Nội dung bài giảng Tây Tiến giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp hùng vĩ, mĩ lệ của thiên nhiên miền Tây và nét hào hoa dũng cảm, vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến. Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ: bút pháp lãng mạn, những sáng tạo về hình ảnh và giọng điệu. Chúc các em có thêm nhiều tiết học sôi động, hấp dẫn và hiệu quả hơn tại lớp.
⇒ Khổ thơ giàu màu sắc hội họa và âm nhạc đã làm hiện lên một thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng miền Tây.
⇒ Bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn xây dựng nên một hình ảnh chân thực và sinh động về người lính.
⇒ Bút pháp gợi và ngôn ngữ giàu nhạc điệu đã làm nổi bật lên vẻ mĩ lệ, trữ tình của thiên nhiên và con người nơi núi rừng Tây Bắc.
⇒ Sử dụng nhiều từ ngữ án Việt (“chiến trường”, “viễn xứ”, “biên cương”,…) tạo ra giọng điệu trang trọng thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
⇒ Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng.
Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng là một bài thơ hay viết về thiên nhiên hùng vĩ của miền Tây. Trên khung cảnh hùng vĩ, bao la đó, hình ảnh con người hiện lên thật đẹp và hào hùng. Với hệ thống bài soạn tóm tắt và chi tiết, các em sẽ nắm được những nội dung cần đạt khi học tiết văn bản này. Đồng thời, với các bài soạn này, các em cũng dễ dàng trả lời được hệ thống các câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài của SGK chương trình chuẩn và nâng cao. Chi tiết các bài soạn, các em có thể tham khảo tại đây:
Soạn bài Tây Tiến
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Tây Tiến là một trong những bài thơ viết về thiên nhiên miền Tây và người lính Tây Tiến với bút pháp lãng mạn và hiện thực đặc sắc của nền văn học Việt Nam. Với những nét đặc sắc cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật, bài thơ Tây Tiến thường được khai thác dưới rất nhiều dạng đề văn khác nhau để làm rõ những nét hay nét đẹp đó. Sau đây là những dạng đề văn viết và bài văn mẫu được DapAnHay biên soạn và tổng hợp, các em có thể tham khảo tại đây:
- So sánh nỗi nhớ trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu
- So sánh hình ảnh người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng và Đồng chí của Chính Hữu
- Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- Cảm hứng thiên nhiên của nhà thơ Quang Dũng trong Tây Tiến
- Phân tích khổ cuối bài Tây Tiến của Quang Dũng
- Phân tích thành ngữ Thi trung hữu họa qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- Phân tích cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- Phân tích bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Quang Dũng sáng tác không nhiều, nhưng thơ ông để lại ấn tượng sâu sắc với những rung cảm sâu lắng trong tâm hồn người đọc. Thơ Quang Dũng hiện lên một "cái tôi" hào hoa, thanh lịch giàu chất lãng mạn, với khả năng cảm nhận một cách tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên, bình dị, chân thật. Bài thơ Tây Tiến tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Không lẩn tránh đề cập đến cái bi nhưng cảm hứng lãng mạn đã đem đến cho cái bi màu sắc và âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Tinh thần bi tráng, cảm hứng lãng mạn đã được triển khai trên nền cảm xúc kí ức - Nhớ Tây Tiến.
Tây Tiến là tên một binh đoàn có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt - Lào, tiêu hao sinh lực địch. Phần đông lính Tây Tiến là những chàng trai Hà thành. Họ mang vào chiến trường không chỉ có tình yêu Tổ quốc, khát vọng độc lập mà còn có những nét hào hoa thanh lịch cùa người Tràng An. Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ.
Năm 1947, Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến, ông từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn này. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Nỗi nhớ Tây Tiến đau đáu, da diết đã khiến nhà thơ viết nên một bài thơ tuyệt tác.
Tây Tiến gợi lên một cuộc hành quân về phía Tây Tổ quốc, một cuộc hành quân đầy gian lao vất vả giữa vùng rừng núi đầy hiểm trở, hung vĩ đầy vẻ hoang dại và huyền bí.
Vốn sẵn tố chất hào hoa của người trai đất Hà thành , chất hào hoa lại được gặp thiên nhiên và con người miền Tây với vẻ đẹp huyền hoặc, Quang Dũng lại từng sống và chứng kiến những tháng ngày hào hung giữa binh đoàn Tây Tiến, hồn thơ ấy đã hòa quyện lại tất cả để tạo nên những thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn của bài thơ trước hết là nỗi nhớ ngập tràn: tác giả nhớ rừng núi hoang vu, hiểm trở, dữ dội, nhớ những cảnh đẹp huyền ảo nên thơ, đặc biệt là nhớ bước quân hành của đoàn quân Tây Tiến, nhớ gương mặt, ánh mắt, nhớ cả những hi sinh gian khổ, những giây phút đồng đội nằm xuống nơi biên cương. Tất cả cứ theo dòng hồi ức mà hiện lên cùng với trí tưởng tượng phóng khoáng, bay bổng.
Để giúp cho trí tướng tượng bay cao, bay xa và tình cảm, cảm xúc được diễn tả một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất, nhà thơ đã vận dựng thủ pháp nghệ thuật tô đậm cái phi thường, gây ấn tượng mạnh về cái hùng vĩ, dữ dội cũng như cái tuyệt mĩ, thơ mộng. Một trong những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng đắc địa nhất là thủ pháp đối lập. Đối lập giữa cái hùng vĩ, dữ dội với cái tuyệt mĩ, thơ mộng, đối lập giữa gian khổ, vất vả với anh hùng, bất khuất, đối lập giữa cái bi và cái hùng...
Trong Tây Tiến, thiên nhiên sừng sững trở thành một hình tượng lớn. Hồn thơ lãng mạn cứa Quang Dũng đã tô đậm, tuyệt đối hóa cái sừng sững, hùng vĩ của thiên nhiên để qua đó thấy được ý chí dấn thân của người lính Tây Tiến.
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngủi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Bốn câu thơ trên được coi là tuyệt bút trong việc khắc họa cái hùng vĩ, hiểm trở cùa thiên nhiên. "Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm". Nhịp điệu tiếp nối liên tục của những thanh trắc kết hợp với cùng một lúc hai từ láy tượng hình (khúc khuỷu, thăm thẳm) dường như đã đẩy chiều cao của dốc núi lênn vời vợi với hình thế cheo leo, gập ghềnh. Cách ngắt nhịp câu thơ (Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm) như muốn diễn tả nỗi vất vả, cực nhọc cùng với lưng áo đẫm mồ hôi của người lính Tây Tiến.
Chưa đủ, ngòi bút Quang Dũng vẫn tiếp tục đẩy chiều cao của dốc núi lên lên tuyệt đối: Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Núi cao tưởng chừng như chạm mây, mây chất thành đống, thành cồn, "heo hút cồn mây", người lính như đứng trên mây, giữa bốn bề mây đến nỗi "súng ngửi trời". Chữ "ngửi" được dùng rất bạo. "Súng ngửi trời" là cách đo chiều cao của người lính - vừa chính xác, vừa rất "tếu". Hiệu quả của bút pháp lãng mạ không chỉ dựng lên một thiên nhiên hiểm trở mà còn dựng lên kích thước, tư thế của người lính, một tư thế, kích thước sánh ngang tầm thiên nhiên.
Hai câu trước có sự phối hợp tuyệt vời của những thanh trắc. Dòng thơ tiếp theo như gãy đôi để vẽ ra hai chiều của dốc núi: một vút lên, một đổ xuống gần như thẳng đứng: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống". Cảnh được dựng bằng thủ pháp đối lập để khắc họa cái dữ dội, hùng vĩ của núi rừng. Những dốc núi cao tới chóng mặt, bên dưới là vực sâu thăm thẳm. Người lính như treo mình giữa vách đá, trên một sườn núi giữa chặng đường hành quân.
Ba câu trên thanh trắc chiếm ưu thế, câu thứ tư hoàn toàn thanh bằng:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Đây cũng là một cách đối lập tạo ra sự tương phản giữa hai chặng đường hành quân: Vượt núi vất vả - dừng chân thoải mái. Câu thơ toàn thanh bằng với 6/7 tiếng là phù bình thanh cùng với hình ảnh những ngôi nhà ấm áp thấp thoáng ẩn hiện trong sương mù, mưa núi đã diễn tả trọn vẹn cái cảm giác thở phào nhẹ nhõm, thoải mái. Đúng là một dòng thơ bỗng "bay ngang lưng trời".
Bút pháp lãng mạn vẫn được sử dụng để tô đậm vẻ hoang dại, dữ dội, đầy huyền bí, sự ghê gớm của rừng thiêng.
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Hai chi tiết tiêu biêu (thác gầm thét, cọp trêu người) gắn với hai thời điểm tiêu biểu (chiều chiều, đêm đêm), không phải một chiều, một đêm mà thời gian lặp lại mang tính liên tục, không gian như bị vây bọc bởi những âm thanh man dại. Câu thơ tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong trí tưởng tượng của người đọc.
Cảm xúc lãng mạn được xây dựng trên nền cảm xúc kí ức. Đoạn thơ được viết ra như một dòng kí ức đứt, nối, mờ tỏ liên tục. Cho nên đan cài với những câu thơ tả cảnh dữ dội, hùng vĩ là những câu thơ mênh mang, chơi vơi. Hai câu cuối đoạn là một sự đầm ấm bất ngờ đến ngây ngất bởi tiếng gọi thiết tha vang lên tự đáy lòng (Nhớ ôi Tây Tiến), bởi hình ảnh gợi sự thanh thản, đầm ấm đến nao lòng (cơm lên khỏi, thơm nếp xôi). Hai câu thơ còn có giá trị chuyển cảnh, chuyển đoạn.
Nếu ở đoạn trên, bút pháp lãng mạn đã tô đậm vẻ hoang dại, hùng vĩ của thiên nhiên thì ở đoạn tiếp theo, cảm hứng lãng mạn lại gây ấn tượng mạnh về cái thơ mộng, tuyệt mĩ của núi rừng và con người Tây Bắc.
Đêm liên hoan văn nghệ có " đuốc" có "hoa", có tiếng khèn, điệu múa và nhất là có hình ảnh những thiếu nữ miền Tây Bắc trong trang phục dân tộc óng ánh sắc màu, hoa văn núi rừng. E ấp trong những điệu xòe duyên dáng. Tất cả như say, như mơ, như mê đế "hồn thơ" được "xây" lên từ đó.
Cảnh sông nước bộc lộ hồn thơ nhạy cảm, tinh tế và tài hoa của Quang Dũng. Làn sương chiều mỏng, dáng lau đơn sơ, phơ phất, dáng người trên độc mộc, dòng nước, hoa đong đưa tình tứ... Nhà thơ không tả mà chỉ gợi bằng những câu thơ thiên về cảm tính trực giác. Cái nhạt nhòa hư ảo càng được tăng lên bởi những từ ngữ gợi nhớ một nỗi nhớ mênh mang (chiều sương ấy, có thấy, có nhớ, người đi, hồn lau, bến bờ, dòng nước, đong dưa...). Tất cả cứ lung linh, khó nắm bắt. Chỉ có thể cam nhận bằng tâm hồn - một tâm hồn chứa tận cùng sâu thẳm là tình yêu và nỗí nhớ.
Mỗi đoạn thơ có một giá trị riêng. Song đặt hai đoạn thơ cạnh nhau, bút pháp lãng mạn càng được nổi bật bởi sự tương phản đôi lập. Nếu ở đoạn 1cảnh được vẽ bằng những nét bút gân guốc, táo bạo, khỏe khoắn thì ở đoạn 2 cảnh lại được vẽ bởi những nét bút mềm mại, tinh tế. Hai nét vẽ đó dựng lên hoàn chỉnh bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, bí hiểm vừa thơ mộng, mĩ lệ. Đó chính là chất tài hoa trong ngòi bút Quang Trung.
Bút pháp lãng mạn tiếp tục được nhà thơ khai thác triệt để khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Thật ra không phải đến đây hình ảnh người lính mới hiện lên mà ở hai phần trên, hình ảnh người lính cứ thấp thoáng ẩn hiện: ở tư thế trèo đèo, lội suối, ở những phút dừng chân giữa chặng đường hành quân, ở "đêm hội đuốc hoa" và "Châu Mộc chiều sương ấy"... thậm chí có lúc hiện lên rât rõ:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Tuy nhiên, phải đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh người lính Tây Tiến mới hiện lên đầy đủ. Hai câu mở đoạn: "Tây Tiến đoàn bình không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùm" đã gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho "không mọc tóc" là do người lính cạo trọc đầu (người ta gọi là những anh "vệ trọc") còn "xanh màu lá" là xanh màu lá ngụy trang. Đó là những người lính dũng cảm, can trường. Có người khác lại cho "không mọc tóc" là do sốt rét rụng hết tóc, còn "xanh màu lá" là màu da xanh như lá (do sốt rét). Tác giả muốn tô đậm những gian khổ, đói rét, ốm đau của người lính...
Nhà thơ Trần Lê Văn, một chiến sĩ Tây Tiến đã từng nói: "Đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều". Chính Quang Dũng cũng có lần tâm sự: "Chúng tôi hành quân bằng đôi chân thực sự đã nếm mùi Tây Tiến. Chúng tôi mở rừng, ăn rừng, ngủ rừng". Thiếu thốn, đói rét, ốm đau là một thực tế. Nhà thơ nói đến tất cả những điều đó nhưng ý thơ lại được nâng đỡ bởi bút pháp lãng mạn. Quang Dũng đã khắc họá chân dung người lính hết sức lẫm liệt, oai hùng. Tác giả dùng hai chữ "đoàn binh" mà không dùng "đoàn quân". Cái "dữ oai hùm" khiến ta nhớ đến câu thơ hừng hực "hào khí Đông A" của Phạm Ngũ Lão: "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu".
Nhà thơ không miêu tả một gương mặt riêng biệt mà dồn tất cả sự đối lập tạo nên một gương mặt chung khiến ta vừa cảm động, vừa cảm phục, vừa xót thương vừa tự hào. Hình ảnh thơ tuy có thiên về nét vẽ hình thể nhưng lại giúp người đọc thấy rõ hơn khí phách hào hùng của những chiến sĩ Tây Tiến - những anh "vệ trọc" nổi tiếng một thời.
Giữa hai câu trước và hai câu sau lại tạo nên một đối lập khác: đối lập với mắt trừng", "oai hùm" là "mộng", là "mơ", đặc biệt là câu:
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Thật hào hùng mà cũng thật hào hoa. Chiến tranh tàn khốc rất cần đến - những nét dữ dằn nhưng không thể giết chết những giấc mơ, không thể cướp đi những mộng đẹp. Đó là vẻ đẹp và đó cũng là sức mạnh.
Trước đây có người cho rằng người chiến sĩ Tây Tiến trong bài thơ chỉ có cái vẻ "yên hùng", khí phách bên ngoài, còn bên trong yếu ớt, tiểu tư sản, mơ mộng viển vông. Nhưng người lính trong Đồng chí của Chính Hữu nhớ "giếng nước gốc đa", nhớ "bạn thân cày", nhớ "gian nhà không"... Người lính trong Nhớ của Hồng Nguyên nhớ đến cháy lòng người vợ trẻ "mòn chân bên cối gạo canh khuya"... thì người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng mơ về Hà Nội để nhớ một dáng hình con gái thì cũng là một điều dễ hiểu. Trong chiến tranh, nếu người lính không còn biết mơ, biết nhớ, không còn mảy may rung động trước một bông hoa đẹp hay sắc đẹp cùa một người con gái thì điều đó quả thật là vô cùng đáng sợ. Họ chiến đấu làm gì? Vì ai? Nếu không phải là để trả lại cho con người, cho dân tộc những giá trị nhân văn cao đẹp như vậy.
Bài thơ còn dựng lên hai tinh thần đối lập mà thống nhất: bi và hùng, tạo thành chất lãng mạn bi tráng, một khúc độc tấu mang âm hưởng tráng ca.
Tất cả những gian khổ thử thách, đói rét ốm đau mà nhà thơ đề cập đến trong suốt hai phần đầu bài thơ như một sự chuẩn bị tâm lí cho người đọc để đến khi tác giả nói về cái chết (phần 3) không gây nên cảm giác đột ngột. Tuy không đột ngột và mặc dù quá hiểu chiến tranh là thế - có thể ngã xuống bất cứ lúc nào, song đọc những câu thơ của Quang Dũng, chúng ta vẫn thấy một cảm giác chơi vơi khó gọi tên. Cũng chính những câu thơ ấy đã bất tử hóa cái chết, anh hùng hóa sự hi sinh để nâng đỡ cảm giác buồn đau, hẫng hụt, thành thử bi thương mà không bi lụy, bi ca chứ không phải khốc ca. Chính điều đó làm nên một khúc độc tấu bi tráng rền vang sông núi và lay động lòng người.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Mỗi người lính ngã xuống, những nấm mộ mọc lên. Những nấm mộ rải rác khắp biên cương là dấu tích cùa biết bao nỗi buồn thầm lặng. Nhà thơ nhìn xuyên suốt con đường hành quân của Tây Tiến mà lặng đi đến tê người khi trước mắt anh hiện lên những nấm mộ đồng chí, đồng đội.
Câu thơ sau nhanh chóng gạt đi những cảm giác bi thương giống như có một lực đẩy vô hình:
Chiến trường đi chẳng tiếc dời xanh!
Câu thơ vừa mang dáng dấp cuộc ra đi "nhất khứ hề" của Kinh Kha tráng sĩ vừa mang âm hướng của những cuộc ra đi trong thơ lãng mạn Việt Nam trước cách mạng với những "li khách" cùa Thâm Tâm, "khách chinh phu" của Thế Lữ.. Hơn nữa, các từ Hán - Việt: "biên cương", "viễn xứ", "chiến trường", ... có sức âm vang tạo nên tính cổ điển của hình tượng. Tuy nhiên, chất làng mạn của câu thơ Quang Dũng là chất lãng mạn cách mạng, lãng mạn anh hùng. Quang Dũng đã nói được một điều cốt lõi trong nhân cách người lính: biết hi sinh vẫn dấn thân, ra đi chẳng tiếc đời mình, tuổi thanh xuân đẹp nhất hiến dâng cho lí tưởng. Họ ngã xuống thanh thản, nhẹ nhàng thậm chí nụ cười vẫn nở trên môi. Quang Dũng đã gạt nước mắt để ngẩng cao đầu với niềm tự hào kiêu hãnh.
Hai câu tiếp theo cũng mang cảm hứng tương tự :
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Có người hiểu là lấy áo bào thay cho chiếu, có người lại hiểu là áo bào được thay bằng chiếu. Quang Dũng có lần tâm sự : ngay cả khi nằm xuống, người tử sĩ cũng không có đủ manh chiếu liệm. Nói "áo bào thay chiếu" là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ của thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống giữa rừng". Thế là đã rõ. Không có chiến bào. Thậm chí không có cả chiếu liệm. Nhưng không thể để đau thương, buồn thảm quật ngã. Câu thơ độc đáo của Quang Dũng đã lãng mạn hóa cái chết, làm cho cái chết trở thành một sự ra đi nhẹ nhàng, thanh thản, ung dung với một vẻ đẹp hào hùng, oai phong và sang trọng. Giọng thơ như muốn hạ xuống cung bậc thấp nhất phù hợp với nỗi tiếc thương, nhưng hạ thấp để cuối cùng vút lên với cung bậc dữ dội và hùng tráng:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Những mất mát, đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Những người lính Tây Tiến hi sinh là trở về với thiên nhiên, trở về với đất mẹ và các anh lại hóa thân vào thiên nhiên để hát mãi khúc quân hành.
Tây Tiến có phảng phất nét buồn đau nhưng đó là nét buồn đau bi tráng. Nằm trong thi pháp chung của nền văn học 1945 - 1975, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lăng mạn, Tây Tiến đã để lại dấu ấn riêng độc đáo. Đó là sự phối hợp hài hòa giữa các mặt đối lập trong các hình tượng thơ. Tây Tiến còn là sự gửi gắm tất cả men say ước nguyện của Quang Dũng vào sự nghiệp cứu nước. Vì thế, Tây Tiến hấp dẫn người đọc bởi thế giới nghệ thuật của cái đẹp, cái cao cả hào hùng - sản phẩm của một bút pháp và cảm hứng lãng mạn.
Câu trả lời của bạn
Quang Dũng - một nhà thơ, người nghệ sĩ đa tài và ông cũng đã từng là một người chiến sĩ cách mạng (đại đội trưởng của đoàn quân Tây Tiến). Quang Dũng sáng tác bài thơ "Tây Tiến" tại Phù Lưu Chanh, khi Quang Dũng rời binh đoàn Tây Tiến, chuẩn bị đến nhận công tác ở một đơn vị khác, "Tây Tiến" đối với nhà thơ là một thời đáng nhớ, một thời kì gian khổ nhưng rất đỗi anh hùng. Và "Tây Tiến" còn gắn liền với những đồng đội của ông, đó là những chiến binh Tây Tiến hào hoa, bi tráng.
Không khó để người đọc có thể nhận ra vẻ đẹp hào hùng, oai phong và hiên ngang của những người lính Tây Tiến. Bởi ngay từ những câu thơ đầu tác giả đã nói về hoàn cảnh sống và chiến đấu của chiến sĩ, những người lính Tây Tiến sống và chiến đấu trong điều kiện đầy gian khổ, khắc nghiệt, trải qua và đương đầu với vô vàn khó khăn thử thách. Đó là sự khắc nghiệt của địa bàn hoạt động hiểm trở
"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời"
Tác giả đã sử dụng các từ láy có sức gợi rất hiệu quả "khúc khuỷu" diễn tả con đường nhỏ vắt qua những sườn núi cao chênh vênh, đường đi ngoắt ngoéo, gập ghềnh, "thăm thẳm" mô tả độ cao của con dốc và độ sâu của vực núi, thêm vào đó là không gian "heo hút" hoang vu, quạnh quẽ thiếu bóng dáng con người. Điệp từ "dốc" lặp lại giống như diễn tả những con dốc cứ liên tiếp hiện ra tương ứng với những thử thách đối với người lính. Không chỉ địa hình khắc nghiệt mà thời tiết nơi miền núi Tây Bắc cũng khắc nghiệt:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Trong hoàn cảnh bị bệnh tật hoành hành đặc biệt là bệnh sốt rét rừng khiến cho các chiến sĩ bị rụng tóc, ốm yếu xanh xao như màu lá, hơn thế lại luôn phải đối mặt với thú dữ rình rập. Khắc nghiệt là vậy nhưng người lính Tây Tiến vẫn giữ vững tư thế hiên ngang bất khuất trước những thử thách "Mường lát hoa về trong đêm hơi" là hình ảnh tưởng tượng của người lính tô đậm tâm hồn lãng mạn của người lính, "Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người" cho thấy thái độ ngạo nghễ, hiên ngang đối mặt với những thú rừng nguy hiểm. Có thể nói người lính đã hoà nhập vào cuộc sống hoang dã nơi này, hoà nhập với thái độ chủ động, tinh thần lạc quan, yêu đời. Quang Dũng mang đến cho chúng ta một cái nhìn thật mới mẻ và độc đáo về người lính, đó không chỉ là vẻ đẹp kiêu hùng, bất khuất còn là sự hào hoa lãng mạn, tâm hồn thơ mộng.
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ"
Trước vẻ đẹp của con người và văn hoá miền Tây Bắc Tổ quốc đã khiến những người lính Tây Tiến ngây ngất đắm say. Doanh trại là nơi gắn liền với những quy định, kỉ luật nghiêm khắc nhưng nay lại tràn ngập ánh sáng và màu sắc lãng mạn với hội đuốc hoa. Hình ảnh các thiếu nữ vùng sơn cước xúng xính trong những bộ váy xiêm y khiến người như bị choáng ngợp trong những cảm xúc lãng mạn. Người lính không chỉ ngỡ ngàng mà còn đắm say thưởng thức vẻ đẹp ấy với trí tưởng tượng của tình yêu, cuộc sống.
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Trong tâm hồn người lính có mộng và mơ, mộng là giấc mộng công danh, khát vọng lập công xuất phát từ lòng yêu nước. Còn mơ ấy là giấc mơ gửi về mảnh đất quê nhà, gửi đến các thiếu nữ hà thành duyên dáng mang khát vọng về tình yêu đôi lứa xuất phát từ khát vọng hạnh phúc của tuổi trẻ. Như vậy người lính Tây Tiến mang khát vọng tình yêu đôi lứa vẫn luôn hướng tới khát vọng hoà bình của dân tộc. Có lẽ chẳng ai nói về người lính mà lại nhắc đến cái chết nhiều như Quang Dũng, nhưng chính điều đó đã khẳng định vẻ đẹp đậm chất bi tráng của người lính Tây Tiến:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
"Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Mặc dù cái chết là điều khắc nghiệt nhất của chiến tranh nhưng tác giả không những không né tránh mà còn đề cập rất nhiều lần. Phải chăng với Quang Dũng cái chết đã không còn là thảm hoạ ám ảnh nữa mà trở thành nhiệm vụ tất yếu thiêng liêng và cao cả. "Không bước nữa" không phải không bước được nữa, "bỏ quên đời" không phải bị đời bỏ quên mà là chủ động dừng bước, chủ động đón nhận cái chết với tư thế sẵn sàng, coi như hoàn thành nhiệm vụ tất yếu. Những từ Hán Việt như "biên cương", "mồ", "viễn xứ", "áo bào", "khúc độc hành" cùng nói đến một thực tế rằng người lính khi hi sinh phải gửi thân mình dưới lòng đất với những nấm mồ vô chủ rải rác nơi biên cương hoang lạnh. Đó là sự bất hạnh và khốc liệt của chiến tranh và tác giả gửi vào đó sự kính cẩn nghiêng mình trước sự ra đi cao cả của đồng đội. Người lính khi đối diện với cái chết hoàn toàn bình thản, chủ động "Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh". Người lính dứt khoát, không đắn đo hay lưu luyến, tiếc nuối điều gì, không ham sống sợ chết mà sẵn lòng "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", "anh về đất" coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, chết cũng giống như bao nhiệm vụ khác. Để làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp độc đáo và mới lạ tác giả đã tận dụng tối đa sức biểu đạt của phép tương phản giữa hoàn cảnh chiến đấu với thái độ, tư thế và phẩm chất người lính. Bên cạnh đó việc sử dụng từ chỉ địa danh đã gợi tả vùng đất xa xôi, gợi kỉ niệm về một thời chiến đấu gian khổ. Ngoài ra còn rất nhiều những từ láy tượng hình tô đậm vẻ đẹp người lính, phép điệp từ, điệp vần và hình ảnh nhân hoá.
Trong bài thơ "Tây Tiến" Quang Dũng đã có những tái hiện đầy tinh tế về vẻ đẹp của hình tượng người lính, những câu thơ nói về người lính vừa lãng mạn, vừa đậm chất sử thi mang âm điệu hào hùng rắn rỏi. Nhờ đó mà hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong lòng người đọc trở nên đẹp lí tưởng, vừa hào hùng, hào hoa lại đậm chất bi tráng.
Câu trả lời của bạn
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như miền tây Bắc Bộ Việt Nam
- Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào). Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52.
- Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Tây Tiến có nghĩa là tiến về miền Tây, nơi đoàn quân đang dốc hết sức mình bảo vệ tổ quốc và giúp sức cho đất nước bạn.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Quang Dũng - một nhà thơ, người nghệ sĩ đa tài và ông cũng đã từng là một người chiến sĩ cách mạng (đại đội trưởng của đoàn quân Tây Tiến). Quang Dũng sáng tác bài thơ "Tây Tiến" tại Phù Lưu Chanh, khi Quang Dũng rời binh đoàn Tây Tiến, chuẩn bị đến nhận công tác ở một đơn vị khác, "Tây Tiến" đối với nhà thơ là một thời đáng nhớ, một thời kì gian khổ nhưng rất đỗi anh hùng. Và "Tây Tiến" còn gắn liền với những đồng đội của ông, đó là những chiến binh Tây Tiến hào hoa, bi tráng.
Không khó để người đọc có thể nhận ra vẻ đẹp hào hùng, oai phong và hiên ngang của những người lính Tây Tiến. Bởi ngay từ những câu thơ đầu tác giả đã nói về hoàn cảnh sống và chiến đấu của chiến sĩ, những người lính Tây Tiến sống và chiến đấu trong điều kiện đầy gian khổ, khắc nghiệt, trải qua và đương đầu với vô vàn khó khăn thử thách. Đó là sự khắc nghiệt của địa bàn hoạt động hiểm trở
"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời"
Tác giả đã sử dụng các từ láy có sức gợi rất hiệu quả "khúc khuỷu" diễn tả con đường nhỏ vắt qua những sườn núi cao chênh vênh, đường đi ngoắt ngoéo, gập ghềnh, "thăm thẳm" mô tả độ cao của con dốc và độ sâu của vực núi, thêm vào đó là không gian "heo hút" hoang vu, quạnh quẽ thiếu bóng dáng con người. Điệp từ "dốc" lặp lại giống như diễn tả những con dốc cứ liên tiếp hiện ra tương ứng với những thử thách đối với người lính. Không chỉ địa hình khắc nghiệt mà thời tiết nơi miền núi Tây Bắc cũng khắc nghiệt:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Trong hoàn cảnh bị bệnh tật hoành hành đặc biệt là bệnh sốt rét rừng khiến cho các chiến sĩ bị rụng tóc, ốm yếu xanh xao như màu lá, hơn thế lại luôn phải đối mặt với thú dữ rình rập. Khắc nghiệt là vậy nhưng người lính Tây Tiến vẫn giữ vững tư thế hiên ngang bất khuất trước những thử thách "Mường lát hoa về trong đêm hơi" là hình ảnh tưởng tượng của người lính tô đậm tâm hồn lãng mạn của người lính, "Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người" cho thấy thái độ ngạo nghễ, hiên ngang đối mặt với những thú rừng nguy hiểm. Có thể nói người lính đã hoà nhập vào cuộc sống hoang dã nơi này, hoà nhập với thái độ chủ động, tinh thần lạc quan, yêu đời. Quang Dũng mang đến cho chúng ta một cái nhìn thật mới mẻ và độc đáo về người lính, đó không chỉ là vẻ đẹp kiêu hùng, bất khuất còn là sự hào hoa lãng mạn, tâm hồn thơ mộng.
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ"
Trước vẻ đẹp của con người và văn hoá miền Tây Bắc Tổ quốc đã khiến những người lính Tây Tiến ngây ngất đắm say. Doanh trại là nơi gắn liền với những quy định, kỉ luật nghiêm khắc nhưng nay lại tràn ngập ánh sáng và màu sắc lãng mạn với hội đuốc hoa. Hình ảnh các thiếu nữ vùng sơn cước xúng xính trong những bộ váy xiêm y khiến người như bị choáng ngợp trong những cảm xúc lãng mạn. Người lính không chỉ ngỡ ngàng mà còn đắm say thưởng thức vẻ đẹp ấy với trí tưởng tượng của tình yêu, cuộc sống.
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Trong tâm hồn người lính có mộng và mơ, mộng là giấc mộng công danh, khát vọng lập công xuất phát từ lòng yêu nước. Còn mơ ấy là giấc mơ gửi về mảnh đất quê nhà, gửi đến các thiếu nữ hà thành duyên dáng mang khát vọng về tình yêu đôi lứa xuất phát từ khát vọng hạnh phúc của tuổi trẻ. Như vậy người lính Tây Tiến mang khát vọng tình yêu đôi lứa vẫn luôn hướng tới khát vọng hoà bình của dân tộc. Có lẽ chẳng ai nói về người lính mà lại nhắc đến cái chết nhiều như Quang Dũng, nhưng chính điều đó đã khẳng định vẻ đẹp đậm chất bi tráng của người lính Tây Tiến:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
"Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Mặc dù cái chết là điều khắc nghiệt nhất của chiến tranh nhưng tác giả không những không né tránh mà còn đề cập rất nhiều lần. Phải chăng với Quang Dũng cái chết đã không còn là thảm hoạ ám ảnh nữa mà trở thành nhiệm vụ tất yếu thiêng liêng và cao cả. "Không bước nữa" không phải không bước được nữa, "bỏ quên đời" không phải bị đời bỏ quên mà là chủ động dừng bước, chủ động đón nhận cái chết với tư thế sẵn sàng, coi như hoàn thành nhiệm vụ tất yếu. Những từ Hán Việt như "biên cương", "mồ", "viễn xứ", "áo bào", "khúc độc hành" cùng nói đến một thực tế rằng người lính khi hi sinh phải gửi thân mình dưới lòng đất với những nấm mồ vô chủ rải rác nơi biên cương hoang lạnh. Đó là sự bất hạnh và khốc liệt của chiến tranh và tác giả gửi vào đó sự kính cẩn nghiêng mình trước sự ra đi cao cả của đồng đội. Người lính khi đối diện với cái chết hoàn toàn bình thản, chủ động "Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh". Người lính dứt khoát, không đắn đo hay lưu luyến, tiếc nuối điều gì, không ham sống sợ chết mà sẵn lòng "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", "anh về đất" coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, chết cũng giống như bao nhiệm vụ khác. Để làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp độc đáo và mới lạ tác giả đã tận dụng tối đa sức biểu đạt của phép tương phản giữa hoàn cảnh chiến đấu với thái độ, tư thế và phẩm chất người lính. Bên cạnh đó việc sử dụng từ chỉ địa danh đã gợi tả vùng đất xa xôi, gợi kỉ niệm về một thời chiến đấu gian khổ. Ngoài ra còn rất nhiều những từ láy tượng hình tô đậm vẻ đẹp người lính, phép điệp từ, điệp vần và hình ảnh nhân hoá.
Trong bài thơ "Tây Tiến" Quang Dũng đã có những tái hiện đầy tinh tế về vẻ đẹp của hình tượng người lính, những câu thơ nói về người lính vừa lãng mạn, vừa đậm chất sử thi mang âm điệu hào hùng rắn rỏi. Nhờ đó mà hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong lòng người đọc trở nên đẹp lí tưởng, vừa hào hùng, hào hoa lại đậm chất bi tráng.
Câu trả lời của bạn
Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Tây Tiến:
- Trích tác phẩm Mây đầu ô.
- Viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây), khi ông đã chuyển sang đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ là đoàn quân Tây Tiến.
Câu trả lời của bạn
Theo như mình học thì bạn cần biết nội dung của từng khổ thơ và dùng nó làm câu chủ đề cho mỗi đoạn văn.
Rồi mới đi vào phân tích từng câu thơ theo cách diễn xuôi cùng với vài lời bình.
Câu trả lời của bạn
Thể thơ của Tây Tiến là thơ thất ngôn.
Câu trả lời của bạn
- Chỉ tên một đơn vị bộ đội.
- Bài thơ ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả bỏ từ “nhớ” thành Tây Tiến:
+ Không làm lộ ý nỗi nhớ của Quang Dũng về Tây Tiến, giúp cho nhan đề cô đọng, hàm súc hơn.
+ Làm tăng khả năng bao trùm nỗi nhớ. Nhớ Tây Tiến tức là chỉ nói đến nỗi nhớ về binh đoàn Tây Tiến trong khi ở đây, thông qua nỗi nhớ Tây Tiến, nhà thơ còn gửi gắm về nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Như vậy là chưa bao quát được hết ý nghĩa nội dung nỗi nhớ, quá hẹp so với ý nghĩa mà Quang Dũng muốn chuyển tải.
Câu trả lời của bạn
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947 trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
- Họ có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và Tây Bắc Bộ Việt Nam.
- Địa bàn hoạt động của Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Lai Châu, Hòa Bình, Sơn La, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào).
- Các chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều giới trí thức là học sinh, sinh viên như Quang Dũng. Họ phải chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, thiếu thốn về vật chất và đặc biệt là căn bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Thế nhưng họ vẫn sống rất lạc quan, yêu đời, chiến đấu dũng cảm.
- Quang Dũng làm đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến. Sau một thời gian hoạt động ở Lào, đoàn quân Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập Trung đoàn 52. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển công tác ở đơn vị mới. Rời xa đơn vị chưa được bao lâu, tại Phù Lưu Chanh - một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ, Quang Dũng đã viết bài Tây Tiến.
Câu trả lời của bạn
Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa, đậm chất bi tráng.
Câu trả lời của bạn
Giá trị nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến:
- Cảm hứng và bút pháp lãng mạn mang đậm chất bi tráng.
- Cách sử dụng ngôn từ đặc sắc: các từ chỉ địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt..
- Kết hợp chất nhạc và chất họa.
- Nhịp thơ linh hoạt, khi thì ngắt nhịp nhanh, chắc khỏe, lúc lại nhẹ bẫng, tạo sự cân đối ở toàn bài.
Câu trả lời của bạn
Mạch liên kết giữa các đoạn văn chính là nỗi nhớ rất tự nhiên của nhà thơ về một chiến trường và những đồng đội một thời đánh giặc vô cùng gian khổ mà rất đỗi hào hùng. Nỗi nhớ ấy đã tạo thành mạch cảm xúc của bài thơ: mở đầu là nỗi nhớ, tiếp là kỉ niệm, nỗi nhớ về Tây Tiến và cuối cùng là lời khẳng định mãi gắn bó lòng với Tây Tiến.
Câu trả lời của bạn
Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hùng dũng trên nền thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội:
- Sự tinh nghịch, dí dỏm của các chàng trai Hà Nội, chiến thắng thiên nhiên, chạm tới đỉnh cao của chiến trường miền Tây.
- Dũng cảm, gan góc, kiên cường của những người lính trên sự dữ dội và bí ẩn của thiên nhiên.
- Hình ảnh bi tráng của người lính Tây Tiến trên chiến trường, coi cái chết nhẹ tựa giấc ngủ.
- Có sự hòa hợp thật đáng yêu trong tình quân dân kháng chiến.
⇒ Bằng bút pháp hiện thực và trữ tình đan xen, đoạn thơ đã dựng lại con đường hành quân giữa núi rừng Tây Bắc hiểm trở. Ở đó đoàn quân Tây Tiến đã trải qua cuộc hành quân đầy gian khổ nhưng cũng ấm áp tình người. Qua đó, ta thấy được sự dũng cảm, kiên trung của thế hệ trẻ thời kì kháng chiến.
Câu trả lời của bạn
- Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội là biểu tượng của chặng đường hành quân đầy gian khổ:
+ Sông Mã và Tây Tiến là hình ảnh kết tinh nỗi nhớ của tác giả: nhớ miền Tây và nhớ lính Tây Tiến
+ Địa danh được nhắc tới như Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Mai Châu
+ Đặc điểm hiểm trở, gập ghềnh trong cuộc hành quân: mây, mưa, thác, cọp…
+ Bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc mở ra cuộc hành quân giữa núi cao, vực sâu, rừng thẳm… liên tục xuất hiện trong bài
- Vẻ hoang sơ, dữ dội, ác liệt của Tây Tiến thể hiện rõ bằng thủ pháp nhân hóa, cường điệu (Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người).
- Bức tranh thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp kiêu hùng, vượt lên mọi khó khăn, mất mát đau thương của người lính Tây Tiến.
Câu trả lời của bạn
Tây Tiến trong đoạn thứ hai hiện lên duyên dáng, mĩ lệ, thanh bình dưới góc nhìn hào hoa, yêu đời:
- Vẻ đẹp của đêm hội đuốc hoa, xiêm áo rực rỡ, tiếng khèn, điệu nhạc.
- Sự gắn bó thủy chung giữa tình quân dân kháng chiến tình nghĩa Việt - Lào (Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa/Kìa em xiêm áo tự bao giờ).
- Nhân vật trung tâm tạo nên những bất ngờ thú vị, thu hút hồn vía những chàng trai Tây Tiến đó là những cô gái e ấp tình tứ trong những điệu múa tình tứ.
- Đó là vẻ đẹp Tây Bắc gắn với hình ảnh cô gái Thái chèo thuyền độc mái uyển chuyển, với bông hoa làm duyên trên dòng nước lũ.
+ Hoa đong đưa: diễn tả một chuyển động có tâm trạng, làm cho những ngọn lau, bông lau như những sinh thể có hồn. Dường như hoa cũng biết soi mình xuống dòng nước sông để làm duyên làm dáng.
- Đây là vẻ đẹp thực, được hiện lên huyền ảo qua không gian và thời gian. Thời gian buổi chiều tĩnh lặng, có làn sương giăng nhẹ.
- Sử dụng từ ngữ tinh tế, sáng tạo và bút pháp lãng mạn.
⇒ Cảnh và người xen lẫn, đan hòa vào nhau, không rõ nét mà mờ nhòa, ẩn hiện.
Câu trả lời của bạn
Hình ảnh, bức chân dung người lính Tây Tiến hiện lên hào hùng, cao đẹp:
- Không mọc tóc: sốt rét rừng nên những người lính rụng hết tóc, đây là sự khốc liệt của hoàn cảnh chiến đấu.
- Quân xanh màu lá: sự khắc nghiệt của điều kiện chiến đấu khiến những người lính xanh xao.
- Dữ oai hùm có những nét oai phong hùng mạnh áp đảo kẻ thù.
→ Điều này cũng cho chúng ta thấy rõ được sự can đảm, dám đương đầu với hoàn cảnh bệnh tật khó khăn, tinh thần lạc quan, yêu đời của họ. Thân hình ốm yếu của bệnh tật nhưng không bi lụy mà nhờ bút pháp lãng mạn.
- Hình ảnh mắt trừng diễn tả tinh thần và ý chí quyết tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược. → Giấc mộng lập chiến công, truy kích giặc.
- Dáng kiều thơm: những thân hình đẹp mỏng manh, đẹp sắc nước hương trời của những thiếu nữ Hà Nội → tâm hồn lãng mạn của những người lính Tây Tiến khi nhớ tới người yêu, hậu phương.
⇒ Những người lính Tây Tiến dù trong khó khăn, gian khổ vẫn kiên cường, dũng cảm và hòa quyện trong đó sự lãng mạn vốn có.
Câu trả lời của bạn
Nỗi nhớ Tây Tiến tha thiết, khắc khoải, ám ảnh:
- Thăm thẳm, không hẹn ước, một chia phôi: diễn tả nỗi nhớ, lời thề kim cổ: ra đi không hẹn ngày trở về.
- Nỗi khắc khoải, thương nhớ những ngày đã qua trong quá khứ chiến đấu.
- Tây Tiến mùa xuân ấy: thời của hào hùng, lãng mạn đã qua.
- Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi: nhà thơ dành tất cả tình cảm, trái tim cho Tây Tiến và cho quá khứ hào hùng.
⇒ Nỗi nhớ Tây Tiến luôn khắc khoải, tha thiết trong lòng nhà thơ như một minh chứng về sức sống mãnh liệt của kỉ niệm, kí ức những ngày gian khổ hào hùng.
Câu trả lời của bạn
Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm, sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng (nay thuộc Hà Nội).
Câu trả lời của bạn
Trước Cách mạng tháng Tám, Quang Dũng học Ban trung học trường Thăng Long. Sau khi tốt nghiệp, ông đi dạy học ở Sơn Tây.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *