi những người chiến sĩ của ta đã lên đường theo tiếng gọi, nguyên dùng hết khả năng của mình vào sự nghiệp của đất nước, của dân tộc, luôn cố gắng phấn đấu cho sự nghiệp của đất nước. Tình cảm đó đã thể hiện những cảm xúc sâu sắc, đem lại những giá trị to lớn cho hình ảnh những con tàu, hình ảnh đó mang đến cho mỗi chúng ta biết bao nhiêu cảm xúc, giá trị to lớn đối với đất nước.
Tiếng hát là nguồn động lực cho con tàu, thể hiện tinh thần lạc quan của mình trước sự nghiệp với đất nước, con tàu có thể trở nhanh, là dựa trên tinh thần, kháng chiến, vững vàng của những người chiến sĩ, của những người luôn theo tiếng gọi của con tim.
Con tàu đó sẽ trở những con người đến vùng đất mới để mở rộng, mở rộng tương lai, cuộc sống cho những người dân nghèo khổ nơi đây, giúp họ vượt qua biết bao nhiêu khó khăn trong cuộc sống, mở ra những vùng đất mới, cuộc sống tươi sáng hơn. Với niểu tượng là con tàu, nó đã nói lên khát vọng ra đi, lên đường đến với nhân dân, phục vụ sự nghiệp của đất nước.
Con tàu luôn chuyên trở những con người có khát vọng, hướng tới sự nghiệp chung của nhân dân, những con người luôn có khát vọng đến với đất nước, khát vọng về một vùng đất mới, ở đó con người khát khao phục vụ cuộc sống, vươn tới một tương lai tươi sáng, ở đó con người được thể hiện khát khao, mơ ước hướng tới một cuộc sống tươi đẹp hơn.
Bài thơ đã mở ra cho người đọc những khao khát mới, lời đề từ là lời hát ru dương, đem đến cảm giác nhẹ nhàng, tinh tế, thể hiện tinh thần lạc quan, mang lại giá trị cho cuộc sống, mỗi giá trị biểu hiện tình cảm, mức độ riêng, thể hiện sự nhanh nhạy khi đến với một nơi mới.
Em hãy phân tích ba khổ thơ giữa bài thơ Tiếng Hát Con Tàu của Chế Lan Viên.
Câu trả lời của bạn
Chế Lan Viên đã thổi hồi mình vào vùng núi Tây Bắc nơi có những xứ thiêng anh hùng, nơi tâm hồn rỏ máu, nơi những người chiến sĩ đã từng gắn bó máu thịt mình vào. Chính vì thế bài thơ Tiếng Hát con Tàu như một liều thuốc làm nở rộ tâm hồn của những người chiến sĩ, của những người say mê với lý tưởng cách mạng.
Ngay trong khổ thơ đầu tác giả đã nói đến vùng miền Tây bắc, con tàu đưa đến cho con người những miền đất hứa, con người được gắn bó máu thịt nơi đây, tâm hồn đang nở rộ những khoảng khắc trong chiến đấu và trong cuộc sống. Nơi đây là vùng miền đã từng gắn bó lâu đời với tâm hồn của người đọc, mười năm Tây Bắc xa xăm, nơi xứ thiêng của rừng núi, của những người anh hùng, nơi máu rỏ tâm hồn của những người chiến sĩ xuống đất:
Trên Tây Bắc!Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay rạt rào đã chín trái đầu xuân.
Đã gắn bó một thời gian dài nơi đây, mười năm gắn bó ở đây không phải là thời gian ngắn, nơi đây đã chứa tran biết bao nhiêu kỉ niệm, gắn bó mật thiết với người chiến sĩ, nơi đây đã chứa tran nhiều kỉ niệm của những vị anh hùng dân tộc. Nơi đây xứ thiêng của núi rừng, đã ngấm biết bao nhiêu máu của những người chiến sĩ, đấu tranh vì đất nước.
Trong quãng thời gian chiến đấu, người chiến sĩ đã phải đấu tranh chống lại sự nguy hiểm của kẻ thù, vượt qua biết bao nhiêu hiểm nguy của cuộc kháng chiến, mười năm kháng chiến nhanh như ngọn nữa, thoát cái đã qua đi, nhưng nghìn năm sau, con cái vẫn nhớ những năm tháng dày công, chiến đấu, hy sinh cả cuộc đời trong kháng chiến, đây là nơi để soi đường cho những người chiến sĩ đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lăng:
Ơi kháng chiến!Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau,còn đủ sức soi đường,
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại mẹ yêu thương.
Những năm tháng kháng chiến gian nan sắp trôi qua, kháng chiến đó nhanh như ngọn lửa, ngàn năm sau vẫn có sức soi dọi đường đi của nhiều thế hệ, phải vượt qua biết bao nhiêu gian khổ, đấu tranh trong con đường chiến đấu chống lại kẻ thù… Vùng đất này là nơi gắn bó máu thịt của nhiều người, là ngọn lửa khởi nguồn của cuộc kháng chiến, là nơi tâm hồn của những người chiến sĩ rỏ máu khi thấy sự mất mát của tình đồng chí, đồng đội, nơ đây, cuộc sống của những người chiến sĩ phải trải qua biết bao nhiêu khổ cực, khó khăn, gian nan:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai,chim én gặp mùa,
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Như chiếc nôi dừng bỗng gặp cánh tay đưa.
Nơi đây đã ghi dấu nhiều kỉ niệm của cuộc kháng chiến, đó là kỉ niệm mà những người chiến sĩ của chúng ta không thể nào có thể quên được, khi ra đi nhưng những kỉ niệm đó vẫn như mới hôm qua thôi, gặp lại nhân dân, như nai về suối cũ, mang đến cảm giác gần gũi, gắn bó của những người chiến sĩ cách mạng, nơi tâm hồn của những người chiến sĩ rỏ máu, tâm hồn rộng mở, thoáng qua hiện những cảm xúc dạt dào trong tâm hồn của những người chiến sĩ, cách mạng.
Với niềm vui hạnh phúc khi gặp lại nhân dân, tác giả đã thể hiện những tình cảm yêu thương, chứa tran, niềm che chở, an ủi của những người chiến sĩ cách mạng, cách so sánh ví von, tạo nên những đặc trưng sâu sắc, tình cảm đó làm nổi bật lên niềm hạnh phúc của nhân dân. Chỉ với ba khổ thơ mà tác giả đã thể hiện sâu sắc được tình cảm của mình với những kỉ niệm, một miền đất hứa sâu sắc, nhẹ nhàng và đầy tinh tế.
Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Chế Lan Viên?
Câu trả lời của bạn
Tóm tắt lý lịch Chế Lan Viên
Tiểu sử nhà thơ mới Chế Lan Viên
Phong cách thơ của Chế Lan Viên được chia thành hai giai đoạn:
Tác phẩm thơ tiêu biểu:
Tác phẩm văn:
Tiểu luận phê bình tiêu biểu:
Chế Lan Viên thời trẻ
Cảm nhận 2 khổ thơ đầu của bài thơ ''Người đi tìm hình của nước' của nhà thơ chế lan viên
Câu trả lời của bạn
"Người đi tìm hình của nước" là bài thơ đặc sắc của Chế Lan Viên viết về Bác Hồ kính yêu, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Bài thơ đã ghi lại một hành trình gian khổ nhưng vô cùng vinh quang của người chiến sĩ vĩ đại suốt 30 năm trời bôn ba hải ngoại (1911-1941) để tìm đường cứu nước.
Đoạn thơ dưới đây trích trong phần thứ hai của bài thơ nói về những gian khổ phải vượt qua, tấm lòng yêu nước nồng nàn và nỗi day dứt của Bác trong những năm tháng sống và hoạt động ở hải ngoại. Giọng thơ vang lên tha thiết bồi hồi:
... "Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê...
... Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc...
Khi tự do về chói ở trên đầu"...
Khổ thơ đầu tái hiện một thời gian khổ khi Bác sống ở thủ đô Ba Lê nước Pháp và kinh thành Luân Đôn nước Anh. Lúc cuốc tuyết, lúc làm bồi bàn để kiếm sống và học tập. Bác đã trải qua muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Gió rét và sương mù được nhân hóa như những nhân chứng lịch sử. Nhà thơ hỏi gió rét và sương mù "có nhớ chăng" và "ngươi có nhớ. Bao xúc động lắng đọng trong từng vần thơ:
"Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê...
Và sương mù thành Luân Đôn ngươi có nhớ..."
Để chống lại cái rét mùa đông u châu, trong điều kiện áo chăn thiếu thốn, mỗi sáng trước lúc đi làm, Bác lấy một viên gạch đặt vào bếp lò, đến tối đi làm về đem gạch lót dưới giường nằm cho đỡ rét. Nhà thơ đã nhắc lại chi tiết ấy bằng một câu thơ tuyệt hay: "Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một mùa băng giá". Lấy cái nhỏ bé "một viên gạch hồng" tương phản với cái vô cùng đáng sợ "cả một mùa băng giá", tác giả đã khắc họa một nghị lực phi thường của người chiến sĩ cách mạng chân chính.
Động từ "chống lại" và hình ảnh "giọt mồ hôi..." góp phần làm nổi bật bản lĩnh kiên cường của Bác. Chế Lan Viên không lấy số liệu để minh họa sự kiện, trái lại đã lấy hình tượng để miêu tả sự kiện, từ đó gợi mở một trường liên tưởng, khơi gợi trong tâm hồn người đọc lòng kính trọng và cảm phục đối với Bác Hồ kính yêu.
Khổ thơ sau, từ láy "lênh đênh" diễn tả một đời bồi tàu trôi nổi gian truân theo sóng bể. Bác không phải làm bồi tàu là chỉ để kiếm sống mà với một mục đích cao xa. Chữ "hỏi" trong đoạn thơ sẽ nói rõ mục đích cao xa ấy:
"Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể
Người đi hỏi khắp bóng cờ Châu Mỹ, Châu Phi
Những đất tự do, những trời nô lệ
Những con đường cách mạng đang tìm đi."
"Châu Mỹ, Châu Phi", "những đất tự do", "những trời nô lệ", "những con đường cách mạng"... những châu lục, những quốc gia, những vùng địa lí mênh mông khắp mọi chân trời mà người thanh niên Nguyễn Ái Quốc đã đặt chân tới và "hỏi khắp" hỏi hết. Không gian nghệ thuật ấy đã làm hiện lên hình ảnh một chiến sĩ có trái tim cách mạng sục sôi, đi khắp mọi nơi để học hỏi chân lí, tìm đường cứu nước, bước chân không ngừng, không nghỉ, tầm mắt không bị giới hạn. Ba lần nhắc lại chữ "những": "những đất tự do", "những trời nô lệ, những con đường cách mạng đang tìm đi", giọng điệu thơ vang lên thiết tha, đặc tả khát vọng tự do độc lập sáng bừng lên trong tâm hồn Bác.
Nói về lòng yêu nước mãnh liệt của người đi tìm hình của nước, Chế Lan Viên có một cách nói rất hay:
"Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa."
Suốt đêm ngày, lúc thức cũng như lúc chiêm bao, lúc nào Bác cũng nhớ đến nước, nghĩ đến quê nhà. Nghệ thuật đối: "Đêm mơ nước ngày thấy hình của nước", biện pháp đối lập: "miếng ngon" với "đắng lòng" đã tô đậm lòng nồng nàn yêu nước của Bác. "Đắng lòng", "chẳng yên lòng" nói lên nỗi đau của người mất nước. Tất cả tâm hồn, lí trí, tất cả thời gian những năm sống ở hải ngoại, Bác đều dành trọn vẹn cho đất nước và nhân dân. Ít thấy nhà thơ nào nói về lòng yêu nước của Bác Hồ sâu sắc mãnh liệt như Chế Lan Viên.
Nghệ thuật dùng từ, đặt câu, xây dựng hình ảnh, giọng thơ của Chế Lan Viên luôn luôn biến đổi, biến hóa. Ông đã tạo nên một loạt câu hỏi tu từ để nói lên những trăn trở băn khoăn, day dứt trong tâm hồn Bác về độc lập, tự do, về màu cờ, sắc áo, tiếng hát, về tiến độ của dân tộc, về tương lai của đất nước. Câu thơ nọ nối tiếp câu thơ kia như những đợt sóng triền miên vỗ: "Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?... Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao? Nụ cười sẽ ra sao?...". m điệu vần thơ vang lên nung nấu như xoáy sâu vào lòng người. Một thành công nữa của tác giả là đã xây dựng được một số hình tượng kì vĩ mang màu sắc thần thoại gợi tả sự vươn mình của dân tộc mai sau:
"Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?"
Dù đó mới chỉ là mơ ước. Nhưng mơ ước nào mà chẳng đẹp? Mơ ước của người đi tìm hình của nước mới đẹp đẽ biết bao. Chính mơ ước ấy đã tạo nên động lực niềm tin để Bác Hồ đi tới Cách mạng tháng Tám,
Ba câu cuối chói ngời hi vọng. Giọng thơ thiết tha, bồi hồi. Hai chữ "xanh" kèm theo một chữ "đi", một chữ "chói", khát vọng về độc lập tự do như ngọn lửa bừng sáng đất trời:
"Ôi độc lập?
Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc
Khi tự do về chói ở trên đầu!...".
Đoạn thơ hay vì có hình tượng đẹp, vì giàu truyền cảm. Ý thơ sâu sắc khi nói về nghị lực, lòng yêu nước và ước mơ, băn khoăn của Bác Hồ. Đoạn thơ đa thanh về giọng điệu, về nghệ thuật đặt câu biến hóa thân tình. Hình ảnh Bác Hồ những năm bôn ba hải ngoại đã được khắc họa trong không khí lịch sử trang nghiêm. Khát vọng về độc lập và tự do của Bác Hồ qua những vần thơ tráng lệ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn mỗi chúng ta.
Khổ 1:
Hình ảnh Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước :
“Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi”
Cách ngắt nhịp thơ 5/5 và dấu chấm giữa câu làm cho dòng thơ mở đầu mười chữ bị ngắt làm hai đoạn nói lên tình cảnh bức bách và tâm trạng quyến luyến
Đau xót trước cảnh quê hương, “đất nước đẹp vô cùng” đắm chìm trong cảnh lầm than, nô lệ nên “Bác phải ra đi”. Trong bóng Người mang nặng nỗi đau mất nước, nhân dân đau khổ, tủi nhục dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nó thôi thúc Bác quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.
Với niềm xúc động chân thành, Chế Lan Viên đã cảm nhận sâu sắc cuộc hành trình trên đại dương bao la. Nhà thơ như muốn hóa thân thành con sóng đưa Bác vượt trùng khơi :
“Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác”
Câu thơ đến đột ngột thể hiện tâm trạng vội vàng, cuống quýt như muốn kịp theo chân Bác để cùng chia sẻ những nỗi vất vả, gian truân trong cuộc hành trình. Hình ảnh tưởng tượng làm sống lại giây phút lịch sử thiêng liêng. Nó thể hiện lòng kính yêu, lưu luyến của tác giả Con tàu đưa Bác xa dần, xa dần
“Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất
Bố phía nhìn không một bóng hàng tre”
Hình ảnh “bờ bãi”, “làng xóm”, “hàng tre” có giá trị gợi cảm là biểu tượng cho quê hương xứ sở
Từ “bốn phía” gợi không gian mênh mông, rộng lớn. Các từ “dần lui”,“khuất”, “không một bóng” diễn tả tâm trạng bồi hồi, nỗi cô đơn, bơ vơ của người ra đi
Động từ “nhìn” biểu lộ tâm trạng nhớ nước nhớ quê nhà pha lẫn nỗi đau thương da diết, nỗi nhớ đầy đau thương như thấm sâu vào lòng người xa xứ
Khổ hai:
Tiếp tục khơi sâu tình cảm, tâm trạng buồn đau nhớ nước của Bác:
“Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương”
Trong “Đêm xa nước đầu tiên” ấy, lòng Bác trĩu nặng nỗi nhớ thương quê hương da diết khôn nguôi. Người trằn trọc, thao thức không sao chợp mắt bởi nỗi nhớ của người ra đi thật sâu sắc và thấm thía.
Sóng nước nơi nào cũng là sóng nước. Nhưng trái tim có lý lẽ riêng: đã không phải nước trời quê hương thì tất cả đều xa lạ, ngỡ ngàng: “Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương”. Và người ra đi chỉ nằm nghe sóng vỗ ở mạn tàu. Tiếng sóng càng trở nên xa lạ, nỗi đau như tăng dần lên
Tâm trạng con người giữa trùng dương mênh mông đi tìm đường cứu nước đang mang nặng tình quê hương sâu nặng :
“ Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi càng hiểu nước đau thương "
Lòng lưu luyến khi từ biệt làm cho đất nước đẹp vô cùng, khi xa mảnhđất quê hương, xa đất nước thân yêu mới càng thấm thía đất nước đau thương. Hai câu thơ nhẹ nhàng, tha thiết như lời tâm sự sâu lắng của người con nhớ quê hương đất nước da diết, khôn nguôi. Tình yêu nước đó rất đỗi nồng nàn, thiết tha, sâu sắc.
Hướng dẫn soạn bài " Tiếng hát con tàu" - Chế Lan Viên - Văn lớp 12
Câu trả lời của bạn
SOẠN BÀI TIẾNG HÁT CON TÀU
(Chế Lan Viên)
I. GIỚI THIỆU CHUNG:
– Chế Lan Viên là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. Trước Cách mạng, thơ ông thể hiện tư tưởng siêu hình và bế tắc về thế giới và nghệ thuật. Sau 1945, hiện thực cách mạng và nhân dân đã làm cuộc đời và hồn thơ Chế Lan Viên thay đổi mạnh mẽ.
– “Tiếng hát con tàu” in trong tập “Ánh sáng và phù sa” (1960). Tác phẩm lấy cảm hứng từ cuộc vận động nhân dân miền xuôi lên Tây Bắc để xây dựng kinh tế miền núi những năm 58- 60.
II. NỘI DUNG CHÍNH:
1. Nhan đề và lời đề từ: Hình ảnh “Con tàu” và “Tây Bắc” mang ý nghĩa biểu tượng trong suốt bài thơ.
* Ý nghĩa nhan đề:
– Bài thơ ra đời khi thực tế chưa có đường tàu lên Tây Bắc. Hình ảnh “con tàu” thực chất là hình ảnh biểu tượng thể hiện khát vọng lên đường và niềm mong ước của nhà thơ được đến với mọi miền đất nước.
– Tây Bắc là vùng đất xa xôi của Tổ quốc cần được xây dựng lại sau chiến tranh
– “Tiếng hát con tàu”: Là tiếng hát của tâm hồn nhà thơ – một tâm hồn tràn ngập niềm tin vào lí tưởng, vào cuộc đời. Tâm hồn nhà thơ đã hóa thân thành con tàu, hăm hở làm cuộc hành trình đến với Tây Bắc, đến với cuộc sống lớn của nhân dân. Đến với đất nước, nhân dân cũng là đến với cội nguồn của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật, trong đó có thơ ca.
* Ý nghĩa lời đề từ: Khẳng định vai trò của cuộc sống đối với tâm hồn người nghệ sĩ – cần mở lòng hòa nhập với cuộc sống để có cảm hứng sáng tạo nghệ thuật trong hoàn cảnh đất nước bắt tay vào xây dựng sau chiến tranh.
2. Là sự trăn trở, giục giã lên đường (khổ 1+2) :
– Bằng những biểu tượng “con tàu” và “Tây Bắc” – nhà thơ bộc lộ cảm xúc, tình cảm đối với sự nghiệp xây dựng đất nước của toàn dân.
– Lời thơ giục giã, gấp gáp, khẩn trương hàng loạt câu hỏi dồn dập, thôi thúc (anh đi chăng? anh có nghe? sao chửa ra đi?…) à là lời kêu gọi khẩn thiết, cấp bách, với mọi người hãy đi xây dựng Tây Bắc.
– Còn là lời tự vấn đầy trăn trở à thể hiện tâm hồn, khát vọng được hòa nhập vào cuộc sống của nhân dân.
-> Tác giả kêu gọi mọi người cũng chính là tự nói với lòng mình, thể hiện nhận thức mới tiến bộ của người nghệ sĩ
3. Kỉ niệm về Tây Bắc trong những ngày kháng chiến gian khổ (khổ 3 – 11):
– Nhớ về vùng đất Tây Bắc “thiêng liêng, anh hùng”, đã trở thành biểu tượng của Đất nước gian lao mà anh dũng (khổ 3+4). Nhà thơ bộc lộ tình cảm của mình như đứa con với mẹ thân yêu “Cho con về gặp lại mẹ yêu thương”…
– Nhớ về Tây Bắc bằng niềm khao khát được trở về với nhân dân, với cảm xúc như được trở về cội nguồn, về với niềm hạnh phúc lớn lao (khổ 5). Nhà thơ sử dụng những hình ảnh so sánh cụ thể mang vẻ đẹp thơ mộng, niềm vui sướng, hạnh phúc được gặp lại những gì thân thiết sâu nặng (Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ. Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa. Như đưa trẻ thơ đói lòng gặp sữa. Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa).
– Nhà thơ nhớ về những con người cụ thể: anh du kích, em liên lạc, bà mế tóc bạc, em gái nuôi quân…(khổ 6,7,8,11). Cách xưng hô gần gũi, thân thiết (con, anh con, em con, mế…), thể hiện sự gắn bó máu thịt và lòng biết ơn sâu nặng -> Chính điều đó đã khơi nguồn cho tinh thần trách nhiệm đối với Tây Bắc, với Tổ quốc.
– Từ những câu thơ bày tỏ tình cảm cụ thể, riêng tư đối với thiên nhiên, đất nước, con người Tây Bắc, nhà thơ đã nâng lên thành những câu thơ có chất suy tưởng khái quát giống như châm ngôn nhưng chứa chan tình cảm, xúc cảm về quê hương đất nước: “Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mấy phủ – Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương- Khi ta ở chỉ là nơi đất ở – Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”… “Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”.
-> Đoạn thơ đã gợi lên một cách thành kính, đầy ân tình về những kỉ niệm thiêng liêng đẹp đẽ ở Tây Bắc trong những năm kháng chiến gian khổ.
4. Hướng về Tây Bắc trong công cuộc xây dựng đất nước (khổ 12 – 15) :
– Niềm khao khát được hòa nhập tình cảm của bản thân và nghĩa vụ với nhân dân, đất nước (khổ 12,13).
– Niềm khao khát được trở về Tây Bắc như để khẳng định lại phẩm chất cao quí của con người đã được tôi luyện trong gian khổ của chiến tranh, nay được phát huy ở công cuộc xây dựng đất nước (khổ 14).
– Khổ thơ cuối với nhiều hình ảnh thơ mộng, lãng mạn, mang ý nghĩa biểu tượng (Tây Bắc ơi…mẹ của hồn thơ, mộng tưởng, vầng trăng, mặt hồng em, suối lớn mùa xuân..) à bộc lộ niềm vui sướng được trở về với Tây Bắc như trở về với hồn thơ, với cội nguồn sáng tạo nghệ thuật, được hòa mình với cuộc sống của nhân dân.
III. NGHỆ THUẬT:
– Hình ảnh thơ mới lạ, phong phú, có giá trị thẩm mĩ cao, tạo nên những liên tưởng so sánh bất ngờ.
– Lời thơ có nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc, giàu chất trí tuệ, bộc lộ cách thể hiện riêng tài hoa, độc đáo, tạo ấn tượng thẩm mỹ cho người đọc.
– Sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật với giọng điệu tha thiết, chân thành.
IV. KẾT LUẬN:
– Bài thơ thể hiện những cảm xúc chân thành, tha thiết của tác giả trong công cuộc dựng xây đất nước, sự hòa nhập với nhân dân, với cuộc sống mới, mà ở đó tác giả đã tìm đuợc nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật cho mình.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *