Nội dung bài giảng Tây Tiến giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp hùng vĩ, mĩ lệ của thiên nhiên miền Tây và nét hào hoa dũng cảm, vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến. Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ: bút pháp lãng mạn, những sáng tạo về hình ảnh và giọng điệu. Chúc các em có thêm nhiều tiết học sôi động, hấp dẫn và hiệu quả hơn tại lớp.
⇒ Khổ thơ giàu màu sắc hội họa và âm nhạc đã làm hiện lên một thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng miền Tây.
⇒ Bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn xây dựng nên một hình ảnh chân thực và sinh động về người lính.
⇒ Bút pháp gợi và ngôn ngữ giàu nhạc điệu đã làm nổi bật lên vẻ mĩ lệ, trữ tình của thiên nhiên và con người nơi núi rừng Tây Bắc.
⇒ Sử dụng nhiều từ ngữ án Việt (“chiến trường”, “viễn xứ”, “biên cương”,…) tạo ra giọng điệu trang trọng thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
⇒ Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng.
Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng là một bài thơ hay viết về thiên nhiên hùng vĩ của miền Tây. Trên khung cảnh hùng vĩ, bao la đó, hình ảnh con người hiện lên thật đẹp và hào hùng. Với hệ thống bài soạn tóm tắt và chi tiết, các em sẽ nắm được những nội dung cần đạt khi học tiết văn bản này. Đồng thời, với các bài soạn này, các em cũng dễ dàng trả lời được hệ thống các câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài của SGK chương trình chuẩn và nâng cao. Chi tiết các bài soạn, các em có thể tham khảo tại đây:
Soạn bài Tây Tiến
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Tây Tiến là một trong những bài thơ viết về thiên nhiên miền Tây và người lính Tây Tiến với bút pháp lãng mạn và hiện thực đặc sắc của nền văn học Việt Nam. Với những nét đặc sắc cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật, bài thơ Tây Tiến thường được khai thác dưới rất nhiều dạng đề văn khác nhau để làm rõ những nét hay nét đẹp đó. Sau đây là những dạng đề văn viết và bài văn mẫu được DapAnHay biên soạn và tổng hợp, các em có thể tham khảo tại đây:
- So sánh nỗi nhớ trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu
- So sánh hình ảnh người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng và Đồng chí của Chính Hữu
- Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- Cảm hứng thiên nhiên của nhà thơ Quang Dũng trong Tây Tiến
- Phân tích khổ cuối bài Tây Tiến của Quang Dũng
- Phân tích thành ngữ Thi trung hữu họa qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- Phân tích cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- Phân tích bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Hướng dẫn soạn bài Tây Tiến của Quang Dũng
Câu trả lời của bạn
TÂY TIẾN - Quang Dũng
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
– Quang Dũng ( 1921 – 1988), tên khai sinh là Bùi Đình Diệm
– Quê: Phượng Trì – Đan Phượng – Hà Tây
– Bản thân:
• Học hết bậc thành trung ở Hà Nội
• Sau cách mạng tháng Tám ông tham gia quân đội
• Sau năm 1954 ông là biên tập viên, nhà xuất bản văn học
• Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài: thơ, nhạc, văn
• Năm 2001, ông được tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật
• Đặc điểm thơ Quang Dũng: hồn thơ phóng khoáng hồn hậu lãng mạn và tài hoa
• Tác phẩm chính: mây đầu ô, thơ văn Quang Dũng
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
– Khoảng cuối mùa xuân năm 1947 Quang Dũng ra nhập đoàn quân Tây Tiến. Đây là đơn vị thành lập năm 1947 với nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt Lào. Địa bàn hoạt động khá rộng từ Lai Châu, Mộc Châu sang Sầm Nưa rồi về miền tây Thanh Hóa. Thành phần người lính là gồm những thanh niên Hà Nội hào hoa phong nhã. Họ phải chịu một đời sống thiếu thốn mọi mặt vậy nhưng họ luôn giữ được tinh thần lạc quan vui tươi cùng nhau đấu tranh bảo vệ đất nước
– Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Cuối năm 1948 tại Phù lưu Chanh nhà thơ Quang Dũng bỗng nhớ về đồng đội và đơn vị của mình nên đã dành hết cảm xúc làm nên bài thơ Tây Tiến
b. Bố cục: 4 phần:
– Phần 1: 14 câu đầu: cảm hứng từ cuộc hành trình đầy gian khổ của đoàn quân Tây Tiến
– Phần 2: tiếp đến câu thơ 22: kỉ niệm về tình quân dân và khung cảnh sông nước miền tây
– Phần 3: câu 23 đến câu 30: hình tượng người lính Tây Tiến
– Phần 4: còn lại: lời thề người lính
c. Chủ đề
– Bài thơ được sáng tác trong nỗi nhớ da diết của nhà thơ Quang Dũng với đồng đội và đơn vị cũ. Nỗi nhớ ấy gắn liền với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ thơ mộng
d. Nhan đề:
– Ban đầu nhà thơ để là nhớ tây tiến -> nhưng ta thấy nó cụ thể quá
– Về sau nhà thơ bỏ chữ nhớ đi để lại hai chữ Tây Tiến mang lại hàm ý hơn. Không cần nói nhớ mà khi người ta đọc bài thơ này lên người ta cũng biết là nhớ rồi.
II. Đọc hiểu
1. Cảm hứng từ những cuộc hành quân
a. Bốn câu thơ đầu:
– Mở đầu bài thơ nhà thơ đề cập ngay đến nỗi nhớ Tây Tiến gắn liền với sông Mã, với núi rừng Tây Bắc. Đó là một nỗi nhớ chơi vơi -> hiệp vần “ơi” khiến cho ta thấy được nỗi nhớ ấy mênh mông da diết đến mức nào
– Các địa danh hành quân được nhắc đến như Sài Khao Mường Lát. Đoàn quân Tây Tiến phải đi từ rất sớm khi trời vẫn còn sương và về khi đêm đã buông kín lối. b. Bốn câu thơ tiếp
– Bức tranh thiên nhiên Tây bắc hiện lên hùng vĩ và thơ mộng. Bốn câu thơ mà trong đó đa số là vần Trắc kết hợp với các từ láy như ‘khúc khuỷu”, “thăm thẳm”-> tạo nên sự trắc trở gian khó của thiên nhiên mà hàng ngày người lính phải đi qua
– Câu cuối toàn vần bằng -> sau những phút giây hành quân gian khổ thì đoàn quân Tây Tiến trở về với cảm giác an toàn nhẹ nhàng kết thúc một hành trình
c. Bốn câu tiếp
– Hình ảnh bi tráng của người lính Tây Tiến trên chiến trường, nhà thơ sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh để giảm đi sự mất mát của đồng đội. Không những thế nó còn thể hiện ý chí của người lính Tây Tiến coi cái chết nhẹ tựa một giấc ngủ, mỏi rồi không muốn đi nữa mà gục lên súng mũ
– Thiên nhiên Tây bắc lại hiện ra với thú dữ, nhà thơ lại dùng từ “trêu” để nói về việc hùm beo buổi tối đến quấy nhiễu dân làng. Đó là cách nói hóm hỉnh của người chiến sĩ Tây Tiến
-> Bốn câu thơ thể hiện sự ra đi bình yên của người linh Tây Tiến, họ coi cái chết nhẹ nhàng tựa lông hồng. Những khắc nghiệt của thiên nhiên Tây bắc đối với họ cũng trở thành một điều quá bình thường
d. Hai câu cuối:
– Sau những giây phút ác liệt trên chiến trường những người lính Tây Tiến lại trở về với buôn làng và được đón tiếp nồng nhiệt, mùi thơm của cơm nếp như sự ấm áp mỗi khi người lính mệt
2. Kỉ niệm tình quân dân và khung cảnh sông nước miền Tây
a. Kỉ niệm về tình quân dân
– Doanh trại của những người chiến sĩ bừng lên hội đuốc hoa
– Cụm từ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên đầy thích thú của người chiến sĩ, những cô gái lào trong trang phục truyền thống cùng góp vui với những anh chiến sĩ trẻ
– Hội đuốc hoa bừng trong ánh sáng của đuốc, ngập tràn trong âm thanh của tiếng khèn, mê man trong man điệu e ấp của những cô gái và ấm áp trong tình quân dân gắn bó khăng khít
b. Cảnh đưa tiễn Tây Tiến lên đường
– Cuộc vui nào cũng có cuộc chia tay, người lính Tây Tiến đã đến lúc phải đi. Cảnh và người nơi đây như níu giữ chân người lính lại
– Những từ “có nhớ”, “có thấy” thể hiện được nỗi bâng khuâng không muốn rời. có nhớ chiều sương Châu Mộc bảng lảng mơ hồ với những con thuyền trôi trên mặt nước bến bờ hoang dại yên tĩnh
– “dáng người trên độc mộc” đó là dáng đứng đẹp, hiên ngang, hùng dũng của một chàng trai hay một cô gái
– Nhớ thiên nhiên với những đóa hoa rừng như đong đưa tình tứ muốn níu bước chân người lính-> câu thơ như có chất nhạc chất họa
3. Hình tượng người chiến binh Tây Tiến
– Ngoại hình:
• Với những câu thơ hai nghĩa nhà thơ gợi lên nhiều nét ngoại hình của người lính Tây Tiến
• “không mọc tóc” -> có thể hiểu là sốt rét làm cho các chiến sĩ rụng hết tóc, cũng có thể hiểu là cắt tóc đi để tiện cho những trận đánh giáp lá cà
• “xanh màu lá” “dữ oai hùm” -> có thể hiểu là quân thiếu thốn nên da xanh xao, tuy nhiên vẫn có sức khỏe như hổ báo, cũng có thể hiểu là ngụy trang lá cây xanh đeo trên người của người lính
• Mắt trừng -> mắt tức giận căm thù quân giặc, hoặc là mắt không thể ngủ được
• Dáng kiều thơm -> hình ảnh những người con gái Hà Thành xinh đẹp. Vì câu thơ này mà bài thơ từng bị cấm vì sợ nhụt chí người lính, người ta gọi đây là mộng rớt buồn rơi
-> Nhà thơ khái quát nét ngoại hình người lính tuy ốm nhưng không yếu
– lý tưởng khát vọng và sự hi sinh
• lý tưởng của người lính là đi lên chiến trường là xác định không trở về cho nên đi không tiệc đời còn xanh, còn trẻ
• mồ chiến sĩ Tây Tiến rải rác khắp biên cương, nằm yên nghỉ ở xứ người. hi sinh vì thiếu thốn không có cả manh chiếu che thân. Nhà thơ đã thị vị hóa, trang trọng hóa sự hi sinh của người lính bằng các từ hán việt “áo bào”, “biên cương”…
• con sông Mã gầm lên khúc độc hành vì chi còn có một mình
-> sự hi sinh vô cùng oanh liệt và dũng cảm
4. Lời thề của người lính Tây Tiến
– Bốn câu thơ kết thúc bài thơ như một lời thề của người chiến sĩ Tây Tiến đi là không hẹn ngày về, hồn về Sầm Nứa để tiếp tục cuộc chiến đấu với quân giặc chứ chưa muốn về xuôi khi chưa hoàn thành nhiệm vụ.
III. Tổng kết
– Nội dung: hình tượng người lính Tây Tiến; thiên nhiên miền Tây hùng vĩ dữ dội
– Nghệ thuật: sử dụng nhiều bút pháp khác nhau, miêu tả thiên nhiên và con người, ngôn ngữ đa dạng
-> Bốn câu thơ thể hiện nỗi nhớ đầu tiên của nhà thơ về đơn vị cũ. Nó gắn liền với con sông Mã với những cuộc hành quân từ sáng sớm tinh mơ cho đến tối đen như mực
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Câu trả lời của bạn
Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhà thơ Trần Lê Văn, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung vời Quang Dũng viết về hoàn cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây Tiến như sau:
Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu; ngồi ở Phù Lưu Chanh (Hà đông) anh viết bài thơ Tây Tiến.
Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao quân đội Pháp ớ Thượng Lào cũng như miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh từ Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, miền tây Thành Hoá sang tận Sầm Nưa (Lào) rồi vòng về qua miền tây Thành Hoà. Những nơi này, lúc đó, còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng rậm, có nhiều thú dữ.
Những người lính Tây Tiến phần đông là thành niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc vào số này). Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ dẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thành lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.
Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và tuyệt mĩ.
Thiên nhiên miền Tây, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người miền Tây càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc.
Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi luỵ. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng.
Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
Ngay từ khi ra đời, Tây Tiến đã được lưu truyền rộng rãi trong bộ đội và những người yêu thơ. Nhưng sau đó, do quan niệm có phần đơn giản và ấu trĩ nên bài thơ này bị coi là mộng rớt, có những rơi rớt của tư tưởng lãng mạn ành hùng kiểu cũ. Vì vậy, trong một thời gian khá dài, Tây Tiến ít được nhắc đến. Mãi tới thời kì Đổi mới, trong xu hướng nhìn nhận lại các giá trị văn học, bài thơ Tây Tiến mới được khôi phục lại vị trí của nó trong lịch sử văn học.
Bài thơ gồm bốn đoạn thơ:
Đoạn l: Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ và dữ dội.
Đoạn 2: Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
Đoạn: Chân dung của người lính Tây Tiến.
Đoạn 4: Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.
Mạch liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm xúc. tâm trạng của nhà thơ. Bài thơ được viết trong một nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, đầy thơ mộng. Bài thơ là những kí ức của Quang Dũng về Tây Tiến; những kí ức, những kí niệm được tái hiện lại một cách tự nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ niệm này khơi dậy kỉ niệm khác như những đợt sóng nối tiếp nhau. Ngòi bút tinh tế và tài hoa của Quang Dũng đã làm cho những kí ức ấy trở nên sổng động và người đọc có cảm tưởng đang sống cùng với nhà thơ trong những hồi tưởng ấy.
Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ (2) da diết, bao trùm lên cả không gian và thới gian:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ; khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày, … liên tiếp xuất hiện những câu thơ sau:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm.
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Khổ thơ này là một bằng chứng trong thơ có hoạ (thi trung hữu hoạ) (3). Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây – địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã điền tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo miền Tây. Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi cao dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Đọc câu thứ tư, có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.
Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại (câu thứ tư toàn thành bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gang màu lạnh làm dịu lại như xoa mát cả khổ thơ.
Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây trong bài thơ Tây Tiến làm gợi nhớ đến mấy câu thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi gần xa, – Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Còn sự hoang vu và hiểm trở của nó lại gợi nhớ tới câu thơ trong bài Thục đạo nan câu Lí Bạch: “Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh” (Thục đạo chi nan, nan ư thướng thành thiên!).
Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miền Tây được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe doạ khủng khiếp đối với con người:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ,… Những tên đất lạ (Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch), những hình ảnh giàu giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần bằng ớ cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình nên thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng miễn tây tổ quốc.
Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
“Nhớ ôi Tây Tiến thơ lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm đừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói còn nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên. Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc buồi sang đoạn thơ thứ hai.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây. Cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng của miền Tây. Những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này.
Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong một khoảng thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang.
Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng miền Tây bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy (“xiêm áo tự bao giờ”), vừa e thẹn, vừa tình tứ (“nàng e ấp”) trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ (“man điệu”) đã thu hút cả hồn vía những chàng trai Tây Tiến.
Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất, thì cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên được cảm giác mênh mang, mờ ảo:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hoà hợp với con người, những bông hoa rừng cũng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ.
Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút của ông như có hồn phảng phất trong gió, trong cây (“có thấy hồn lau nẻo bến bờ”). Ông không chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật.
Đọc đoạn thơ này, ta như lạc vào thế giới của cải đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc (4). Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên tự tân hồn ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hoà quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Với ý nghĩa đó, Xuân Diệu có lí khi cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng.
Trên cái nên hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng (ở đoạn một) và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ của miền Tây (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuất hiện vời một vẽ đẹp đầy chất bi tráng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xành màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hoà quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bí tráng – thần thái chung của cả bức tượng đài.
Thơ ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài Cá nước với những hình ảnh thật cụ thể: “Giọt giọt mồ hôi rơi, – Trên má anh vàng nghệ” cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu những gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao cửa người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngòi bút của ông, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc của những người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kì, giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng xa rời thực tế của nhà thơ mà chứa dựng một sự thực nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cả với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên về oai phong, dữ dằn của những còn hổ nơi rừng thiêng. Sự oai phong lẫn liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng, không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khát khao yêu đương (“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”). Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc hoạ dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
Ngòi bút của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi luỵ. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của hình tượng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt, đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính; trang trọng: “Rải rác bên cương mồ viễn xứ”; mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến (“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”). Họ có vẻ tiều tuỵ, tàn tạ trong hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ như lông hồng. Sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng (5). Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm (anh về đất), và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của một thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thắm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả, đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt vời những ngày, những nơi mà Tây Tiến đã đi qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại.
Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
Quang Dũng là nhà thơ tiêu biểu của chùm thơ chiến sĩ. Với lời thơ hào hùng, lãng mạn những sáng tác của ông đều để lại âm vang trong lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Và "Tây Tiến" là một trong những tác phẩm như thế.
Tây Tiến là tên của một đoàn quân với đa số là những chàng trai sinh viên hà thành. Đoàn quân được thành lập đầu năm 1947 và đại đội trưởng không ai khác chính là Quang Dũng. Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại làng Phù Lưu Chanh, ông viết bài thơ" Nhớ Tây Tiến" sau in trong "Mây đầu ô" đổi tên thành Tây Tiến. Nổi bật của tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng của từng câu thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.
"Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Tác giả gọi tên dòng sông Mã- một nhân chứng theo suốt bước chân hành quân của đoàn quân. Quang Dũng nhớ về đồng đội, "nhớ về rừng núi". Nỗi nhớ ấy cứ cồn cào, da diết để rồi bật lên thành tiếng gọi "Tây Tiến ơi". Đặc sắc nghệ thuật của hai câu thơ đầu chính là cách gieo vần "ơi" và từ láy "chơi vơi". Bằng sự thành công của đặc sắc ấy, nhà thơ đã diễn tả hết được nỗi lòng của mình. Nỗi nhớ của ông cứ miên man, cồn cào, da diết khôn nguôi. Nỗi nhớ từ tận đáy lòng rồi bật lên vang vọng.
Nhớ về Tây Tiến là nhớ đến những khó khăn gian khổ suốt chặng đường hành quân. Một loạt các địa danh được nhà thơ nhắc đến ở những câu tiếp: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu. Đây đều là những địa danh heo hút, hoang vu, là những minh chứng cho chặng đường đầy gian khổ của người lính Tây Tiến.
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Hai câu thơ này thể hiện rất rõ cảm hứng lãng mạn trong thơ của Quang Dũng. Trong đêm lạnh ở vùng cao, sương giăng phủ kín, mặc dù đã "mỏi" nhưng con đường hành quân hiện ra vẫn đẹp, vẫn thơ mộng "hoa về trong đêm hơi". Những câu thơ tiếp theo thể hiện rõ sự khắc nghiệt của thiên nhiên trên đường hành quân. Một loạt các từ ngữ diễn tả sự gập ghềnh của hành trình ấy đã diễn tả một cách chân thực về thiên nhiên hoang sơ nơi rừng núi:" dốc lên khúc khuỷu, dốc xuống thăm thẳm đường đi heo hút". Câu thơ "dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm" như bị chặt đôi đã diễn tả thật rõ sự gập ghềnh của núi, của chặng đường đi. Điều đó càng được tăng lên gấp bội nhờ "ngàn thước lên cao ngàn thước xuống". Chặng đường ấy cứ trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau. Thế nhưng trước thiên nhiên hoang sơ kĩ vĩ ấy là hình ảnh "súng ngửi trời". Đây là một hình ảnh tuyệt đẹp, lãng mạn của chàng lính Tây Tiến. Giữa núi rừng thiên nhiên hùng vĩ, người chiến sĩ vác súng trên vai. Câu thơ giúp người đọc cảm thấy như mũi súng có thể chạm đến đỉnh trời. Hình ảnh này khẳng định ý chí quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới "khó khăn nào cũng vượt qua- kẻ thù nào cũng đánh thắng". Giữa thiên nhiên hoang sơ ấy, tinh thần người chiến sĩ vẫn rất vững vàng:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Bằng ngòi bút chân thực, Quang Dũng đã tái hiện sự thật đau thương của cuộc hành quân. Đã biết bao người đã ra đi "anh bạn dãi dầu không bước nữa". Nhưng hình ảnh ấy qua lời thơ Quang Dũng không hề bi thương mà hào hùng "gục lên súng mũ bỏ quên đời". Người chiến sĩ hào hùng hi sinh bên súng mũ trong tư thế hiên ngang "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Hình ảnh người chiến sĩ hi sinh đã đi sâu vào lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Quả đúng không ngoa "tượng đài tự do được xây bằng máu và nước mắt". Những khó khăn mới lại đến với đoàn quân. Đó là hiểm nguy rừng núi, chốn hoang sơ luôn rình rập "cọp trêu người", "thác gầm thét". Nhưng không vì thế mà người lính Tây Tiến nao núng. Trái lại họ còn lạc quan nhớ đến sự ấm áp của con người nơi đây "nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói-Mai Châu mùa em thơm nếp xôi". Cặp từ sáng tạo "mùa em" đã chứa bao tình thương nỗi nhớ của tác giả.
Thơ Quang Dũng đâu chỉ có hiện thực khắc nghiệt mà còn có phút lãng mạn, vui tươi:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên Độc Mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Đoạn thơ này làm thay đổi không khí của toàn bài. Với âm hưởng vui tươi lạc quan, tác giả đã cho người đọc thấy sự hào hoa của người lính Tây Tiến. Đêm liên hoan văn nghệ thắm đượm tình dân quân đã in hằn trong tâm trí Quang Dũng khiến ông không thể nào quên. Hình ảnh những cô gái Thái xinh đẹp trong xiêm áo, e ấp trong điệu nhạc tiếng khèn, đã khiến người lính phải ngỡ ngàng "kìa em". Bằng tâm hồn lãng mạn, nhà thơ đã vẽ lên viễn cảnh mơ mộng của Châu Mộc trong chiều sương với "hồn lau", "hoa đong đưa". Phải chăng bông hoa ấy chính là hình ảnh cô lái đò trên dòng nước lũ? Nét duyên dáng thơ ngây của con người và cảnh vật đã được vẽ thành bức họa tuyệt trần qua thơ của Quang Dũng.
Nối tiếp mạch thơ là hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp kì dị, lạ lùng:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Bút pháp tả thực lại một lần nữa được Quang Dũng thực hiện triệt để. "Đoàn binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá" là kết quả của những trận sốt rét rừng. Thời kì này, chiến sĩ của ta chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, thiếu thốn lương thực, thuốc men, ngay cả trang bị chiến đấu "áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá”, "chân không dày"… Chiến sĩ ta nhiều khi chết bệnh còn hơn chết trận. Nhưng dù với dáng vẻ như vậy, người lính Tây Tiến vẫn hiên ngang, uy hùng không hề yếu ớt " dữ oai hùm", "mắt trừng". Đoạn thơ thể hiện rõ cảm hứng lãng mạn và bi tráng của nhà thơ. Quyết tâm giết giặc "gửi mộng qua biên giới" không làm giảm sự lãng mạn của người lính. Họ vẫn nhớ về quê hương, vẫn nhớ về người con gái Hà thành.
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Một mùi chết chóc sực lên ở đoạn thơ này. Một màu sắc ảm đạm, u uất bao trùm khổ thơ. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó hiện lên bi tráng mà không bi lụy. Cái chí khí của người lính đã được bộc lộ rõ ràng. Họ quyết tâm đi "chẳng tiếc đời xanh" để đem lại nền độc lập cho dân tộc. Họ ngã xuống nhưng vẫn mang trong mình bầu máu nóng nhiệt huyết. "Áo bào thay chiếu anh về đất" như một cách nói giảm nói tránh. Người chiến sĩ ngã xuống là về với đất mẹ bao la. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã lại hiện lên như tiễn đưa linh hồn người lính.
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường đi thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"
Quang Dũng một lần nữa khẳng định ý chí sắt đá của người lính Tây Tiến. Họ ra đi không hề "hẹn ước". Họ đã ra đi không hẹn ngày trở về, họ quyết tâm dành lại độc lập cho dân tộc. Tinh thần " một đi không trở lại" của người lính Tây Tiến cũng như những anh bộ đội cụ Hồ lúc bấy giờ.
Bằng bút pháp nghệ thuật tả thực cùng cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã tạo ra một thi phẩm tuyệt vời. Chân dung người lính Tây Tiến đã được khắc họa rất rõ qua lời thơ và nỗi nhớ của tác giả dành cho tiểu đội của mình. Quả thực, "Tây Tiến" xứng đáng là bản anh hùng ca của chùm thơ cách mạng Việt Nam thời bấy giờ.
Trong nền thơ ca kháng chiến Việt Nam giai đoạn 1945-1954 Quang Dũng là một trong những nhà thơ tiêu biểu. Ông là một nhà thơ đa tài, nổi bật hơn cả là lĩnh vực thơ văn với tập thơ nổi tiếng “Mây đầu ô”, trong đó đặc sắc hơn cả là bài thơ Tây Tiến.
Bài thơ Tây Tiến thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ mà lãng mạn, yên bình:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nhà thơ gọi tên sông Mã – cong sông chảy qua một số tỉnh miền tây Thanh Hóa, là con sông gắn liền với cuộc trường chinh của người lính Tây Tiến. Bởi thế cho nên trong cảm nhận của nhà thơ con sông như một chứng minh lịch sử, một người bạn đồng hành trong suốt cuộc hành trình. Nhưng giờ “sông Mã xa rồi…” tất cả những kỷ niệm của một thời bão lửa đã lùi xa vào quá vãng. Tuy vậy nỗi nhớ về đồng đội vẫn luôn nóng hổi, tươi nguyên như ngày nào để rồi tác giả phải thốt lên “Tây Tiến ơi”. Nhà thơ gọi tên đoàn quân Tây Tiến như gọi tên những người thân yêu ruột thịt nhất của mình. Chỉ một từ “ơi” ấy thôi người đọc như cảm nhận được những cảm xúc dồn nén, những nỗi nhớ niềm thương tha thiết, cháy bỏng của nhà thơ. Cùng với nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến là nỗi nhớ về rừng núi thiên nhiên:
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Chỉ một dòng thơ thôi nhưng với điệp từ “nhớ” ta như thấu hiểu những cảm xúc trong lòng nhà thơ. Nhà thơ nhớ về cảnh sắc thiên nhiên, nhớ về nơi in dấu bao bước chân của đoàn quaqan Tây Tiến với nỗi nhớ “chơi vơi”. Quang Dũng thật tài tình khi đong đầy tất cả những cung bậc tình cảm, cảm xúc trong nỗi nhớ ấy. “Nhớ chơi vơi” ấy là nối nhớ không rõ nét, không xác định, khó nắm bắt, một nỗi nhớ khiến con người ta có thể thoát khỏi thực tại để chìm đắm trong những kỷ niệm ngày xưa. Trong ca dao cũng từng có những nỗi nhớ như vậy:
“Ra về nhớ mãi chơi vơi”
Hay Xuân Diệu cũng từng viết:
“Tương tu nâng lòng lên chơi vơi”
Tuy vậy nỗi nhớ “chơi vơi” trong thơ Quang Dũng lại có sức ám ảnh thật lớn, đọng lại trong lòng người đọc một ấn tượng không phai nhòa. Hai câu thơ mang chút gì đó bang khuâng, hoài niệm gợi lại những kỷ niệm thân thương. Ta như thấu hiểu hơn tâm hồn của một nghệ sĩ, Quang Dũng dương như đang bứt mình khỏi thực tại để đắm chìm trong những nỗi nhớ “chơi vơi”.
Từ nỗi nhớ ấy, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện về:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”
Biết bao địa danh được nhắc đến trong bài thơ, đã từng có ý kiến cho rằng: ‘những tên đất, tên làng, bao cái tên đọc lên mà muốn khóc”, đó là nơi đã in dấu bước chân mà đoàn quân từng đi qua mỗi một vùng đất, địa danh như nhân chứng sống cho cuộc hành trình của đoàn quân. Từ câu thơ trên ta như hình dung được thật rõ nết cuộc hành trình. Đoàn quân Tây Tiến đi trong sương mù dày đặc của núi rừng, hình ảnh họ như chìm đi, ẩn hiện trong lớp sương huyền ảo. Hình ảnh “sương lấp” gợi sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu miền tây. Trong suốt cuộc hành trình của mình họ phải đi trong sương mù dày đặc do đó không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi.
Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của thời tiết thì câu dưới lại phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn n gười lính:
“Mường Lát hao về trong đêm hơi”
Quang Dũng quả thật tài tình trong việc sử dụng từ ngữ. Nếu như bao người nói hoa nở thì nhà thơ lại nói “hoa về”, “hao về” là một sự nhân hóa độc đáo khôn cùng. Những đóa hoa xuất hiện trong “đêm hơi”, lạ lẫm thay, sao không phải là đêm sương? Phải chăng nếu trong đêm sương lạnh giá ta sẽ không thể nhìn thấy hoa. Để rồi, nhà thơ để hoa về trong “đêm hơi”. Qua hai chữ “đêm hơi” ta như hình dung ra mooth không gian lung linh huyền ảo của núi rừng nơi đây. Trong không gian ấy hoa muôn sắc màu trở nêm đẹp hơn, lộng lẫy hơn. Hai câu thơ như hai nết vẽ tương phản thể hiện hai cực điểm nổi bật của mảnh đất miền Tây khắc nghiệt thật đấy nhưng thơ mộng đẹp đẽ vô cùng. Và có lẽ những người lính Tây Tiến hẳn phải tinh tết, lãng mạn lắm mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi đây, Những khó khăn của hoàn cảnh sống không làm mất đi ở họ nết phong phú trong thế giới tâm hồn. Như vậy, bốn câu thơ đầu của bài thơ đã thể hiện được cảm xúc của “Tây tiến” nhớ cảnh bao nhiêu thì nhớ người bấy nhiêu, đặc biệt là nỗi nhớ đồng đội – những con người đã cùng nhau vào sinh ra tử, xông pha nơi trận mạc bão bùng.
“Dốc lên khúc khửu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xống
Nhà ai Pha Luông Mưa Xa khơi”
Bốn câu thơ được đánh giá là những câu thơ tuyệt bút, thể hiện sự tài hoa của Quang Dũng, phối thanh, gieo vần, sử dụng từ láy. Đồng thời đó chính là bắc tranh ký thác cảnh thiên nhiên miền Tây hung vĩ, dữ dội vô cùng. Trong câu thơ thứ nhất mật độ thanh trắc dày đặc đã tạo nên cái trúc trắc, không bằng phẳng trong từng câu chữ. Phải chăng đó là cái gập ghềnh uốn khúc của con đường. Các cặp từ “dốc” gợi hình ảnh những con dốc trùng điệp, gian nan, khó nhọc vô cùng. Và nếu như “khúc khửu” gợi những con dốc trắc trở gập ghềnh thì “thăm thẳm” không chỉ gợi độ cao mà còn gợi chút gì đó lạnh lẽo heo hút bởi độ cao của vực sâu. Đường hành quân gian nan biết bao, ta như nghe thấy từng hơi thở gấp gáp, nhọc nhằn của những người lính. Họ đi trên đường hành quân mà như đang bồng bềnh giữu biển mây, mũi súng chạm trời. Câu thơ không những gợi độ cao mà còn thể hiện chút gì đó tinh nghịch, hồn nhiên, hóm hỉnh đầy chất lính. Con đường giờ đây bỗng trở nên xa tít, nhưng chưa hết:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Nhờ thơ đặt dấu phẩy giữa câu thơ hay chăng là 1 dụng ý nghệ thuật, dấu phẩy ấy khiến cho câu thơ như gập làm đôi để ta hình dung về một con đường gấp khúc với muôn vàn gian nan trắc trở. Câu thơ được viết với thủ pháp nghệ thuậ đối lập độc đáo. Con đường như gấp khúc ngàn thước, ngàn thước… Lên cao thì cao tít tắp mà xuống thì khiến người ta chóng mặt vì một bên là dốc cao thẳng đứng một bên là vực thẳm không giới hạn. Rõ ràng thiên nhiên tây bắc rất giữ dội, nó như thử thách lòng quả cảm, ý chí sắt đá của con người. Người lính Tây Tiến hẳn rất can trường, dũng cảm thì mới vượt qua những khó khăn ấy. Câu thơ dường như tả cảnh nhưng để tô đậm tầm vóc ý chí người lính Tây tiến.
Nếu như ba câu thơ trên được gieo nhiều thanh trắc thì câu dưới lại được tạo nên bởi hàng loạt thanh bằng:
“Nhà ai pha luông mưa xa khơi”
Những người lính Tây tiến đôi lúc dừng chân trên cuộc hành trình. Họ dừng chân để hướng con mắt nhìn về những ngôi nhà sàn của nhân dân nép mình trong những triền núi, thung lũng sâu xa. Đâu đó trên đường hành quân, những người lính nhìn thấy những ngôi nhà sàn hình ảnh ấy dường như mang lại sự ấm lòng cho những người con nơi chiến trường gian khổ.
Quang Dũng đã miêu tả rất chân thực cuộc hành quân của những người lính. Dường như những tên đất, tên làng kia đã trở nên quá đỗi thân thuộc với họ. Để rồi hình ảnh những người lính hiện lên thật ấn tượng.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên sung mũ bỏ quên đời”
Đã từng có người cho rằng, trong hai câu thơ này người lính gục sung mà ngủ nhưng cũng có ý kiến cho rằng người lính “không bước nữa” ấy là họ hi sinh. Đặt trong chỉnh thể ta nên hiểu những người lính đã hi sinh. Sự hi sinh ấy của họ thanh thản, nhẹ nhàng. Với họ chết chỉ là đôi bàn chân không bước nữa, chết chỉ là chìm sâu vào giấc ngủ. Người lính ở đây hi sinh trong tư thế hành quân: mũ vẫn trên đầu, sung vẫn cầm trên tay. Dường như ta đã từng gặp người lính hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:
“Và anh chết khi đang đứng bắn
Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”
(Lê Anh Xuân)
Tuy chìm đắm trong tư thế hi sinh đẹp đẽ của những người lính nhưng hình ảnh cảnh sắc thiên nhiên miền tây bắc vẫn ám ảnh trong tâm trí nhà thơ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường hịch cọp trêu người”
Thiên nhiên miền tây được miêu tả qua âm thanh của tiếng tác gầm thét tiếng cọp trêu người, hai câu thơ gợi sự dữ dội của chốn rừng thiêng nước độc, thâm sâu cùng cốc. Đặc biệt với những từ láy chỉ thời gian “chiều chiều, đêm đêm” người đọc dường như thấu hiểu phần nào nỗi khó khăn gian nan vất vả mà người lính Tây tiến phải trải qua. Thiên nhiên miền tây bắc càng khắc nghiệt bao nhiêu thì những người lính càng can trường bấy nhiêu. Quang Dũng đã viết về cuộc hành quân của những người lính tây tiến bằng chính sụ thấu hiểu của một người từng trải.
“Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Trên đường hành quân người lính nhớ những bữa cơm ấm áp tình đồng đội, nhớ tới hương vị của tình quân dân. Mùa thơm nếp xôi quấn quýt, vấn vị vào tâm trí con người. Dường như trong câu thơ của Quang Dũng ta vẫn cảm nhận được mùi thơm của nếp xôi, kỷ niệm đã qua rồi mà như vẫn còn tươi mới đây thôi.
Hai câu thơ khép lại với hình ảnh núi cao vực thẳm, mùi hương thơm của nếp xôi vương vấn để mở ra một thời gian khác trong đoạn tiếp theo:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo từ bao giờ
Khèn lên mang điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên-chăn xây hồn thơ”
Đêm hội tràn đầy ánh sáng, ánh sáng của những bó đuốc như bông hoa lửa trong đêm tràn đầy màu sắc, nhộn nhịp, rồn ràng âm thanh của tiếng khèn man điệu. Nếu như cảnh sắc thiên nhiên miền tây gợi cái heo hút thâm u của núi rừng thì giờ đây tất cả đã lùi xa. Những người lính được chìm đắm trong tiếng khèn man điệu, trong những điệu nhạc rộn ràng, tươi vui.
Trong khung cảnh thiên nhiên đất trời ấy, người lính Tây tiến hiện lên với vẻ đẹp hào hung và hào hoa:
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
Đến đây hình ảnh người lính mới được hiện lên một cách trọn vẹn, nhà thơ sử dụng từ ‘đoàn binh” cùng nhịp thơ chắc khỏe mang đậm hào khí.
Đoàn binh được miêu tả hết sức dị thường: “Tây tiến đoàn binh không mọc tóc”, bệnh sốt rwts đã làm cho tóc của những người linh không mọc được. “Quân xanh màu lá” đây có thể hiểu là mày xanh của lá ngụy trang hay bệnh sốt rét đã làm cho nước da của người lính trở nên xanh xao.
Phải chăng ta nên hiểu đó chính là những di chứng của bệnh sốt rét. Trên đường hành quân những người lính phải đi qua bao chốn rừng thiêng nước độc, thử hỏi làm sao họ tránh khỏi căn bệnh sốt rét quái đản kia.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Cái mộng ở đây chính là cái mộng chiến đấu lập công cho đất nước. Từ “Mắt trùng” gợi ý chí chiến đấu quyết tâm của người lính Tây tiến, khao khát được xả thân vì từng tấc đất của quê hương tổ quốc… ánh lên khát vọng hoài bão lớn lao của tuổi trẻ.
“Rải rác biên cương mộ viễn xứ”
Giữa lúc thơ ca giai đoạn kháng chiến chống pháp tránh nói về sự hi sinh mất mát thì Quang Dũng lại nói nhiều về điều đó, bởi chiến tranh nào tránh khỏi sự mất mát hi sinh. Trong câu thơ trên nhà thơ sử dụng nhiều từ hán việt làm sang trọng cái chết của người lính. Nơi biên cươi của tổ quốc có biết bao nấm mồ vô danh. Những người lính tây tiến là những người lính vô danh nhưng họ đã làm ra đất nước. Chính vì vậy lời thơ không chùng xuống mà hào hung hơn ở những câu thơ tiếp theo:
“chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ nói về cái đẹp trong lý tưởng sống của người lính tây tiến, các anh đã dâng hiến đời mình không hề tiếc vì khúc khải hoàn ca của đất nước của dân tộc: “chẳng tiếc” vừa gợi sự ngang tang, khẩu khí, bất cần, câu thơ như một câu nói cửa miệng của người lính.
Biết bao người đã ra đi, đã sống theo phương châm quyết tử cho tổ quốc quyết sinh đó là Vũ Xuân, là Đặng Thùy Trâm:
“chúng tôi đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi 20 làm sao chẳng tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20
Thì làm gì còn tổ quốc”
(Trường ca những người đi tới biển)
Những người lính đã hi sinh vì phương châm ấy, bởi vậy Quang Dũng đã tiễn đưa họ:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Tây tiến gầm lên khúc độc hành”
“áo bào” vốn là chiếc áo quan trọng vua ban cho chiến sĩ ngày xưa khi ra trận. Thực tế những người lính tây tiến không hề có áo bào bọc thây khi khâm liệm. Trong hình dung của Quang Dũng, các anh về với đất mẹ trong chiếc áo sang trọng của tráng sĩ ngày xưa. Hình ảnh áo bào ấy vừa làm sang trọng cái chết của người lính vừa an ủi những người còn sống. Lời thơ không gợi sự bi lụy, yếu mềm, đau thương dù là viết về sự hi sinh mất mát. Tiễn đưa người lính về với đất mẹ thân yêu có tiếng gầm của dòng sông Mã:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nếu như trong văn tế nghĩa sĩ Cần Duộc, văn tế Trương Quỳnh Như là tiếng khóc của con người dành cho con người thì ở đâu Quang Dũng nói về tiếng khóc của thiên nhiên. Đây chính là khúc tráng ca anh hùng tử sĩ, một nghi thức tiễn đưa rất thiêng liêng. Không phải là tiếng khóc của con người mà là tiếng khóc của thiên nhiên, những gì mà các anh đã làm mãi trường tồn.
Những người lính Tây tiến biết rằng ra đi sẽ chẳng ngày về, sẽ phải đối diện với con đường thăm thẳm, chia phôi nhưng vẫn đi vì tổ quốc cần họ.
Quang Dũng đã viết về người lính tây tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa tiếc nuối. Nhà thơ viết bằng bút pháp hiện thực và lãng mạn nhưng nghiêng nhiều về lãng mạn. Bài thơ độc đáo trong việc xây dựng hình ảnh, gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp. Tất cả đã làm sống lại trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Đọc Tây tiến ta sẽ thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính chống pháp, hiểu hơn về đất nước ta một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa bình của sự mất mát hi sinh để ta trân trọng hơn những ngày tháng được sống trong độc lập, tự do hôm nay.
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những dư vang dư hình của nó thì vẫn luôn còn đó, sống mãi bên đời. Người ta sẽ chẳng thể quên “có cái chết đã hóa thành bất tử” khi gặp ở trang thơ Tố Hữu, càng không thể quên hình ảnh người chiến sĩ “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” đã in sâu trong thơ Chính Hữu. Tự bao giờ, người lính đã trở thành những tượng đài bất tử như thế trong thơ? Đi qua gian khó, bước tới vinh quang, những người lính Tây Tiến cũng trở thành những hình tượng “còn mãi”, “sống mãi”, “đẹp mãi”. Ta gặp lại họ trong những vần thơ thấm đẫm cảm xúc mà Quang Dũng gửi lại đoàn quân, cùng theo đó là bao nỗi nhớ…
Vốn là một trong những chiến sĩ của đoàn quân, Quang Dũng viết bài thơ bằng tất cả nỗi nhớ một người đồng chí, một người từng cộng khổ và sánh vai, chứ không phải của một người miền xuôi từng lên thăm miền ngược. Nỗi nhớ gửi từ Phù Lưu Chanh gọi về bao cảm xúc…
Nhớ về Tây Tiến, trước hết là nhớ về những tháng ngày đoàn quân ròng rã trên chặng đường hành quân. Nỗi nhớ trào dâng ngay từ những câu mở đầu:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Tiếng gọi thân thương đi cùng bước chân kí ức. Sông Mã – nơi chứng kiến và chia sẻ những buồn vui. Sông Mã – nơi đựng đầy những kỉ niệm và hoài ức. Hành hương về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như một biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ. Nỗi nhớ trải rộng theo thời gian và ngút ngàn trong không gian, theo những cung đường Tây Bắc.
Hiện lên trong nỗi nhớ là bức tranh về núi rừng Tây Bắc vừa hoang vu, hiểm trở, lại vừa thơ mộng, trữ tình. Cái hoành tráng dữ dội hiện lên ngay ở những cái tên mới mẻ lạ lẫm: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch; ở những hình ảnh thiên nhiên độc đáo, lạ thường: sương lấp, cồn mây, heo hút, khúc khuỷu…Bằng lối diễn tả độc vận, lối phối thanh bằng trắc linh hoạt, Quang Dũng đã diễn tả thành công cái thế heo hút của đèo cao, cái thế mênh mang của mây rừng. Đọc những câu thơ, ta như mường tượng ra những nơi thâm sơn cùng cốc, nơi hang cùng thủy tận, nơi đoạn đường trúc trắc, nơi đèo cao gồ ghề mà đoàn quân từng đi qua. Trong câu thơ Quang Dũng viết: “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, ta nhìn thấy cả một dốc núi mở ra, hai miền không gian đối cực nới dài, cao chót vót và sâu khôn cùng. Những hiểm trở ấy của cảnh rừng từng có lần ta gặp trong thơ Thế Lữ:
“Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội.”
Nơi rừng thiêng nước độc cũng từng có bao tuổi xanh phải bỏ lại, bao mất mát hi sinh luôn còn đó, để khi nhớ lại người ta vẫn phải nhói lòng:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Hai chữ “dãi dầu” dồn tụ trong đó bao nhiêu gian lao. Nói đến hi sinh, nhà thơ không tô đậm cái buồn thương mà nhấn vào cái kiêu bạc của những người lính vốn xuất thân từ Hà Thành hoa lệ. Bởi thế mà dẫu là bỏ lại tuổi trẻ nơi chiến trường khi đầu hãy còn xanh thì những người lính vẫn phải nhìn thấy trong đó những động lực để bước tiếp.
Và như một lẽ tất nhiên, với những con người nhạy cảm như người lính Tây Tiến, không khi nào họ chỉ nhìn thấy cái khốc tàn của núi rừng. Ngay trong sự hoang vu, hiểm trở, những vẻ đẹp trữ tình vẫn ngời lên lấp lóa dưới đôi mắt tinh tế của những chàng trai Hà Thành. Đó là kí ức “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, là nỗi nhớ thấp thoáng về “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Một đêm hơi với hoa về trong tay, nó lãng mạn biết nhường nào. Là “đêm hơi” chứ không phải đêm khuya, cũng không phải đêm sương, dường như nó vừa gợi thời gian, vừa gợi một cảm giác mờ ảo – mờ đi trong tâm hồn người chiến sĩ. Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” được buông nhẹ ra bởi một loạt những thanh bằng như làm dịu lại nhịp thơ, gợi cảm giác bâng khuâng, nhè nhẹ, vừa gần gũi, vừa ấm áp tình thân, tựa bước chân dừng nghỉ sau những chặng đường dài. Nhớ về cái nên thơ ấy, nhà thơ không bỏ quên cảm giác ấm áp tỏa ra từ hương vị riêng của núi rừng, được gợi lên từ thứ “cơm lên khói” vẫn đượm mùi “thơm nếp xôi”.
Kí ức chiến tranh không chỉ lưu giữ những chiến công, những tàn tích, mà còn lưu giữ bao kỉ niệm đẹp về tình quân dân thắm thiết, về những chặng đường dừng chân yêu thương ngọt ngào. Tây Tiến trên những chặng đường dừng chân sau bao ngày hành quân nhọc nhoài tự bao giờ cũng trở thành một phần không thể bỏ quên trong nỗi nhớ. Hồi ức về những đêm liên hoan dần dần sống dậy:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Đoạn thơ lung linh, rộn rã với đuốc, hoa, với nếp xiêm áo dịu dàng của các cô gái vùng cao đang uốn lượn theo tiếng khèn dìu dặt, bổng trầm như nâng lên hồn rừng sâu núi thẳm. Hai chữ “bừng lên” thật giàu ý nghĩa, giàu sức gợi. Bừng lên trong những ngọn đuốc sáng, bừng lên trong niềm vui người lính Hà Thành đến từ xứ lạ phương xa, bừng lên trong tiếng reo vui khi người phụ nữ bất ngờ hiện ra vừa lộng lẫy, vừa tình tứ. “Đuốc hoa” mà người lính mang về trên tay, là hoa lửa đuốc thắp sáng như ngọn đèn rừng, hay là chúc hoa vẫn rọi sáng niềm tin người chiến sĩ? Những đêm liên hoan cứ ấm nồng như thế không chỉ rực rỡ sắc màu của lửa đuốc, của xiêm áo mà còn rộn rã âm thanh của “khèn lên”, của “nhạc về”. Những câu thơ thắm tình quân dân, tựa như cá gặp nước, tựa như con một nhà. Từng hơn một lần ta gặp thứ tình cảm ấm nồng êm đẹp đó trong thơ:
“Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười rộn ràng xóm nhỏ”
Hay:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”
Nhưng nếu những câu thơ của Hoàng Trung Thông và Tố Hữu viết bằng cảm hứng hiện thực với những hình ảnh dịu dàng thì câu thơ của Quang Dũng lại mang một vẻ đẹp bay bổng lãng mạn. Âm hưởng lãng mạn đó còn tiế tục ngân dài ở những câu thơ sau:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”
Xa Tây Tiến, nhà thơ không bao giờ quên những nét đặc trưng của cảnh, của người nơi đèo cao núi thẳm. Những chiều sương bảng lảng hoàng hôn, bạt ngàn sắc trắng hoa lau, những ngọn lau phơ phất như bàn tay vẫy gọi dáng người trên độc mộc. Âm điệu thơ ở đây thay đổi, không còn vui tươi như trong đêm liên hoan lửa trại mà dần trở nên man mác bâng khuâng. Hình ảnh thơ cũng không còn rực rỡ tươi sáng mà trở nên ảo mờ, mơ hồ. Những nét dáng mảnh mai duyên dáng từ lâu đã trở thành linh hồn riêng của Tây Bắc. Một Mai Châu mênh mang sương sớm, phơ phất hồn lau, đong đưa dòng nước. Sự quyện hòa giữa cảnh và người qua vài nét chấm phá đã đủ gọi về không khí Tây Bắc đầy lãng mạn, đọng lại trong nỗi nhớ bao cảm xúc chơi vơi. Thấm đẫm trong từng nét vẽ là một hoài niệm sâu nặng khó quên, bâng khuâng không nói hết. Tất cả đã thay bằng lời “có thấy”, “có nhớ” ngọt ngào chân thành.
Tây Tiến nhìn từ chiều sâu kỉ niệm thật có những hồi ức khó quên. Những có lẽ đậm sâu nhất lòng Quang Dũng là dáng dấp người lính Tây Tiến từ lâu được khắc tạc thành những anh hùng bất tử trong trí nhớ. Bắt đầu là nhớ về hình ảnh những đoàn binh không mọc tóc:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Bài thơ làm sống dậy hình ảnh của một đoàn quân Vệ quốc. Bước chân họ in trên khắp các nẻo đường đất nước. Họ tình nguyện dấn thân vào cuộc kháng chiến, gian khổ lắm lúc vượt quá sức chịu đựng của những chàng trai Thủ đô mới từ giã mái trường, góc phố. Một sự thật trần trụi và khắc khổ về người lính thời chiến hiện ra: Họ sống và chiến đấu nơi rừng sâu núi thẳm, thiếu ăn, thiếu thuốc, sốt rét liên miên đến rụng tóc, trọc đầu, da xanh tái. Quang Dũng chỉ phản ánh lại hiện thực chứ không hề cường điệu. Đâu phải riêng Quang Dũng mới nhắc về sự thật ấy. Tố Hữu cũng từng đau lòng mà viết: “Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ”. Nhưng vốn mang trong mình khí chất của người chinh phu tráng sĩ, Quang Dũng nói về cái bi chỉ cốt để gợi cái tráng. Người chiến sĩ chủ động “không mọc tóc” chứ không phải “tóc không mọc”. Ta nghe trong đó chút dí dỏm tươi vui, cũng là niềm lạc quan không ngại khổ ngại khó.
Quyết tâm giết giặc, gian khổ đói rét không làm giảm chất lãng mạn vốn có trong từng chiến sĩ. Giữa những cuộc hành quân chiến đấu, họ vẫn dành riêng cho mình dăm ba phút để nhớ về quê hương, nhớ về những bóng dáng thân yêu: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.” Tâm hồn lãng mạn đưa các anh về cùng những giấc mơ. Là mơ chứ không phải nhớ, là cảm xúc nằm trong tiềm thức chứ không phải trong ý thức, đó là động lực để cho các anh cầm chắc tay súng, như nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng nói về cảm xúc ấy:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.”
Nhớ về đồng đội, Quang Dũng cũng không né tránh những mất mát hi sinh, nhưng hẳn rằng Tây Tiến là một trong số ít bài thơ viết về điều đó một cách thấm thía bằng cảm hứng bi tráng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sống Mã gầm lên khúc độc hành.”
Chốn biên cương nơi bom rơi đạn nổ đã lấy đi bao xương máu, để lại những nấm mồ xanh đã hóa thành bất tử. Nhìn thẳng vào sự thật, ta thấy ở đó bao mất mát hi sinh. Nhưng nhìn xa hơn sự thật, ta thấy đằng sau sự hi sinh là chí khí người anh hùng “chẳng tiếc đời xanh”, dám quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đời xanh là tuổi trẻ với bao nhiêu hoa mộng. Đẹp là thế, hứa hẹn nhiều là thế nhưng các chiến sĩ ta chẳng tiếc mà nhiệt thành hiến dâng cho Tổ quốc. Hỏi có sự hi sinh nào cao quý hơn, đáng ca ngợi hơn? Một lần nữa, Quang Dũng khắc tả được tinh thần của những chinh phu tráng sĩ thời xưa:
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”
Ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây và coi đó là vinh quang tột đỉnh, còn chiến sĩ Tây Tiến thì “áo bào thay chiếu anh về đất.” Nhịp điệu câu thơ chậm rãi và trang trọng. Một chi tiết rất thực được nhắc đến trong câu thơ thấp thoáng phong vị cổ này là hình ảnh áo bào thay chiếu. Không có manh chiếu, các anh “về đất” bằng chiếc áo bào. Ta không thấy ở đó sự thiếu thốn mà chỉ thấy khí chất của người anh hùng sánh ngang tầm với non sông. Âm thanh của sông Mã gầm lên vừa như tiếng khóc của thiên nhiên đất trời, vừa như khúc nhạc kì vĩ đưa cái chết của người lính vào cõi trường cửu.
Những câu thơ cuối khép lại bài được viết như những dòng thường ghi trên mộ chí, cũng là lời hẹn thế của một người lính từng gắn bó sâu nặng với đoàn quân:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường đi thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Đã ra đi là không ước hẹn ngày về, đã ra đi là quyết tâm tới đích. Cái tinh thần “một đi không trở lại” thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả đoàn quân Tây Tiến. Không vấn vương, bịn rịn chuyện riêng tư, tất cả cho nhiệm vụ cứu nước. Tây Tiến mùa xuân ấy đã trở thành điểm hẹn cho mọi trái tim nhung nhớ luôn muốn trở về.
Tây Tiến là vừa là khúc tráng ca, vừa là khúc trầm ca, vừa mang vẻ đẹp hào hoa, vừa chứa vẻ đẹp hào hùng. Quang Dũng đã góp thêm cho nền thi ca kháng chiến một tuyệt phẩm về người lính mà ai đi qua cũng phải lưu lại những ấn tượng cho riêng mình.
Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước môi trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính.
Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên..., Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc chiến đâu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hẹn ngày trở về chiến đấu với mục đích “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” Cái ảnh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong một bài hát thời đó:
Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi,
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Trong đoàn người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh niên trí thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường, chiến lũy Hà Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, thấp hoáng xuất hiện một khuôn mặt: Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên trí thức của Hà Nội ngày ấy, Quang Dũng cũng háo hức gia nhập đoàn quân Tây Tiến với một niềm say mê của tuổi trẻ và một chút lãng mạn của những người thanh niên “nho sĩ quỵ tộc” ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm:
Giã nhà đeo bức chiến bào hay Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. Cũng chính vì thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hi sinh để chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đâu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là những kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời Quang Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi với bao kỉ niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ẩn chẳng phai mờ. Vì thế, Quang Dũng nhớ về những tháng ngày đã qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ây. Nhớ chơi vơi! hai liếng chơi vơi dùng ở đây thật là đắc địa. diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm trạng nhớ ấy ta đã bắt gặp không chỉ một lần trong ca dao: Ra về nhớ bạn chơi vơi, hoặc:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cẩn suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết câu đoan thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khểnh. Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, tất cả lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy lan biến ngay. Đoàn quân Tây Tiến cất bước , trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở, gập ghềnh của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ cao chất ngất, ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nổi khó khăn của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt Quang Dũng có những cách dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây nổi thành cồn heo hút, và để diễn tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng ngửi trời nghe thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đó là cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư cách một người trong cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mát ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Sau khi ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống người chiến sĩ Tây Tiến như đứng trên nùi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng chữ trải ra, mênh mang, diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng. Rừng núi trùng, ấn tượng về miền rừng núi cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng núi này - một miền núi rừng âm u với thú dữ đe doạ con người. Hai chữ Mường Hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có một điều kì lạ là nếu ta thay địa danh này bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ giảm sút ngay. Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một vùng núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua trên con đường hành quân. Cái trắc trở, gian lao cùa con đường Tây Tiến chợt làm chúng ta nhớ đến câu thơ của Lí Bạch:
Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên.
(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).
Đó là tất cả những gian khổ, nguy hiểm do thiên nhiên đem đến mà người chiến sĩ Tây Tiến phải chịu đựng.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!
Quang Dũng nói cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại trên con đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người lính Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người lính, chết rồi nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiến xứ lạ đã thử thách người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những người lính đã vượt qua được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau. Người lính dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết thử thách này đến thử thách thác mà dường như vẫn chẳng nể hà; đến khi kiệt sức phải gục xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của người chiến sĩ.
Cho dù Quang Dũng có nói sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người, nhưng chính những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ đã đưa họ bay lên, vượt lên trên cái gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ Tây Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống gian khổ của người chiến sĩ Tây Tiến một cách hết sức cảm động. Cái khắc nghiệt, khổ và dữ dội của một miền biên ải, những gian truân mà người chiến sĩ Tiến phải chịu đựng và những ấn tượng không thể nào quên. Quang Dũng về người lính Tây Tiến không như những nhà thơ khác; ông nói thật về sự khổ, hi sinh của người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu tả nét chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi tráng”. Nói cái gian khổ để đề cao chiến thắng nói hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại cũng là một cách “vẽ mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi chiến thắng có giá trị gì khi chiến thắng dễ dàng, không có hi sinh? Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt.
Lao xao sóng vỗ ngọn tùng
Gian nan là nợ anh hùng phải vay.
Đó là một lời đúc kết kinh nghiệm về giá trị cùa chiến thắng, giá trị cả phẩm chất con người. Giữa bao cái gian khổ, khắc nghiệt đã thành ấn tượng niềm vui, dù ít ỏi, càng đáng nhớ hơn:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói ....
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng xuống trước cuộc sống chiến đấu cùa người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi tưởng lại nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm hổn dần ấm lại sau những phút giây chứng kiến những gian khổ của người lính, đuốc hoa là hình ảnh có sức khơi gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như đang chứng kiến lễ hội đông vui. Hai liếng kìa em vừa ngỡ ngàng, vừa sung sưc nó diễn cả tâm hồn của người chiến sĩ Tây Tiến. Trong cả đoạn thơ dìu dặt thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc sống ) bình như chẳng biết đến chiến ưanh. Hình ảnh nhạc về Viên Chăn xây hồn là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến . Họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. Và mặc dù biết rằng sẽ còn liếp tục chịu đựng những gian truân, hi sinh, người lính Tây Tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời. Có thể chỉ ngày hôm sau một người nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng hôm nay làm hồn họ vẫn mộng mơ, mơ đến những hình ảnh đẹp của thi và hoạ, xây hồn thơ. Và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận mọi thử thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời lính phải chấp nhận. Không lên gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với người lính là chuyện binh thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống với lâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng vậy mà người lính Tây Tiến có thể vẫn nhớ một dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa trên dòng nước lũ. Những hình ảnh rất binh thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vàu tâm hồn ngựời lính Tây Tiến, là nguồn động viên thúc giục họ chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận những thử thách mới:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. li ''àn quân không mọc tóc! Có cách nói nào lại khơi dậy nhiều cảm xúc đến thế! Như vậy thì hình ảnh của anh bộ đội Tây Tiến có trở nên quái đản không? Không đâu! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc” nổi tiếng một thời rét nên tóc rụng vả lại, cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy phần nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng dũng và hiên Quân không mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh ấy có thể do cành lá trang, nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng. Những cơn sốt rét ghê gớm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người chiến sĩ. Ta cảm động trước hình ảnh người sĩ Tây Tiến, và chợi nhớ đến hình ảnh người chiến sĩ trong một số bài thơ đương thời:
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật,
Đâu còn tươi nữa những ngày qua.
Người lính Tây Tiến cũng chịu đựng những cơn sốt rét ghê gớm ấy, thế nhưng, nó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ oai Cái khí phách hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên, người lính chịu sự đe doạ của cọp thì họ cũng chiến đấu với tinh thần dũng cảm của một chúa sơn lâm như thế. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như ánh hào quang của phẩm chất người lính Tây Tiến. Miêu tả khí thế chiến đấu hào hùng của người chiến thắng một sự so sánh như thế, Quang Dũng thực sự đã hiểu người lính và đã hòa đồng với họ. Chiến đâu dũng mãnh như thế, nhưng người lính Tây Tiến vẫn có đời sống tâm Hà Nội hết sức tinh tế:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Người chiến sĩ ra đi từ những mái trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên hậu phương. Phía trước là trận đánh, tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có thực, có mơ. Dáng kiều thơm gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người con gái Thủ đô chữ thơm được dùng với nghĩa như “sắc nước hương trời” vậy! Người chiến sĩ của Quang Dũng ra đi, mang theo cả phong thái hào hoa của người thanh niên trí thức, cái phong thái đã giúp người chiến sĩ sống bằng đời sống tâm ít phong phú sau mỗi trận đánh ác liệt.
Cái cuộc sống tâm hồn ây là nguồn động lực giúp người lính tiếp tục chiến đâu để giành lây độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng vì thế, người chiến sĩ chấp nhận sự hi sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc ười xanh.
Cứ thử làm công việc tách hai câu thơ thành từng câu một. Ôi! Cái ấn tượng bi thảm đên vô cùng mà câu thơ đầu mang đến thật mạnh mẽ. Không hiểusao, cứ mỗi lần đọc đên câu thơ này là tôi lại chìm vào trong suy tưởng và nước mắt cứ rưng rưng! Trên con đường gập ghềnh xa thẳm của miền núi rừng biên giới đoàn quân Tây Tiến cứ đi và thỉnh thoảng có những con người phải tách ra khỏi đội hình. Những nấm mộ của người chiến sĩ mọc lên. Câu thơ thật là bi thảm. Nhưng câu thơ sau như một lực nâng vô hình, đã đưa câu thơ đầu lên cao, cái thảm giờ đây đã trở thành bi tráng. Nó bi tráng và hào hùng bởi Quang Dũng nói được một điều cốt lõi trong nhân cách của người lính: biết hi sinh, biết gian khổ nhưng vẫn cứ ra đi giải phóng quê nhà. Họ ra đi chẳng tiếc đời xanh, bởi quãng đời tươi đẹp ấy đã hiến dâng cho một lí tưỏng cao đẹp: chiến đấu vì tổ quốc. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản không một chút vướng bận, cái chết được xem nhẹ lựa lông hồng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo bào chứ không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa da ngựa bọc thây là một điều vinh quang. Cũng như thế, người lính coi việc hi sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thanh thản về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất như một hành động tựu nghĩa của những anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông Mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng sông này. Dòng sông tiễn anh ra đi chiến đấu lại đón anh về:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí nhất khứ bất phục phản ra đi là không trở lại). Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại.
Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hung đến mức ấy. Và cũng khó có thể có được bài thơ Tây Tiến thứ hai.
Trình bày những điểm đáng lưu ý trong hoàn cảnh sáng tác bài “ TÂY TIẾN” - Quang Dũng - giúp người đọc hiểu thêm tác phẩm này ?
Câu trả lời của bạn
Phần đông chiến sĩ TâyTiến (trong đó có Quang Dũng) vốn là sinh viên học sinh Hà Nội .
Đây là đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947, chiến đấu trên địa bàn rừng núi rộng lớn và hiểm trở
( miền Tây Bắc bộ VN – vùng thượng Lào). Sinh hoạt của chiến sĩ TT vô cùng thiếu thốn, gian khổ, đặc biệt là sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ vẫn lạc quan và dũng cảm chiến đấu .
Quang Dũng làm đại đội trưởng ở đó rồi chuyển sang đơn vị khác.
Nhớ đơn vị cũ, nhà thơ viết bài thơ “ Tây Tiến” năm 1948 .
Vẻ đẹp tâm hồn hào hoa của người lính Tây Tiến được thể hiện ở đoạn thơ nào trong bài thơ Tây Tiến
Câu trả lời của bạn
Vẻ đẹp của người lính trong đoạn ba bài Tây Tiến
Phân tích vẻ đẹp tâm hồn hào hoa của người lính Tây Tiến.
Câu trả lời của bạn
Ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Tây Tiến là một hồi tưởng rất đẹp, những kỉ niệm đầy sống động về người chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến. Hồi tưởng của một anh lính tài hoa có tinh thần xả thân vì nghĩa lớn - Quang Dũng. Cho nên, khác với vẻ đẹp của các bài thơ cùng thời, vẻ đẹp của Tây Tiến là vẻ đẹp hài hoà, hào hoa, bi tráng. Bài thơ mở đầu với một tiếng gọi dồn chứa tâm trạng, thoạt đầu đọc lên có vẻ lạ lùng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Hai câu thơ xác định rõ hai khoảng không gian khác nhau. Không gian thực tại và không gian hồi tưởng. Tuy nhiên, chỉ có độc giả mới nhận ra rành rõ điều đó, còn đối với nhà thơ, khi ông nói xa rồi là khi những hình ảnh của một quá khứ chưa xa, nó đang ập tới; nhấc bổng ông khỏi mảnh đất thực tại, để hồn thơ lơ lửng, chơi vơi trong cõi nhớ cũng xa rồi chứ đâu chỉ “Sông Mã”.
Vậy là, chẳng cần đến sự dẫn dắt dềnh dàng nhằm chuyển vùng không gian cho người đọc, một thời Tây Tiến đã hiện lên tức khắc trước mắt ta. Trong kí ức nhà thơ, các ấn tượng hãy còn nóng hổi, tươi nguyên và cái nặng nhọc, vất vả ngày nào dường như còn chưa tan hẳn, ta thấy các địa danh được hiện lên, tất cả hãy còn đây rành rành trong tâm trí.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỗi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Sự hiện tại hóa quá khứ dưới tác động của một kí ức sâu mạnh đã vẽ nên một bức tranh đầy ấn tượng về thiên nhiên khắc nghiệt nhưng cũng tràn đầy thơ mộng. Thiên nhiên ấy thường vần thử thách các chiến sĩ, đôi khi muôn vùi lấp những sinh mạng bé nhỏ trong những khoảnh khắc của thung lũng sương mù. Nhưng cũng chính khung cảnh này, khiến tâm hồn của các chàng trai gốc Hà Nội được một phen bay bổng. Nếu “sương lấp” lạnh lùng, nặng nề đe dọa bao nhiêu thì “hoa về” lại nhẹ nhõm, tươi tắn, ấm áp bấy nhiêu. “Mường lát hoa về trong đêm hơi” - câu thơ nhiều thanh bằng diễn tả một trạng thái lâng lâng. Dĩ nhiên là cái lâng lâng vừa đến sau một chặng đường mỏi mệt. Khung cảnh rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã bước chân qua, vừa thơ mộng lại vừa hùng vĩ. Một bức tranh làm xao động lòng ta như một bức tranh thủy mặc hiện đại: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Lại có những nét vẽ thật táo báo, câu thơ như bẻ gãy làm đôi: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Có lúc, hình ảnh núi rừng rộn lên bởi tiếng hô gầm thét, lại có lúc hình ảnh nên thơ, duyên dáng về một cô gái cùng con thuyền độc mộc trên dòng sông chảy xiết.. Cám hứng lãng mạn của Quang Dũng không làm hạn hẹp đề tài, trái lại, qua cảm hứng này, tâm hồn ông rộng mở với toàn cảnh của núi rừng Tây Bắc, khiến tâm hồn ta đẹp một cách phóng khoáng.
Kết thúc đoạn thơ, đợt sóng cồn của kí ức bị đánh thức đột ngột hình như tan dần. Đợt sóng mới chưa được hình thành nên lúc này kí ức được kéo giãn ra. nhẹ nhàng lan tỏa để các hình ảnh tươi tắn hơn. Độc giả lại được dịp “nghỉ ngơi” để có thể nghiêng ngả theo điệu múa trong đêm liên hoan văn nghệ với Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” và được thả hồn “đong đưa” theo cánh hoa tươi trên dòng nước lũ.
Thiên nhiên trong Tây Tiến bao giờ cũng là một nhân vật quan trọng, tràn đầy sinh lực và thấm đượm tình người. Hồn thơ tinh tế của tác giả “bắt” rất nhạy một làn sương chiều mỏng, một dáng hoa lau núi phất phơ đơn sơ bất chợt. Rồi nhà thơ thổi hồn mình vào đó và để lại mãi trong ta một niềm bâng khuâng, thương mến. Và một ánh thơ đẹp xuất hiện như mây chiều biên ải:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.
Tây Tiến hiện lên khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, kì vĩ với đủ cả núi cao, vực thẳm, dốc đứng, thác gầm cùng cồn mây heo hút, dòng lũ hoa trôi với khói lên, sương lấp, mưa xa khơi... Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ, dữ dội ấy, nổi bật lên hình ảnh đoàn quân Tây Tiến “nhỏ bé” như bị ngập hút đi. Nhưng chính sự đối chọi, tương phản đó càng tăng thêm khí phách anh hùng của đoàn quân Cách mạng, mà kẻ thù, cũng như gian khổ không thế khuất phục nổi. Hình ảnh những người lính qua nét vẽ của Quang Dũng thật khác thường. Khác thường ở sự gian khổ cùng cực: ăn đói, mặc rét, bệnh tật, sốt rét đến xanh da, trụi tóc. Khác thường ở chỗ tác giả cố ý không miêu tả một gương mặt chiến sĩ riêng biệt với tên tuổi cụ thế nào, ông đã dồn các phẩm chất tốt đẹp cùa những tráng sĩ Tây Tiến thành gương mặt chung của cả một đoàn quân.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh mau lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Ta có thể hiểu, đây là hình ánh khá chân thật về diện mạo bên ngoài người lính mũ cài lá ngụy trang, thân thể xanh xao vì sốt rét. Nhưng cảm hứng ở đây lại tràn đầy một nỗi niềm thân quen. Từ thân quen mà thấy cái anh hùng của họ. Câu thơ tạo nên hình ảnh đối lập, bề ngoài thì xanh như lá, thiếu sức sống, nhưng bên trong người chiến sĩ thế hiện một phong độ anh hùng, oai như hùm nơi “rừng thiêng nước độc". Câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” đã gợi được dũng khí cùa người chiến binh thuở ấy. Nó mang cái dáng dấp kiêu hùng của người coi thường gian khổ. hi sinh để giữ cái thế hiên ngang của đoàn quân Tây Tiến. Với bút pháp lãng mạn và cảm hứng say nồng, Quang Dũng đã dựng nên cái tương phản trong hình ảnh để rồi hòa hợp với tâm hồn làm cho ta thấu hiểu và cảm thông, tìm thấy ở đây một hình ảnh đẹp.
Người Hà Nội trở thành người chiến binh thì cái oai phong cũng rất Hà Nội. Quang Dũng đã viết đúng hình ảnh người lính Tây Tiến từ Hà Nội chiến tranh mà ra đi:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiểu thơm
Thực ra hai câu thơ ấy chỉ là nỗi lòng của nhà thơ muốn bộc lộ thật đậm, thật rõ chất lính của người thanh niên Hà Nội tài hoa lãng mạn. Lại có người nói: thời chiến chinh ác liệt nói về giấc mơ “dáng kiều thơm" là xa rời tinh thần chiến đấu. Thực ra cuộc đời con người vô cùng phong phú,tâm trạng cùa chàng trai Hà Nội lại càng có những nét hào hoa và tình cảm riêng. Cho nên nói người lính Tây Tiến “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, chỉ tô đậm cái đẹp của những con người ấy mà thôi. Hơn nữa, vẻ đẹp chân thực không bao giờ làm cho con người giảm sút lòng chiến đấu. Phẩm chất người lính qua hồi tưởng của Quang Dũng đã hiện lên vừa hào hùng, hào hoa và cũng vừa bi tráng. Nhà thơ đã nhìn thẳng vào những tổn thất, hi sinh để viết những câu thơ :
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiên trường đi chẳng tiếc đời xanh
Câu thơ có cái gì xót xa gợi niềm cảm thương trong lòng người đọc. Miền đất biên ải xa xôi đã yên nghỉ bao cuộc đời người lính. Nơi đó có chút gì hoang vắng ghê rợn trước những nấm mồ viễn xứ. Nhưng rồi sau đó cảm hứng thơ lại bừng lên những suy nghĩ thật hào hùng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, thể hiện một sự quên mình của lớp trẻ thanh niên đầy nghĩa khí. Phương châm sống của họ cao đẹp mà giản dị. Thời ấy không ít thơ viết về người chiến sĩ. nhưng chỉ có Tây Tiến của Quang Dũng mạnh dạn nói đến cái chết. Cái chết tạo nên vinh quang của tuổi xanh thầm lặng mà cao cả hiến mình cho dân tộc.
Nét đặc sắc của Quang Dũng trong Tây Tiến còn thể hiện ở một ngòi bút sắc sảo tinh tế. Viết về chiến tranh, nhưng cả bài thơ không có một chữ nào về trận đánh, về tiếng súng, về máu đổ hay về kẻ thù. Người đọc vẫn hình dung rất rõ gương mặt và không khí của chiến tranh. Điều lạ lùng là bài thơ có ba lần nói đến cái chết cùa người chiến sĩ trong các trường hợp khác nhau, nhưng không một lần nhà thơ nhắc tới từ “chết” hoặc “hi sinh”. Nhà thơ đã thay thế từ “chết” bàng các cụm từ giản dị “về đất”, “bỏ quên đời”, “hồn về”... Đến đoạn thơ cuối lí tướng cách mạng và tuổi trẻ đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất anh hùng ngang tàng và cả chất men say lãng mạn đáng yêu. Ngay cả khi họ chết cũng phảng phất vẻ nghệ sĩ — tài tử, cái đẹp bi tráng chứ không bi lụy.
Để tiễn người lính Tây Tiến hi sinh, Quang Dũng không cần đến một lời ngợi ca sáo mòn nào, cũng không cần đến một giọt nước mắt... Ông chỉ để cho trời đất chứng giám, thu nhận thể xác và linh hồn người lính vào lòng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” tiếc thương đưa người lính Tây Tiến vào cõi bất tử. Bởi vì, kể từ đây khúc độc hành” tiếc thương đưa người lính Tây Tiến vào cõi bất tử. Bởi vì, kể từ đây hồn các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi đế trở thành “hồn thiêng đất nước”.
Nhà phê bình Phong Lan nhận định: “Tây Tiến một tượng đài bất tử về người lính vô danh”. Bất tử bởi chính vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng náy. Và do vậy, người lính Tây Tiến qua bài thơ cùng tên của Quang Dũng sẽ sống mãi trong cõi vĩnh hằng và trong thế giới nhân sinh.
Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng ?
Câu trả lời của bạn
Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ Mây đầu ô ( xuất bản năm 1986 ) nhưng trước đó đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc . Tác giả sáng tác bài thơ này từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác . Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào , đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quânTây Tiến khá rộng ; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội , có nhiều học sinh , sinh viên , trong đó có Quang Dũng . Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ , thiếu thốn , bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu anh dũng . Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52 . Lúc đầu , nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến , nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến . Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ , hồi ức , kỉ niệm của Quang Dũng về đơn vị cũ . Thế nên toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào , tha thiết .
Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn . Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ , dữ dội , hoang sơ . Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng . Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến . Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây .
Toàn bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa , lãng mạn , phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng . Với tài năng và tâm hồn ấy , Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn , đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ , dữ dội , mĩ lệ .
Nêu cảm nhận của em về sự hi sinh của người lính Tây tiến
Câu trả lời của bạn
Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.
Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên.
Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến:
Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
...
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện quan ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ…
Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà con thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến :
Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mỉ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
...
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng.
Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại.
Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi không trở lại.
Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện bảo tàng hình ảnh những người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất độc đáo của mình.
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa
Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi người lính Tây Tiến đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ "Đoàn quân" thì ở đây tác giả dùng "Đoàn binh". Cũng đoàn quân ấy thôi nhưng khi dùng "Đoàn binh" thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ "không mọc tóc" là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.
Các chi tiết "không mọc tóc, quân xanh màu lá" diễn tả cái gian khổ khác thường của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là "tóc không mọc" da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư thế "dữ oai hùm". Với nghệ thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
"Mắt trừng" biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây người lính Tây Tiến được đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ "không mọc tóc", "quân xanh màu lá". Chính từ thực trạng này mà chân dung người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày "Mắt trừng gửi mộng" giấc mộng chinh phu hướng về phía trận mạc nhưng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trước, phía tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa, ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gần lên khúc độc hành.
"Mồ viễn xứ" là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đường hành quân, nhưng không thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu:
"Áo bào thay chiếu anh về đất"
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh "áo bào" làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ "áo bào" lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai "thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ "về" nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết "Anh về đất" là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.
Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng.
Bốn câu kết:
Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.
"Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy"
"Mùa xuân" có thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.
Hình ảnh "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi", "chẳng về xuôi" bỏ mình trên đường hành quân "Hồn về Sầm Nứa": chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm hửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: "Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc".
Cuộc chiến tranh nào cũng có sự hi sinh, đổ máu, nước mắt và đi vào lòng của người dân. Những anh hùng, người lính vô danh đã hi sinh, nhưng văn học với sứ mệnh cao cả đã khắc họa rõ nét người chiến sĩ cách mạng đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Ở trong thơ Quang Dũng cũng tôn lên một bức tranh bất tử của người chiến sĩ yêu nước ngã xuống vì dân tộc.
Tây Tiến của Quang Dũng là chuỗi hồi ức về nổi nhớ đồng đội của nhà thơ. Người lính với tay cầm sung chiến đấu nơi biên cương miền Tây Tổ quốc, đã được khắc nét bằng bút pháp khác thường làm nổi bật lên một vẻ đẹp hào hùng của người lính đã mang lại nhiều cảm xúc nghẹn ngào cho người đọc. Bài thơ ra đời năm 1948, hai năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Trong thơ, hình ảnh người lính xuất hiện giữa núi rừng hoang sơ, kì vĩ với vực thẳm, dốc đá, thác gầm,…cồn mây heo hút, sương lấp, cọp trêu người.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”, cả câu văn đã giúp ta thấy được một hình ảnh đầy khó khăn gian khổ đang ở phía trước,Quang Dũng đã sử dụng các động từ rất mạnh “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” để làm toát lên vẻ đẹp hào hùng của núi rừng nhưng các chiến sĩ vẫn mãi không lùi bước. “Súng ngủi trời” chỉ một độ cao vời vợi cùng với sự “lên cao, xuống thấp”của địa hình, sự nguy hiểm được tăng lên gấp bội đang vây quanh cuộc đấu tranh. Nhưng xa xa ở trên kia, ngôi nhà đang dần hiện ra trong cơn mưa xa “Nhà ai Pha Luông”” một địa danh vô cùng xa lạ, mờ mịt với người chiến sĩ, làm tăng thêm vẻ xa lạ, hoang sơ, mịt mù, bí ẩn của núi rừng, nhưng đó sẽ là điểm đến, là chỗ dừng chân, là khát vọng của các chiến sĩ. Trên khung cảnh thiên nhiên, dáng vẻ người lính xuất hiện thật oai liệt, luôn xung phong đương đầu mọi thử thách. Nhưng vẫn luôn yêu đời và lạc quan.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Hai câu thơ trên gợi sự bi thảm, người lính đó đã chiến đấu hết mình, bỏ mặc tuổi thanh xuân, bỏ mặc nổi sợ hãi cái chết, bỏ mặc mọi thứ, chỉ quyết một điều, phải chiến đấu để quyết giữ hòa bình, độc lập cho dân tộc. Và họ đã hi sinh, ra đi ở nơi biên cương, không ai biết danh tính, không ai biết mặt, họ ra đi mà không để lại lời trăn trối gì, chỉ mong rằng anh em chiến sĩ đang ở lại, hãy viết nên bài hùng ca chiến trường, bài ca của người lính. Ôi sao thấy sót xa!
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Rừng núi hiểm trở, đâu đâu cũng có nguy hiểm đang rình rập, không ai chiều lòng người lính trẻ đang thiếu thốn mọi mặ từ thức ăn, đến mền, chiếu, thuốc thang,…đều không có đủ. Khí hậu lạnh, dịch sốt rét hoành hành, các chiến sĩ của chúng ta không có đủ phương tiện gì để chống lại, làm tóc tai rụng, biến thành những đội quân không mọc tóc. Nhìn làn da xanh ngắt vì thiếu ăn, vì ốm, họ trở thành những quân xanh oai hùm nhưng không khiến ta cảm thấy sợ hãi, mà trong lòng luôn thấy xót thương làm sao.
Và nhiều người đã hi sinh, không một mảnh chiếu để chôn cất, tấm áo mỏng manh thay thế cho tấm chiếu, họ được chôn cất tuy sơ sài, nhưng sâu trong lòng những người ở lại, họ vẫn mãi sống.
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hình ảnh “Sông Mã” như một điệp khúc tiễn đưa người chiến sĩ về với đất mẹ vĩnh hằng, giống như đang ru ngủ, chở che các chiến sĩ, đây là một tình cảm thiêng liêng dành cho các chiến sĩ.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Ngoài vẻ đẹp hào hùng của những người chiến sĩ, xung quanh đó còn vẽ lên một nét đáng yêu, mơ mộng, lãng mạng nhưng không kém tinh nghịch, đậm chất những chiến sĩ trẻ trung.
Ánh lửa doanh trại phấp phới những hội đuốc hoa, những cô em với xiêm áo, tiếng kèn, tiếng nhạc hòa vào, làm tan chảy bao chàng chiến sĩ, bao cô gái. Một bức tranh thơ mộng, vừa thực vừa hư, tô vẽ lên bao ước mơ tươi đẹp.
Những con người sống và làm việc tại rừng núi hiểm trở, luôn chịu sự rình rập của nguy hiểm, có thể đổ máu và hi sinh bất kì lúc nào. Nhưng với họ, những người lính cách mạng luôn mang trong mình trọng trách bảo vệ đất nước. Họ không hề run sợ trước sự hung bạo của kẻ thù, sẵn sàng hi sinh vì dân vì nước, không tiếc thân mình.
phân tích bài tây tiến của quang dũng
Câu trả lời của bạn
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và “Tây Tiến” là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
*****
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Thân bài:
Nhắc đến nhà thơ Quang Dũng, chúng ta nghĩ ngay đến tác phẩm để đời của ông – Tây Tiến. Bởi lẽ nó đã gắn bó 1 thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là 1 đơn vị bộ đội thời kháng chiến chống Pháp được thành lập năm 1947 làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào, trấn giữ 1 vùng rộng lớn ở Tây Bắc nước ta và biên giới Việt Lào. Quang Dũng từng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh 1 làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt bài thơ là “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau đổi lại thành “Tây Tiến” vì cả bài thơ đã là một nỗi nhớ và chỉ với 2 từ “Tây Tiến” cũng đủ gợi lên nỗi nhớ - cảm hứng chủ đạo trong toàn bộ bài thơ.
Là 1 người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, sống và chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng nhà thơ. 1 thời gắn bó sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã làm cho ông không khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của nhà thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Câu thơ như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. “Sông Mã” không đơn thuần là 1 con sông - nơi đã từng là địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến - mà nó đã trở thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui - buồn, được - mất. “Tây Tiến” không chỉ để gọi tên 1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người bạn ” tri âm tri kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm sự.
Câu thơ thứ 2 với điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” - biểu cảm một nỗi nhớ nhẹ và rất sâu - kết hợp với từ “nhớ” đã khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ. Và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác lũ tràn vào tâm trí đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải
Nhớ chăn bạn nằm”
2 câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông… - địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến - những cái tên mang âm hưởng của rừng núi hoang vu và mang dại. Núi rừng Tây Bắc đẹp hùng vĩ mà dữ dội, một vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nơi rừng thiêng nước độc. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, không nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần không “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc hoạ rõ hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Có những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà không dùng từ “chót vót”. Bởi nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Hình ảnh nhân hoá, ẩn dụ “ súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính, cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở. Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh thơ thật đối xứng, câu thơ như một đường thẳng bị bẻ gấp lại:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra 1 không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật hùng vĩ. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Xa xa, lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc ẩn lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 với 7 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình hôm nay gợi nhớ những dòng thơ trong “Chinh phụ ngâm khúc”
“Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao
Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu”
8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến. Qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh liệt của người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung.
Hình ảnh người lính Tây Tiến là một bức tượng đài đẹp đẽ với tư thế hiên ngang, khí phách anh hùng và có cả những say mê, ước vọng lãng mạn, đẹp đẽ. Nhưng thơ Quang Dũng còn tả rất thực về những mất mát, hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Không thi vị hóa hiện thực ngòi bút thơ Quang Dũng dám nhìn thẳng vào những tổn thất tất yếu của con người trong cuộc chiến tranh tàn khốc. Hình ảnh người lính Tây Tiến có những phút giây mệt mỏi:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi, dãi dầu là những phút giây đương nhiên. Người lính Tây Tiến không rũ bỏ, quay lưng lại với kháng chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần, đầy ngạo nghễ của người lính cũng là điều tất yếu đó sao. Các anh đã không bước tiếp được nữa trên con đường hành quân đầy gian khổ. Có những người bạn của Quang Dũng ngục lên súng ngủ. “Ngục” là một động từ miêu tả động thái rất nhanh, biểu thị không còn sức chịu đựng được nữa. Các anh cố gượng dậy bước tiếp nhưng không còn sức. Câu thơ: “ngục lên súng mũ bỏ quên đời” tả một giấc ngủ ngàn thu, cực tả những gian khổ và hy sinh.
Cũng có người hiểu câu thơ này tả một giấc ngủ tranh thủ của người lính để lấy sức tiếp tục đường hành quân. Nhưng câu thơ dẫu viết theo nghĩa nào cũng đều nói về sự gian khổ tột cùng. Nhưng nhiều người hiểu theo cách ở trên bởi nó phù hợp với chất bi tráng của cuộc đời chiến binh Tây Tiến: chết rồi mà vẫn ngang tàng, khí phách. Ba chữ cuối: “bỏ quên đời” thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem như đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng miền Tây và biết rằng: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” (xưa nay chinh chiến mấy ai trở về).
Nếu ở mấy câu đầu tác giả mở rộng thiên nhiên miền Tây Bắc mênh mông qua không gian hùng vĩ, thơ mộng của những cơn mưa rừng với độ cao chạm đến cả mây trời của đỉnh núi Tây Bắc. Thì đến với hai câu thơ sau đây thiên nhiên lại được khám phá theo chiều thời gian với hai từ láy “chiều chiều” và “đêm đêm”
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi buổi chiều tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống từ trên cao và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào cũng ghê rợn. Quang Dũng bằng tài thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động hóa những nhận xét của người đời. Vậy chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã phát huy tối đa trí tưởng tượng để cực tả vẻ hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng, miền đất ấy còn chứa nhiều điều hoang sơ và huyền bí của miền rừng núi Tây Bắc. Những hiểm nguy vẫn rình rập đâu đó, những nét dữ dội quyết liệt mà đoàn binh Tây Tiến đã một thời vượt qua.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên và sự đằm thắm tình người. Hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau những câu thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha. Câu cảm thán gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng lại sau một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp khói cơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều. Đồng đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi lại vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tươi vui.
Ở đoạn hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới, khác với đoạn đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng say mê, lãng mạn trong đêm hội:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Những câu thơ đầy ánh sáng và âm thanh, có thơ và có nhạc, đối lập hoàn toàn với những con đường hành quân gian lao, nguy hiểm, với những thiếu thốn, nhọc nhằn… Điệu nhạc hồn thơ như thăng hoa cho tâm hồn người chiến sĩ cất cánh, hòa nhịp vào những điệu khèn, câu hát say mê. Không gian Tây Bắc chơi vơi trong một miền tâm thức, với dáng người trên độc mộc, với dòng nước lũ hoa đong đưa, khắc sâu, ghi tạc trong tâm hồn người chiến sĩ. Những câu hỏi tu từ dịu nhẹ, bâng khuâng làm không gian núi rừng thêm chơi vơi, bảng lảng trong sương, trong khói. Ngòi bút tả thực của Quang Dũng đến đây trở nên mềm mại và uyển chuyển, chứa đựng cái tình sâu lắng, thiết tha.
Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh, để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác bên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào tay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình các nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc. Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá ngụy trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù. Cái giỏi của dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”
Với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”, “mọc tóc” đã làm âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ “đoàn binh” - âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ: “Hoành sóc giang san cáp kỷ thu – Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu”. Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết:“Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu – Thể diện sài long xâm lược quân“
Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một môtíp mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của llịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.
Người lính Tây Tiến mạnh mẽ, rắn rỏi trong chiến đấu, nhưng cũng hết sức lãng mạn, say mê trong những giây phút thơ mộng. ở đây, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư chất của một anh hùng và phong cách của một trí thức lãng mạn. Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Bao nhiêu yêu thương, nhớ mong, mộng ước của họ được gửi gắm, dồn tụ ở hình ảnh “mắt trừng”. Hình ảnh ấy không chỉ gợi một nỗi niềm đau đáu khôn nguôi mà còn chất chứa bao khắc khoải, mong chờ. Bên giới và Hà Nội hoa lệ có một khoảng cách rất xa xôi, người lính Tây Tiến muốn thông qua những mộng đẹp, những khát vọng diệt thù để làm cầu nối thu gắn không gian, kéo hẹp khoảng cách. “Dáng kiều thơm” và một Hà Nội phồn hoa xa xôi chính là nguyên do của nỗi niềm mong nhớ ấy. Đó không phải là một bóng dáng nào cụ thể nào, cũng không chỉ bó hẹp trong một tình yêu đôi lứa, niềm nhớ thương dâng trào của người lính cao hơn là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tổ Quốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội. Người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc – những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ: “Từ thuở mang gươm đi mở nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Ngay chính trong cái chết, người lính Tây Tiến vẫn thể hiện, khẳng định được khí phách anh hùng, tư thế ngạo nghễ của mình. Người ta có thể rùng mình ghê sợ trước cái lạnh lẽo, hoang vu của những “mồ viễn xứ” nhưng không khỏi tự hào, kiêu hãnh trước sự hi sinh bất khuất anh hùng của đoàn binh. Những từ Hán Việt “biên cương, chiến trường, viễn xứ, độc hành” được sử dụng trang trọng giống như những nén tâm hương trước họ. Ngày xưa, nhà vua vẫn thường ban tặng áo bào cho các tráng sĩ thắng trận trở về, nhưng ở thời của người lính Tây Tiến thì làm gì có chiếc áo bào nào. Vậy mà Quang Dũng vẫn gọi những manh áo lính với một cách kiêu hãnh là “áo bào”. Những người trong cuộc kể lại rằng ngày ấy lúc đầu có quan tài và bài niệm nhưng sau đó lính Tây Tiến hi sinh nhiều, người bản xứ đã cho những manh chiếu quấn thân, nhưng rồi chiếu cũng hết, họ đã mặc nguyên những chiếc áo lính để trở về với đất mẹ. Quang Dũng muốn tránh đi sự thật đau lòng nên đã gọi đó là chiếc áo bào. Đó là một cách nói sang trọng, an ủi người ra đi và cũng đỡ tủi lòng người đưa tiễn. Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Với hai lần xuất hiện trong bài thơ, sông Mã đã luôn gắn liền và dõi theo con đường hành quân, đẩu tranh gian khổ của đoàn binh. Sự ra đi của người lính Tây Tiến là một hiện thực tất yếu của chiến tranh và thiên nhiên hòa cùng nỗi đau với con người. Sông Mã gào thét, vang vọng lên “khúc độc hành” giống như một khúc tráng ca tiễn đưa người anh hùng về với đất mẹ. Sự hi sinh ấy được đặt giữa đất trời, thiên nhiên, có đất mẹ dang tay đón đợi, có dòng sông Mã anh hùng dạo lên khúc tráng ca, đó là sự hi sinh cao đẹp, cao quý nhất.
Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, hình ảnh người lính hiện lên chân thực, lãng mạn, đa tình, đa cảm đồng thời cũng rất hào hùng. Với nhiều từ ngữ mang sắc thái cổ điển, trang trọng tác giả tạo được không khí thiêng liêng, làm cho cái chết bi tráng của người lính vang động cả thiên nhiên. Âm hưởng bốn câu thơ cuối làm cho hơi thơ cứ vọng dài thăm thẳm không dứt, hòa với bước đường của người chiến sĩ tình nguyện lên đường vì đất nước.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Kết bài:
Hơn năm mươi năm qua, bài thơ Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ với người đọc hôm nay, gợi về những năm tháng không thể nào quên trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Bằng bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn, Quang Dũng diễn đạt tài tình nỗi gian khổ trên những con đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến, dựng lên được hình tượng vô cùng đẹp đẽ về người lính với hào khí ngất trời trong chiến đấu và nét hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn. Bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình.
Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước môi trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính.
Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên..., Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc chiến đâu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hẹn ngày trở về chiến đấu với mục đích “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” Cái ảnh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong một bài hát thời đó:
Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi,
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Trong đoàn người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh niên trí thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường, chiến lũy Hà Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, thấp hoáng xuất hiện một khuôn mặt: Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên trí thức của Hà Nội ngày ấy, Quang Dũng cũng háo hức gia nhập đoàn quân Tây Tiến với một niềm say mê của tuổi trẻ và một chút lãng mạn của những người thanh niên “nho sĩ quỵ tộc” ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm:
Giã nhà đeo bức chiến bào hay Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. Cũng chính vì thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hi sinh để chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đâu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là những kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời Quang Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi với bao kỉ niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ẩn chẳng phai mờ. Vì thế, Quang Dũng nhớ về những tháng ngày đã qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ây. Nhớ chơi vơi! hai liếng chơi vơi dùng ở đây thật là đắc địa. diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm trạng nhớ ấy ta đã bắt gặp không chỉ một lần trong ca dao: Ra về nhớ bạn chơi vơi, hoặc:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cẩn suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết câu đoan thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khểnh. Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, tất cả lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy lan biến ngay. Đoàn quân Tây Tiến cất bước , trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở, gập ghềnh của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ cao chất ngất, ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nổi khó khăn của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt Quang Dũng có những cách dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây nổi thành cồn heo hút, và để diễn tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng ngửi trời nghe thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đó là cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư cách một người trong cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mát ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Sau khi ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống người chiến sĩ Tây Tiến như đứng trên nùi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng chữ trải ra, mênh mang, diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng. Rừng núi trùng, ấn tượng về miền rừng núi cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng núi này - một miền núi rừng âm u với thú dữ đe doạ con người. Hai chữ Mường Hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có một điều kì lạ là nếu ta thay địa danh này bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ giảm sút ngay. Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một vùng núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua trên con đường hành quân. Cái trắc trở, gian lao cùa con đường Tây Tiến chợt làm chúng ta nhớ đến câu thơ của Lí Bạch:
Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên.
(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).
Đó là tất cả những gian khổ, nguy hiểm do thiên nhiên đem đến mà người chiến sĩ Tây Tiến phải chịu đựng.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!
Quang Dũng nói cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại trên con đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người lính Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người lính, chết rồi nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiến xứ lạ đã thử thách người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những người lính đã vượt qua được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau. Người lính dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết thử thách này đến thử thách thác mà dường như vẫn chẳng nể hà; đến khi kiệt sức phải gục xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của người chiến sĩ.
Cho dù Quang Dũng có nói sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người, nhưng chính những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ đã đưa họ bay lên, vượt lên trên cái gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ Tây Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống gian khổ của người chiến sĩ Tây Tiến một cách hết sức cảm động. Cái khắc nghiệt, khổ và dữ dội của một miền biên ải, những gian truân mà người chiến sĩ Tiến phải chịu đựng và những ấn tượng không thể nào quên. Quang Dũng về người lính Tây Tiến không như những nhà thơ khác; ông nói thật về sự khổ, hi sinh của người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu tả nét chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi tráng”. Nói cái gian khổ để đề cao chiến thắng nói hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại cũng là một cách “vẽ mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi chiến thắng có giá trị gì khi chiến thắng dễ dàng, không có hi sinh? Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt.
Lao xao sóng vỗ ngọn tùng
Gian nan là nợ anh hùng phải vay.
Đó là một lời đúc kết kinh nghiệm về giá trị cùa chiến thắng, giá trị cả phẩm chất con người. Giữa bao cái gian khổ, khắc nghiệt đã thành ấn tượng niềm vui, dù ít ỏi, càng đáng nhớ hơn:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói ....
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng xuống trước cuộc sống chiến đấu cùa người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi tưởng lại nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm hổn dần ấm lại sau những phút giây chứng kiến những gian khổ của người lính, đuốc hoa là hình ảnh có sức khơi gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như đang chứng kiến lễ hội đông vui. Hai liếng kìa em vừa ngỡ ngàng, vừa sung sưc nó diễn cả tâm hồn của người chiến sĩ Tây Tiến. Trong cả đoạn thơ dìu dặt thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc sống ) bình như chẳng biết đến chiến ưanh. Hình ảnh nhạc về Viên Chăn xây hồn là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến . Họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. Và mặc dù biết rằng sẽ còn liếp tục chịu đựng những gian truân, hi sinh, người lính Tây Tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời. Có thể chỉ ngày hôm sau một người nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng hôm nay làm hồn họ vẫn mộng mơ, mơ đến những hình ảnh đẹp của thi và hoạ, xây hồn thơ. Và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận mọi thử thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời lính phải chấp nhận. Không lên gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với người lính là chuyện binh thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống với lâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng vậy mà người lính Tây Tiến có thể vẫn nhớ một dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa trên dòng nước lũ. Những hình ảnh rất binh thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vàu tâm hồn ngựời lính Tây Tiến, là nguồn động viên thúc giục họ chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận những thử thách mới:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. li ''àn quân không mọc tóc! Có cách nói nào lại khơi dậy nhiều cảm xúc đến thế! Như vậy thì hình ảnh của anh bộ đội Tây Tiến có trở nên quái đản không? Không đâu! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc” nổi tiếng một thời rét nên tóc rụng vả lại, cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy phần nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng dũng và hiên Quân không mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh ấy có thể do cành lá trang, nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng. Những cơn sốt rét ghê gớm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người chiến sĩ. Ta cảm động trước hình ảnh người sĩ Tây Tiến, và chợi nhớ đến hình ảnh người chiến sĩ trong một số bài thơ đương thời:
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật,
Đâu còn tươi nữa những ngày qua.
Người lính Tây Tiến cũng chịu đựng những cơn sốt rét ghê gớm ấy, thế nhưng, nó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ oai Cái khí phách hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên, người lính chịu sự đe doạ của cọp thì họ cũng chiến đấu với tinh thần dũng cảm của một chúa sơn lâm như thế. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như ánh hào quang của phẩm chất người lính Tây Tiến. Miêu tả khí thế chiến đấu hào hùng của người chiến thắng một sự so sánh như thế, Quang Dũng thực sự đã hiểu người lính và đã hòa đồng với họ. Chiến đâu dũng mãnh như thế, nhưng người lính Tây Tiến vẫn có đời sống tâm Hà Nội hết sức tinh tế:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Người chiến sĩ ra đi từ những mái trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên hậu phương. Phía trước là trận đánh, tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có thực, có mơ. Dáng kiều thơm gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người con gái Thủ đô chữ thơm được dùng với nghĩa như “sắc nước hương trời” vậy! Người chiến sĩ của Quang Dũng ra đi, mang theo cả phong thái hào hoa của người thanh niên trí thức, cái phong thái đã giúp người chiến sĩ sống bằng đời sống tâm ít phong phú sau mỗi trận đánh ác liệt.
Cái cuộc sống tâm hồn ây là nguồn động lực giúp người lính tiếp tục chiến đâu để giành lây độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng vì thế, người chiến sĩ chấp nhận sự hi sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc ười xanh.
Cứ thử làm công việc tách hai câu thơ thành từng câu một. Ôi! Cái ấn tượng bi thảm đên vô cùng mà câu thơ đầu mang đến thật mạnh mẽ. Không hiểusao, cứ mỗi lần đọc đên câu thơ này là tôi lại chìm vào trong suy tưởng và nước mắt cứ rưng rưng! Trên con đường gập ghềnh xa thẳm của miền núi rừng biên giới đoàn quân Tây Tiến cứ đi và thỉnh thoảng có những con người phải tách ra khỏi đội hình. Những nấm mộ của người chiến sĩ mọc lên. Câu thơ thật là bi thảm. Nhưng câu thơ sau như một lực nâng vô hình, đã đưa câu thơ đầu lên cao, cái thảm giờ đây đã trở thành bi tráng. Nó bi tráng và hào hùng bởi Quang Dũng nói được một điều cốt lõi trong nhân cách của người lính: biết hi sinh, biết gian khổ nhưng vẫn cứ ra đi giải phóng quê nhà. Họ ra đi chẳng tiếc đời xanh, bởi quãng đời tươi đẹp ấy đã hiến dâng cho một lí tưỏng cao đẹp: chiến đấu vì tổ quốc. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản không một chút vướng bận, cái chết được xem nhẹ lựa lông hồng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo bào chứ không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa da ngựa bọc thây là một điều vinh quang. Cũng như thế, người lính coi việc hi sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thanh thản về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất như một hành động tựu nghĩa của những anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông Mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng sông này. Dòng sông tiễn anh ra đi chiến đấu lại đón anh về:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí nhất khứ bất phục phản ra đi là không trở lại). Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại.
Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hung đến mức ấy. Và cũng khó có thể có được bài thơ Tây Tiến thứ hai.
1. Tây tiến và việt bắc (liên hệ từ ấy / Chiều tôi
Câu trả lời của bạn
I. Mở bài
- Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam hiện đại.
- Tố Hữu có nhiều tập thơ với nhiều bài thơ có giá trị, trong đó có bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ sau thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc của người ra đi (trích thơ)
- Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam nhưng mang đậm chất dân tộc, truyền thống. Vì thế, ngay từ đầu, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu đã là cái tôi chiến sĩ, càng về sau càng xác định rõ là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc. Điều này càng được thể hiện rõ nét hơn qua hai bài thơ của ông là “Từ ấy” và “Việt Bắc”.
II. Thân bài
1. Khái quát về bài thơ, đoạn thơ
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương Đảng và Nhà nước chuyển từ Việt Bắc (thủ đô kháng chiến) về thủ đô Hà Nội. Sự lưu luyến giữa kẻ ở và người ra đi đã khơi nguồn cảm xúc lớn cho nhà thơ sáng tác “Việt Bắc”.
- Đoạn trích thuộc phần đầu của bài thơ
2. Cảm nhận về nội dung, nghệ thuật đoạn thơ:
* Về nội dung:
- Nêu ý chính toàn đoạn thơ: Khẳng định tấm lòng trước sau như một, nỗi nhớ sâu sắc trào dâng, tình cảm ân tình giữa kẻ đi với người ở. Cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt hiện ra sâu sắc, chân thực.
- Hai dòng đầu:
+ Từ “đây - đó” chỉ vị trí liền kề
+ Cụm từ “đắng cay ngọt bùi” là ẩn dụ, chỉ những gian khổ và niềm vui
=> Hai câu thơ diễn tả sự gắn bó mật thiết giữa người Việt Bắc với người cách mạng, cùng chịu gian khổ, chia sẻ niềm vui.
- Hai câu tiếp:
+ Hình ảnh “củ sắn lùi, bát cơm, chăn lùi” đi với những từ ngữ “chia, sẻ, cùng” cho thấy sự thiếu thốn, khổ cực của cuộc sống kháng chiến, đắng cay cùng hưởng, ngọt bùi cùng chia
+ Tượng trưng cho một mối tình đậm đà giai cấp
=> Hai câu thơ chứa đựng bao tình nghĩa sâu đậm. Tất cả những khoảnh khắc ấy sáng mãi trong lòng người ra đi, tâm trí người ở lại, ghi dấu ấn không thể xóa nhòa.
- Hai câu thơ tiếp theo:
+ “Người mẹ nắng cháy lưng”, “địu con” gợi liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của người mẹ chiến sĩ trong kháng chiến.
+ Là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, ân tình trong cuộc sống kháng chiến.
- Bốn câu cuối: nhớ về Việt Bắc là nhớ về cuộc sống sinh hoạt kháng chiến một thời không thể nào quên:
+ Nhớ “lớp học i tờ” xóa mù chữ: Cách mạng đem đến cho nhân dân không chỉ tự do mà còn đem đến ánh sáng của tri thức;
+ Nhớ nhịp sống những “ngày tháng cơ quan”, ”gian nan vẫn ca vang núi đèo” gợi tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ chiến sĩ bất chấp khó khăn;
+ Nhớ những thanh âm đặc trưng của miền núi: tiếng mõ rừng chiều, tiếng chày đêm nên cối, tiếng suối xa,….Đó là những hồi ức về cuộc sống bình dị ấm áp mà vui tươi nơi núi rừng Việt Bắc.
+ Điệp cấu trúc “Nhớ sao” 3 lần cùng phép đối lập và cảm hứng lãng mạn
=>Nỗi nhớ Việt Bắc là nỗi nhớ dạt dào và trùng điệp vang mãi trong tấm lòng mỗi con người kháng chiến.
* Về nghệ thuật:
- Bức tranh Việt Bắc hiện lên qua nỗi nhớ của chủ thể trữ tình, trong hoài niệm có ba mảng thống nhất và hòa nhập vào nhau: nỗi nhớ thiến nhiên, núi rừng Việt Bắc, cuộc sống ở Việt Bắc.
- Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết
- Điệp từ “nhớ”, điệp ngữ: nhớ sao….nhớ người… trùng điệp, cùng cách ngắt nhịp của câu thơ tạo nên nét nhạc thơ thật đằm thắm.
- Hình ảnh chân thực, bình dị, giàu sức gợi cảm.
3. Liên hệ với bài thơ "Từ ấy"
* Giải thích: cái tôi trữ tình: là sự bày tỏ cảm xúc riêng của nhà thơ trước các vấn đề của xã hội, trước sự phát triển của lịch sử dân tộc;
=> Tố Hữu quả đúng là nhà thơ của lí tưởng cộng sản vì đời sống cách mạng luôn chi phối toàn diện và sâu sắc sự nghiệp sáng tác thơ của ông.
* Phân tích, chứng minh, bình luận:
Quá trình sáng tác của Tố Hữu song hành với hành trình cách mạng: các chặng đường thơ tương ứng với các giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng
- Bài thơ “Từ ấy”:
+ “Từ ấy” trích trong tập thơ cùng tên, là tập thơ đầu tay của Tố Hữu – có vị trí đặc biệt trên con đường thơ của ông.
+ Bài thơ chứa đựng một cá tính mạnh mẽ, một khí chất say sưa, một quan niệm cá nhân cởi mở giữa những người đồng chí đã làm cho cái tôi nhà thơ được bộc lộ tự do, không hề bị trói buộc bởi bất kỳ công thức, chuẩn mực nào, tạo nên những vẫn thơ đẹp, xúc động, đầy men say, bay bổng bậc nhất trang thơ ca cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.
+ Bài thơ còn thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc của chàng thanh niên giác ngộ lý tưởng cách mạng.
+ Qua “Từ ấy”, Tố Hữu đã thể hiện một cái tôi cá nhân cảm tính, ở phương diện tích cực, mạnh mẽ một mặt mà thơ mới lãng mạn chưa hề biết đến.
- Đoạn trích "Việt Bắc" nói riêng, bài thơ nói chung:
+ Cái tôi đã hoà chung với cái Ta của cộng đồng, dân tộc. Mình là ta – Ta là mình – Ta với mình như hoà quyện vào nhau, đan xen nhau. Tố Hữu đã đặt mình vào vị trí của những con người kháng chiến, nói về mình về người để bày tỏ những ân tình, lòng biết ơn sâu sắc đối với những ân tình
+ Qua “Việt Bắc” nói chung và đoạn trích nói riêng, cái tôi trữ tình của Tố Hữu trong chặng đường thơ này là cái tôi nhập vai nhằm làm nổi bật, tôn vinh lên hình tượng những con người kháng chiến, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình, niềm cảm phục trước sự hy sinh cao cả của người dân kháng chiến.
+ Khẳng định tính đúng đắn của nhận định “Ngay từ đầu, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu đã là cái tôi chiến sĩ, càng về sau càng xác định rõ là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc”.
III. Kết bài
- Kết luận về nội dung, nghệ thuật đoạn thơ.
- Cảm nghĩ của bản thân về cái tôi trong thơ Tố Hữu qua 2 bài thơ.
– Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng vĩ đại, đồng thời cũng là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Trong di sản văn học của Người, thơ ca là mảng sáng tác rất có giá trị, trong đó có thể kể đến tập thơ “Nhật kí trong tù”được sáng tác trong những ngày Người bị giam giữ ở các nhà lao thuộc tỉnh Quảng Tây. Chiều tối (Mộ -1942) là bài thơ được trích từ tập thơ này.
– Tố Hữu là nhà cách mạng, cũng là nhà thơ trữ tình chính trị tiêu biểu nhất của nền thơ ca cách mạng. Sự nghiệp cách mạng của Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp thơ ca của ông. Từ ấy (1938) là bài thơ hay được trích trong tập thơ cùng tên ghi lại thời khắc đặc biệt trong cuộc đời cách mạng và nghệ thuật của Tố Hữu khi nhà thơ được giác ngộ lí tưởng cách mạng, tìm thấy con đường đi cho cuộc đời mình và thơ ca.
– Cả hai bài thơ đều hướng tới khắc họa vẻ đẹp trong tâm hồn và lí tưởng sống cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng.
2. Vẻ đẹp hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Chiều tối (Hồ Chí Minh)
– Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt: khi Hồ Chí Minh sang Trung Quốc tranh thủ sự viện trợ của phe Đồng minh. Khi đến Quảng Tây thì Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Vì không có chứng cớ khép tội nên chúng không thể đưa ra xét xử. Chúng đã hành hạ Người bằng cách giải đi khắp các nhà lao của tỉnh Quảng Tây trong hơn một năm trời nhằm tiêu diệt ý chí của người chiến sĩ cách mạng. Bài thơ này cũng giống như nhiều các sáng tác khác được viết trên hành trình chuyển lao từ Tĩnh Tây đi Thiên Bảo, vào khoảng bốn tháng sau khi Người bị bắt. Tác phẩm là bức chân dung tự họa của con người Hồ Chí Minh ở thời điểm gian nan thử thách nhất trên con đường cách mạng.
– Đó là người chiến sĩ cách mạng có tâm hồn rộng mở, phóng khoáng, đón nhận vẻ đẹp của cảnh thiên nhiên núi rừng. Bức tranh thiên nhiên cảnh chiều mở ra ở cả chiều cao, chiều rộng của không gian và được vẽ bằng những nét phác họa đơn sơ, với những hình ảnh đậm đà sắc màu cổ điển như cánh chim và chòm mây, có chút buồn vắng, quạnh hiu những vẫn thanh thoát, ấm áp hơi thể sự sống. Bức tranh thiên nhiên đã nói lên nhân vật trữ tình là con người tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết vượt lên trên cảnh ngộ tù đày.
– Đó cũng là người chiến sĩ có tấm lòng nhân đạo, bao la, yêu thương, quan tâm chia sẻ với con người lao động, một tâm hồn luôn hướng về sự sống và ánh sáng. Dù vẫn phải tiếp tục chuyển lao trong cảnh trời tối, con người đã quên đi nỗi nhọc nhằn của riêng mình, hướng về cô gái nhỏ lao động nơi xóm núi xay ngô và lò than rực hồng đã đỏ để cảm thông, chia sẻ, ấm áp, vui lây niềm vui lao động của con người.
– Bút pháp khắc hoạ chân dung người chiến sĩ cách mạng: là bút pháp gợi tả, những hình ảnh đậm đà màu sắc cổ điển mà vẫn thấm đẫm tinh thần hiện đại. Vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng hiện qua bức tranh cảnh vật thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt lao động của con người. Đó là con người ung dung, hoà hợp với thiên nhiên nhưng vẫn luôn trong tư thế làm chủ hoàn cảnh, hướng về con người, sự sống và ánh sáng, chất thi sĩ và chất chiến sĩ hoà quyện làm một.
3. Hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Từ ấy (Tố Hữu)
– Bài thơ ra đời với một bước ngoặt trong cuộc đời và sự nghiệp nghệ thuật của Tố Hữu. Ngày nhà thơ được kết nạp vào Đảng cộng sản, đứng vào hàng ngũ những người cách mạng chiến đấu vì một lí tưởng chung, ông đã viết bài thơ này. Đặt trong hoàn cảnh sáng tác ấy, bài thơ đã cho thấy tình yêu, niềm say mê với lí tưởng cách mạng và lẽ sống cao đẹp làm nên vẻ đẹp hình tượng người chiến sĩ trong bài thơ.
– Đó là con người có tình yêu, niềm say mê mãnh liệt với lí tưởng cộng sản. Lí tưởng chính là ánh nắng hạ rực lửa, là mặt trời chói sáng, soi rọi giúp cho nhà thơ nhận ra con đường đi đến với chân lí, lẽ phải, công bằng, niềm tin, hi vọng. Lí tưởng còn hồi sinh, chỉ đường, đem đến cảm xúc mới, sức sống mới cho nghệ thuật thơ ca của người chiến sĩ.
– Đó là người chiến sĩ có lẽ sống nhân đạo cao đẹp. Con người ấy từ khi được giác ngộ lí tưởng, ý thức rằng cuộc sống và nghệ thuật thơ ca của mình không thuộc về cá nhân mình nữa mà thuộc về quần chúng cần lao và cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Con người đã tự nguyện đem cái “tôi” nhỏ bé của mình gắn kết với cuộc đời để tạo nên sức mạnh đoàn kết, tranh đấu. Người chiến sĩ cũng ý thức rằng mình sẽ là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình cách mạng của những người lao khổ, bị áp bức, chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp.
– Bút pháp khắc hoạ: được khắc họa qua cách miêu tả trực tiếp bằng những cảm nhận của nhân vật trữ tình khi bắt gặp ánh sáng của lí tưởng hoặc những lời ước nguyện, lời thề quyết tâm chiến đấu vì lí tưởng chung. Bài thơ làm hiện lên chân dung của một cái “tôi” chiến sĩ không cách biệt, trốn tránh cuộc đời như cái “tôi” thơ mới mà trẻ trung, hăm hở, nhiệt huyết, tràn đầy tình yêu, niềm say mê với lí tưởng cộng sản, sống có trách nhiệm với cuộc đời, với nhân dân đau khổ bị áp bức, với cuộc đấu chung của dân tộc.
4. Điểm tương đồng và khác biệt ở hình tượng người chiến sĩ trong hai bài thơ
d1. Điểm tương đồng: cả hai bài thơ đều tập trung khắc họa hình tượng người chiến sĩ cách mạng, những người con ưu tú nhất của lịch sử dân tộc có tâm hồn cao đẹp, có lí tưởng sống nhân đạo, chất thi sĩ và chiến sĩ hoà quyện trong tâm hồn, lí tưởng của họ.
d 2. Điểm khác biệt:
– Ở “Chiều tối” là vẻ đẹp của người chiến sĩ yêu thiên nhiên, gắn bó với cuộc sống, một hồn thơ luôn hướng về sự sống và ánh sáng ở những thời điểm thử thách gay go nhất trên hành trình cách mạng. Vẻ đẹp tâm hồn con người được thể hiện qua bút pháp gợi tả với những hình ảnh đậm màu sắc cổ điển.
– Còn ở “Từ ấy”, đó là người chiến sĩ có tình yêu mãnh liệt với ý tưởng, có lẽ sống cao đẹp, sẵn sàng hi sinh, dâng hiến vì cuộc đấu tranh của dân tộc, giống nòi. Nhân vật trữ tình được khắc hoạ trực tiếp bằng những hình thơ sôi nổi, trẻ trung, tươi mới.
Tìm và phân tích đoạn thơ sau :
Rải rác biên cương mùa viển sứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào hay chiếu anh về đất
Sông mã gầm lên khúc độc hành
Câu trả lời của bạn
DÀN Ý
I/ Mở bài:
II/ Thân bài:
1. Tác giả, tác phẩm:
2. Cảm nhận về hai đoạn thơ:
2.1/ Đoạn thơ trong bài “Tây Tiến” là sự hi sinh anh dũng của người lính:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
- Bốn câu thơ viết về cái chết của người lính Tây Tiến nhưng không gợi sự đau thương. Tác giả đã sử dụng hệ thống từ Hán Việt: “biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành” nhằm lột tả không khí trang nghiêm, cổ kính. Cái chết của người lính Tây Tiến được miêu tả thật linh thiêng.
- Câu thơ “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” như một lời thề danh dự. Nó cho thấy lý tưởng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của những người thanh niên trẻ. Thật rằng, họ cũng có những tiếc nuối nhưng trên hết là vì lý tưởng:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
( Tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc”
(Thanh Thảo)
- Hai câu thơ sau viết về sự ra đi vĩnh viễn của người lính Tây Tiến. Họ nằm lại dưới vùng đất lạ trong không khí hào hùng mà thiên nhiên dành để tiễn biệt họ. “ Về đất” vừa là cách nói giảm nói tránh để bớt đau thương vừa là cách nói kỳ vĩ hóa cái chết của anh bộ đội cụ Hồ.
- Đoạn thơ kết thúc bằng một âm hưởng hào hùng. Dường như linh hồn người tử sĩ đã hòa cùng sông núi, con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc đau thương, hùng tráng để tiễn đưa người lính vào cõi bất tử. Hình tượng “sông Mã” ở cuối bài thơ được phóng đại và nhân hóa, tô đậm cái chết bi hùng của người lính_ sự hi sinh làm lay động đất trời, khiến dòng sông gầm lên đớn đau, thương tiếc.
* Nghệ thuật:
- Bằng bút pháp lãng mạn và âm hưởng bi tráng, đoạn thơ ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lính Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
2.2/ Đoạn thơ trong bài “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là lời nhắn nhủ của nhà thơ về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với non sông đất nước:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”
- Đoạn thơ có giọng điệu tâm tình sâu lắng, thiết tha. Tác giả tạo ra cuộc trò chuyện thân mật giữa nhân vật trữ tình “anh” với “em”. Giọng điệu ấy đã làm mềm hóa nặng nề, khô khan của chất chính luận.
- Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá một định luật rất mới “Đất Nước là máu xương của mình”. Đối với mỗi con người, máu xương là yếu tố cần thiết cho sự sống. Hình ảnh so sánh độc đáo ấy có hàm ý khẳng định: Đất nước là sự sống thiêng liêng đối với mỗi con người:
“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”
Ngoài ra, hình ảnh “máu xương” còn gợi lên trong lòng người đọc lịch sử đất nước với biết bao con người anh hùng đã hi sinh đời mình cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc:
“Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.”
(Giang Nam)
Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở mỗi người chúng ta phải biết trân trọng đất nước hôm nay.
- Từ việc xác định vai trò quan trọng của đất nước đối với mỗi con người, nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, nhất là thế hệ trẻ. Phép điệp ngữ “phải biết” vừa có ý nghĩa cầu khiến vừa là lời thiết tha, mong chờ như mệnh lệnh từ trái tim. Ba cụm động từ cụ thể hóa trách nhiệm của mỗi con người: “Gắn bó” là lời kêu gọi đoàn kết, hữu ái giai cấp. Vì, có đoàn kết là có sức mạnh. “San sẻ” là mong muốn mỗi người có ý thức gánh vác trách nhiệm với quê hương. Còn “hóa thân” là biểu hiện tinh thần sẵn sàng hi sinh cho đất nước, là sự dâng hiến thiêng liêng, đẹp đẽ. Tinh thần này đã từng bắt gặp trong bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Đình Thi:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”
Hay:
“Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.”
(Tống Biệt Hành – Thâm Tâm)
Một khi ra đi chiến đấu cho sự nghiệp cách mạng, người chiến sĩ bộ đội cụ Hồ quên hết tình riêng một lòng hướng về nhân dân và đất nước.
* Nghệ thuật:
- Đoạn thơ mang tính chính luận nhưng được diễn đạt bằng hình thức đối thoại, giọng điệu trữ tình kết hợp với biện pháp tu từ điệp ngữ. Từ “Đất Nước” dược lặp lại hai lần kết hợp cách viết hoa đã tăng thêm sự tôn kính thiêng liêng, thể hiện quan niệm lớn: “Đất Nước của nhân dân”.
3. So sánh:
* Giống nhau:
Tư tưởng của cả hai đoạn thơ đều là tư tưởng cao đẹp: cống hiến, dâng hiến tuổi trẻ mình cho đất nước non sông.
* Khác nhau:
- “Tây Tiến” với cảm hứng đất nước được gợi lên từ nỗi nhớ cũa người lính vùng cao về những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. “Đất Nước” hoàn thành trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ tại mặt trận Trị Thiên bộc lộ cảm hứng đất nước qua cái nhìn tổng quát đưa đến những chiêm nghiệm mới mẻ, sâu sắc về đất nước: Đất nước là tất cả những gì gắn bó máu thịt với mỗi con người.
- “Tây Tiến” được biểu đạt bằng giọng thơ bi tráng và bút pháp lãng mạn. “Đất Nước” được thể hiện bằng giọng thơ trữ tình chính luận sâu lắng.
- “Tây Tiến” được viết theo thể thơ bảy chữ. “Đất Nước” là đoạn trích trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” dược thể hiện bằng thể thơ tự do.
III/ Kết bài:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Chất “tráng sĩ ca” được bộc lộ một cách hào hùng và cùng đầy bi tráng. Nhà thơ mượn một ý thơ cổ (Chinh phụ ngâm) nhưng tình ý thì rất mới. Ba chữ “mồ viền xứ" gợi cảm giác buồn thầm lặng - sự hi sinh thầm lặng của những chiến sĩ vô danh. Ý nghĩa câu thơ mở ra thật lớn: “rải rác” đây đó nơi “biên cương”, những nấm mồ “viễn xứ” không một vòng hoa, không một nén hương, thật lạnh lẽo, thê lương. Bức tranh chiến trận sẽ trở nên ảm đạm nếu nhìn bi quan như vậy. Nhưng hồn thơ Quang Dũng mỗi khi chạm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bởi đôi cánh lí tưởng. Câu thơ sau như một lực nâng vô hình đã đưa câu thơ trước lên cao. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Cái bi thảm bỗng trở nên bi tráng. Với tinh thần dấn thân, tự nguyện, quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất họ đã hiến dâng cho một lí tưởng cao đẹp nhất. Họ ngã xuống thanh thản không chút vướng bận, không mảy may hối tiếc, cái chết được xem “nhẹ tựa lông hồng”.
Viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ đã né tránh cái chết. Quang Dũng cảm nhận cái chết như là một hiện thực tất yếu của chiến tranh. Cái chết của những người lính qua con mắt thơ Quang Dũng rất đỗi hùng tráng mà không hề giả dối. Cái bi tráng của câu thơ đã khẳng định được phương châm sống cùa cả một thế hệ cha anh trong những năm tháng chống Pháp gian khổ: "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có hiểu được ý chí sắt đá của một dân tộc mới thấy hết được cái hay trong câu thơ Quang Dũng.Hai câu sau vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Sự thật bi thảm là: người lính hi sinh trên đường hành quân đến một manh chiếu liệm cũng thiếu. Con mắt thơ Quang Dũng đã bao bọc đồng đội mình trong những tấm áo bào sang trọng. “Áo bào” là sự kết hợp hai từ: “áo vải” và “chiến bào” khiến cho “áo bào” vừa bình dị vừa sang trọng. Đây là cách nói mà theo Quang Dũng là để “an ủi linh hồn những người lính”. Xuất phát điểm là tình yêu đồng đội. Chính tình yêu thương đã khiến hồn thơ hào hoa Quang Dũng tìm được hình ảnh đẹp để “sang trọng hóa” cái chết của người lính. Người lính ngã xuống với chiến bào đỏ thắm trong vầng hào quang lồng lộng của các chiến binh xưa. “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Câu thơ mang sức mạnh ngợi ca. Không thể tìm được từ nào hay hơn để thay thế cho từ “về đất” trong câu thơ này. “Về đất” không những diễn tả được sự hi sinh của người chiến sĩ mà còn thể hiện được sự trân trọng, yêu thương của những người đồng đội ở lại. “Về đất” cũng là hòa vào linh hồn đất nước để bất tử cùng hồn thiêng sông núi và trường tồn cùng đất nước. Dòng sông Mã đã tấu lên “khúc độc hành” dữ dội hùng tráng để tiễn đưa hương hồn người chiến sĩ với bao tiếc thương, cảm phục. Những mất mát đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Các anh đã hi sinh cho mảnh đất nảy nở đầy thơ, đầy nhạc và cùng với thiên nhiên, linh hồn các anh vẫn hát mãi khúc quân hành.
Đặc sắc của đoạn thơ không chi ở thủ pháp đối lập mà còn bộc lộ trong việc dùng từ, đặc biệt là dùng các động từ. Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Nội lực trong cảm hứng thơ Quang Dũng thường dội xuống ở các động từ”. Động từ “gầm” trong câu thơ khiến âm hưởng cứ âm vang mãi như dội mãi vào núi rừng miền Tây và ngân lên trong tâm hồn độc giả. Cộng hưởng với các động từ là các từ Hán - Việt (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, sông Mã, khúc độc hành). Nhà thơ đã đưa người đọc vào một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đã bộc lộ được sự hài hòa giữa cái bi và cái hùng tạo nên chất bi tráng trong bức tượng đài cao cả về người lính Tây Tiến.Đây là đoạn thơ mang tính chất cao trào trong toàn bộ khúc độc hành Tây Tiến. Chất bi tráng đã tạo nên một tượng đài độc đáo về người lính Tây Tiến. Đoạn thơ khép lại nhưng cùng với khúc độc hành của dòng sông Mã, âm hưởng của Tây Tiến vẫn vang cả núi rừng và vọng qua năm tháng.
hãy phân tích tính lãng mạn và chất bi tráng trong thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Câu trả lời của bạn
Cảm hứng lãng mạn thể hiện cái tôi đầy tình cảm cảm xúc và phát huy cao độ trí tưởng tượng. Cái tôi của Quang Dũng trong Tây Tiến là một cái tôi như thế. Nó trào ra ngay đầu bài thơ, đầy áp và mãnh liệt trong một nỗi "nhớ chơi vơi" rất lạ, một dòng suối trong suốt bài thơ. Cái tôi ấy có mặt khắp mọi nơi, lắng đọng từng chỗ, từ cảnh chiến trường hiểm trở, hoang sơ đến cảnh song nước thanh bình, thơ mộng, đến một hội đuốc hoa đầy sắc màu của xứ lạ phương xa; từ nỗi nhớ một bản làng Mai Châu "cơm lên khói" đến một "đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" thật hào hoa lãng mạn. Nhà thơ đã tô đậm cái phi thường, gây ấn tượng mạnh về cái hùng vĩ, dữ dội và cái thơ mộng, tuyệt mĩ bằng cách sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập (chẳng hạn, trong hai câu thơ: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống / nhà ai Pha Luông mưa xa khơi; Trí tưởng tượng bay bổng khiến thi nhân hình dung ra một "đêm hơi", cảm được cái oai linh của Thần Núi, thấy được "hồn lau nẻo bến bờ" và nghe được cả tiếng "sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Tinh thần bi tráng thể hiện ở chỗ không lẩn tránh cái bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải là cái chết bi lụy mà là cái chết hào hùng, lẫm liệt của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử. Bài thơ ba lần nói đến cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết sang trọng này:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Sang trọng vì được bọc trong những tấm chiến bào, được về tựu nghĩa cùng với Đất mẹ, và nhất là được thiên nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để đưa tiễn hương hồn người chiến sĩ. Ở đây thủ pháp cường điệu đã đẩy chất bi tráng lên đến đỉnh cao diệu kì cùa nó.
Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ, có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nhất ở đoạn thứ ba khi Quang Dũng miêu tả chân dung người lính Tây Tiến, đồng đội cùa ông, trong các cặp hình ảnh đối lập: giữa ngoại hình tiều tụy với thần thái "dữ oai hùm", giữa "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" với "đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", và nhất là giữa hình ảnh của cái chết "rải rác biên cương mồ viễn xứ" với lí tưởng đánh giặc thanh thản đến lạ lùng của người chiến sĩ "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh!" Một tư thế ra đi như thế thì cái chết còn có nghĩa lí gì đối với họ?
Gợi ý:
I. Đặt vấn đề :
– Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.
– Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên.
– Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Giải quyết vấn đề :
Giải thích khái niệm
– Vẻ đẹp lãng mạn thể hiện trên những phương diện: cái tôi trữ tình tràn đầy tình cảm, cảm xúc, phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng những yếu tố cường điệu, thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng. Vẻ đẹp lãng mạn thể hiện ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng hi sinh cho lí tưởng chung của dân tộc, thể hiện ở vẻ đẹp tâm hồn hào hoa, thơ mộng.
– Cái bi là sự gian khổ, hi sinh. Cái tráng là sự hào hùng, tráng lệ. Chất bi tráng của một hình tượng nghệ thuật là vẻ đẹp vừa có tính chất buồn thảm làm não lòng người vừa có tính chất hùng tráng, mạnh mẽ gây ấn tượng. Chất bi tráng hoà quyện vào nhau, sự gian khổ, hi sinh được thể hiện qua màu sắc hào hùng, tráng lệ, bi mà không luỵ.
Vẻ đẹp lãng mạn và chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ
Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến
– Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng triệt để thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
– Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ :
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
… Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
– Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện quan ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ …
– Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà con thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến
– Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mỉ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
….Sông Mã gầm lên khúc độc hành
– Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã :
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng.
=> Hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại.
– Thể thơ 7 tiếng chắc khoẻ mang giọng điệu hào hùng như một khúc quân hành.
– Kết hợp hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn.
– Những vần thơ giàu chất nhạc, chất hoạ, nghệ thuật chạm khắc…
– Hình ảnh thơ vừa gân guốc, khoẻ khoắn, vừa mềm mại, trữ tình.
– Quang Dũng đã phát huy sức mạnh của thủ pháp tương phản – đối lập, một trong những yếu tố nghệ thuật mang dấu ấn thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn.
– Ngôn ngữ vừa giản dị, trẻ trung vừa có yếu tố cổ điển trang trọng ở những từ Hán Việt.
– Cách nói giảm, nói tránh kết hợp với bút pháp phóng đại, lí tưởng hoá…
III. Kết thúc vấn đề :
– Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi không trở lại. Hình tượng này thể hiện rõ nét những đặc sắc trong phong cách thơ Quang Dũng.
– Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình nói chung, đoạn thơ trên nói riêng đã góp vào bảo tàng hình ảnh những người lính bức chân dung người lính Tây Tiến rất độc đáo của mình.
Nhận xét về bút pháp miêu tả của thơ quang dũng
Câu trả lời của bạn
Quang Dũng sáng tác không nhiều, nhưng thơ ông để lại ấn tượng sâu sắc với những rung cảm sâu lắng trong tâm hồn người đọc. Thơ Quang Dũng hiện lên một "cái tôi" hào hoa, thanh lịch giàu chất lãng mạn, với khả năng cảm nhận một cách tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên, bình dị, chân thật. Bài thơ Tây Tiến tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Không lẩn tránh đề cập đến cái bi nhưng cảm hứng lãng mạn đã đem đến cho cái bi màu sắc và âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Tinh thần bi tráng, cảm hứng lãng mạn đã được triển khai trên nền cảm xúc kí ức - Nhớ Tây Tiến.
Tây Tiến là tên một binh đoàn có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt - Lào, tiêu hao sinh lực địch. Phần đông lính Tây Tiến là những chàng trai Hà thành. Họ mang vào chiến trường không chỉ có tình yêu Tổ quốc, khát vọng độc lập mà còn có những nét hào hoa thanh lịch cùa người Tràng An. Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ.
Năm 1947, Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến, ông từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn này. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Nỗi nhớ Tây Tiến đau đáu, da diết đã khiến nhà thơ viết nên một bài thơ tuyệt tác.
Tây Tiến gợi lên một cuộc hành quân về phía Tây Tổ quốc, một cuộc hành quân đầy gian lao vất vả giữa vùng rừng núi đầy hiểm trở, hung vĩ đầy vẻ hoang dại và huyền bí.
Vốn sẵn tố chất hào hoa của người trai đất Hà thành , chất hào hoa lại được gặp thiên nhiên và con người miền Tây với vẻ đẹp huyền hoặc, Quang Dũng lại từng sống và chứng kiến những tháng ngày hào hung giữa binh đoàn Tây Tiến, hồn thơ ấy đã hòa quyện lại tất cả để tạo nên những thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn của bài thơ trước hết là nỗi nhớ ngập tràn: tác giả nhớ rừng núi hoang vu, hiểm trở, dữ dội, nhớ những cảnh đẹp huyền ảo nên thơ, đặc biệt là nhớ bước quân hành của đoàn quân Tây Tiến, nhớ gương mặt, ánh mắt, nhớ cả những hi sinh gian khổ, những giây phút đồng đội nằm xuống nơi biên cương. Tất cả cứ theo dòng hồi ức mà hiện lên cùng với trí tưởng tượng phóng khoáng, bay bổng.
Để giúp cho trí tướng tượng bay cao, bay xa và tình cảm, cảm xúc được diễn tả một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất, nhà thơ đã vận dựng thủ pháp nghệ thuật tô đậm cái phi thường, gây ấn tượng mạnh về cái hùng vĩ, dữ dội cũng như cái tuyệt mĩ, thơ mộng. Một trong những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng đắc địa nhất là thủ pháp đối lập. Đối lập giữa cái hùng vĩ, dữ dội với cái tuyệt mĩ, thơ mộng, đối lập giữa gian khổ, vất vả với anh hùng, bất khuất, đối lập giữa cái bi và cái hùng...
Trong Tây Tiến, thiên nhiên sừng sững trở thành một hình tượng lớn. Hồn thơ lãng mạn cứa Quang Dũng đã tô đậm, tuyệt đối hóa cái sừng sững, hùng vĩ của thiên nhiên để qua đó thấy được ý chí dấn thân của người lính Tây Tiến.
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngủi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Bốn câu thơ trên được coi là tuyệt bút trong việc khắc họa cái hùng vĩ, hiểm trở cùa thiên nhiên. "Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm". Nhịp điệu tiếp nối liên tục của những thanh trắc kết hợp với cùng một lúc hai từ láy tượng hình (khúc khuỷu, thăm thẳm) dường như đã đẩy chiều cao của dốc núi lênn vời vợi với hình thế cheo leo, gập ghềnh. Cách ngắt nhịp câu thơ (Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm) như muốn diễn tả nỗi vất vả, cực nhọc cùng với lưng áo đẫm mồ hôi của người lính Tây Tiến.
Chưa đủ, ngòi bút Quang Dũng vẫn tiếp tục đẩy chiều cao của dốc núi lên lên tuyệt đối: Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Núi cao tưởng chừng như chạm mây, mây chất thành đống, thành cồn, "heo hút cồn mây", người lính như đứng trên mây, giữa bốn bề mây đến nỗi "súng ngửi trời". Chữ "ngửi" được dùng rất bạo. "Súng ngửi trời" là cách đo chiều cao của người lính - vừa chính xác, vừa rất "tếu". Hiệu quả của bút pháp lãng mạ không chỉ dựng lên một thiên nhiên hiểm trở mà còn dựng lên kích thước, tư thế của người lính, một tư thế, kích thước sánh ngang tầm thiên nhiên.
Hai câu trước có sự phối hợp tuyệt vời của những thanh trắc. Dòng thơ tiếp theo như gãy đôi để vẽ ra hai chiều của dốc núi: một vút lên, một đổ xuống gần như thẳng đứng: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống". Cảnh được dựng bằng thủ pháp đối lập để khắc họa cái dữ dội, hùng vĩ của núi rừng. Những dốc núi cao tới chóng mặt, bên dưới là vực sâu thăm thẳm. Người lính như treo mình giữa vách đá, trên một sườn núi giữa chặng đường hành quân.
Ba câu trên thanh trắc chiếm ưu thế, câu thứ tư hoàn toàn thanh bằng:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Đây cũng là một cách đối lập tạo ra sự tương phản giữa hai chặng đường hành quân: Vượt núi vất vả - dừng chân thoải mái. Câu thơ toàn thanh bằng với 6/7 tiếng là phù bình thanh cùng với hình ảnh những ngôi nhà ấm áp thấp thoáng ẩn hiện trong sương mù, mưa núi đã diễn tả trọn vẹn cái cảm giác thở phào nhẹ nhõm, thoải mái. Đúng là một dòng thơ bỗng "bay ngang lưng trời".
Bút pháp lãng mạn vẫn được sử dụng để tô đậm vẻ hoang dại, dữ dội, đầy huyền bí, sự ghê gớm của rừng thiêng.
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Hai chi tiết tiêu biêu (thác gầm thét, cọp trêu người) gắn với hai thời điểm tiêu biểu (chiều chiều, đêm đêm), không phải một chiều, một đêm mà thời gian lặp lại mang tính liên tục, không gian như bị vây bọc bởi những âm thanh man dại. Câu thơ tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong trí tưởng tượng của người đọc.
Cảm xúc lãng mạn được xây dựng trên nền cảm xúc kí ức. Đoạn thơ được viết ra như một dòng kí ức đứt, nối, mờ tỏ liên tục. Cho nên đan cài với những câu thơ tả cảnh dữ dội, hùng vĩ là những câu thơ mênh mang, chơi vơi. Hai câu cuối đoạn là một sự đầm ấm bất ngờ đến ngây ngất bởi tiếng gọi thiết tha vang lên tự đáy lòng (Nhớ ôi Tây Tiến), bởi hình ảnh gợi sự thanh thản, đầm ấm đến nao lòng (cơm lên khỏi, thơm nếp xôi). Hai câu thơ còn có giá trị chuyển cảnh, chuyển đoạn.
Nếu ở đoạn trên, bút pháp lãng mạn đã tô đậm vẻ hoang dại, hùng vĩ của thiên nhiên thì ở đoạn tiếp theo, cảm hứng lãng mạn lại gây ấn tượng mạnh về cái thơ mộng, tuyệt mĩ của núi rừng và con người Tây Bắc.
Đêm liên hoan văn nghệ có " đuốc" có "hoa", có tiếng khèn, điệu múa và nhất là có hình ảnh những thiếu nữ miền Tây Bắc trong trang phục dân tộc óng ánh sắc màu, hoa văn núi rừng. E ấp trong những điệu xòe duyên dáng. Tất cả như say, như mơ, như mê đế "hồn thơ" được "xây" lên từ đó.
Cảnh sông nước bộc lộ hồn thơ nhạy cảm, tinh tế và tài hoa của Quang Dũng. Làn sương chiều mỏng, dáng lau đơn sơ, phơ phất, dáng người trên độc mộc, dòng nước, hoa đong đưa tình tứ... Nhà thơ không tả mà chỉ gợi bằng những câu thơ thiên về cảm tính trực giác. Cái nhạt nhòa hư ảo càng được tăng lên bởi những từ ngữ gợi nhớ một nỗi nhớ mênh mang (chiều sương ấy, có thấy, có nhớ, người đi, hồn lau, bến bờ, dòng nước, đong dưa...). Tất cả cứ lung linh, khó nắm bắt. Chỉ có thể cam nhận bằng tâm hồn - một tâm hồn chứa tận cùng sâu thẳm là tình yêu và nỗí nhớ.
Mỗi đoạn thơ có một giá trị riêng. Song đặt hai đoạn thơ cạnh nhau, bút pháp lãng mạn càng được nổi bật bởi sự tương phản đôi lập. Nếu ở đoạn 1cảnh được vẽ bằng những nét bút gân guốc, táo bạo, khỏe khoắn thì ở đoạn 2 cảnh lại được vẽ bởi những nét bút mềm mại, tinh tế. Hai nét vẽ đó dựng lên hoàn chỉnh bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, bí hiểm vừa thơ mộng, mĩ lệ. Đó chính là chất tài hoa trong ngòi bút Quang Trung.
Bút pháp lãng mạn tiếp tục được nhà thơ khai thác triệt để khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Thật ra không phải đến đây hình ảnh người lính mới hiện lên mà ở hai phần trên, hình ảnh người lính cứ thấp thoáng ẩn hiện: ở tư thế trèo đèo, lội suối, ở những phút dừng chân giữa chặng đường hành quân, ở "đêm hội đuốc hoa" và "Châu Mộc chiều sương ấy"... thậm chí có lúc hiện lên rât rõ:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Tuy nhiên, phải đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh người lính Tây Tiến mới hiện lên đầy đủ. Hai câu mở đoạn: "Tây Tiến đoàn bình không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùm" đã gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho "không mọc tóc" là do người lính cạo trọc đầu (người ta gọi là những anh "vệ trọc") còn "xanh màu lá" là xanh màu lá ngụy trang. Đó là những người lính dũng cảm, can trường. Có người khác lại cho "không mọc tóc" là do sốt rét rụng hết tóc, còn "xanh màu lá" là màu da xanh như lá (do sốt rét). Tác giả muốn tô đậm những gian khổ, đói rét, ốm đau của người lính...
Nhà thơ Trần Lê Văn, một chiến sĩ Tây Tiến đã từng nói: "Đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều". Chính Quang Dũng cũng có lần tâm sự: "Chúng tôi hành quân bằng đôi chân thực sự đã nếm mùi Tây Tiến. Chúng tôi mở rừng, ăn rừng, ngủ rừng". Thiếu thốn, đói rét, ốm đau là một thực tế. Nhà thơ nói đến tất cả những điều đó nhưng ý thơ lại được nâng đỡ bởi bút pháp lãng mạn. Quang Dũng đã khắc họá chân dung người lính hết sức lẫm liệt, oai hùng. Tác giả dùng hai chữ "đoàn binh" mà không dùng "đoàn quân". Cái "dữ oai hùm" khiến ta nhớ đến câu thơ hừng hực "hào khí Đông A" của Phạm Ngũ Lão: "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu".
Nhà thơ không miêu tả một gương mặt riêng biệt mà dồn tất cả sự đối lập tạo nên một gương mặt chung khiến ta vừa cảm động, vừa cảm phục, vừa xót thương vừa tự hào. Hình ảnh thơ tuy có thiên về nét vẽ hình thể nhưng lại giúp người đọc thấy rõ hơn khí phách hào hùng của những chiến sĩ Tây Tiến - những anh "vệ trọc" nổi tiếng một thời.
Giữa hai câu trước và hai câu sau lại tạo nên một đối lập khác: đối lập với mắt trừng", "oai hùm" là "mộng", là "mơ", đặc biệt là câu:
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Thật hào hùng mà cũng thật hào hoa. Chiến tranh tàn khốc rất cần đến - những nét dữ dằn nhưng không thể giết chết những giấc mơ, không thể cướp đi những mộng đẹp. Đó là vẻ đẹp và đó cũng là sức mạnh.
Trước đây có người cho rằng người chiến sĩ Tây Tiến trong bài thơ chỉ có cái vẻ "yên hùng", khí phách bên ngoài, còn bên trong yếu ớt, tiểu tư sản, mơ mộng viển vông. Nhưng người lính trong Đồng chí của Chính Hữu nhớ "giếng nước gốc đa", nhớ "bạn thân cày", nhớ "gian nhà không"... Người lính trong Nhớ của Hồng Nguyên nhớ đến cháy lòng người vợ trẻ "mòn chân bên cối gạo canh khuya"... thì người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng mơ về Hà Nội để nhớ một dáng hình con gái thì cũng là một điều dễ hiểu. Trong chiến tranh, nếu người lính không còn biết mơ, biết nhớ, không còn mảy may rung động trước một bông hoa đẹp hay sắc đẹp cùa một người con gái thì điều đó quả thật là vô cùng đáng sợ. Họ chiến đấu làm gì? Vì ai? Nếu không phải là để trả lại cho con người, cho dân tộc những giá trị nhân văn cao đẹp như vậy.
Bài thơ còn dựng lên hai tinh thần đối lập mà thống nhất: bi và hùng, tạo thành chất lãng mạn bi tráng, một khúc độc tấu mang âm hưởng tráng ca.
Tất cả những gian khổ thử thách, đói rét ốm đau mà nhà thơ đề cập đến trong suốt hai phần đầu bài thơ như một sự chuẩn bị tâm lí cho người đọc để đến khi tác giả nói về cái chết (phần 3) không gây nên cảm giác đột ngột. Tuy không đột ngột và mặc dù quá hiểu chiến tranh là thế - có thể ngã xuống bất cứ lúc nào, song đọc những câu thơ của Quang Dũng, chúng ta vẫn thấy một cảm giác chơi vơi khó gọi tên. Cũng chính những câu thơ ấy đã bất tử hóa cái chết, anh hùng hóa sự hi sinh để nâng đỡ cảm giác buồn đau, hẫng hụt, thành thử bi thương mà không bi lụy, bi ca chứ không phải khốc ca. Chính điều đó làm nên một khúc độc tấu bi tráng rền vang sông núi và lay động lòng người.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Mỗi người lính ngã xuống, những nấm mộ mọc lên. Những nấm mộ rải rác khắp biên cương là dấu tích cùa biết bao nỗi buồn thầm lặng. Nhà thơ nhìn xuyên suốt con đường hành quân của Tây Tiến mà lặng đi đến tê người khi trước mắt anh hiện lên những nấm mộ đồng chí, đồng đội.
Câu thơ sau nhanh chóng gạt đi những cảm giác bi thương giống như có một lực đẩy vô hình:
Chiến trường đi chẳng tiếc dời xanh!
Câu thơ vừa mang dáng dấp cuộc ra đi "nhất khứ hề" của Kinh Kha tráng sĩ vừa mang âm hướng của những cuộc ra đi trong thơ lãng mạn Việt Nam trước cách mạng với những "li khách" cùa Thâm Tâm, "khách chinh phu" của Thế Lữ.. Hơn nữa, các từ Hán - Việt: "biên cương", "viễn xứ", "chiến trường", ... có sức âm vang tạo nên tính cổ điển của hình tượng. Tuy nhiên, chất làng mạn của câu thơ Quang Dũng là chất lãng mạn cách mạng, lãng mạn anh hùng. Quang Dũng đã nói được một điều cốt lõi trong nhân cách người lính: biết hi sinh vẫn dấn thân, ra đi chẳng tiếc đời mình, tuổi thanh xuân đẹp nhất hiến dâng cho lí tưởng. Họ ngã xuống thanh thản, nhẹ nhàng thậm chí nụ cười vẫn nở trên môi. Quang Dũng đã gạt nước mắt để ngẩng cao đầu với niềm tự hào kiêu hãnh.
Hai câu tiếp theo cũng mang cảm hứng tương tự :
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Có người hiểu là lấy áo bào thay cho chiếu, có người lại hiểu là áo bào được thay bằng chiếu. Quang Dũng có lần tâm sự : ngay cả khi nằm xuống, người tử sĩ cũng không có đủ manh chiếu liệm. Nói "áo bào thay chiếu" là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ của thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống giữa rừng". Thế là đã rõ. Không có chiến bào. Thậm chí không có cả chiếu liệm. Nhưng không thể để đau thương, buồn thảm quật ngã. Câu thơ độc đáo của Quang Dũng đã lãng mạn hóa cái chết, làm cho cái chết trở thành một sự ra đi nhẹ nhàng, thanh thản, ung dung với một vẻ đẹp hào hùng, oai phong và sang trọng. Giọng thơ như muốn hạ xuống cung bậc thấp nhất phù hợp với nỗi tiếc thương, nhưng hạ thấp để cuối cùng vút lên với cung bậc dữ dội và hùng tráng:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Những mất mát, đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Những người lính Tây Tiến hi sinh là trở về với thiên nhiên, trở về với đất mẹ và các anh lại hóa thân vào thiên nhiên để hát mãi khúc quân hành.
Tây Tiến có phảng phất nét buồn đau nhưng đó là nét buồn đau bi tráng. Nằm trong thi pháp chung của nền văn học 1945 - 1975, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lăng mạn, Tây Tiến đã để lại dấu ấn riêng độc đáo. Đó là sự phối hợp hài hòa giữa các mặt đối lập trong các hình tượng thơ. Tây Tiến còn là sự gửi gắm tất cả men say ước nguyện của Quang Dũng vào sự nghiệp cứu nước. Vì thế, Tây Tiến hấp dẫn người đọc bởi thế giới nghệ thuật của cái đẹp, cái cao cả hào hùng - sản phẩm của một bút pháp và cảm hứng lãng mạn.
Bài Mẫu Số 1: Phân Tích Bút Pháp Và Cảm Hứng Lãng Mạn Trong Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng
Quang Dũng sáng tác không nhiều, nhưng thơ ông để lại ấn tượng sâu sắc với những rung cảm sâu lắng trong tâm hồn người đọc. Thơ Quang Dũng hiện lên một "cái tôi" hào hoa, thanh lịch giàu chất lãng mạn, với khả năng cảm nhận một cách tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên, bình dị, chân thật. Bài thơ Tây Tiến tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Không lẩn tránh đề cập đến cái bi nhưng cảm hứng lãng mạn đã đem đến cho cái bi màu sắc và âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Tinh thần bi tráng, cảm hứng lãng mạn đã được triển khai trên nền cảm xúc kí ức - Nhớ Tây Tiến.
Tây Tiến là tên một binh đoàn có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt - Lào, tiêu hao sinh lực địch. Phần đông lính Tây Tiến là những chàng trai Hà thành. Họ mang vào chiến trường không chỉ có tình yêu Tổ quốc, khát vọng độc lập mà còn có những nét hào hoa thanh lịch cùa người Tràng An. Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ.
Năm 1947, Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến, ông từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn này. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Nỗi nhớ Tây Tiến đau đáu, da diết đã khiến nhà thơ viết nên một bài thơ tuyệt tác.
Tây Tiến gợi lên một cuộc hành quân về phía Tây Tổ quốc, một cuộc hành quân đầy gian lao vất vả giữa vùng rừng núi đầy hiểm trở, hung vĩ đầy vẻ hoang dại và huyền bí.
Vốn sẵn tố chất hào hoa của người trai đất Hà thành , chất hào hoa lại được gặp thiên nhiên và con người miền Tây với vẻ đẹp huyền hoặc, Quang Dũng lại từng sống và chứng kiến những tháng ngày hào hung giữa binh đoàn Tây Tiến, hồn thơ ấy đã hòa quyện lại tất cả để tạo nên những thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn của bài thơ trước hết là nỗi nhớ ngập tràn: tác giả nhớ rừng núi hoang vu, hiểm trở, dữ dội, nhớ những cảnh đẹp huyền ảo nên thơ, đặc biệt là nhớ bước quân hành của đoàn quân Tây Tiến, nhớ gương mặt, ánh mắt, nhớ cả những hi sinh gian khổ, những giây phút đồng đội nằm xuống nơi biên cương. Tất cả cứ theo dòng hồi ức mà hiện lên cùng với trí tưởng tượng phóng khoáng, bay bổng.
Để giúp cho trí tướng tượng bay cao, bay xa và tình cảm, cảm xúc được diễn tả một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất, nhà thơ đã vận dựng thủ pháp nghệ thuật tô đậm cái phi thường, gây ấn tượng mạnh về cái hùng vĩ, dữ dội cũng như cái tuyệt mĩ, thơ mộng. Một trong những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng đắc địa nhất là thủ pháp đối lập. Đối lập giữa cái hùng vĩ, dữ dội với cái tuyệt mĩ, thơ mộng, đối lập giữa gian khổ, vất vả với anh hùng, bất khuất, đối lập giữa cái bi và cái hùng...
Trong Tây Tiến, thiên nhiên sừng sững trở thành một hình tượng lớn. Hồn thơ lãng mạn cứa Quang Dũng đã tô đậm, tuyệt đối hóa cái sừng sững, hùng vĩ của thiên nhiên để qua đó thấy được ý chí dấn thân của người lính Tây Tiến.
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngủi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Bốn câu thơ trên được coi là tuyệt bút trong việc khắc họa cái hùng vĩ, hiểm trở cùa thiên nhiên. "Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm". Nhịp điệu tiếp nối liên tục của những thanh trắc kết hợp với cùng một lúc hai từ láy tượng hình (khúc khuỷu, thăm thẳm) dường như đã đẩy chiều cao của dốc núi lênn vời vợi với hình thế cheo leo, gập ghềnh. Cách ngắt nhịp câu thơ (Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm) như muốn diễn tả nỗi vất vả, cực nhọc cùng với lưng áo đẫm mồ hôi của người lính Tây Tiến.
Chưa đủ, ngòi bút Quang Dũng vẫn tiếp tục đẩy chiều cao của dốc núi lên lên tuyệt đối: Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Núi cao tưởng chừng như chạm mây, mây chất thành đống, thành cồn, "heo hút cồn mây", người lính như đứng trên mây, giữa bốn bề mây đến nỗi "súng ngửi trời". Chữ "ngửi" được dùng rất bạo. "Súng ngửi trời" là cách đo chiều cao của người lính - vừa chính xác, vừa rất "tếu". Hiệu quả của bút pháp lãng mạ không chỉ dựng lên một thiên nhiên hiểm trở mà còn dựng lên kích thước, tư thế của người lính, một tư thế, kích thước sánh ngang tầm thiên nhiên.
Hai câu trước có sự phối hợp tuyệt vời của những thanh trắc. Dòng thơ tiếp theo như gãy đôi để vẽ ra hai chiều của dốc núi: một vút lên, một đổ xuống gần như thẳng đứng: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống". Cảnh được dựng bằng thủ pháp đối lập để khắc họa cái dữ dội, hùng vĩ của núi rừng. Những dốc núi cao tới chóng mặt, bên dưới là vực sâu thăm thẳm. Người lính như treo mình giữa vách đá, trên một sườn núi giữa chặng đường hành quân.
Ba câu trên thanh trắc chiếm ưu thế, câu thứ tư hoàn toàn thanh bằng:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Đây cũng là một cách đối lập tạo ra sự tương phản giữa hai chặng đường hành quân: Vượt núi vất vả - dừng chân thoải mái. Câu thơ toàn thanh bằng với 6/7 tiếng là phù bình thanh cùng với hình ảnh những ngôi nhà ấm áp thấp thoáng ẩn hiện trong sương mù, mưa núi đã diễn tả trọn vẹn cái cảm giác thở phào nhẹ nhõm, thoải mái. Đúng là một dòng thơ bỗng "bay ngang lưng trời".
Bút pháp lãng mạn vẫn được sử dụng để tô đậm vẻ hoang dại, dữ dội, đầy huyền bí, sự ghê gớm của rừng thiêng.
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Hai chi tiết tiêu biêu (thác gầm thét, cọp trêu người) gắn với hai thời điểm tiêu biểu (chiều chiều, đêm đêm), không phải một chiều, một đêm mà thời gian lặp lại mang tính liên tục, không gian như bị vây bọc bởi những âm thanh man dại. Câu thơ tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong trí tưởng tượng của người đọc.
Cảm xúc lãng mạn được xây dựng trên nền cảm xúc kí ức. Đoạn thơ được viết ra như một dòng kí ức đứt, nối, mờ tỏ liên tục. Cho nên đan cài với những câu thơ tả cảnh dữ dội, hùng vĩ là những câu thơ mênh mang, chơi vơi. Hai câu cuối đoạn là một sự đầm ấm bất ngờ đến ngây ngất bởi tiếng gọi thiết tha vang lên tự đáy lòng (Nhớ ôi Tây Tiến), bởi hình ảnh gợi sự thanh thản, đầm ấm đến nao lòng (cơm lên khỏi, thơm nếp xôi). Hai câu thơ còn có giá trị chuyển cảnh, chuyển đoạn.
Nếu ở đoạn trên, bút pháp lãng mạn đã tô đậm vẻ hoang dại, hùng vĩ của thiên nhiên thì ở đoạn tiếp theo, cảm hứng lãng mạn lại gây ấn tượng mạnh về cái thơ mộng, tuyệt mĩ của núi rừng và con người Tây Bắc.
Đêm liên hoan văn nghệ có " đuốc" có "hoa", có tiếng khèn, điệu múa và nhất là có hình ảnh những thiếu nữ miền Tây Bắc trong trang phục dân tộc óng ánh sắc màu, hoa văn núi rừng. E ấp trong những điệu xòe duyên dáng. Tất cả như say, như mơ, như mê đế "hồn thơ" được "xây" lên từ đó.
Cảnh sông nước bộc lộ hồn thơ nhạy cảm, tinh tế và tài hoa của Quang Dũng. Làn sương chiều mỏng, dáng lau đơn sơ, phơ phất, dáng người trên độc mộc, dòng nước, hoa đong đưa tình tứ... Nhà thơ không tả mà chỉ gợi bằng những câu thơ thiên về cảm tính trực giác. Cái nhạt nhòa hư ảo càng được tăng lên bởi những từ ngữ gợi nhớ một nỗi nhớ mênh mang (chiều sương ấy, có thấy, có nhớ, người đi, hồn lau, bến bờ, dòng nước, đong dưa...). Tất cả cứ lung linh, khó nắm bắt. Chỉ có thể cam nhận bằng tâm hồn - một tâm hồn chứa tận cùng sâu thẳm là tình yêu và nỗí nhớ.
Mỗi đoạn thơ có một giá trị riêng. Song đặt hai đoạn thơ cạnh nhau, bút pháp lãng mạn càng được nổi bật bởi sự tương phản đôi lập. Nếu ở đoạn 1cảnh được vẽ bằng những nét bút gân guốc, táo bạo, khỏe khoắn thì ở đoạn 2 cảnh lại được vẽ bởi những nét bút mềm mại, tinh tế. Hai nét vẽ đó dựng lên hoàn chỉnh bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, bí hiểm vừa thơ mộng, mĩ lệ. Đó chính là chất tài hoa trong ngòi bút Quang Trung.
Bút pháp lãng mạn tiếp tục được nhà thơ khai thác triệt để khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Thật ra không phải đến đây hình ảnh người lính mới hiện lên mà ở hai phần trên, hình ảnh người lính cứ thấp thoáng ẩn hiện: ở tư thế trèo đèo, lội suối, ở những phút dừng chân giữa chặng đường hành quân, ở "đêm hội đuốc hoa" và "Châu Mộc chiều sương ấy"... thậm chí có lúc hiện lên rât rõ:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Tuy nhiên, phải đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh người lính Tây Tiến mới hiện lên đầy đủ. Hai câu mở đoạn: "Tây Tiến đoàn bình không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùm" đã gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho "không mọc tóc" là do người lính cạo trọc đầu (người ta gọi là những anh "vệ trọc") còn "xanh màu lá" là xanh màu lá ngụy trang. Đó là những người lính dũng cảm, can trường. Có người khác lại cho "không mọc tóc" là do sốt rét rụng hết tóc, còn "xanh màu lá" là màu da xanh như lá (do sốt rét). Tác giả muốn tô đậm những gian khổ, đói rét, ốm đau của người lính...
Nhà thơ Trần Lê Văn, một chiến sĩ Tây Tiến đã từng nói: "Đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều". Chính Quang Dũng cũng có lần tâm sự: "Chúng tôi hành quân bằng đôi chân thực sự đã nếm mùi Tây Tiến. Chúng tôi mở rừng, ăn rừng, ngủ rừng". Thiếu thốn, đói rét, ốm đau là một thực tế. Nhà thơ nói đến tất cả những điều đó nhưng ý thơ lại được nâng đỡ bởi bút pháp lãng mạn. Quang Dũng đã khắc họá chân dung người lính hết sức lẫm liệt, oai hùng. Tác giả dùng hai chữ "đoàn binh" mà không dùng "đoàn quân". Cái "dữ oai hùm" khiến ta nhớ đến câu thơ hừng hực "hào khí Đông A" của Phạm Ngũ Lão: "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu".
Nhà thơ không miêu tả một gương mặt riêng biệt mà dồn tất cả sự đối lập tạo nên một gương mặt chung khiến ta vừa cảm động, vừa cảm phục, vừa xót thương vừa tự hào. Hình ảnh thơ tuy có thiên về nét vẽ hình thể nhưng lại giúp người đọc thấy rõ hơn khí phách hào hùng của những chiến sĩ Tây Tiến - những anh "vệ trọc" nổi tiếng một thời.
Giữa hai câu trước và hai câu sau lại tạo nên một đối lập khác: đối lập với mắt trừng", "oai hùm" là "mộng", là "mơ", đặc biệt là câu:
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Thật hào hùng mà cũng thật hào hoa. Chiến tranh tàn khốc rất cần đến - những nét dữ dằn nhưng không thể giết chết những giấc mơ, không thể cướp đi những mộng đẹp. Đó là vẻ đẹp và đó cũng là sức mạnh.
Trước đây có người cho rằng người chiến sĩ Tây Tiến trong bài thơ chỉ có cái vẻ "yên hùng", khí phách bên ngoài, còn bên trong yếu ớt, tiểu tư sản, mơ mộng viển vông. Nhưng người lính trong Đồng chí của Chính Hữu nhớ "giếng nước gốc đa", nhớ "bạn thân cày", nhớ "gian nhà không"... Người lính trong Nhớ của Hồng Nguyên nhớ đến cháy lòng người vợ trẻ "mòn chân bên cối gạo canh khuya"... thì người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng mơ về Hà Nội để nhớ một dáng hình con gái thì cũng là một điều dễ hiểu. Trong chiến tranh, nếu người lính không còn biết mơ, biết nhớ, không còn mảy may rung động trước một bông hoa đẹp hay sắc đẹp cùa một người con gái thì điều đó quả thật là vô cùng đáng sợ. Họ chiến đấu làm gì? Vì ai? Nếu không phải là để trả lại cho con người, cho dân tộc những giá trị nhân văn cao đẹp như vậy.
Bài thơ còn dựng lên hai tinh thần đối lập mà thống nhất: bi và hùng, tạo thành chất lãng mạn bi tráng, một khúc độc tấu mang âm hưởng tráng ca.
Tất cả những gian khổ thử thách, đói rét ốm đau mà nhà thơ đề cập đến trong suốt hai phần đầu bài thơ như một sự chuẩn bị tâm lí cho người đọc để đến khi tác giả nói về cái chết (phần 3) không gây nên cảm giác đột ngột. Tuy không đột ngột và mặc dù quá hiểu chiến tranh là thế - có thể ngã xuống bất cứ lúc nào, song đọc những câu thơ của Quang Dũng, chúng ta vẫn thấy một cảm giác chơi vơi khó gọi tên. Cũng chính những câu thơ ấy đã bất tử hóa cái chết, anh hùng hóa sự hi sinh để nâng đỡ cảm giác buồn đau, hẫng hụt, thành thử bi thương mà không bi lụy, bi ca chứ không phải khốc ca. Chính điều đó làm nên một khúc độc tấu bi tráng rền vang sông núi và lay động lòng người.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Mỗi người lính ngã xuống, những nấm mộ mọc lên. Những nấm mộ rải rác khắp biên cương là dấu tích cùa biết bao nỗi buồn thầm lặng. Nhà thơ nhìn xuyên suốt con đường hành quân của Tây Tiến mà lặng đi đến tê người khi trước mắt anh hiện lên những nấm mộ đồng chí, đồng đội.
Câu thơ sau nhanh chóng gạt đi những cảm giác bi thương giống như có một lực đẩy vô hình:
Chiến trường đi chẳng tiếc dời xanh!
Câu thơ vừa mang dáng dấp cuộc ra đi "nhất khứ hề" của Kinh Kha tráng sĩ vừa mang âm hướng của những cuộc ra đi trong thơ lãng mạn Việt Nam trước cách mạng với những "li khách" cùa Thâm Tâm, "khách chinh phu" của Thế Lữ.. Hơn nữa, các từ Hán - Việt: "biên cương", "viễn xứ", "chiến trường", ... có sức âm vang tạo nên tính cổ điển của hình tượng. Tuy nhiên, chất làng mạn của câu thơ Quang Dũng là chất lãng mạn cách mạng, lãng mạn anh hùng. Quang Dũng đã nói được một điều cốt lõi trong nhân cách người lính: biết hi sinh vẫn dấn thân, ra đi chẳng tiếc đời mình, tuổi thanh xuân đẹp nhất hiến dâng cho lí tưởng. Họ ngã xuống thanh thản, nhẹ nhàng thậm chí nụ cười vẫn nở trên môi. Quang Dũng đã gạt nước mắt để ngẩng cao đầu với niềm tự hào kiêu hãnh.
Hai câu tiếp theo cũng mang cảm hứng tương tự :
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Có người hiểu là lấy áo bào thay cho chiếu, có người lại hiểu là áo bào được thay bằng chiếu. Quang Dũng có lần tâm sự : ngay cả khi nằm xuống, người tử sĩ cũng không có đủ manh chiếu liệm. Nói "áo bào thay chiếu" là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ của thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống giữa rừng". Thế là đã rõ. Không có chiến bào. Thậm chí không có cả chiếu liệm. Nhưng không thể để đau thương, buồn thảm quật ngã. Câu thơ độc đáo của Quang Dũng đã lãng mạn hóa cái chết, làm cho cái chết trở thành một sự ra đi nhẹ nhàng, thanh thản, ung dung với một vẻ đẹp hào hùng, oai phong và sang trọng. Giọng thơ như muốn hạ xuống cung bậc thấp nhất phù hợp với nỗi tiếc thương, nhưng hạ thấp để cuối cùng vút lên với cung bậc dữ dội và hùng tráng:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Những mất mát, đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Những người lính Tây Tiến hi sinh là trở về với thiên nhiên, trở về với đất mẹ và các anh lại hóa thân vào thiên nhiên để hát mãi khúc quân hành.
Tây Tiến có phảng phất nét buồn đau nhưng đó là nét buồn đau bi tráng. Nằm trong thi pháp chung của nền văn học 1945 - 1975, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lăng mạn, Tây Tiến đã để lại dấu ấn riêng độc đáo. Đó là sự phối hợp hài hòa giữa các mặt đối lập trong các hình tượng thơ. Tây Tiến còn là sự gửi gắm tất cả men say ước nguyện của Quang Dũng vào sự nghiệp cứu nước. Vì thế, Tây Tiến hấp dẫn người đọc bởi thế giới nghệ thuật của cái đẹp, cái cao cả hào hùng - sản phẩm của một bút pháp và cảm hứng lãng mạn.
Trên đây là phần Phân tích bút pháp và cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng bài tiếp theo, các em chuẩn bị trả lời câu hỏi SGK, Soạn bài Tây Tiến và cùng với phần Cảm nhận bài Tây Tiến để học tốt tiếng Việt lớp 5 hơn.
Vào một đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ nằm bên bờ sông hiền hòa thơ mộng, Quang Dũng bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm còn như,tươi nguyên. Hình ảnh những ngày Tây Tiến sống dậy trong tâm trí ông. Bây giờ, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta mới bước sang năm thứ hai, nhưng đã liên tiếp ghi được những chiến công vang dội, bẻ gãy cuộc tiến công lên căn cứ địa Việt Bắc, Thu đông 1946.
Năm ấy, Quang Dũng trong đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào; đánh địch trên tuyến rừng Tây Bắc từ Lai Châu đến phía Bắc Thanh Hóa. Đời lính chống Pháp vốn vô cùng thiếu thốn khổ cực, người lính trong trung đoàn Tây Tiến còn thiếu thốn khổ cực hơn. Vì "rừng thiêng nước độc", sốt rét hoành hành, thuốc men ít ỏi, vì đường hành quân là trập trùng núi rừng Tây Bắc - Thượng Lào hoang vu hiểm trở... Cũng như tất cả những người lính Cụ Hồ ấy, bên tai còn văng vẳng lời thề "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", lời hát hào hùng "bao chiến sĩ anh hùng, lạnh lùng vung gươm ra sa trường", những chàng trai Tây Tiến chiến đấu bằng phẩm chất anh hùng. Có điều lính Tây Tiến hầu hết là thanh niên Hà Nội, trong đó phần đông là học sinh, tiểu tư sản trí thức nên chất anh hùng của người lính Tây Tiến có phong thái và màu sắc riêng - màu sắc lãng mạn, hào hoa.
Trước hết cảm hứng lãng mạn Tây Tiến được nuôi dưỡng bằng "nỗi nhớ", thật thiết tha mãnh liệt nhưng cũng thật "chơi vơi" như sự diễn tả của Quang Dũng:
Sông Mã xã rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Từ "chơi vơi" ở đây được dùng thật đắc địa. Nó đã lột tả được nỗi nhớ trong tâm tưởng nhà thơ. Được sống trong cảm hứng lãng mạn, nỗi nhớ ấy mới như giăng mắc một màn sương, rất khó định hình, rất khó gọi tên. Cũng như môi trường tình cảm này mà cả cuộc sống gian khổ chiến đấu với chiến trường, người lính như chìm đắm trong một thế giới phi thường, có gì bí ẩn nhưng cũng thật hào hùng, tha thiết và gần gũi.
Chiến trường trong bài thơ gian khổ, khắc nghiệt nhưng đồng thời cũng là thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, ấm áp và mềm mại, có lúc thật hiền hòa thơ mộng. Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc có núi cao, vực sâu, dốc đứng, thác gầm, cồn mây heo hút, lại cả nét duyên dáng của bông hoa đung đưa theo dòng nước lũ, của cô gái trên con thuyền độc mộc... Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ, dữ dội, trữ tình ấy, nổi bật lên hình ảnh đoàn quân Tây Tiến khi thì như bị lấp hút đi, khi thì như người đi tìm cảm giác mạnh và đẹp giữa núi rừng. Sự đối chọi và hòa hợp này đã làm nên khí phách anh hùng, vẻ hào hoa của người lính kháng chiến, tạo cho họ sự hấp dẫn và vẻ đẹp khó quên.
Phải vậy chăng mà càng qua thời gian, vẻ đẹp Tây Tiến càng đẹp hơn, lúc nào cũng lôi cuốn, làm say mê người đọc?
Hình ảnh người lính thật kì dị, khác thường: da xanh màu lá, đầu trụi tóc do thiếu thốn bệnh tật vì những cơn sốt rét rừng. Những hình ảnh thực đó vào bài thơ, với giọng và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng thành ra như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Hoặc cái chết cũng vậỵ, những cái chết "hàng loạt" hay những cái chết đau thương - chết mà không biết chết - cũng đều thật hào hùng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Bởi lẽ ngòi bút Quang Dũng không run sợ trước cái chết của đồng đội. Nhà thơ chỉ muốn "gió bụi, phong trần" hóa cái chết ấy. Và làm đẹp cho hình ảnh người lính "rải rác biên cương mồ viễn xứ"; "áo bào thay chiếu anh về đất", để ta càng nghe càng như thấy khúc tráng ca về người chiến sĩ tự thuở nào. Hiện thực đầy xót xa, thương cảm, những người lính hi sinh được chôn vào đất không có cả manh chiếu cuốn mà chỉ có áo mặc trên người. Vậy mà bằng ngòi bút lãng mạn, Quang Dũng đã nâng sự thực ấy thành một vẻ đẹp thật hào hùng.
Có thể nói, nét độc đáo của thơ Quang Dũng thường lộ rõ khi thơ ông chen giữa hai thái cực, đã hiện thực thì hiện thực đến dữ dội, đã lãng mạn thì lãng mạn đến mộng mơ. Bút pháp này thể hiện rất rõ khi miêu tả thiên nhiên miền Tây Bắc. Ấy là những câu thơ hầu hết là vần bằng được nằm xen kẽ, bên cạnh những câu vần trắc tạo sự đối lập trong âm hưởng. Những câu thơ đó, vì thế mà rất giàu chất tạo hình và gợi cảm. Thiên nhiên vốn đã đẹp và thơ mộng, giờ đây tựa như huyền thoại:
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Nếu như "sương lấp" lạnh lùng, nặng nề đe dọa bao nhiều thì "hoa về" lại nhẹ nhõm, tươi tắn, ấm áp bấy nhiêu. "Hoa về trong đêm hơi" diễn tả một trạng thái lâng lâng vừa đến trong một chặng đường mệt mỏi. Khung cảnh núi rừng mà đoàn quân Tây Tiến bước chân qua, vừa thơ mộng lại vừa hùng vĩ. Tất cả đều được tác giả thể hiện ở khoảng cách xa xa, hư ảo với kích thước có phần phóng đại khác thường. Nói về cái hiểm trở, tác giả đã dùng những hình ảnh thật độc đáo:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Tác giả không viết "súng chạm trời" mà là "súng ngửi trời", đây là thủ pháp cường điệu hóa (đặc trưng của bút pháp lãng mạn), ngoài ra còn thể hiện chất hóm hỉnh, tinh nghịch của người lính. Không những thế, khi nói về dôc cao, tác giả lại dùng tính từ chỉ độ sâu "heo hút cồn mây" và có những câu thơ như bẻ gãy làm đôi:
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.
Ngòi bút Quang Dũng thật độc đáo, đầy ấn tượng. Nếu thơ là nơi thể hiện đầy đủ nhất, sâu sắc nhất ma lực kì ảo của ngôn ngữ thì những câu thơ này quả đúng như vậy.
Tuy nhiên bút pháp lãng mạn không chi thể hiện ở việc miêu tả thiên nhiên mà còn thể hiện rất rõ trong việc miêu tả phong thái Sống của người chiến sĩ Tây Tiến. Đọc hai câu thơ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dừ oai hùm
Ta thấy rất rõ sự hiện diện của gian khổ khốc liệt. Nhưng điều đặc biệt là những gian khổ khốc liệt này lại dường như lẫn vào bên trong, còn cái hiện ra bên ngoài lại rất lãng mạn. Câu thơ tạo nên hình ảnh đối lập: bên ngoài thì da xanh như lá, đầu không mọc tóc, nhưng bên trong người chiến sĩ thể hiện một phong độ anh hùng, dữ dội và oai như hùm nơi rừng thiêng nước độc. Quang Dũng đã không che giấu những gian khổ, thiếu thốn, nguy hiểm mà những người lính phải chịu đựng. Chỉ có điều, qua cái nhìn lãng mạn của ông, họ không ốm yếu, không bi lụy mà chứa đựng một sức mạnh phi thường, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng. Hình tượng người lính vì thế mang dáng vẻ anh hùng kiểu chinh phu một đi không trở lại.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Không những thế, bằng ngòi bút lãng mạn của mình, Quang Dũng đà tạo nên một bức tượng đài tập thể không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Giữa núi rừng miền Tây, họ nhớ về một "dáng kiều thơm", một bóng hồng thướt tha. Trong bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên, người chiến sĩ cũng nhớ ve quê hương nhưng đây là nỗi nhớ của người lính xuất thân từ nông dân, bởi thế nỗi nhớ ấy cũng thiết tha nhưng vẫn mộc mạc, chân thành và gắn liền với những công việc thường ngày:
Ba năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều tranh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya,
Đã có một thời nỗi nhớ ấy của những người lính Tây Tiến bị lên án là "mộng buồn, mộng rớt", của tầng lớp tiểu tư sản. Nhưng nếu giữa cuộc chiến đầy gian khổ, một đi không hẹn ngày trở về này mà những người lính không nghĩ đến những điều tốt đẹp, không mơ mộng yêu thương thì liệu họ có còn đủ dũng khí để vượt qua gian nan, hiểm nguy và chiến đấu anh dũng không? Trong hoàn cảnh ấy thì niềm tin, chất lãng mạn chính là điểm tựa để con người thêm vững chí.
Nét đặc sắc của Tây Tiến là nói về chiến tranh mà không có một chừ nào về "trận đánh", về "tiếng súng". Và ba lần nói đến cái chết thì đều miêu tả một cách thật giản dị "bỏ quên đời", "về đất", "hồn về" để bình thường hóa cái chết. Cảm hứng lãng mạn khiến ngòi bút của ông nói nhiều đến cái buồn, cái chết như những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng. Cảm hứng của Quang Dũng mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bởi đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến.
Vượt qua sức cản phá của thời gian, Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ với chúng ta hôm nay, gợi nhớ về "những năm tháng không thể nào quên" trong lịch sử dân tộc. Có thể nói Tây Tiến là "một tượng đài bất tử" về người lính vô danh mà Quang Dũng đã dựng lên bằng cả tâm hồn và cảm hứng lãng mạn hào hùng của mình.
Cùng với những bài thơ tiêu biểu của thời kì kháng chiến như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên... Tây Tiến của Quang Dũng đã miêu tả thành công về đề tài người lính, đã góp vào viện bảo tàng về người lính bức chân dung người lính Tây Tiến độc đáo, lãng mạn và bi tráng.
user
Quang Dũng sáng tác không nhiều, nhưng thơ ông để lại ấn tượng sâu sắc với những rung cảm sâu lắng trong tâm hồn người đọc. Thơ Quang Dũng hiện lên một “cái tôi” hào hoa, thanh lịch giàu chất lãng mạn, với khả năng cảm nhận một cách tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên, bình dị, chân thật. Bài thơ Tây Tiến tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Không lẩn tránh đề cập đến cái bi nhưng cảm hứng lãng mạn đã đem đến cho cái bi màu sắc và âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Tinh thần bi tráng, cảm hứng lãng mạn đã được triển khai trên nền cảm xúc kí ức - Nhớ Tây Tiến.
Tây Tiến là tên một binh đoàn có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt - Lào, tiêu hao sinh lực địch. Phần đông lính Tây Tiến là những chàng trai Hà thành. Họ mang vào chiến trường không chỉ có tình yêu Tổ quốc, khát vọng độc lập mà còn có những nét hào hoa thanh lịch cùa người Tràng An. Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ.
Năm 1947, Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến, ông từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn này. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Nỗi nhớ Tây Tiến đau đáu, da diết đã khiến nhà thơ viết nên một bài thơ tuyệt tác.
Tây Tiến gợi lên một cuộc hành quân về phía Tây Tổ quốc, một cuộc hành quân đầy gian lao vất vả giữa vùng rừng núi đầy hiểm trở, hung vĩ đầy vẻ hoang dại và huyền bí.
Vốn sẵn tố chất hào hoa của người trai đất Hà thành , chất hào hoa lại được gặp thiên nhiên và con người miền Tây với vẻ đẹp huyền hoặc, Quang Dũng lại từng sống và chứng kiến những tháng ngày hào hung giữa binh đoàn Tây Tiến, hồn thơ ấy đã hòa quyện lại tất cả để tạo nên những thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn của bài thơ trước hết là nỗi nhớ ngập tràn: tác giả nhớ rừng núi hoang vu, hiểm trở, dữ dội, nhớ những cảnh đẹp huyền ảo nên thơ, đặc biệt là nhớ bước quân hành của đoàn quân Tây Tiến, nhớ gương mặt, ánh mắt, nhớ cả những hi sinh gian khổ, những giây phút đồng đội nằm xuống nơi biên cương. Tất cả cứ theo dòng hồi ức mà hiện lên cùng với trí tưởng tượng phóng khoáng, bay bổng.
Để giúp cho trí tướng tượng bay cao, bay xa và tình cảm, cảm xúc được diễn tả một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất, nhà thơ đã vận dựng thủ pháp nghệ thuật tô đậm cái phi thường, gây ấn tượng mạnh về cái hùng vĩ, dữ dội cũng như cái tuyệt mĩ, thơ mộng. Một trong những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng đắc địa nhất là thủ pháp đối lập. Đối lập giữa cái hùng vĩ, dữ dội với cái tuyệt mĩ, thơ mộng, đối lập giữa gian khổ, vất vả với anh hùng, bất khuất, đối lập giữa cái bi và cái hùng...
Trong Tây Tiến, thiên nhiên sừng sững trở thành một hình tượng lớn. Hồn thơ lãng mạn cứa Quang Dũng đã tô đậm, tuyệt đối hóa cái sừng sững, hùng vĩ của thiên nhiên để qua đó thấy được ý chí dấn thân của người lính Tây Tiến.
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngủi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Bốn câu thơ trên được coi là tuyệt bút trong việc khắc họa cái hùng vĩ, hiểm trở cùa thiên nhiên. “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”. Nhịp điệu tiếp nối liên tục của những thanh trắc kết hợp với cùng một lúc hai từ láy tượng hình (khúc khuỷu, thăm thẳm) dường như đã đẩy chiều cao của dốc núi lênn vời vợi với hình thế cheo leo, gập ghềnh. Cách ngắt nhịp câu thơ (Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm) như muốn diễn tả nỗi vất vả, cực nhọc cùng với lưng áo đẫm mồ hôi của người lính Tây Tiến.
Chưa đủ, ngòi bút Quang Dũng vẫn tiếp tục đẩy chiều cao của dốc núi lên lên tuyệt đối: Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Núi cao tưởng chừng như chạm mây, mây chất thành đống, thành cồn, “heo hút cồn mây”, người lính như đứng trên mây, giữa bốn bề mây đến nỗi “súng ngửi trời”. Chữ “ngửi” được dùng rất bạo. “Súng ngửi trời” là cách đo chiều cao của người lính - vừa chính xác, vừa rất “tếu”. Hiệu quả của bút pháp lãng mạ không chỉ dựng lên một thiên nhiên hiểm trở mà còn dựng lên kích thước, tư thế của người lính, một tư thế, kích thước sánh ngang tầm thiên nhiên.
Hai câu trước có sự phối hợp tuyệt vời của những thanh trắc. Dòng thơ tiếp theo như gãy đôi để vẽ ra hai chiều của dốc núi: một vút lên, một đổ xuống gần như thẳng đứng: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Cảnh được dựng bằng thủ pháp đối lập để khắc họa cái dữ dội, hùng vĩ của núi rừng. Những dốc núi cao tới chóng mặt, bên dưới là vực sâu thăm thẳm. Người lính như treo mình giữa vách đá, trên một sườn núi giữa chặng đường hành quân.
Ba câu trên thanh trắc chiếm ưu thế, câu thứ tư hoàn toàn thanh bằng:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Đây cũng là một cách đối lập tạo ra sự tương phản giữa hai chặng đường hành quân: Vượt núi vất vả - dừng chân thoải mái. Câu thơ toàn thanh bằng với 6/7 tiếng là phù bình thanh cùng với hình ảnh những ngôi nhà ấm áp thấp thoáng ẩn hiện trong sương mù, mưa núi đã diễn tả trọn vẹn cái cảm giác thở phào nhẹ nhõm, thoải mái. Đúng là một dòng thơ bỗng “bay ngang lưng trời”.
Bút pháp lãng mạn vẫn được sử dụng để tô đậm vẻ hoang dại, dữ dội, đầy huyền bí, sự ghê gớm của rừng thiêng.
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Hai chi tiết tiêu biêu (thác gầm thét, cọp trêu người) gắn với hai thời điểm tiêu biểu (chiều chiều, đêm đêm), không phải một chiều, một đêm mà thời gian lặp lại mang tính liên tục, không gian như bị vây bọc bởi những âm thanh man dại. Câu thơ tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong trí tưởng tượng của người đọc.
Cảm xúc lãng mạn được xây dựng trên nền cảm xúc kí ức. Đoạn thơ được viết ra như một dòng kí ức đứt, nối, mờ tỏ liên tục. Cho nên đan cài với những câu thơ tả cảnh dữ dội, hùng vĩ là những câu thơ mênh mang, chơi vơi. Hai câu cuối đoạn là một sự đầm ấm bất ngờ đến ngây ngất bởi tiếng gọi thiết tha vang lên tự đáy lòng (Nhớ ôi Tây Tiến), bởi hình ảnh gợi sự thanh thản, đầm ấm đến nao lòng (cơm lên khỏi, thơm nếp xôi). Hai câu thơ còn có giá trị chuyển cảnh, chuyển đoạn.
Nếu ở đoạn trên, bút pháp lãng mạn đã tô đậm vẻ hoang dại, hùng vĩ của thiên nhiên thì ở đoạn tiếp theo, cảm hứng lãng mạn lại gây ấn tượng mạnh về cái thơ mộng, tuyệt mĩ của núi rừng và con người Tây Bắc.
Đêm liên hoan văn nghệ có “ đuốc” có “hoa”, có tiếng khèn, điệu múa và nhất là có hình ảnh những thiếu nữ miền Tây Bắc trong trang phục dân tộc óng ánh sắc màu, hoa văn núi rừng. E ấp trong những điệu xòe duyên dáng. Tất cả như say, như mơ, như mê đế “hồn thơ” được “xây" lên từ đó.
Cảnh sông nước bộc lộ hồn thơ nhạy cảm, tinh tế và tài hoa của Quang Dũng. Làn sương chiều mỏng, dáng lau đơn sơ, phơ phất, dáng người trên độc mộc, dòng nước, hoa đong đưa tình tứ... Nhà thơ không tả mà chỉ gợi bằng những câu thơ thiên về cảm tính trực giác. Cái nhạt nhòa hư ảo càng được tăng lên bởi những từ ngữ gợi nhớ một nỗi nhớ mênh mang (chiều sương ấy, có thấy, có nhớ, người đi, hồn lau, bến bờ, dòng nước, đong dưa...). Tất cả cứ lung linh, khó nắm bắt. Chỉ có thể cam nhận bằng tâm hồn - một tâm hồn chứa tận cùng sâu thẳm là tình yêu và nỗí nhớ.
Mỗi đoạn thơ có một giá trị riêng. Song đặt hai đoạn thơ cạnh nhau, bút pháp lãng mạn càng được nổi bật bởi sự tương phản đôi lập. Nếu ở đoạn 1cảnh được vẽ bằng những nét bút gân guốc, táo bạo, khỏe khoắn thì ở đoạn 2 cảnh lại được vẽ bởi những nét bút mềm mại, tinh tế. Hai nét vẽ đó dựng lên hoàn chỉnh bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, bí hiểm vừa thơ mộng, mĩ lệ. Đó chính là chất tài hoa trong ngòi bút Quang Trung.
Bút pháp lãng mạn tiếp tục được nhà thơ khai thác triệt để khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Thật ra không phải đến đây hình ảnh người lính mới hiện lên mà ở hai phần trên, hình ảnh người lính cứ thấp thoáng ẩn hiện: ở tư thế trèo đèo, lội suối, ở những phút dừng chân giữa chặng đường hành quân, ở “đêm hội đuốc hoa” và “Châu Mộc chiều sương ấy”... thậm chí có lúc hiện lên rât rõ:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Tuy nhiên, phải đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh người lính Tây Tiến mới hiện lên đầy đủ. Hai câu mở đoạn: “Tây Tiến đoàn bình không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùm” đã gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho “không mọc tóc” là do người lính cạo trọc đầu (người ta gọi là những anh “vệ trọc”) còn “xanh màu lá” là xanh màu lá ngụy trang. Đó là những người lính dũng cảm, can trường. Có người khác lại cho “không mọc tóc” là do sốt rét rụng hết tóc, còn “xanh màu lá” là màu da xanh như lá (do sốt rét). Tác giả muốn tô đậm những gian khổ, đói rét, ốm đau của người lính...
Nhà thơ Trần Lê Văn, một chiến sĩ Tây Tiến đã từng nói: “Đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều”. Chính Quang Dũng cũng có lần tâm sự: “Chúng tôi hành quân bằng đôi chân thực sự đã nếm mùi Tây Tiến. Chúng tôi mở rừng, ăn rừng, ngủ rừng”. Thiếu thốn, đói rét, ốm đau là một thực tế. Nhà thơ nói đến tất cả những điều đó nhưng ý thơ lại được nâng đỡ bởi bút pháp lãng mạn. Quang Dũng đã khắc họá chân dung người lính hết sức lẫm liệt, oai hùng. Tác giả dùng hai chữ “đoàn binh” mà không dùng “đoàn quân”. Cái “dữ oai hùm” khiến ta nhớ đến câu thơ hừng hực “hào khí Đông A” của Phạm Ngũ Lão: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”.
Nhà thơ không miêu tả một gương mặt riêng biệt mà dồn tất cả sự đối lập tạo nên một gương mặt chung khiến ta vừa cảm động, vừa cảm phục, vừa xót thương vừa tự hào. Hình ảnh thơ tuy có thiên về nét vẽ hình thể nhưng lại giúp người đọc thấy rõ hơn khí phách hào hùng của những chiến sĩ Tây Tiến - những anh “vệ trọc” nổi tiếng một thời.
Giữa hai câu trước và hai câu sau lại tạo nên một đối lập khác: đối lập với mắt trừng”, “oai hùm” là “mộng”, là “mơ”, đặc biệt là câu:
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Thật hào hùng mà cũng thật hào hoa. Chiến tranh tàn khốc rất cần đến - những nét dữ dằn nhưng không thể giết chết những giấc mơ, không thể cướp đi những mộng đẹp. Đó là vẻ đẹp và đó cũng là sức mạnh.
Trước đây có người cho rằng người chiến sĩ Tây Tiến trong bài thơ chỉ có cái vẻ “yên hùng”, khí phách bên ngoài, còn bên trong yếu ớt, tiểu tư sản, mơ mộng viển vông. Nhưng người lính trong Đồng chí của Chính Hữu nhớ “giếng nước gốc đa”, nhớ “bạn thân cày”, nhớ “gian nhà không”... Người lính trong Nhớ của Hồng Nguyên nhớ đến cháy lòng người vợ trẻ “mòn chân bên cối gạo canh khuya”... thì người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng mơ về Hà Nội để nhớ một dáng hình con gái thì cũng là một điều dễ hiểu. Trong chiến tranh, nếu người lính không còn biết mơ, biết nhớ, không còn mảy may rung động trước một bông hoa đẹp hay sắc đẹp cùa một người con gái thì điều đó quả thật là vô cùng đáng sợ. Họ chiến đấu làm gì? Vì ai? Nếu không phải là để trả lại cho con người, cho dân tộc những giá trị nhân văn cao đẹp như vậy.
Bài thơ còn dựng lên hai tinh thần đối lập mà thống nhất: bi và hùng, tạo thành chất lãng mạn bi tráng, một khúc độc tấu mang âm hưởng tráng ca.
Tất cả những gian khổ thử thách, đói rét ốm đau mà nhà thơ đề cập đến trong suốt hai phần đầu bài thơ như một sự chuẩn bị tâm lí cho người đọc để đến khi tác giả nói về cái chết (phần 3) không gây nên cảm giác đột ngột. Tuy không đột ngột và mặc dù quá hiểu chiến tranh là thế - có thể ngã xuống bất cứ lúc nào, song đọc những câu thơ của Quang Dũng, chúng ta vẫn thấy một cảm giác chơi vơi khó gọi tên. Cũng chính những câu thơ ấy đã bất tử hóa cái chết, anh hùng hóa sự hi sinh để nâng đỡ cảm giác buồn đau, hẫng hụt, thành thử bi thương mà không bi lụy, bi ca chứ không phải khốc ca. Chính điều đó làm nên một khúc độc tấu bi tráng rền vang sông núi và lay động lòng người.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Mỗi người lính ngã xuống, những nấm mộ mọc lên. Những nấm mộ rải rác khắp biên cương là dấu tích cùa biết bao nỗi buồn thầm lặng. Nhà thơ nhìn xuyên suốt con đường hành quân của Tây Tiến mà lặng đi đến tê người khi trước mắt anh hiện lên những nấm mộ đồng chí, đồng đội.
Câu thơ sau nhanh chóng gạt đi những cảm giác bi thương giống như có một lực đẩy vô hình:
Chiến trường đi chẳng tiếc dời xanh!
Câu thơ vừa mang dáng dấp cuộc ra đi “nhất khứ hề” của Kinh Kha tráng sĩ vừa mang âm hướng của những cuộc ra đi trong thơ lãng mạn Việt Nam trước cách mạng với những “li khách” cùa Thâm Tâm, “khách chinh phu” của Thế Lữ.. Hơn nữa, các từ Hán - Việt: “biên cương”, “viễn xứ”, “chiến trường”, ... có sức âm vang tạo nên tính cổ điển của hình tượng. Tuy nhiên, chất làng mạn của câu thơ Quang Dũng là chất lãng mạn cách mạng, lãng mạn anh hùng. Quang Dũng đã nói được một điều cốt lõi trong nhân cách người lính: biết hi sinh vẫn dấn thân, ra đi chẳng tiếc đời mình, tuổi thanh xuân đẹp nhất hiến dâng cho lí tưởng. Họ ngã xuống thanh thản, nhẹ nhàng thậm chí nụ cười vẫn nở trên môi. Quang Dũng đã gạt nước mắt để ngẩng cao đầu với niềm tự hào kiêu hãnh.
Hai câu tiếp theo cũng mang cảm hứng tương tự :
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Có người hiểu là lấy áo bào thay cho chiếu, có người lại hiểu là áo bào được thay bằng chiếu. Quang Dũng có lần tâm sự : ngay cả khi nằm xuống, người tử sĩ cũng không có đủ manh chiếu liệm. Nói “áo bào thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ của thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống giữa rừng”. Thế là đã rõ. Không có chiến bào. Thậm chí không có cả chiếu liệm. Nhưng không thể để đau thương, buồn thảm quật ngã. Câu thơ độc đáo của Quang Dũng đã lãng mạn hóa cái chết, làm cho cái chết trở thành một sự ra đi nhẹ nhàng, thanh thản, ung dung với một vẻ đẹp hào hùng, oai phong và sang trọng. Giọng thơ như muốn hạ xuống cung bậc thấp nhất phù hợp với nỗi tiếc thương, nhưng hạ thấp để cuối cùng vút lên với cung bậc dữ dội và hùng tráng:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Những mất mát, đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Những người lính Tây Tiến hi sinh là trở về với thiên nhiên, trở về với đất mẹ và các anh lại hóa thân vào thiên nhiên để hát mãi khúc quân hành.
Tây Tiến có phảng phất nét buồn đau nhưng đó là nét buồn đau bi tráng. Nằm trong thi pháp chung của nền văn học 1945 - 1975, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lăng mạn, Tây Tiến đã để lại dấu ấn riêng độc đáo. Đó là sự phối hợp hài hòa giữa các mặt đối lập trong các hình tượng thơ. Tây Tiến còn là sự gửi gắm tất cả men say ước nguyện của Quang Dũng vào sự nghiệp cứu nước. Vì thế, Tây Tiến hấp dẫn người đọc bởi thế giới nghệ thuật của cái đẹp, cái cao cả hào hùng - sản phẩm của một bút pháp và cảm hứng lãng mạn.
Đọc hai tác phẩm chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, tác giả đã dùng cảm hứng hiện thực kết hợp với bút pháp hiện thực nhằm tô đậm cái bình thường, cái thường thấy, cái có thật… Mang đến cho người đọc hình ảnh người lính nông dân mộc mạc, giản dị, gắn bó tự nhiên trong tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng.
Ngược lại, trong bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng đã dùng cảm hứng lãng mạn với bút pháp lãng mạn nhằm tô đậm cái đặc biệt, cái phi thường, cái đẹp ở xứ lại phương xa…đã xây dựng nên hình ảnh người lính tiểu tư sản học sinh Hà Nội kiêu hùng hào hoa ở chiến trường Tây Tiến ác liệt.
Ờ bài thơ “Tây Tiến”, tác giả muốn lôi cuốn người đọc theo những đợt sóng tào của tưởng tượng và cảm xúc. Hưng câu thơ trong bài đều giàu chất tạo hình, tạo nhạc thật khác thường. Qua ngòi bút lãng mạn người lình Tây Tiến hiện lên rất cam trường những cũng rất mực hòa hoa.
“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Bằng ngòi bút sắc sảo Quang Dũng đã làm sống lại khung cảnh chiến trường ác liệt và dữ dội không chỉ ở độ cao, độ sâu mà còn ở sự vắng lặng hoang sơ, không chỉ có kẻ thù nơi biên giới mà còn có cả “mường hịch cọp trêu người.”
Nhưng trên tất cả các anh vẫn chiến đấu và chiến thắng trước mọi khó khăn gian khổ. Những bước đi của anh thật đẹp thật kỳ vĩ như những bước đi của thánh gióng mẹ kể ngày xưa. Ngòi bút của Quang Dũng đã khéo léo tả cái “bi” nhưng lại nói lên được cái “tráng” đẹp hơn lên tựa như lối “vẽ mây, nảy trăng” vậy.
Ngược lại ở bài “Đồng chí” hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ lại được hiện ra với vẻ chân thật giản dị. những câu thơ hầu như để mộc, không trang điểm, không gọt rũa ngôn tư. Hình ảnh bình dị ấy, như được đưa thẳng từ đời thực vào thơ, không hề có dấu hiệu của sự ước lệ hay cổ điển. Bằng cách này, Chính Hữu đã khắc họa thành công chất hiền lành, tình nghĩa mộc mạc mà dung dị của tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng của những người nông dân áo vải:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Không mang nét bi tráng “một đi không trở lại” của người lính Tây Tiến, nhưng tấm lòng của anh đối với quê hương đất nước thật cảm động:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không để mặc gió lung lay”
Ở nơi kháng chiến, người lính nông dân có chung quê hương vất vả, đói nghèo, chung tình giai cấp, chung lý tưởng sống và mục đích sống. Để từ những cái chung ấy học đã gắn bó keo sơn bền vững nối cuộc đời người lính với nhau thành hai tiếng Đồng đội. Từng lời thơ mang màu sắc tươi tắn và tạo nên nhịp sống của những người chiến sĩ cách mạng.
Khác với những người lính nông dân, nhưng người lính tiểu tư sản trong thơ Quang Dũng lại mang vẻ đẹp thật dị thường:
“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Diện mạo người lính hiện ra thật dị thường: Rụng tóc, vì sốt rét rừng, đói ăn thiếu thôi nên da xanh như tàu lá. Nhưng mọi điều đó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sỹ, ngược lại còn kiên cường bất khuất hơn “dữ oai hùm”. Ý thơ có sự tương phản giữa hình ảnh xanh xao tiều tụy về bệnh tật với ý chí kiên định, vững như bàn thạch của người lính. Từng câu thơ như tôn thêm ánh hào quang cho phẩm chất người lính Tây Tiến.
Họ sống đã phi thường, chết còn phi thường hơn:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bằng ngòi bút lãng mạn, Quang Dũng đã bất tử hóa cái chết của những người lính. Anh dùng từ “về đất” như muốn nói rằng các anh đã hòa mình vào non sông nước Việt. Mang đến cho các anh một cái chết lẫm liệt và tỏa ánh hào quang. Những câu thơ nói đến mất mát hi sinh nhưng lại không hề bi thảm, ngược lại nó nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao hơn của thời đại. Anh ra đi, quê hương ôm anh vào lòng, sống núi tấu lên “khúc độc hành” đưa anh về với đất mẹ. Thử hỏi còn cái chết nào đẹp hơn thế?
Những người lính Tây Tiến đâu chỉ có can đảm và lòng dũng cảm. Mang đậm chất con người Hà Nội nên học có một tâm hồn lãng mạn, tài hoa. Sống giữa thiên nhiên khắc nghiệt người lính vẫn nhận ra nét hùng vĩ mà rất đỗi nên thơ của rừng núi Tây Bắc. Trên những nẻo đường hành quân vất vả các anh vẫn phóng tầm mắt nhìn xuống những thung lũng phú kín trong mưa để ngắm nghía những ngôi nhà thấp thoáng ẩn hiện sau làn mưa mỏng “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Rồi cả những sợi khói chiều những “cơm nếp xôi” của bàn tay giá Mai Châu làm ấm lòng người chiến sỹ và để lại cho họ nhiều kỷ niệm khó quên.
Đặc biệt, các ảnh còn tổ chức những đêm hội đuốc hoa rực rỡ, thắm thiết tình quân dân như chẳng hề có chiến tranh ở nơi đây. Bằng những nét vẽ mềm mại tinh tế của ngòi bút lãng mạn, Quang Dũng đã nâng tâm hồn người lính bay bổng trong khung cảnh Tây Bắc thơ mộng duyên dáng và tình tứ:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
…
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Ngược lại với nét hào hoa của người lính Tây Tiến, những người lính nông dân lại hiện lên giữa những khó khăn bình dị của cuộc sống đơn thường:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có hai mảnh vá
Miệng cười buốt gía
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Chính Hữu đã khắc họa hiện thực khó khăn mà người lính gặp phải. Những đó không phải là điều chủ yếu mà nhà thơ muốn nói đến. Cái nói đến ở đây là vẻ đẹp tâm hồn người lính ở nơi phát ra vầng ánh sáng lung linh chính là tình đồng đội, tình đồng chí. Ôi ấm áp biết mới cái xiết tay của đồng đội lúc gian khó. “miệng cười buốt giá” động viên nhau xua đi cái lạnh lẽo giá rét của thời tiết. Những câu thơ giản dị nhưng lại có sức lay động sâu xa lòng người đọc chúng ta. Từ sự bình thường, hình ảnh người lính của Chính Hữu vẫn ánh lên được vẻ đẹp rực rỡ của lý tưởng, sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc.
Qua đây chúng ta có thể thấy được những nét điển hình trong phong cách thơ của hai tác phẩm. Với Tây Tiến đó là sự hào hùng bi tráng và mang nhiều màu sắc biểu tượng, còn với Chính Hữu sức mạnh đến từ sự chất phác giản dị đã làm nên người lính.
Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Cái này là mình chỉ phân tích đoạn 3 tù "tây tiến đoàn binh ko mọc tóc.... sông mã gầm lên khúc độc hành." thui phải ko, có cần ptich thêm 2 đoạn đầu ko ?
Câu trả lời của bạn
Dưới đây là bài văn mẫu: Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng mà mình gửi đến bạn tham khảo!
Gợi ý làm bài
Hình ảnh người lính nói chung và những người lính thời kỳ chống Pháp nói riêng từ lâu đã đi vào văn chương như một nguồn thi cảm. Các nhà thơ viết về người lính với tất cả niềm kiêu hãnh, tự hào. Giữa muôn vàn những tác phẩm như vậy, "Tây Tiến" là bài thơ có vị trí đặc biệt. "Tây Tiến" là một trong những bài thơ sớm nhất viết về người lính cách mạng, ra đời ngay trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và trở thành thi phẩm xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau năm 1945 cùng với hình tượng người lính Tây Tiến.
Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa ( Lào).
Về xuất thân, các chiến sĩ Tây Tiền phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Mặc dù hoàn cảnh chiến đấu rất gian khổ, thiếu thốn về vật chất, thuốc men với căn bệnh sốt rét hoành hành dữ dội nhưng những người lính Tây Tiến vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Có thể nói những người lính Thủ đô đã đi vào cuộc kháng chiến mang theo vẹn nguyên cái mộng mơ, lãng mạn, hào hoa của người con đất Hà Thành.
Bài thơ được hình thành từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người đồng đội và những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính tác giả với đoàn quân Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng, kí ức để kết tinh tập trung trong bức chân dung người lính Tây Tiến.
Bằng bút pháp lãng mạn mà không thoát li hiện thực, bài thơ đã khắc họa sừng sững bức tượng đài người lính trường tồn, bất tử mãi mãi với không gian, thời gian.
Trước hết, đó là nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Ta đã từng thấy một “Tiểu đội xe không kính” dí dỏm trong thơ Phạm Tiến Duật thì nay lại thấy một “đoàn binh không mọc tóc” trong thơ Quang Dũng. Nhưng nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến bắt nguồn từ chính hiện thực đến từng chi tiết. Không mọc tóc là hậu quả của những trận sốt rét rừng khủng khiếp, rừng thiêng nước độc, thuốc men không có nên quân xanh màu lá cũng là thực tế hiển nhiên. Tố Hữu khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài cá nước cũng không quên nhắc tới sức ảnh hưởng ghê gớm của căn bệnh quái ác đó:
"Giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ"
Nhưng ẩn sau ngoại hình ấy là sức mạnh nội tâm là tâm hồn, khí phách của những người lính Tây Tiến:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Nếu câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chữ MỘNG thì câu thơ thứ hai nhấn mạnh chữ “Mơ”. Câu thơ mang vẹn nguyên cả ước vọng và điểm đến cuối cùng của đời lính Tây Tiến. Chữ “trừng” được sử dụng khá độc đáo. Người đọc có cảm tưởng như mọi ước mơ khao khát tận đáy lòng đã trào dâng và đong đầy trong ánh mắt người lính. Tứ thơ ấy gợi nhắc đến hình ảnh thơ quen thuộc:
"Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu".
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Thì ra bao giờ cũng vậy, đích đến cuối cùng của những người lính luôn là hạnh phúc. Nỗi nhớ của họ hướng cả về “dáng kiều thơm”, những bóng hình giai nhân yêu kiều, thướt tha, thanh lịch nào đó ngoài cuộc đời. Họ ra đi chiến đấu vì tự do, độc lập, nhưng trước hết là vì cuộc sống tương lai hạnh phúc mà họ khao khát. Chính vì vậy mà “dáng kiều thơm” trở thành điểm tựa, niềm hi vọng để tiếp thêm cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng.
Những người lính Tây Tiến sống anh dũng mà hi sinh cũng anh hùng. Quang Dũng không hè né tránh hiện thực khắc nghiệt nhất, đau thương nhất, tàn nhẫn nhất của chiến tranh đó là sự hi sinh:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời;
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh;
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lèn khúc độc hành."
Ba lần Quang Dũng nhắc tới sự hy sinh, nhưng lần nào cũng là hình ảnh ẩn dụ để tránh đi từ “chết”. Dường như khi người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ là khi anh tạm nghỉ chân trước cuộc đời. Cái chết không đồng nghĩa với ngừng chiến đấu vì tâm hồn, vì ước nguyện của anh sẽ mãi trường tồn với thời gian. Anh ngã xuống nhưng vẫn kịp trao ngọn lửa tuổi trẻ cho những đồng đội tiếp tục con đường cách mạng vinh quang. Sự hi sinh của các anh làm người đọc không khỏi nghẹn ngào: “Rải rác biên cương mồ viền xứ”. Chữ “rải rác” được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh cho sự quạnh quẽ, lạnh lẽo, hoang vắng gợi cảm giác xót xa đau đớn nhưng đôi cánh của lí tưởng quên mình vì Tổ quốc “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã xoa dịu nỗi đau làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến.
Có lẽ hình tượng người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử với muôn đời. Dòng lịch sử có thể đổi thay nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình tượng đẹp đẽ nhất. Qua dòng hồi tưởng của Quang Dũng, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên trong sự đối mặt với khó khăn, gian khổ, hi sinh nhưng lúc nào cũng lạc quan phơi phới yêu đời. Với âm hưởng thơ lúc dữ dội, khi sôi nổi, lúc lại vang vọng, trầm lắng, bài thơ đã dẫn hồn người đọc trở về một thời quá khứ xưa, để cùng lắng cảm trong nỗi nhớ thương da diết của Quang Dũng.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *