Bài học Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành giúp các em nắm vững đề tài, cốt truyện, các chi tiết sự việc tiêu biểu và hình tượng nhân vật chính. Thấy được tài năng của Nguyễn Trung Thành trong việc tạo dựng cho tác phẩm một không khí đậm đà hương sắc Tây Nguyên, một chất sử thi bi tráng và một ngôn ngữ nghệ thuật được trau chuốt kĩ càng. Thông qua bài học và video bài giảng, DapAnHay chúc các em có thêm nhiều tiết học hiệu quả và hấp dẫn hơn tại lớp. Chúc các em học tốt.
⇒ Cây xà nu là biểu tượng cho sự kiên cường, bất khuất, sức sống mãnh liệt và tinh thần đoàn kết, yêu thương tự do của đồng bào Tây Nguyên dưới sự hủy diệt của kẻ thù.
⇒ Tnú vừa là nguyên mẫu của vẻ đẹp ngoài đời vừa mang vẻ đẹp của con người Tây Nguyên.
⇒ Là đại diện của quần chúng, là gạch nối giữa Đảng và đồng bào dân tộc, là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống và cội nguồn. Là chỗ dựa tinh thần và là pho sử sống. Là nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại của các thế hệ người dân Tây Nguyên.
⇒ Vẻ đẹp của người phụ nữ Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
⇒ Là thế hệ tiếp nối để đưa cuộc chiến đến thắng lợi cuối cùng.
⇒ Họ là sự tiếp nối các thế hệ, làm nổi bật tinh thần bất khuất của dân tộc.
Cảm nhận về vẻ đẹp sử thi của hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
"Rừng xà nu” là truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành , tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam thời kì 1945-1975. Chủ đề của tác phẩm được bộc lộ sâu sắc do ý nghĩa khái quát và giàu chất lãng mạn, tạo hình của hình tượng cây xà nu. Để nắm được nội dung bài học cũng như dễ dàng trả lời được các câu hỏi trong phần đọc hiểu của SGK, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Rừng xà nu.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Tác phẩm “Rừng Xà Nu” ra đời vào thời điểm mùa hè năm 1965 khi đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ. Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ hình ảnh này. Để cảm nhận được sâu sắc hơn về truyện ngắn này, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích tính sử thi trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- Phân tích nhân vật cụ Mết trong tác phẩm Rừng xà nu
- Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong Rừng xà nu
- Cảm nhận về hai đoạn văn miêu tả nhân vật Tnú trong truyện Rừng xà nu
- Chất Tây Nguyên trong truyện ngắn Rừng Xà Nu
- Phân tích hình ảnh đôi bàn tay Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- Phân tích vẻ đẹp các thế hệ người Tây Nguyên trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- So sánh chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình
- Chất sử thi trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- So sánh hai nhân vật A Phủ và Tnú
- Phân tích nhân vật Tnú trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- Phân tích hình tượng cây Xà nu trong truyện ngắn Rừng Xà nu của Nguyễn Trung Thành
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Phân tích câu nói của cụ già Mết trong " Rừng Xà nu"
“Nghe rõ cha, các con, rõ cha. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo !”
Câu trả lời của bạn
DÀN Ý
a.Ý nghĩa của câu nói:
Phải cầm vũ khí của mình khi kẻ thù đã cầm vũ khí
Phải sử dụng bạo lực của chính nghĩa để đáp lại bạo lực phi nghĩa của quân thù.
b)Sự thể hiện qua hình tượng:
Sẽ ra sao nếu kẻ thù đã cầm súng mà ta cha kịp cầm lấy giáo ?
Khi đó ta vẫn có thể có lí tưởng cách mạng, chí trung kiên, lòng căm thù, sức mạnh và tinh thần dũng cảm, như Tnú đã từng có.
Nhưng ta sẽ không thể bảo vệ được hạnh phúc, tình yêu. Cũng như Tnú đã không thể bảo vệ được mẹ con Mai, và bàn tay anh còn bị kẻ thù dùng nhựa xà nu thiêu cháy.
Và sẽ ra sao khi ta cầm vũ khí đứng lên:
Cuộc khởi nghĩa hùng tráng sẽ thắng lợi. Như làng Xô man đã chiến thắng trong tiếng chiêng vang trời và ánh lửa. Sự sống sẽ bảo tồn và phát triển. Mai và đứa con như sẽ tái sinh trong Dít và bé Heng.
Kẻ thù sẽ phải đền tội ác. Tnú sẽ có thể diệt giặc - tên đồn trưởng - bằng chính bàn tay đã bị kẻ thù đốt cháy.
c)Giá trị
Đây là câu chuyện của một người, một làng. Nhưng đặt vào hoàn cảnh Rừng xà nu được viết ra, thì đó cũng là câu chuyện của một thời đại, một đất nước, một cuộc cách mạng. Và có thể còn lâu bền, lớn lao hơn thế nữa.
Như vậy, đây là chân lí mang tầm lịch sử. Vì lẽ đó, nhà văn đã để cho nó được nói lên bằng giọng nói thiêng liêng, như để mãi mãi khắc sâu vào kí ức.
Tác giả Rừng xà nu từng kể lại rằng mình rất tâm đắc với câu mở đầu thiên truyện. Anh (chị) có cảm nghĩ gì khi đọc câu văn đầu tiên mà tác giả rất tâm đắc ấy ?
Câu trả lời của bạn
“Làng ở trong tầm đại bác...” - truyện của Nguyễn Trung Thành đã mở đầu như vậy. Chỉ trong chưa đầy mười chữ làm dựng lên được cả một tư thế của sự sống trong sự đối diện cùng cái chết, của cái tồn sinh trong vòng đe dọa của sự huỷ diệt bạo tàn, cái mở của truyện thật đã cô đúc gọn gàng mà vẫn đầy uy nghi, tầm vóc. “Làng ở trong tầm đại bác..”. Một cây viết truyện ngắn đã không sai khi quả quyết rằng câu đầu trong một đoản thiên luôn luôn “là một thứ âm chuẩn” nó “giúp vào việc tạo nên âm hưởng chung của toàn bộ tác phẩm”. Ông còn nhắc nhở, trước hết là tự nhắc nhở mình, rằng “phải tập cho mình nghe được nhạc điệu” của cái câu đầu tiên đó.
Vậy thì chúng ta hãy lắng nghe âm hình chủ đạo của Rừng xà nu qua câu mở đầu vừa dẫn. Câu văn hứa hẹn về một khúc bi tráng của chiến tranh. Và cái cảm hứng bi tráng ấy, được nén, được tích tụ trong câu văn cầm trịch, sẽ đợc thi triển trong những câu còn lại của thiên truyện ngắn.
Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Câu trả lời của bạn
Cụ Mết: Là cội nguồn, là lịch sử, “là Tây Nguyên của thời Đất nước đứng lên còn trường tồn cho đến hôm nay”.
Cụ như một nhân vật huyền thoại từ hình dáng cho đến tính cách: quắc thước như xưa, râu dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng xếch ngược, ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn. Một con người trầm tĩnh, sáng suốt, bền bỉ và vững chãi.
Ngôn ngữ: cách nói của cụ cũng khác lạ (không bao giờ khen tốt, lúc vừa ý nhất cũng chỉ nói được). Tấm lòng của cụ với buôn làng, với Tnú, với cách mạng là tấm lòng thuỷ chung, cu mang đùm bọc, tình nghĩa.
Cụ Mết là khuôn mẫu của ngời già Tây Nguyên, yêu buôn làng, yêu nước, yêu cách mạng, tuổi cao chí càng cao. Hình ảnh cụ còn sống mãi với câu nói bất hủ: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Tnú: Cuộc đời Tnú đã phải trải qua bao thử thách khốc liệt từ thuở ấu thơ. Anh đã được hoàn cảnh hun đúc thành một con người có nhiều phẩm chất đáng quý.
Tnú có chữ, có văn hoá, lại sớm được giác ngộ cách mạng, một con người gan góc, trung thực.Dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách mạng.
Ngoài tình thương vợ con, Tnú còn là người nặng tình với buôn làng.
Tnú cũng chịu bao đau thương dưới bàn tay tội ác của kẻ thù.
Cuộc đời Tnú là một minh chứng hùng hồn rằng: “phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng”.
Dít: Có vẻ đẹp trẻ trung, trong sáng. Gan góc, dũng cảm.
Một cán bộ Đảng trẻ, có năng lực, nghiêm túc, tình cảm trong sáng, cao đẹp.
Phác hoạ thành công một tập thể nhân vật anh hùng, Nguyễn Trung Thành đã làm nên thành công của Rừng xà nu. Họ là hiện thân của những phẩm chất anh hùng, đẹp đẽ của các thế hệ nhân dân, tượng trng cho các thế hệ tiếp nối nhau của dân làng Xô Man.
Thông qua hệ thống nhân vật đó, tác giả đã thể hiện sinh động và nghệ thuật quy luật: có áp bức có đấu tranh, một chân lí của cách mạng miền Nam: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Phân tích tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ?
Câu trả lời của bạn
Tính sử thi của truyện thể hiện ở các mặt sau:
1. Hình tượng nhân vật Tnú được xây dựng đậm chất sử thi, mang những đặc điểm của nhân vật sử thi gợi ta nhớ đến Đăm san, Xing nhã trong sử thi Tây Nguyên. Vì:
- Tnú có sức mạnh hơn người: vượt thác băng băng như một con cá kình,..
-Tnú mang những phẩm chất tốt đẹp của cộng đồng người Xô man: thật thà, giàu tình nghĩa với quê hương, gan góc dũng cảm...
- Tnú suốt đời phụng sự lý tưởng cộng đồng. Đó là việc Tnú dấn thân một đời cho cách mạng, đấu tranh bảo vệ làng, bản.
=> Tnú là người con, người anh hùng của đất rừng Tây Nguyên, là niềm tự hào của dân làng Xô man.
2. Câu chuyện về người anh hùng trong sử thi luôn được lưu truyền bằng phương thức truyền miệng ( kể khan ). Câu chuyện về Tnú cũng vậy, được cụ Mết kể lại cho dân làng bao nhiêu lần.
3. Không gian nghệ thuật của tác phẩm có chất hoành tráng đậm chất sử thi. Không gian ấy được tạo dựng bởi những đồi, những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.
4. Sự kiện được đề cấp trong tác phẩm có chất sử thi (sự kiện có ảnh hưởng đến đời sông, sinh mạng của cả cộng đồng). Đó là sự kiện chống Mỹ cứu nước.
5. Âm hưởng của tác phẩm: Tự hào và ngợi ca. Đó là âm hưởng của các tác phẩm sử thi. Cuộc đời người anh hùng Tnú có những bi thương nhưng nhìn chung chất hùng tráng lấn át cái bi thương
* Vì tác phẩm có những yếu tố nghệ thuật tương tự tác phẩm sử thi nên có thể nói “Rừng xà nu” là một tác phẩm có chất sử thi hoành tráng.
Nêu hoàn cảnh sáng tác RỪNG XÀ NU – Nguyễn Trung Thành
Câu trả lời của bạn
1. Hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn Rừng xà nu
Năm 1962, Nguyễn Trung Thành trở lại miền Nam vừa chiến đấu vừa sáng tác. Mùa hè năm 1965, đế quốc Mĩ bắt đầu đổ quân ồ ạt vào miền Nam, các chiến dịch càn quét được tổ chức quy mô và rầm rộ hơn. Trong hoàn cảnh ấy, nhà văn muốn viết Rừng xà nu như một thứ “Hịch tướng sĩ” của thời đại, như một biểu tượng cho tinh thần bất khuất kiên cường của đồng bào Tây Nguyên nói riêng và dân tộc ta nói chung.
Truyện đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ (số 2 – 1965), sau đó được tuyển in trong tập truyện và kí Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm “Rừng Xà Nu” của Nguyễn Trung Thành. ?
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Trung Thành (còn gọi là Nguyên Ngọc) được xem là nhà văn của Tây Nguyên, bởi lẽ, cả cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông đều gắn bó với mảnh đất này. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất của nhà văn mà chúng ta phải để đến là truyện ngắn “Rừng xà nu”. Với tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật Tnú – biểu tượng cho Tây Nguyên hùng hồn, bi tráng.
Có thể nói Tnú là nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm, song song bên cạnh hình tượng rừng xà nu đại ngàn. Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nên hình tượng một người anh hùng của mảnh đất Tây Nguyên với màu sắc sử thi rất rõ nét qua câu chuyện của cụ Mết kể trong một đêm nhân khi Tnú về làng.
Tnú là người Strá, anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lớn lên nhờ sự đùm bọc và cưu mang của dân làng Xô Man. Chính vì thế, Tnú luôn gắn bó với buôn làng và sau này còn trở thành người chiến sĩ gan góc bảo vệ quê hương mình. Cụ Mết từng nói: “Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” chính là một lời khen hoàn toàn xứng đáng.
Tnú là một người có bản lĩnh, gan góc và không ngại khó khăn, thử thách. Ngày từ khi còn nhỏ, Tnú đã tỏ ra là một đứa trẻ gan dạ. Ngay cả khi những người như anh Xút, bà Nhan đi liên lạc bị chặt đầu treo cổ thì Tnú không hề sợ hãi mà vẫn dũng cảm xung phong nhận làm liên lạc. Để tránh giặc phát hiện, Tnú “không chọn đường mòn, không chọn quãng nước êm mà chọn con đường gai góc, chọn quãng nước chảy xiết” để đi và vì thế cậu đã nhiều lần “lọt qua hết vòng vây của giặc”. Khi bị giặc bắt, Tnú cũng không hề sợ hãi mà nhanh trí nuốt bức thư mật vào bụng. Đã thế, Tnú còn thách thức lại với bọn giặc khi chỉ tay vào bụng và nói: “Cộng sản ở đây này”. Ngay cả khi bị giặc tró bắt đốt mười đầu ngón tay, Tnú vẫn không kêu lên một tiếng. Tất cả những hành động này đã cho thấy một bản lĩnh kiên cường, gan góc của một thanh niên trẻ tuổi. Trẻ nhưng không bồng bột, ngược lại, anh rất bình tĩnh và thông minh.
Không chỉ gan dạ, Tnú còn là một người có ý chí và quyết tâm cao. Tnú học chữ thua Mai vì hay quên thì lấy đá đập vào đầu, những tưởng nhét được con chữ vào trí nhớ. Nhưng khi được anh Quyết giải thích và động viên thì Tnú đã hiểu ra và học hành chăm chỉ hơn. Tinh thần học hỏi và vượt lên chính mình như vậy không phải ai cũng có và cũng làm được. Chính tính cách ấy của Tnú càng khiến cho chúng ta yêu mến anh hơn.
Mặc dù cuộc đời của Tnú phải chịu quá nhiều nỗi bi kịch nhưng anh vẫn kiên cường vượt lên tất cả, trở thành người anh hùng, trở thành một hình tượng đẹp mà ai cũng phải ngưỡng mộ. Ngay từ nhỏ, anh đã mồ côi cha mẹ nhưng được dân làng nuôi nấng, chính vì thế anh yêu buôn làng của mình, cùng dân làng bảo vệ cán bộ và sẵn sàng hy sinh thân mình để bao vệ quê hương nếu cần. Từ khi còn nhỏ, bị giặc bắt, bị đày đọa: “tấm lưng chằng chịt những vết chém” nhưng Tnú chưa bao giờ nói khai lấy một lời. Khi xông ra cứu mẹ con Mai, Tnú bị giặc bắt đốt mười đầu ngón tay và tận mắt chứng kiến giặc tra tấn vợ con đến chết, trong lòng Tnú thật không còn nỗi đau nào lớn hơn. Lòng căm hận trong anh sôi lên sùng sục, và chính lòng căm thù giặc sâu sắc ấy mà khiến cho anh càng kiên cường, bền gan, ý chí gia nhập quân đội để cầm súng giết giặc trả nợ nước báo thù nhà, bảo vệ dân làng và quê hương.
Lòng căm thù giặc cũng được xuất phát từ tình yêu đối với quê hương và đối với con người của Tnú. Tận mắt chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù đánh đập rất tàn bạo, anh không thể kìm được nỗi đau đang đốt cháy lòng mình: “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy (…) ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Bất chấp cả việc bọn chúng có giáo gươm, còn mình thì tay trắng, anh vẫn xông ra để cứu mẹ con Mai bởi anh không thể đứng nhìn nín nhịn thêm được nữa. Chính tình yêu thương và căm hận đã khiến cho đôi mắt anh “nảy lửa” vừa dữ dội vừa tràn đầy nỗi căm hờn.
Không chỉ dành tình yêu cho vợ con mình, Tnú còn yêu tha thiết quê hương bản làng. Trên đường trở về thăm làng, Tnú nhớ từng kỉ niệm bên gốc cây, nhớ tiếng chày giã gạo của buôn làng đầy thương yêu. Cũng chính vì để bảo vệ quê hương mà Tnú mới chăm chỉ học hành, tham gia cách mạng và vượt lên trên mọi khó khăn đau khổ. Có thể nói rằng, tình yêu thương với vợ con, với buôn làng quê hương và lòng căm thù giặc sâu sác đã trở thành động lực, biến thành quyết tâm cao độ và hành động cụ thể hơn: dù hai bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng Tnú vẫn đi lực lượng để cầm súng chiến đấu giải phóng quê hương.
Tham gia lực lượng rồi, Tnú còn thể hiện rõ là một người có ý thức và tinh thần trách nhiệm kỷ luật cao. Tuy xa quê hương ba năm, rất nhớ nhà, nhớ buôn làng nhưng chỉ khi được cấp trên cho phép thì anh mới trở về làng và cũng chỉ về đúng một đêm như quy định trong giấy phép. Ta thấy rõ ở đây một người chiến sĩ cách mạng không chỉ gan dạ, dũng cảm mà còn rất nghiêm túc trong tác phong.
Tất cả những tính cách và phẩm chất của Tnú đã làm nên một người anh hùng kiên trung bất khuất. Chính vì thế không chỉ có dân làng Xô Man mà tất cả mọi người đều yêu mến và ngưỡng mộ anh. “Những cặp mắt tròn xoe, rồi những tiếng ré lên và những tiếng reo” của mọi người vừa thể hiện niềm vui mừng khi đón Tnú về làng vừa cho thấy sự quý trọng, yêu mến của tất cả mọi người dành cho anh.
Bằng những hình ảnh chân thực, sinh động và giàu chất sử thi, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã tạc nên bức tượng kì vĩ về con người Tây Nguyên kiên cường bất khuất trong cuộc đấu tranh chống Mĩ đầy gian lao. Qua nhân vật Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu”, tác giả đã gửi gắm những thông điệp mang tính cá nhân và cộng đồng sâu sắc.
Nhân vật trong “ Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành đều là những con người kiên cường bất khuất của núi rừng Tây Nguyên trong công cuộc chống Mĩ cứu nước, nhưng mỗi người lại mang những nét riêng, những vẻ đẹp riêng khó quên. Hãy phân tích các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít để làm sáng tỏ điều đó. ?
Câu trả lời của bạn
1.Nhân vật Cụ Mết.
– Là trưởng làng của làng Xô Man là một người có tiếng trong làng, ông là một người hơn 60 tuổi, nhưng vẫn có một thân hình khỏe mạnh và thân hình vững chắc, ông là một mẫu hình lý tưởng của con người làng Xô Man, mọi người trong làng đều yêu quý và kính trọng ông bởi ông là một người có kinh nghiệm và là một người có đức trong làng.
– Là một người có uy tín nên được mọi người rất kính trọng mỗi khi ông nói mọi người đều lắng nghe và tiếp thu bởi những gì ông làm đều xuất phát từ lợi ích của làng Xô Man, ông có rất nhiều những hành động đáng quý:nhường muối cho người đau, coi T Nú là con trong nhà và đãi những món ăn ngon của quê hương. Ông là người luôn tin tưởng vào cách mạng: nuôi ngầm bộ đội trong 5 năm, T Nú là nhân vật đó, ông giáo dục T Nú là một cán bộ yêu nước, và biết giữa truyền thống dân tộc.
– Ngoài ra cụ cũng giáo dục cho cả làng Xô Man: “ Cán bộ là đảng, đảng còn, nước còn”. Những lời căn dặn của cụ Mết nhằm tin tưởng một điều với đảng với dân, cụ là một người có công rất lớn trong làng Xô Man.
2. Nhân Vật T Nú
– Là một thanh niên trẻ, được cụ Mết dậy dỗ và trở thành một người chiến sĩ yêu nước anh là biểu hiện cho lòng dũng cảm, và hiện thân cho thế hệ trẻ dũng cảm ở làng Xô Man.
– Là một kiên cường trung thực cũng rất trung thành với sự nghiệp của Đảng và một lòng trung thành với đất nước.
– T Nú là một người rất kiên trì từ hồi nhỏ đã cùng Mai tiếp tế cho cán bộ và là người đưa thư, mang trí lớn vững bền từ hồi nhỏ, khi học chữ không học được đã dùng đá đập vào đầu, ..sự kiên trì của T Nú thể hiện qua rất nhiều những hành động của anh, khi bị bọn gặc bắt bị tra tấn dã man những vẫn không khai.
– Một người dũng cảm và kiên trì cho dù chết cũng không khai ra những người hoạt động cách mạng, khi thoát được tù ngục anh vẫn tham gia vào hoạt động và trở thành một mẫu người lý tưởn cho mọi người học tập và noi theo. Một người sống có lý tưởng luôn hết mình vì Tổ quốc, anh là một người có chí lớn khi bị những tên giặc xấu xa đốt hết 10 ngón tay anh vẫn chịu đựng, sự chịu đựng của anh thật đáng khen ngợi.
– Tình yêu của Mai và T Nú: hai người là những người đồng đội lớn lên cùng nhau và trải qua nhiều khó khăn, khi T Nú bị bắt vào ngục tù mai đau khổ, và khi thoát được thì Mai lại dung dung những giọt nước mắt thường T Nú, những hy sinh mất mát của T Nú đã để lại những day dứt trong lòng người đọc, T Nú hy sinh đôi bàn tay của mình, bàn tay đó là bàn tay của sự kiên trì một ý chí quyết tâm, lòng dũng cảm.
– Một người chiến sĩ như T Nú đã biểu hiện cho sức mạnh của cả làng Xô Man, những cây xà nu đứng vững chắc cũng giống như T Nú dù có gặp muôn vàn khó khăn mất mát những một lòng vẫn luôn cố gắng vì đất nước.
3. Cụ Dớt và Heng và dân làng Xô Man.
– Là những người làng Xô Man và đều là những người yêu nước, đây là những con người luôn luôn vì đất nước và sự an nguy của làng xô man.
– Dân làng Xô Man cũng là những con người có tấm lòng yêu nước, luôn đoàn kết gắn bó với nhau để bảo vệ sự an nguy của làng Xô Man, được Cụ Mết dạy cho nhiều điều nên trình độ hiểu biết và nhận thức cũng được tăng lên, khi thấy người chiến sĩ T Nú trở về thì họ rất vui mừng. Họ là hiện thân cho những rừng xà nu vững chắc họ kiên cường bất khuất và luôn gắn bó đồng lòng với nhau để đánh thắng được kẻ thù. Khi quân giặc đến thì bất kì ai cũng đều chiến đấu hết mình…
Giải thích ý nghĩa nhan đề Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành ?
Câu trả lời của bạn
- Rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm, cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ hình ảnh này.
- Cây xà nu gắn bó mật thiết với đời sống và tinh thần của dân làng Xô Man.
- Cây xà nu là biểu tượng cho phẩm chất cao đẹp của con người Tây Nguyên kiên cường, bất khuất
Phân tích hình ảnh cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành để chứng tỏ hình tượng này là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc, góp phần bộc lộ chủ đề của tác phẩm. ?
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài:
– Gắn bó sâu nặng với chiến trường Tây Nguyên, Nguyễn Trung Thành đã có nhiều tác phẩm nổi tiếng phản ánh sinh động cuộc chiến tranh vệ quốc anh dũng của nhân dân vùng đất này.
– Rừng xà nu là bản anh hùng ca, ca ngợi ý chí kiên cường của dân làng Xô man trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm giàu chất sử thi và cảm hứng lãng mạn, một trong những thành công nổi bật là nhà văn đã xây dựng được một hình tượng nghệ thuật độc đáo, giàu ý nghĩa biểu tượng: hình tượng cây xà nu.
2. Thân bài:
a. Cây xà nu – một hình tượng nghệ thuật độc đáo:
– Thanh nhã mà rắn rỏi, ham ánh sáng mặt trời: “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tấp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra thơm mở màng”.
– Sức sống mãnh liệt: Trong hoàn cảnh chiến tranh, bom đạn dữ dội và khốc liệt cây xà nu vẫn đẹp, vẫn xanh, vẫn trẻ trung tràn đầy nhựa sống. Lớp cây này ngã xuống, lớp cây khác lại nẩy mầm, sức sống từng giờ, từng phút sinh sôi, vượt lên trên cái chết
“ Nó vẫn sống đấy. Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này”.
– Hiên ngang bất khuất hào hùng: Cây xà nu không bao giờ chịu khuất phục trước bom đạn bạo ngược. Đạn đại bác rót thành lệ mỗi ngày, làm bị thương hàng vạn cây. Những cây non bị chết, những cây đã trưởng thành nhựa “ bầm đen lại và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn”, vết thương lành lại, cây vươn lên cường tráng như cũ, thay thế cho những cây đã ngã.
– Chất sử thi của truyện được tạo thành bởi hình tượng cây xà nu: Cây xà nu không tồn tại đơn độc lẻ loi mà nối tiếp nhau đến tận chân trời, đến hút tầm mắt tạo thành một rừng xà nu trùng trùng, điệp điệp “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở dân làng”.
b. Cây xà nu – hình tượng biểu trưng cho sức sống, phẩm chất của người Tây Nguyên chống Mỹ.
– Cây xà nu đẹp như hình tượng thơ: thanh nhã mà rắn rỏi, ham ánh sáng mặt trời cũng như người dân Tây Nguyên khao khát tự do. Cây xà nu cần ánh nắng mặt trời để tồn tại, phát triển giống như người Tây Nguyên cần lý tưởng Cách mạng soi rọi, là chân lý của lịch sử.
– Cây xà nu tượng trưng cho những đau thương mất mát lớn lao, cho niềm uất hận không
nguôi của người dân Xô man trong những năm tháng Mỹ – ngụy khủng bố ác liệt “ Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương”. Đó là những cái chết thảm thương của bà Nhan, anh Sút, mẹ con Mai.
– Cây xà nu hiên ngang, bất chấp bom đạn cũng như người dân Tây Nguyên kiên cường, bất khuất gắn bó với cách mạng: Cụ Mết tiêu biểu cho sức sống quật khởi của làng Xô man, người giữ ngọn lửa khát vọng tự do, gắn bó với Đảng với cách mạng được ví nhưmột cây xà nu xà nu lớn; Tnú tiêu biểu cho sự gan góc, táo bạo, dũng cảm với lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, bất kể đòn roi, vết chém của bọn ác ôn, là cây xà nu nhiều lần bị thương nhưng vết thương trên lưng Tnú “ứa ra thành một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quyện lại, tím thẫm như nhựa xà nu”; Dít cô gái trẻ giàu nghị lực, có bản lĩnh. Dít trưởng thành mau chóng trong phong trào chống Mĩ để trở thành người lãnh đạo của dân làng Xô man là cây xà nu vượt lên rất nhanh thay thế cho những cây đã ngã.
– Làng Xô man chính là rừng xà nu dồi dào sức sống “cạnh một cây mới ngã đã có bốn năm cây con mọc lên”, thế hệ này gục ngã có thế hệ khác tiếp nối, đảm đương sứ mệnh đánh giặc bảo vệ quê hương.
c. Cây xà nu vừa làm nền cho câu chuyện vừa là một nhân vật trong chuyện
– Mở đầu và kết thúc đều là hình ảnh những đồi xà nu nối tiếp đến chân trời làm cho câu chuyện vừa giàu chất lãng mạn – chất thơ hùng tráng của núi rừng Tây Nguyên, chất Tây Nguyên, vừa đậm chất sử thi. Phần kết thúc truyện vừa tô đậm chủ đề vừa gây dư vang trong lòng người đọc.
– Cây xà nu miêu tả như một nhân vật có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân, tham dự những sự kiện quan trọng có ý nghĩa sống còn của dân làng Xô man. Cây xà nu và con người được khắc họa trong quan hệ tương đồng tạo manh ý nghĩa biểu tượng rất đẹp và sâu sắc.
* Đánh giá:
Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới, đã miêu tả nó đậm nét đầy ấn tượng từ đó chủ đề của tác phẩm bộc lộ rõ rệt và sâu sắc.
III. Kết luận:
– Chọn cây xà nu làm hình ảnh tượng trưng đẹp đẻ và gợi cảm, cây xà nu tượng trưng cho cuộc sống và phẩm chất cao đẹp của ngườiTây Nguyên.
– Hình ảnh cây xà nu là một thành công độc đáo trong sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành.
viết 1 đoạn văn ngắn về ý nghĩa đôi bàn tay Tnu
Câu trả lời của bạn
Truyện ngắn Rừng xà nu là câu chuyện kể về cuộc đời của nhân vật Tnú, tiêu biểu cho số phận và con đường đến với cách mạng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong thời kì chống Mĩ cứu nước, giải phóng miền Nam. Tính cách nổi bật của Tnú đã được bộc lộ ngay từ lúc còn nhỏ: gan góc và táo bạo dũng cảm và chất phác ; đặc biệt là sự gắn bó và trung thành tuyệt đối với Ií tưởng cách mạng. Hình ảnh đôi bàn tay thể hiện cuộc đời giản dị và tính cách anh hùng của nhân vật Tnú – người con và niềm tự hào của dân làng Xô Man kiên cường, bất khuất.
Mở đầu là hình ảnh hai bàn tay lúc Tnú còn nhỏ. Ngày ngày, Tnú cùng cô bé Mai lên rẫy trồng tỉa, mang gạo nuôi cán bộ Quyết hoạt động bí mặt trong rừng sâu. Công việc hết sức nguy hiểm nhưng Tnú không hề sợ hãi. Khi anh Quyết hỏi: Các em không sợ giặc bắt à ? Nó giết như anh Xút, như bà Nhan đó; Tnú đã trả lời ngay: Cụ Mết nói: Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn. Sự hiểu biết về Đảng, về cách mạng của Tnú tuy hồn nhiên, mộc mạc nhưng không kém phần đúng đắn và sâu sắc.
Bàn tay Tnú vụng về, ngượng nghịu cầm viên phấn làm bằng đá trắng lấy từ núi Ngọc Linh về để tập viết chữ lên tấm bảng đen đan bằng nứa hun khói xà nu. Tnú đã cầm đá đập vào đầu chảy máu vì giận mình học bài mãi không thuộc, hay quên cái chữ. Hành động ấy thể hiện quyết tâm của Tnú, bởi Tnú nghĩ: Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi.
Bàn tay Tnú khéo léo giấu cái thư bí mật của anh Quyết mang về huyện theo đường giao liên để nộp cho cấp trên. Khi bị giặc bắt, Tnú đã kịp nuốt luôn cái thư. Giặc giải Tnú về làng, bắt Tnú khai ra người nào là cộng sản? Cộng sản ở đâu? Tnú đã dũng cảm đặt tay lên bụng mình rồi nói: Ở đây này! Bị giặc bỏ tù, ba năm sau, Thú vượt ngục trở về làng, đôi tay anh cần mẫn lấy đá trên đỉnh núi Ngọc Linh về để dân làng mài giáo mác giết giặc.
Lớn lên, đôi bàn tay Tnú thể hiện tình yêu thủy chung với vợ con và quyết tâm chiến đấu chống quân thù. Trong cái đêm lũ giặc hèn hạ dùng mẹ con Mai để nhử bắt Tnú nhằm triệt phá phong trào cách mạng của dân làng Xô Man, hai bàn tay của anh bất lực bíu chặt lấy gốc cây, bứt đứt hàng chục trái và khi từ chỗ nấp cắn răng nhìn cảnh vợ con bị giặc tra tấn: Cây sắt thứ hai đập vào trước ngực Mai, chị lật đứa bé ra sau lưng. Nó lại đánh sau lưng, chị lật thằng bé ra trước ngực. Trận mưa cây sắt mỗi lúc một dồn dập. Không nghe thấy tiếng thét của Mai nữa. Chỉ nghe đứa bé khóc ré lên một tiếng rồi im bặt. Chỉ còn tiếng cây sắt nện xuống hừ hự.
Mặc dù cụ Mết ra sức ngăn cản nhưng trước cảnh vợ con bị giặc đánh đập tàn bạo, Tnú không thể chịu nổi: ...hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn. Tình yêu thương vợ con tha thiết và căm thù giặc sồi sục khiến Tnú thà chết xông ra để cứu vợ con: Một tiếng hét dữ dội. Tnú đã nhảy xổ vào giữa bọn lính. Anh không biết đã làm gì. Chì thấy thằng lính giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng Dục thảo chạy vào nhà ưng. Tiếng lên đạn lách cách quanh anh. Hình ảnh hai mẹ con Mai chui vào ngực anh, hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai và hai mẹ con chết trong vòng tay ấy như đẩy nỗi đau đớn lên đến tột cùng. Tnú có sức mạnh, có lòng gan dạ và quả cảm, nhưng anh không cứu được vợ con. Cuối cùng, anh bị giặc bắt vì chỉ cố đôi bàn tay không giữa lũ giặc hung tàn lăm lăm súng đạn. Câu chuyện bi thương của Tnú đã thành một bài học xương máu mà cụ Mết mong Tnú và con cháu sau này luôn luôn ghi nhớ: Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo! Đó là chân lí giản dị mà vô cùng đúng đắn của thời đại đấu tranh giải phóng dân tộc. Chân lí ấy mang đến cho tác phẩm một ý nghĩa khái quát rất cao.
Ấn tượng không thể phai mờ trong lòng người đọc chính là hình ảnh đôi bàn tay Tnú bị giặc quấn giẻ tẩm nhựa xà nu rồi đốt cháy trong cái đêm anh bị bắt. Hình ảnh ấy vừa có ý nghĩa tố cáo tội ác dã man của kẻ thù, vừa thể hiện lòng dũng cảm, khí phách kiên cường của Tnú. Đây là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc, giàu tính tạo hình, được nhà văn Nguyễn Trung Thành chủ ý tô đậm và nhấn mạnh. Bọn giặc đốt mười ngón tay Tnú nhằm khủng bố và tiêu diệt ý chí phản kháng của dân làng Xô Man. Thằng ác ôn Dục đã giơ cao ngọn đuốc, cười sằng sặc và dọa: Đứa nào muốn cầm rựa, cầm giáo thì coi bàn tay thằng Tnú đây ! Kẻ thù tìm mọi cách để tiêu diệt lòng yêu nước của dân làng Xô Man. Chúng tra tấn Tnú ngay trước sân nhà rông, trong không khí căm thù sôi sục của dân làng.
Tác giả miêu tả rất kĩ hình ảnh mười ngón tay Tnú bị giặc đốt cháy bằng những câu văn gây xúc động mạnh mẽ:
Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc.
Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng.
Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu lên. Anh Quyết nói: "Người cộng sản không thèm kêu van...". Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Cháy, cháy cả ruột đây rồiỊ Anh Quyết ơi! Cháy! Không, Tnú sẽ không kêu! Không!
Xây dựng nhân vật Tnú, tác giả tập trung miêu tả hình ảnh đôi bàn tay. Bàn tay như một chi tiết nghệ thuật thể hiện tính cách, qua bàn tay có thể thấy được cuộc đời, số phận và tính cách nhân vật.
– Khi còn lành, bàn tay Tnú cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho. Khi học hay quên chữ, bàn tay đó dám cầm đá đập vào đầu mình để trừng phạt. Bàn tay đặt lên bụng mình mà nói: “Cộng sản đây này!”.Khi địch tra khảo, sẵn sàng nhận thêm những vết dao chém của kẻ thù lên lưng v.v…).
– Hai bàn tay Tnú đã bị giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu rồi đốt. Mười ngón tay anh thành mười ngọn đuốc. Nguyễn Trung Thành đã miêu tả thật cụ thể cái cảm giác đau đớn rùng rợn ấy: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”.
– Hai bàn tay Tnú, mỗi ngón chỉ còn hai đốt. Hai bàn tay cụt ngón đó là chứng tích đầy căm hận, là mối thù mà suốt đời anh phải trả. Mười ngọn đuốc nơi mười ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa đồng khởi của dân làng Xô-man. Và bàn tay của Tnú bị lửa thiêu cháy, mỗi ngón tay còn hai đốt ấy vẫn cầm chắc ngọn dáo, cây súng đi tìm giặc để trả thù. Đến cuối truyện, hình ảnh bàn tay Tnú đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc ngay trong hầm ngầm cố thủ của nó.
chất thơ trong bài rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành ,giúp m với ạ
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Trung Thành còn có bút danh khác là nhà văn Nguyên Ngọc ông viết truyện ngắn "Rừng xà nu" sau những ngày đi tìm kiếm thực tế sáng tác tại núi rừng Tây Nguyên hoang sơ. Truyện ngắn "Rừng xà nu" nhằm ca ngợi những người dân Tây Nguyên kiên cường, trung thành, bất khuất trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.
"Rừng xà nu" là một truyện ngắn chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn, tình cảm và lòng yêu nước vô cùng to lớn của những người dân vùng núi đại ngàng. Tác phẩm chính là một bản hùng ca bi tráng mang đậm tính sử thi viết về những người dân Tây Nguyên gan dạ, mưu trí, yêu nước hơn yêu cả mạng sống của mình. Nhờ có tinh thần bất khuất kiên cường đó mà toàn dân ta mới chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống lại hai kẻ thù xâm lược vô cùng lớn mạnh.
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm chính là hình ảnh những cánh rừng xà nu. Một rừng xà nu bạt ngàn xanh tươi, trải dài tới hút tầm mắt. Một rừng xà nu mà không cây nào không bị thương, bởi mỗ khi kẻ thù muốn đánh người dân nơi đây chúng đều thả rất nhiều bom đạn trút xuống cánh rừng xà nu. Nên việc xà nu bị thương là điều vô cùng dễ hiểu. Nhưng dù bị thương hay vết thương có khiến cho nhựa cây chảy ra thật nhiều thì những cây xà nu kia cũng không bao giờ chết. Chỗ vết thương theo thời gian sẽ tạo thành một vét sẹo mà thôi. Không có một loài cây nào ham sống như cây xà nu, nếu một cây to bị gục xuống thì ngay dưới chân nó lại có vài cây con mọc lên. Những cánh rừng xà nu cứ vì thế mà xanh tươi mãi mãi.
Hình ảnh những cây xà nu kia chính là biểu tượng của người dân Tây Nguyên, những con người luôn trung thành với Đảng với cách mạng và Bác Hồ. Những con người Tây Nguyên từ người già như cụ Mết, cho tới T nú, Mai, Dít và bé Heng đều có tinh thần yêu nước. Những người dân của làng Strá dù ít dù nhiều dù lớn dù bé cũng luôn một lòng hướng về quê hương của mình, có lòng căm thù giặc sâu sắc.
Nhân vật chính trung tâm song song với hình tượng cây xà nu chính là anh T nú một người anh hùng. Một chiến sĩ cách mạng kiên trung dù trải qua nhiều đau khổ khó khăn trong tình cảm riêng tư nhưng T nú càng thêm kiên cường và căm thù giặc sâu sắc. T nú vốn là một cậu bé chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống ba mẹ anh qua đời trong một trận càn quét của giặc. T nú được cụ Mết và người dân trong làng Xô Man nuôi dưỡng nên người. Ngay từ nhỏ T nú đã tỏ rõ tinh thần anh dũng, kiên cường của mình, T nú làm liên lạc việc đưa thư cho các chiến sĩ cách mạng, để tránh sự truy đuổi của kẻ thù T nú thường đi đường mới không đi những con đường mòn dễ đi. Rất nhiều nhiệm vụ khó đã được T nú hoàn thành. Có lần T nú bị giặc bắt được chúng tra tấn T nú nhưng anh vẫn kiên cường không khai mà âm thầm nuốt lá thư vào bụng của mình để bảo đảm an toàn của bức thư.
Ngày còn nhỏ T nú và Mai là bạn thanh mai trúc mã, cả hai được cán bộ Quyết dạy chữ. Mai thông minh học đâu nhớ đó, còn T nú thì cứ quên hoài nên anh đã lấy viên đá đập vào tay của mình để nhắc nhở mình phải ghi nhớ. Khi lớn lên Mai và T nú kết hôn họ đã có thêm em bé là kết quả tình yêu của hai người. Nhưng Mai bị bọn tay sai bắt đi tra tấn dã man khiến cho Mai và em bé trong bụng tử vong. T nú đau đớn ôm xác vợ con. Anh bị bọn chúng tra tấn dã man và đốt cháy mười ngón tay, nhưng T nú không hề cảm thấy đau đớn nỗi đau trong lòng anh còn lớn hơn nỗi đau thể xác. T nú như một cây xà nu trưởng thành bị giặc bắn phá bị thương, nhưng vẫn luôn kiên cường vươn lên và không bao giờ gục ngã.
Truyện ngắn "Rừng xà nu" của nhà văn Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn vô cùng thành công của nhà văn viết về đề tài những người dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Hình ảnh những cây xà nu anh dũng hiên ngang tựa như những người dân làng Xô Man bất khuất trung hậu, quả cảm.
Thiên nhiên trong Rừng xà nu thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây”, thì kết túc tác phẩm vẫn là rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Đó chính là bức tranh thiên nhiên toàn cảnh về cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn và hào hùng của dân tộc ta.
1, Em hãy cho biết phép nhân hóa trong đoạn trích sau được tạo ra bằng cách nào và nêu tác dụng:
"Cả rừng xà đu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề thơm ngào ngạt,long lanh dưới nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn"
Câu trả lời của bạn
Phép nhân hóa có trong đoạn trích là: không bị thương, vết thương, bầm, cục máu lớn.
Phép nhân hóa được chỉ ra bằng cách gán những hoạt động, trạng thái của con người cho sự vật.
Tác dụng: Phép nhân hóa đã thể hiện được nỗi đau xót của những cây xà đu khi bị chặt mất. Sự đau khổ hiện lên trên nhiều nét văn của tác giả. Mặc dù sự đau đớn đó tỏa ra một mùi thơm ngào ngạt và màu sắc tuyệt vời được tỏa ra dưới ánh nắng vàng ươm của mùa hè nhưng nó hông làm dịu đi nỗi đau đớn tột độ của những cây xà đu. Nhựa cây xà đu được vì như máu, chứng tỏ rằng cây xà đu cũng như con người, nó cũng có sự sống. Phép nhân hóa đã làm cho những điều nói ên được rõ ràng hơn.
1.Phân tích tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
2.Phân tích hình tượng Rừng xà nu trong tác phẩm Rừng xà nu
3.Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu
Câu trả lời của bạn
Bài Mẫu Số 1: Phân Tích Truyện Ngắn Rừng Xà Nu
Mảnh đất Tây Nguyên cùng với những người con bất khuất đã trở thành đề tài hấp dẫn đối với các nghệ sĩ trong đó có nhà văn Nguyễn Trung Thành. Ông nổi tiếng với truyện ngắn “Rừng xà nu”. Đây là truyện ngắn đã góp phần tạo nên sự thành công trong sự nghiệp sáng tác của tác giả.
Nguyễn Trung Thành viết “Rừng xà nu” năm 1965 và tác phẩm này được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Nhan đề của truyện đã gợi nên hình ảnh những cánh rừng xà nu bạt ngàn và sức sống mãnh liệt của nó cũng như sức sống mãnh liệt của buôn làng Xô Man.
Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh những “rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Xà nu là loại cây thuộc họ thông, mọc rất nhiều ở vùng Tây Nguyên. Nó thường mọc thành rừng rộng lớn và là đặc trưng riêng của mảnh đất anh dũng này. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh rừng xà nu bao xung quanh, che chở cho buôn làng tránh những trận đại bác của quân địch. Sự khốc liệt của chiến tranh đã khiến “cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”, “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”.
Đây là loài cây gắn bó mật thiết như một người bạn đồng hành với dân làng. Cuộc sống của họ từ khi sinh ra, lớn lên và khi về với đất mẹ cũng đều gắn liền với cây xà nu. Dưới tán xà nu là những hoạt động sinh hoạt của cộng đồng, là những buổi hò hẹn của tình yêu đôi lứa. Ngọn lửa xà nu cháy trong mỗi bếp, ngọn đuốc xà nu sáng rực trong đêm nổi dậy chống kẻ thù của dân làng Xô Man và khói xà nu xông bảng nứa đen kịt để anh Quyết dạy Tnú và Mai học bài đã chứng tỏ công dụng, vai trò to lớn của cây xà nu đối với người dân Tây Nguyên. Lửa xà nu còn soi sáng “xác mười tên lính giặc ngổn ngang” để thể hiện sức mạnh, ý chí kiên cường cùng lòng dũng cảm của buôn làng Xô Man.
Không chỉ mang ý nghĩa tả thực, cây xà nu còn mang ý nghĩa biểu tượng cho số phận và phẩm chất cao đẹp của những con người Tây Nguyên. Rừng xà nu phải gánh chịu biết bao trận đại bác của địch khiến chúng “đổ ào ào như một trận bão” khi “bị chặt đứt ngang nửa thân mình”. Những vết thương đó không lành được mà “cứ loét mãi ra” gợi cho chúng ta thấy được bao đau thương, mất mát mà nhân dân nơi đây phải gánh chịu. Nhưng đạn bom của kẻ thù không thể ngăn được sự sinh sôi, nảy nở của cây xà nu: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Chúng lớn rất nhanh, “đạn đại bác không giết nổi chúng”. Vì thế mà “hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Hình ảnh ấy là biểu tượng cho sức mạnh quật cường, bất diệt của những thế hệ người con Tây Nguyên. Thế hệ trước ngã xuống đã có thế hệ sau đứng lên tiếp nối. Đây còn là loài cây ham ánh sáng mặt trời: “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”. Điều đó cũng giống như việc Tnú và dân làng Xô Man đi theo ánh sáng của cách mạng.
Hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Ông đã sử dụng cái nhìn điện ảnh để tái hiện lại khung cảnh một cách sinh động. Có khi ông nhìn từ xa để thấy toàn bộ những cánh rừng xà nu, khi thì sát lại gần để thấy cận cảnh những cây xà nu con đang vươn lên một cách đầy kiêu hùng. Nó không phải là một loài cây bình thường mà là loài cây mang dáng dấp anh hùng của con người Tây Nguyên.
Đại diện tiêu biểu cho những con người ấy là Tnú, người chiến sĩ kiên cường, bất khuất. Ngay từ khi còn nhỏ, Tnú đã vào rừng nuôi giấu cán bộ. Khi học chữ thua Mai, Tnú đã cầm một hòn đá rồi tự đập vào đầu mình. Nhờ có anh Quyết khuyên nhủ: “Tnú phải làm cán bộ thay anh. Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi” nên Tnú quyết tâm học chữ. Khi đi liên lạc, Tnú không đi đường mòn vì có giặc vây bắt, anh “xé rừng mà đi”, “lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Sự nhanh trí của anh còn được thể hiện qua hành động “nuốt luôn cái thư” khi bị địch bắt. Anh thật hiên ngang trả lời câu hỏi cán bộ ở đâu của địch bằng cách để tay lên bụng và nói “Ở đây này”.
Lớn lên, Tnú cùng dân làng mài vũ khí để chiến đấu. Tin này đến tai thằng Dục, nó đã tìm cách để bắt Tnú. Nó bắt Mai và con trai Tnú nhằm mục đích: “Bắt được con cọp cái và cọp con, tất sẽ dụ được cọp đực trở về”. Nhưng Tnú không cứu được mẹ con Mai vì trong tay anh không có vũ khí. Anh bị bọn thằng Dục bắt và tra tấn bằng cách quấn giẻ đã tẩm dầu xà nu lên mười đầu ngón tay rồi đốt. Nỗi đau mất vợ và đứa con trai đầu lòng cùng nỗi đau về thể xác dường như quyện hòa vào nhau trở thành nỗi căm hờn, uất hận. Nhưng Tnú “không kêu lên một tiếng nào” mà “trợn mắt nhìn thằng Dục”. Dường như, ý chí và tinh thần quật cường đã khiến: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”.
Tnú không chỉ là người mang phẩm chất anh hùng mà anh còn là con người sâu nặng nghĩa tình. Tnú là một người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ con. Phải chứng kiến cảnh mẹ con Mai bị giặc tra tấn, anh “đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”, “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Anh lao ra cứu mẹ con Mai mà không sợ hiểm nguy. Anh đã quên đi cả sinh mạng của mình để cứu lấy vợ con, cứu lấy những người anh yêu thương nhất.
Tnú lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng nên anh yêu quê hương sâu nặng. Khi được nghỉ phép, anh đã về thăm làng, “xúc động để vòi nước của làng mình giội lên khắp người như ngày trước”. Anh yêu tha thiết quê hương mình, yêu cả tiếng giã gạo của buôn làng thổn thức trong lòng anh bao nhiêu năm nay. Nếu không phải một người gắn bó sâu nặng với quê hương thì Tnú sẽ không có những cảm nhận tinh tế đến như vậy.
Bên cạnh nhân vật Tnú, nhà văn còn khắc họa các nhân vật anh Quyết, cụ Mết, Mai, Dít, Heng,…để làm nổi bật lên những thế hệ anh hùng nối tiếp nhau đứng lên chống giặc. Anh Quyết là cán bộ cách mạng, là người đã dạy chữ cho Tnú và Mai. Đồng thời, anh cũng là người nhen nhóm tinh thần đấu tranh cho người dân Tây Nguyên. Anh giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục tinh thần cách mạng cho thế hệ trẻ. Bằng những lời nói thủ thỉ, tâm tình, anh đã khơi dậy được lòng yêu nước, lòng quyết tâm chiến đấu vì lí tưởng cách mạng của Tnú.
Sẽ là một thiếu sót lớn nếu chúng ta không nhắc đến cụ Mết. Cụ là già làng, là người anh hùng thuộc thế hệ trước lãnh đạo buôn làng nổi dậy chiến đấu. Cụ cũng là người kể cho thanh niên trong làng nghe về cuộc đời của Tnú. Cụ Mết đã khẳng định con đường cách mạng mà nhân dân phải đi: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là một chân lí đúng đắn để nhân dân ta tin tưởng và làm theo. Nhân dân ta không thể chịu áp bức mãi được, vì vậy phải cầm giáo đứng lên đấu tranh cho chính nghĩa.
Những thế hệ nối tiếp con dường của cụ Mết, Tnú là Dít và Heng. Dít lớn lên là chính trị viên xã đội, bí thư chi bộ nhưng từ khi còn nhỏ, Dít đã là một cô bé gan dạ. Cứ sẩm tối, Dít lại “bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên”. Bị giặc bắt, chúng bắn từng viên một “sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít” khiến “nó khóc thét lên” nhưng “đến viên thứ mười nó chùi nước mắt, từ đó im bặt” và nhìn bọn giặc “bình thản lạ lùng”. Tuy chỉ là một cô bé nhưng Dít đã có bản lĩnh, nghị lực phi thường, không run sợ trước súng đạn kẻ địch.
Ngay cả cậu bé Heng, ngày Tnú ra đi “nó mới chỉ đứng đến ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy” thì khi Tnú trở về thăm làng cậu bé ấy đã “mang một khẩu súng trường Mát” ra vẻ một người lính thực sự. Heng dẫn Tnú đi qua các con đường “chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút lại gặp một giàn thò chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chắn gẫy đôi ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh”. Chú bé ấy dũng cảm ấy đã góp phần tạo nên một tập thể anh hùng trong những ngày chống đế quốc Mĩ ác liệt của dân làng Tây Nguyên.
Xuyên suốt câu chuyện là chất sử thi hùng tráng được thể hiện qua đề tài, chủ đề, nhân vật, giọng điệu của tác giả. “Rừng xà nu” đã tái hiện không khí hào hùng, sục sôi của cuộc đấu tranh chống đế quốc của dân làng Xô Man nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung. Hệ thống nhân vật cũng được khắc họa là những con người anh hùng, bất khuất xuất hiện trên nền không gian rộng lớn. Ngoài ra, tác giả còn sáng tạo hình tượng cây xà nu mang đậm tính biểu tượng cho những con người Tây Nguyên. Giọng văn ngợi ca hào hùng, khí thế như không khí cuộc chiến đấu chống kẻ thù.
Nhà văn xây dựng nên hai tuyến nhân vật mang tính đối lập giữa bọn thằng Dục tàn ác và những thế hệ anh hùng để làm nổi bật lên tinh thần, ý chí đấu tranh của dân làng. Kiểu kết cấu truyện lồng trong truyện đã mang lại sức hấp dẫn cho tác phẩm. Bên cạnh câu chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man còn là câu chuyện về cuộc đời người anh hùng Tnú. Tất cả những yếu tố đó đã làm thiên truyện sống mãi trong lòng độc giả. Nhớ đến Tây Nguyên là chúng ta nhớ đến những cánh rừng xà nu bạt ngàn và các thế hệ anh hùng nối tiếp nhau chống giặc.
Bài Mẫu Số 2: Phân Tích Truyện Ngắn Rừng Xà Nu ( Chuẩn)
Nguyễn Trung Thành là nhà văn sinh ra ở vùng đất Thăng Bình, Quảng Nam, tên khai sinh của ông là Nguyên Ngọc. Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước lầm than khi phải trải qua hai cuộc kháng chiến lớn của dân tộc, hơn ai hết, ông trân quý và khâm phục những con người hy sinh hết mình cho cách mạng, cho Tổ quốc thân yêu. Đặc biệt đối với vùng đất Tây Nguyên anh dũng cùng những con người bộc trực, dũng cảm, kiên trung một lòng gắn bó cách mạng được ông ưu ái và dành nhiều niềm thương yêu. Bởi vậy mà bao nhiêu cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên anh hùng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận để ông viết nên tác phẩm Rừng xà nu đầy thành công, trở thành một kiệt tác gắn bó với tên tuổi của mình.
Rừng xà nu được viết vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước oanh liệt. Tác phẩm được in trên tạp chí Văn nghệ giải phóng, trích trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Đây là bài ca ca ngợi bản lĩnh, ý chí sắt đá, bất khuất kiên cường của đồng bào Tây Nguyên.
Rừng xà nu quanh làng Xô man được tác giả giới thiệu trong đoạn đầu tác phẩm đầy độc đáo. Một rừng cây luôn "nằm trong tầm đại bác của đồn giặc", bị súng đạn bắn phá liên tục, sự hủy diệt vô cùng tàn bạo của quân giặc trước sức sống của thiên nhiên - " Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn". Một cảnh tượng đầy đau thương hiện ra trước mắt, bao nhiêu cây xà nu không cây nào là không bị trúng đạn, cây nào cũng bị vết thương loang lổ, loét mãi ra rồi chết. Đạn đại bác hung tàn, không nhân nhượng trước vẻ đẹp kiêu hùng thiên nhiên, cây vừa lớn đã bị chặt làm đôi rồi đổ ào. Song, rừng xà nu ấy vẫn không chịu khuất phục, những cây cường tráng nhanh chóng tự chữa lành vết thương. Chúng vẫn tiếp tục sức sống mạnh mẽ của mình để dang rộng vòng tay mà che chở cho ngôi làng thân yêu. Cây nọ tiếp cây kia vẫn sinh sôi nảy nở, sự sống vẫn đâm chồi trước sự tàn phá của quân thù “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên". Cây xà nu tự mình đứng lên, trường tồn và phát triển, dũng cảm hiên ngang trước bom đạn kẻ thù "hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng". Hình ảnh rừng xà nu hiện lên thật đẹp, thật đáng tự hào biết bao. Cây xà nu chính là biểu trưng cho vùng đất Tây Nguyên, là đại diện tiêu biểu cho con người Tây Nguyên, là hình ảnh ẩn dụ cho cốt cách, sức sống của đồng bào Tây Nguyên từ trước đến nay. Trong đau thương vẫn ánh dũng kiên cường, trong áp bức vẫn tràn trề hy vọng, vẫn mang ý chí đấu tranh, nguyện theo gương cách mạng, là sự sống bất diệt của buôn làng Xô man.
Sau hình ảnh xà nu, tác giả tiếp tục tái hiện chân thực cuộc sống và chiến đấu của người dân nơi đây. Họ là những thế hệ giàu lòng yêu nước, có niềm tin lớn lao vào cách mạng, là những gương anh hùng sáng chói với non sông, Tổ quốc. Đó là một Cụ Mết đại diện cho những thế hệ anh hùng đi trước đầy kinh nghiệm, bản lĩnh và giàu lòng yêu nước, luôn hướng cho dân làng những bước đi đúng đắn trong chiến đấu. Là một người nhìn xa, thấu hiểu dân làng, là một chỗ dựa tinh thần không thể thiếu của làng Xôman. Với cụ "Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn". Chân lý “Chúng nó dùng súng, mình phải cầm giáo" của cụ như một lời tuyên ngôn trong cuộc chiến của dân tộc. Đó còn là một Tnú với những phẩm chất anh hùng. Khi còn nhỏ, anh sớm đã giác ngộ cách mạng, phấn đấu để trở thành những người như anh Quyết lãnh đạo cách mạng. Một cậu bé gan góc và đầy dũng cảm, giữa bao chiến trận đầy súng đạn của giặc, cậu bé giao liên vẫn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Khi bị bắt, Tnú vẫn một lòng trung thành dù bị tra tấn đầy ác độc, nhưng vẫn nhất quyết giữ bí mật. Sau khi vượt ngục, những tưởng được hạnh phúc bên vợ con thì giặc tiến vào diệt phong trào nổi dậy, một lần nữa Tnú phải chịu đau thương trước sự tra tấn và khổ đau khi vợ con bị giết mà không làm gì được. Càng trong đau thương, phẩm chất anh hùng càng ngời sáng trong Tnú, càng trong áp bức càng kiên cường đứng lên trả mối thù lớn cho vợ con, cho chính mình và cho dân làng Xô man yêu dấu. Tiếng thét căm hờn là tiếng căm phẫn, xé lòng giữa cuộc chiến, là tiếng hiệu triệu người người đứng lên giết chết quân thù, bè lũ cướp nước. Bàn tay bị đốt mười ngón nhưng không thiêu rụi được ý chí của người con Tây Nguyên. Cuối cùng, Tnú cũng đã giết chết được thằng Dục, kẻ đã thẳng tay giết người thân của anh, trả mối thù sâu nặng bấy lâu. Tnú tiêu biểu cho thế hệ thanh niên trưởng thành trong cách mạng, tin yêu và đem hết sức mình phục vụ quân giải phóng.
Đó còn là những Dít, bé Heng,... thế hệ tiếp nối bao chiến công cha anh để cùng nhau chung sức đưa thắng lợi đi đến cuối cùng. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, ngày càng trưởng thành, kiên cường chiến đấu xứng đáng với hi sinh của cha anh. Dường như, trong cuộc chiến khốc liệt, con người Tây Nguyên càng khẳng định được chính mình. Trong lầm than, đen tối, họ lại càng kiên dũng, ngời sáng tuyệt vời.
Rừng xà nu và nhân dân làng Xô man như hai mà một, đều chịu nhiều đau thương, đều vươn mình mạnh mẽ. Đó là sức sống bất diệt, là tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng.
Bằng sự kết hợp tài tình giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, Nguyễn Trung Thành không chỉ ngợi ca vẻ đẹp trong nhân cách của người con Tây Nguyên mà qua đó còn đặt ra một vấn đề mang tính thời đại: Để tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ tự do cho đất nước trước nhất phải cầm vũ khí đứng lên.
Đề 3:
Phân Tích Hình Tượng Nhân Vật Tnú, Bài Mẫu Số 1:
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ông là nhà văn có công đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Truyện ngăn Rừng xà nu là tác phẩm tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tnú, người con kết tinh mọi vẻ đẹp của nhân dân Tây Nguyên trên nền tập thể nhân dân anh hùng và hình tượng rừng xà nu hùng vĩ trong những ngày kháng chiến chống Mĩ gay go, ác liệt.
Rừng xà nu (1965) ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung bộ (số 2- 1965), sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, đất nước chia làm hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi khắp miền Nam. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối. Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. Rừng xà nu được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ.Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù tàn ác.
Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Câu chuyện về cuộc đời anh là câu chuyện được sử thi hóa qua lời kể của cụ Mết.Cuộc đời Tnú gắn liền với cuộc đời làng Xô Man. Âm hưởng sử thi chi phối tác giả trong khi xây dựng nhân vật này. Tác giả xuất phát từ vấn đề cộng đồng để phản ánh đời tư của Tnú.Tnú được xây dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lí tưởng. Nhà văn lấy nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ỏ Tây Nguyên. Năm 1959, anh Đề đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu đội lính Diệm và bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang.
Tnú là con của dân làng Xô Man. Dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu mang anh. "Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta". Chính tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho anh niềm tin yêu cuộc sống, tin vào chính mình, gắn bó sâu sắc với bản làng quê hương, với những gì thân thuộc như tiếng chày giã gạo của những cô gái, con nước mát lạnh đầu bản, những cụ già, những em nhỏ,... sau ba năm đi lực lượng, được về thăm làng, Tnú thấy bồi hồi, xúc động trước cảnh vật thân thuộc quê hương.
Ngay từ nhỏ anh đã là người gan dạ, dám đi tiếp tế lương thực cho cán bộ, làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện. Và cũng từ đấy Tnú bộc lộ một trí tuệ hơn người. "Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình" bởi theo Tnú "Qua chỗ nước êm thàng Mĩ - Diệm hay phục, qua chỗ nước mạnh nó không ngờ". Giặc vây các ngả dường thì Tnú leo lên một cây cao, nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà di, lọt qua tất cả các vòng vây. Tnú nghe theo anh Quyết, cố học chữ để sau này thay anh lãnh đạo cách mạng. Quyết tâm học chữ của Tnú thể hiện dứt khoát trong hành động tự đạp hòn đá vào đầu, máu chảy ròng ròng khi cậu thua Mai trong việc nhớ những con chữ. Tnú từ nhỏ đã tâm niệm trong đầu câu nói của cụ Mết: Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn.
Tnú là hiện thân của sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, với Đảng, là hiện thân của sự khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khoẻ chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày cuả kẻ thù. Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn. Tnú không hề biết sợ hãi, không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng. Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện, Tnú bị giặc bắt. Họng súng chĩa vào tai lạnh ngắt, Tnú kịp nuốt luôn cái thư. Giặc giam cầm, tra khảo Tnú dã man, lưng Tnú dọc ngang vết dao chém nhưng anh quyết không khai một lời. Anh tìm cách vươt ngục về làng và tiếp tục sự nghiệp lãnh đạo dân làng chuẩn bị chiến đấu. Sức mạnh của anh dường như tăng thêm bởi sự hun đúc của một tình yêu lớn với một người con gái luôn luôn hiền dịu, nhượng nhìn, của một gia đình hạnh phúc cùng Mai và đứa con nhỏ.
Vậy mà bằng ấy cái có, Tnú đã không cứu dược mẹ con Mai khỏi bị kẻ thù giết hại. Cuộc đời Tnú gắn liền với những đau thương mà không chỉ riêng anh gánh chịu. Cái đau đớn mang trên thân xác Tnú là hiện hữu cái đau thương của dân làng Xô Man trong chiến tranh Mái ấm gia đình từng là mơ ước của biết bao đôi thanh niên ấy bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù. Mai và con anh bị kẻ thù giết chết ngay trước mắt anh. Tnú không cứu được vợ, được con, đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng. Vì Tnú cũng chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí. Hình ảnh mười đầu ngón tay rừng rực cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng mà còn nói lên một chân lí sâu sắc và tàn nhẫn : khi một Tnú có ý chí mà tay không thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào ngạt và như đọng nắng quê hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt chính những bàn tay vẫn hằng ngày chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy.
Tnú không cứu được mẹ con Mai. Không thể chiến đấu với quân thù bằng tay không và lòng căm thù mù quáng. Nhưng Tnú không chìm đắm trong đau thương mất mát, anh biết vượt qua nỗi đau ấy, biến đau thương thành căm hơn và tôi luyện ý chí chiến đấu. Bị giặc bắt sau khi Mai chết, Tnú không nghĩ đến bản thân mà chỉ lo lắng đến việc ai sẽ tiếp tục lãnh đạo dân làng kháng chiến khi Đảng phát lệnh. Chỉ còn cách cầm vũ khí, lúc đó lửa xà nu sẽ tắt trên bàn tay của Tnú. Lửa xà nu chỉ còn soi xác giặc ngổn ngang. Núi rừng Xô Man sẽ ào ào rung động. "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo...". Đó là một chân lí lớn của cách mạng miền Nam: phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Sau khi được cụ Mết và thanh niên giải thoát bằng chính giáo mác anh và buôn làng mài, Tnú gia nhập lực lượng chính quy. Và có lẽ việc Tnú đi lực lượng cũng bắt nguồn từ lí tưởng đó. Anh đi lực lượng để hiện thực hóa việc "cầm giáo" mà cụ Mết truyền dạy và cũng để có điều kiện chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Ra đi để trả thù nước, rửa thù nhà. Dù bàn tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng cử động được có nghĩa là cầm súng được. Anh đi bộ đội, trở thành tấm gương lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man. Đối với dân làng, Tnú là một biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và ý chí. Bên cạnh cụ Mết, người cha tinh thần, Tnú là hiện thân của những khát vọng vươn lên. Mỗi một việc làm của anh đều đem lại sự nhận thức cho mọi lứa tuổi. Anh về thăm quê, cấp trên cho chỉ có một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người thân nhưng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp hành nghiêm túc nội qui quân đội mới là Tnú. Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định đùa nhưng những ánh mắt chờ đợi của mọi người anh lại thôi. Bởi ở anh một lời nói, một hành động đều có thể để lại một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và tinh thần của người dân Xô Man.
Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay của anh. Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật. Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn. Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy, bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ, bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây... Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân vật. Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt. "Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc", thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh "nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi". Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt lũ giặc, mở ra tràn sử đấu tranh mới của dân làng. Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời. Đến cuối tác phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm.Như vậy, có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện. Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến công của Tnú đều gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy.
Cũng như nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, giầu chất lí tưởng, là kết tinh vẻ đẹp anh hùng của người dân Tây Nguyên. Qua nhân vật này Nguyễn Trung Thành muốn thể hiện một số phận nhất là con đường của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân Miền Nam trong quá trình đấu tranh giải phóng: cần phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Phân Tích Hình Tượng Nhân Vật Tnú, Bài Mẫu Số 2: (Chuẩn)
Rừng xà nu là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Trung Thành viết về thiên nhiên và con người Tây Nguyên anh dũng, bất khuất, kiên cường. Đó là bao thế hệ cách mạng đầy bản lĩnh chiến đấu, giàu lòng yêu nước, là đại diện tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm, theo lý tưởng, ánh sáng cách mạng của dân tộc. Tnú là một nhân vật nổi bật trong truyện hiện lên với những vẻ đẹp đại diện cho người anh hùng sử thi của thời đại, kết tinh mọi phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên.
Cuộc sống của Tnú từ nhỏ đã chịu nhiều bất hạnh, sớm mồ côi cha mẹ, anh lớn lên trong sự yêu thương, che chở và đùm bọc của dân làng Xô man. Từ khi còn nhỏ, Tnú đã bộc lộ những phẩm chất ánh hùng, gan góc của mình. Được truyền dạy về cán bộ, về Đảng, giác ngộ sớm về cách mạng nên luôn có lòng tin tưởng tuyệt đối vào lý tưởng cách mạng.
Cậu làm giao liên rất giỏi, táo bạo, không sợ hiểm nguy, luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Tnú học chữ thua Mai, nhưng không vì thế mà cậu nản chí, khi nghe anh Quyết dặn dò, cậu tự lấy đá đập vào đầu chính mình để nhắc nhở bản thân cố gắng học hành. Không chỉ vậy, Tnú còn rất thông minh và nhanh trí, khi trong một lần giặc bắt đã kịp trở tay nuốt lá thứ của cách mạng vào bụng, che giấu bí mật cách mạng. Trải qua bao đau đớn khi bị tra tấn dã man, vẫn không quên đảm bảo bí mật nhiệm vụ của mình, thậm chí còn thách thức bọn giặc khi chỉ tay vào bụng và bảo: "Cộng sản ở đây này!". Nhờ sự giỏi giang và nhanh trí của mình, Tnú đã giúp nhiều cán bộ thoát khỏi vòng vây của địch "Năm năm chưa hề có cán bộ bị giặc bắt hoặc bị giết ở trong rừng". Tnú mang trong mình những phẩm chất cần có của một người chiến sĩ làm cách mạng: sự dũng cảm, kiên trì, cẩn thận và yêu nước.
Sau khi vượt ngục trở về, Tnú ngày càng trưởng thành hơn. Khi anh Quyết hi sinh, Tnú nhận nhiệm vụ thay anh, đứng lên lãnh đạo cuộc chiến của dân làng. Anh kết đôi cùng Mai - người bạn chí cốt thời niên thiếu của mình và có một đứa con minh chứng cho tình yêu đẹp. Những tưởng sẽ được hạnh phúc bên gia đình nhỏ thì quân giặc tràn xuống buôn làng, đàn áp phong trào giải phóng. Vợ và con anh bị giặc bắt để dụ Tnú ra mặt, chứng kiến cảnh vợ con đập đánh dã man, không chịu được, đã xông vào cứu vợ con, nhưng không được. Bọn giặc tàn ác đã nhẫn tâm phá hoại hạnh phúc bình yên của một gia đình nhỏ. Một lần nữa, đau đớn lại bủa vây Tnú, chúng dùng nhựa xà nu đốt đi mười ngón tay anh. Nhưng anh không hề có một chút sợ hãi nào trong ánh mắt, bởi vợ con đã mất rồi, gia đình không còn nữa thì có nghĩa lý gì đâu, trong Tnú bây giờ là nỗi thù hận ngập tràn, " Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay… hai con mắt anh bây giờ là một cục lửa lớn". Mắt anh hướng về thằng Dục, cái thằng đã thẳng tay giết chết đi người mà anh thương nhất, nỗi căm hờn lan toả trong anh.
Từ nỗi đau thương vô hạn, Tnú càng căm thù bọn giặc, nỗi căm thù ấy biến thành hành động, một lần nữa đứng lên, gia nhập quân giải phóng trả mối thù lớn cho gia đình cho dân làng Xô man. Vượt lên những nỗi đau thương của số phận, của cuộc đời, sức mạnh mẽ đã giúp Tnú giết chết những kẻ như thằng Dục còn tồn tại. Lập được nhiều chiến công hiển hách, Tnú xin nghỉ phép một đêm để trở về quê nhà bởi nỗi nhớ quê hương da diết, anh đã chấp hành đúng quy định của cấp trên, thực sự là người cán bộ mẫu mực, mang gương sáng cho những Dít, bé Heng,... là niềm tự hào của thế hệ cha anh và buôn làng Tây Nguyên. Đôi bàn tay của Tnú minh chứng cho sự đau thương và tội ác của chiến tranh. Đôi bàn tay ấy còn là nhân chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng lợi của nhân dân, đôi bàn tay cầm giáo mác chiến đấu với súng đạn của kẻ thù để giành lại tự do cho dân tộc, đôi bàn tay yêu thương và ấm áp tình người.
Tnú là một con người với số phận đầy đau khổ nhưng vượt lên tất thảy là nhân cách bao la, ngời sáng. Anh chính là đại diện vô cùng tiêu biểu cho những người anh hùng, cho vẻ đẹp của người con núi rừng Tây Nguyên. Có thể nói, bằng tài năng trong ngòi bút, tinh tế trong cảm nhận, đặc biệt là vận dụng khéo léo những biện pháp nghệ thuật đặc sắc, tác giả Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật vô cùng độc đáo. Đọc xong tác phẩm, em càng thêm khâm phục những người chiến sĩ đã hy sinh xương máu, hy sinh cả những hạnh phúc tốt đẹp nhất để bảo vệ dân tộc, càng thêm trân quý những hoà bình hôm nay. Tấm gương của Tnú cũng như của hàng vạn những anh hùng liệt sĩ dũng cảm đã thôi thúc em học tập, cố gắng trở thành người công dân tốt cho xã hội, phấn đấu vào hàng ngũ của Đảng cộng sản Việt Nam thân yêu.
Phân Tích Hình Tượng Nhân Vật Tnú, Bài Mẫu Số 3: (Chuẩn)
Mỗi nhà thơ, nhà văn đều có cho riêng mình một vùng đất gắn bó thiết tha. Đó là Tô Hoài yêu mến và trân trọng những vẻ đẹp của rừng núi và con người Tây Bắc hay Nguyễn Quang Sáng sống trọn đời mình với vùng đất Nam Bộ bình dị mà thân thương. Đến với Nguyễn Trung Thành, ta bắt gặp một tâm hồn gắn bó máu thịt với vùng đất Tây Nguyên, nơi có những đồi xà nu đại ngàn và những con người anh dũng, kiên trung. “Rừng xà nu” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung Thành con người và mảnh đất anh hùng ấy. Bằng ngòi bút tài hoa và thấm đẫm yêu thương của mình, tác giả đã xây dựng hệ thống nhân vật vô cùng phong phú, đại điện cho lớp lớp những con người Tây Nguyên kiên cường, bất khuất trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, trong đó Tnú là hình tượng tiêu biểu nhất.
Sinh ra trong thời buổi đất nước bị giặc ngoại xâm lăng, từ nhỏ Tnú sớm chịu nhiều thiệt thòi khi mô côi cha mẹ, lớn lên trong sự yêu thương và chở che, đùm bọc của dân làng Xô Man. Có lẽ, cũng chính vì vậy mà tình yêu thương, gắn bó với làng quê luôn thường trực trong tâm hồn Tnú. Những ngày được cụ Mết truyền dạy về cách mạng, về Đảng, tuy còn nhỏ nhưng trong lòng luôn sục sôi khát khát ý chí làm cách mạng và đánh giặc cứu nước. Tnú muốn học chữ để giỏi giang, rồi lớn lên sẽ là người cán bộ thay anh Quyết, người cán bộ mà cậu luôn khâm phục. Ngày ngày học chữ, dù học thua Mai nhưng cậu không nản chí, ra suối lấy đá đập lên đầu tự nhắc nhở bản thân phải quyết tâm học hành, Tnú rất ý thức được tầm quan trọng của con chữ với đời sống chính mình và với cách mạng.
Khi còn bé, Tnú cũng rất thông minh, nhạy bén và dũng cảm khi đã giúp cho bao nhiêu cán bộ thoát khỏi tầm ngắm của địch. Khi làm nhiệm vụ, đi qua con suối, Tnú không chọn chỗ nước êm để đi vì tin rằng quân địch sẽ phục sẵn ở đó, cậu bé lựa những nơi có dòng nước thác chảy mạnh, bơi ngang mà tránh giặc. Trong lần bị giặc bắt, Tnú chấp mọi hiểm nguy, nuốt mảnh giấy ghi thông tin vào bụng chứ quyết không đưa cho giặc. Dù bị tra tấn dã man song vẫn không hề khai một mạnh mối nào, đứng hiên ngang chỉ vào bụng mà nói: “Cách mạng ở đây !". Dường như, bên trong vẻ ngoài bình thường của một cậu bé là một tâm hồn lớn, một con người dũng sĩ với những khí chất, tính cách của con người Tây Nguyên. Cậu như những cây xà nu của núi rừng, giữa bom đạn vẫn hiên ngang, là thế hệ tiếp nối những người đi trước mang theo cả niềm tin và sự tự hào của buôn làng.
Khi trưởng thành những phẩm chất anh hùng trong Tnú ngày càng được bộc lộ rõ nét hơn. Sau khi vượt ngục tìm về với buôn làng, Tnú chọn người bạn tuổi thơ từng gắn bó với mình làm vợ, những tưởng sẽ hạnh phúc bên gia đình nhưng ngờ đâu bọn địch dã man đã tàn nhẫn vùi lấp thứ hạnh phúc ấy. Bọn chúng tìm đến và bắt vợ con anh nhằm khiến anh phải ra mặt, chứng kiến sự dày vò người thân của bọn địch khiến anh đau khổ vô cùng. Khi mẹ con Mai chết, lòng Tnú như thắt lại, chẳng còn điều gì mất mát và đau đớn hơn là cái chết của những người mà mình yêu thương nhất: "Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay… Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn". Nỗi đắng cay giờ đây hoá thành nỗi căm phẫn, bọn giặc kia đã phá nát gia đình anh. Giặc bắt Tnú, chúng nhẫn tâm hành hạ anh một lần nữa, dùng dây rừng trói người lại, chúng tẩm nhựa xà nu đốt cháy mười ngón tay anh. Mười ngón tay cháy rực như mười ngọn đuốc kia thực đau đớn biết nhường nào, nhưng Tnú không hề gì mà chỉ thấy nhói đau trong lòng "không cảm thấy cháy ở mười đầu ngón tay mà nghe lửa cháy ở trong lòng ngực, ở bụng". Bao sóng lòng giờ đây dồn lên trong tiếng thét "giết" như một lời căm phẫn tột cùng, một lời hiệu triệu tất cả nhân dân phải đứng lên hành động, giết chết lũ giặc bạo ngược kia, "chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo", không thể để yên cho một lũ ngang ngược hoành hành trên đất của buôn làng, của những ngôi nhà rông yên bình giữa núi rừng bạt ngàn, trù phú.
Khi trở về, Tnú tiếp tục con đường cách mạng, đấu tranh trả mối thù lớn cho chính mình, cho gia đình và cho cả làng Xô Man. Giặc và ta giờ đây là những kẻ thù không đội trời chung, đôi bàn tay gân guốc, thủy chung, cam trường kia vẫn cầm súng giết giặc, bao kẻ thù cuối cùng phải chịu chết dưới tay Tnú: "Này tao có súng đây, tao có cả dao găm đây nhưng tao không giết mày bằng súng, tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục. Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tao bóp cổ mày thôi".
Không chỉ là người con yêu quê hương, dân tộc, người cách mạng trung thành mà Tnú còn là một con người rất kỉ luật. Hoạt động cách mạng xa quê, nỗi nhớ nhà da diết i nhưng chỉ khi có phép của cấp trên anh mới trở về quê hương mình. Cầm trên tay tờ giấy nghỉ phép của đơn vị một đêm như một quân lệnh, một mực chấp hành kỷ luật, không để những tình cảm riêng vào công việc. Tnú chính là gương sáng cho những thế hệ như Dít, như Hen noi theo, là niềm tin của những thế hệ trước gửi gắm vào lớp trẻ, vào tương lai.
Cuộc đời và con đường cách mạng của Tnú trải qua nhiều khó khăn, gian nan những thách thức đòi hỏi phải có bản lĩnh kiên cường để vượt qua. Bằng một trái tim giàu tình yêu thương, một tình thần thép và lòng dũng cảm, Tnú đã biến cuộc đời mình thành những trang sử thi chói lọi. Tnú như một đại diện cho sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên cam trường, quyết liệt.
Học tác phẩm " Rừng xà nu" trong một sớm mai yên bình, em thấy lòng mình như lắng lại. Bao khí thế hào hùng của cách mạng thời kì chống Mỹ như sống lại trong từng lời giảng của cô, trong từng hình ảnh của khu Rừng xà nu cam trường, từng hành động và những nỗi đau thương mà buôn làng Xô Man đã trải qua. Nguyễn Trung Thành đã cho em biết đến một vùng đất đầy những vết thương mà căng tràn nhựa sống, để thấy rằng mình phải trân quý những điều tốt đẹp hôm nay mà mình có được, để biết trưởng thành và lớn lên trước những khó khăn, vấp ngã của cuộc đời.
Mảnh đất Tây Nguyên cùng với những người con bất khuất đã trở thành đề tài hấp dẫn đối với các nghệ sĩ trong đó có nhà văn Nguyễn Trung Thành. Ông nổi tiếng với truyện ngắn “Rừng xà nu”. Đây là truyện ngắn đã góp phần tạo nên sự thành công trong sự nghiệp sáng tác của tác giả.
Nguyễn Trung Thành viết “Rừng xà nu” năm 1965 và tác phẩm này được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Nhan đề của truyện đã gợi nên hình ảnh những cánh rừng xà nu bạt ngàn và sức sống mãnh liệt của nó cũng như sức sống mãnh liệt của buôn làng Xô Man.
Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh những “rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Xà nu là loại cây thuộc họ thông, mọc rất nhiều ở vùng Tây Nguyên. Nó thường mọc thành rừng rộng lớn và là đặc trưng riêng của mảnh đất anh dũng này. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh rừng xà nu bao xung quanh, che chở cho buôn làng tránh những trận đại bác của quân địch. Sự khốc liệt của chiến tranh đã khiến “cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”, “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”.
Đây là loài cây gắn bó mật thiết như một người bạn đồng hành với dân làng. Cuộc sống của họ từ khi sinh ra, lớn lên và khi về với đất mẹ cũng đều gắn liền với cây xà nu. Dưới tán xà nu là những hoạt động sinh hoạt của cộng đồng, là những buổi hò hẹn của tình yêu đôi lứa. Ngọn lửa xà nu cháy trong mỗi bếp, ngọn đuốc xà nu sáng rực trong đêm nổi dậy chống kẻ thù của dân làng Xô Man và khói xà nu xông bảng nứa đen kịt để anh Quyết dạy Tnú và Mai học bài đã chứng tỏ công dụng, vai trò to lớn của cây xà nu đối với người dân Tây Nguyên. Lửa xà nu còn soi sáng “xác mười tên lính giặc ngổn ngang” để thể hiện sức mạnh, ý chí kiên cường cùng lòng dũng cảm của buôn làng Xô Man.
Không chỉ mang ý nghĩa tả thực, cây xà nu còn mang ý nghĩa biểu tượng cho số phận và phẩm chất cao đẹp của những con người Tây Nguyên. Rừng xà nu phải gánh chịu biết bao trận đại bác của địch khiến chúng “đổ ào ào như một trận bão” khi “bị chặt đứt ngang nửa thân mình”. Những vết thương đó không lành được mà “cứ loét mãi ra” gợi cho chúng ta thấy được bao đau thương, mất mát mà nhân dân nơi đây phải gánh chịu. Nhưng đạn bom của kẻ thù không thể ngăn được sự sinh sôi, nảy nở của cây xà nu: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Chúng lớn rất nhanh, “đạn đại bác không giết nổi chúng”. Vì thế mà “hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Hình ảnh ấy là biểu tượng cho sức mạnh quật cường, bất diệt của những thế hệ người con Tây Nguyên. Thế hệ trước ngã xuống đã có thế hệ sau đứng lên tiếp nối. Đây còn là loài cây ham ánh sáng mặt trời: “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”. Điều đó cũng giống như việc Tnú và dân làng Xô Man đi theo ánh sáng của cách mạng.
Hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Ông đã sử dụng cái nhìn điện ảnh để tái hiện lại khung cảnh một cách sinh động. Có khi ông nhìn từ xa để thấy toàn bộ những cánh rừng xà nu, khi thì sát lại gần để thấy cận cảnh những cây xà nu con đang vươn lên một cách đầy kiêu hùng. Nó không phải là một loài cây bình thường mà là loài cây mang dáng dấp anh hùng của con người Tây Nguyên.
Đại diện tiêu biểu cho những con người ấy là Tnú, người chiến sĩ kiên cường, bất khuất. Ngay từ khi còn nhỏ, Tnú đã vào rừng nuôi giấu cán bộ. Khi học chữ thua Mai, Tnú đã cầm một hòn đá rồi tự đập vào đầu mình. Nhờ có anh Quyết khuyên nhủ: “Tnú phải làm cán bộ thay anh. Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi” nên Tnú quyết tâm học chữ. Khi đi liên lạc, Tnú không đi đường mòn vì có giặc vây bắt, anh “xé rừng mà đi”, “lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Sự nhanh trí của anh còn được thể hiện qua hành động “nuốt luôn cái thư” khi bị địch bắt. Anh thật hiên ngang trả lời câu hỏi cán bộ ở đâu của địch bằng cách để tay lên bụng và nói “Ở đây này”.
Lớn lên, Tnú cùng dân làng mài vũ khí để chiến đấu. Tin này đến tai thằng Dục, nó đã tìm cách để bắt Tnú. Nó bắt Mai và con trai Tnú nhằm mục đích: “Bắt được con cọp cái và cọp con, tất sẽ dụ được cọp đực trở về”. Nhưng Tnú không cứu được mẹ con Mai vì trong tay anh không có vũ khí. Anh bị bọn thằng Dục bắt và tra tấn bằng cách quấn giẻ đã tẩm dầu xà nu lên mười đầu ngón tay rồi đốt. Nỗi đau mất vợ và đứa con trai đầu lòng cùng nỗi đau về thể xác dường như quyện hòa vào nhau trở thành nỗi căm hờn, uất hận. Nhưng Tnú “không kêu lên một tiếng nào” mà “trợn mắt nhìn thằng Dục”. Dường như, ý chí và tinh thần quật cường đã khiến: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”.
Tnú không chỉ là người mang phẩm chất anh hùng mà anh còn là con người sâu nặng nghĩa tình. Tnú là một người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ con. Phải chứng kiến cảnh mẹ con Mai bị giặc tra tấn, anh “đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”, “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Anh lao ra cứu mẹ con Mai mà không sợ hiểm nguy. Anh đã quên đi cả sinh mạng của mình để cứu lấy vợ con, cứu lấy những người anh yêu thương nhất.
Tnú lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng nên anh yêu quê hương sâu nặng. Khi được nghỉ phép, anh đã về thăm làng, “xúc động để vòi nước của làng mình giội lên khắp người như ngày trước”. Anh yêu tha thiết quê hương mình, yêu cả tiếng giã gạo của buôn làng thổn thức trong lòng anh bao nhiêu năm nay. Nếu không phải một người gắn bó sâu nặng với quê hương thì Tnú sẽ không có những cảm nhận tinh tế đến như vậy.
Bên cạnh nhân vật Tnú, nhà văn còn khắc họa các nhân vật anh Quyết, cụ Mết, Mai, Dít, Heng,…để làm nổi bật lên những thế hệ anh hùng nối tiếp nhau đứng lên chống giặc. Anh Quyết là cán bộ cách mạng, là người đã dạy chữ cho Tnú và Mai. Đồng thời, anh cũng là người nhen nhóm tinh thần đấu tranh cho người dân Tây Nguyên. Anh giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục tinh thần cách mạng cho thế hệ trẻ. Bằng những lời nói thủ thỉ, tâm tình, anh đã khơi dậy được lòng yêu nước, lòng quyết tâm chiến đấu vì lí tưởng cách mạng của Tnú.
Sẽ là một thiếu sót lớn nếu chúng ta không nhắc đến cụ Mết. Cụ là già làng, là người anh hùng thuộc thế hệ trước lãnh đạo buôn làng nổi dậy chiến đấu. Cụ cũng là người kể cho thanh niên trong làng nghe về cuộc đời của Tnú. Cụ Mết đã khẳng định con đường cách mạng mà nhân dân phải đi: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là một chân lí đúng đắn để nhân dân ta tin tưởng và làm theo. Nhân dân ta không thể chịu áp bức mãi được, vì vậy phải cầm giáo đứng lên đấu tranh cho chính nghĩa.
Những thế hệ nối tiếp con dường của cụ Mết, Tnú là Dít và Heng. Dít lớn lên là chính trị viên xã đội, bí thư chi bộ nhưng từ khi còn nhỏ, Dít đã là một cô bé gan dạ. Cứ sẩm tối, Dít lại “bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên”. Bị giặc bắt, chúng bắn từng viên một “sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít” khiến “nó khóc thét lên” nhưng “đến viên thứ mười nó chùi nước mắt, từ đó im bặt” và nhìn bọn giặc “bình thản lạ lùng”. Tuy chỉ là một cô bé nhưng Dít đã có bản lĩnh, nghị lực phi thường, không run sợ trước súng đạn kẻ địch.
Ngay cả cậu bé Heng, ngày Tnú ra đi “nó mới chỉ đứng đến ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy” thì khi Tnú trở về thăm làng cậu bé ấy đã “mang một khẩu súng trường Mát” ra vẻ một người lính thực sự. Heng dẫn Tnú đi qua các con đường “chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút lại gặp một giàn thò chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chắn gẫy đôi ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh”. Chú bé ấy dũng cảm ấy đã góp phần tạo nên một tập thể anh hùng trong những ngày chống đế quốc Mĩ ác liệt của dân làng Tây Nguyên.
Xuyên suốt câu chuyện là chất sử thi hùng tráng được thể hiện qua đề tài, chủ đề, nhân vật, giọng điệu của tác giả. “Rừng xà nu” đã tái hiện không khí hào hùng, sục sôi của cuộc đấu tranh chống đế quốc của dân làng Xô Man nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung. Hệ thống nhân vật cũng được khắc họa là những con người anh hùng, bất khuất xuất hiện trên nền không gian rộng lớn. Ngoài ra, tác giả còn sáng tạo hình tượng cây xà nu mang đậm tính biểu tượng cho những con người Tây Nguyên. Giọng văn ngợi ca hào hùng, khí thế như không khí cuộc chiến đấu chống kẻ thù.
Nhà văn xây dựng nên hai tuyến nhân vật mang tính đối lập giữa bọn thằng Dục tàn ác và những thế hệ anh hùng để làm nổi bật lên tinh thần, ý chí đấu tranh của dân làng. Kiểu kết cấu truyện lồng trong truyện đã mang lại sức hấp dẫn cho tác phẩm. Bên cạnh câu chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man còn là câu chuyện về cuộc đời người anh hùng Tnú. Tất cả những yếu tố đó đã làm thiên truyện sống mãi trong lòng độc giả. Nhớ đến Tây Nguyên là chúng ta nhớ đến những cánh rừng xà nu bạt ngàn và các thế hệ anh hùng nối tiếp nhau chống giặc.
3.
Nhà văn Nguyễn Trung Thành như một người con của mảnh đất Tây Nguyên với những cánh rừng đại ngàn. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất phải kể đến là truyện ngắn “Rùng xà nu”, tác phẩm là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ. Nhân vật Tnú hiện lên, đại diện cho lớp người Xô Man kiên cường, bất khuất trước chiến tranh xâm lược.
Tnú từ nhỏ đã mồ côi, thiếu thốn tình cảm của cha mẹ. Nhưng bù lại, Tnú được dân làng bao bọc, chăm sóc. Bởi vậy mà Tnú sớm có lòng yêu thương nhân dân, làng xóm: “có cái bụng thương núi, thương nước”. Từ khi còn là một cậu bé, Tnú được cụ Mết truyền dạy: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn nước non này còn”. Bởi thế, cậu bé con ngày nào luôn ý thức được lí tưởng sống của buôn làng, luôn tin tưởng đi theo con đường Cách mạng. Vì vậy dù còn nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra là một người chiến sĩ nhí gan góc táo bạo, đầy quả cảm. Bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù,, Tnú đã cùng với Mai xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết – một cán bộ trung kiên của Đảng. Tnú có cái đầu sáng lạ lùng trong việc tìm đường rừng để đưa thư cho anh Quyết. Có lần vượt qua thác, chuẩn bị lên bờ thì họng súng đen ngòm đã chĩa vào gáy lạnh ngắt. Tnú kịp nuốt lá thư của anh Quyết vào bụng bảo đảm bí mật. Tnú bị giặc giam cầm ở ngục tù với biết bao đòn roi, thương tích. Địch tra tấn hỏi “Cộng sản ở đâu?” Tnú đã không ngần ngại đặt tay lên bụng và nói: “Cộng Sản ở đây này!”. Và lưng Tnú lại hằn lên những vết dao chém ngang dọc của kẻ thù. Công việc khó khăn và đầy nguy hiểm là vậy nhưng Tnú đã làm rất tốt để dân làng Xô man mãi tự hào ”Năm năm chưa hề có cán bộ bị giặc bắt hoặc bị giết ở trong rừng”. Trong việc học, Tnú còn là một người nghiêm khắc với bản thân, có ý chí, nỗ lực, quyết tâm không ngừng nghỉ. Khi học chữ thua Mai, Tnú đã tự trừng phạt cái tội hay quên của mình: “cầm hòn đá tự đập vào đầu mình máu chảy ròng ròng”. Tnú thực sự đã mang trong mình những tố chất cần có để mai này trở thành một người chiến sĩ Cộng Sản trung kiên, anh dũng.
Ba năm sau, Tnú vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô man đánh giặc. Mai – người bạn từ thuở thiếu thời – nay đã là vợ của Tnú và đứa con là kết quả của mối tình đẹp ấy. Song kẻ thù tàn bạo đã dập tan mái ấm bé nhỏ của Tnú. Chúng đã giết vợ con Tnú. Tnú trước cái chết của vợ con hoàn toàn trở nên bất lực: “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy… bụng anh có lửa đốt. Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Căm thù, Tnú nhảy vào giữa đám lính, hai cánh tay như cánh gỗ lim của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. Nhưng không còn kịp nữa! Tnú bị bắt. Trước cái chết cận kề, Tnú không hề run sợ mà anh cảm thấy mình thật bình thản vì giờ gia đình anh đã không còn. Duy còn một điều làm Tnú day dứt và băn khoăn nhất chính là làng Xô man của mình. Ai sẽ cùng dân làng đánh đuổi quân giặc? Ai sẽ cùng dân làng đi theo lí tưởng của cụ Hồ? Tnú hoàn toàn không nghĩ đến mình nữa. Giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay của Tnú. Đó là bàn tay của trung thực, tình nghĩa, từng cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho; từng đặt lên bụng mình mà nói: “Cộng sản ở đây này”. Bàn tay ấy cũng đã từng được Mai nắm chặt mà khóc bằng những giọt nước mắt nóng bỏng yêu thương đồng cảm, lúc Tnú vượt ngục trở về… Giặc đã đốt mười đầu ngón tay Tnú để thiêu rụi ý chí đấu tranh của dân làng Xô man. Nhưng ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xô man lại bùng cháy. Tnú không kêu van khi bị lửa thiêu ngón tay, mà Tnú đã thét lên một tiếng “Giết”. Người Xô Man nhất nhất đồng loạt vùng dậy giết giặc. Đó là sự nổi dậy đồng khởi làm rung chuyển núi rừng, bàn tay trở thành chứng tích của tội ác và lòng hận thù mà Tnú mang theo suốt cả cuộc đời. Lòng hận thù ấy đã biến bàn tay Tnú thành ngọn đuốc châm bùng lên ngọc lửa nổi dậy của dân làng Xôman. Bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn cầm giáo, cầm súng để Tnú lên đường rửa hận. Và cuối cùng với chính bàn tay ấy, Tnú đã xiết vào cổ họng tất cả những thằng Dục tàn ác hơn cả dã thú. Từ đây, Tnú đã vượt qua mọi đau thương và bi kịch cá nhân, tham gia lực lượng giải phóng quân để quét sạch tất cả những thằng Dục, kẻ thù không đội trời chung với vợ con anh – còn tồn tại trên mảnh đất quê hương. Khi đã trở thành chiến sĩ giải phóng quân, Tnú là một cán bộ có tinh thần kỷ luật cao: tuy nhớ quê hương gia đình, nhưng phải cấp trên cho phép mới về đúng một đêm như quy định trong giấy phép.
Nhân vật Tnú tiêu biểu của người anh hùng đại diện cho số phận và con đường đi của các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại đấu tranh giải phóng. Xây dựng nhân vật Tnú cho thấy được nét tài hoa của nhà văn Nguyễn Trung Thành khi viết về con người Tây Nguyên.
Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành - Mẫu 2
Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng, với Nguyễn Trung Thành đó là Tây Nguyên. Ông đã có rất nhiều những tác phẩm viết về mảng đề tài này, đặc biệt là hình ảnh của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rung Tây Nguyên. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sáng tác của Nguyễn Trung Thành là truyện ngắn “Rùng xà nu”, tác phẩm là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ. Trong số những con người hiên ngang bất khuất của làng Xô Man nổi bật lên là hình ảnh Tnú. Câu chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện cụ thể qua lời kể của già làng bên bếp lửa nhà ưng.
Nhìn lại chặng đường đời của Tnú, chúng ta có thể dễ dàng thấy hiện lên hình ảnh một Tnú trước và sau khi đứng lên cầm vũ khí. Trước khi cầm vũ khí, ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã là cậu bé gan góc, dũng cảm biểu lộ một tính cách táo bạo mạnh mẽ. Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm. Cậu thật sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ nguỵ ít khi phục kích ở chỗ nứơc chảy xiết. Nguời đọc cảm thấy một cái gì thật đáng yêu ở sự quan tâm học chữ không chịu thua kém ai của Tnú. Cậu bé này dám lấy đá đập vào đầu mình khi học cái chữ không sáng bằng Mai. Và đặc biệt sự gan dạ dũng cảm của Tnú khi bị giặc bắt, chú bé nhỏ tuổi này đã chỉ vào bụng mình và nói: “Cộng sản ở đây này”. Mặc cho những vết dao chém dọc ngang trên tấm lưng bé nhỏ Tnú vẫn không khai báo, vẫn gan dạ kiên cường. Trước những trận đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù, Tnú thật may mắn khi được học cái chữ và được giác ngộ cách mạng từ rất sớm.
Khi thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, hiểu biết được tôi luyện qua nhiều thử thách. Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng. Theo lời dạy của anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ và một lần nữa anh đã đi 3 ngày đường lên núi Ngọc Linh nhưng không phải là lấy đá để làm phấn mà là để mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy.
Không chỉ nhìn thấy rõ con đường để đi, Tnú còn có một cuộc sống hạnh phúc với tình yêu của Mai, với đứa con mới chào đời. Nhưng quãng thời gian hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi, giặc đã cầm súng kéo về, buôn làng còn chưa kịp cầm vũ khí. Tnú và thanh niên trong làng phải trốn vào rừng để rồi một mình Tnú lại xông ra mong che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của kẻ thù, nhưng cả hai đều không sống được. Cảnh tượng về cái chết đau thương trong đêm ấy cứ trở đi trở lại trong lời kể của già làng và dòng hồi ức đau đớn của anh. Không những không cứu được vợ con, Tnú còn bị kẻ thù đốt cháy mười đầu ngón tay “Mỗi ngón chỉ còn hai đốt…. không mọc lại được”. Nỗi đau thương này là minh chứng hùng hồn cho câu nói vừa giản dị vừa sâu sắc của cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Đặc biệt là hình ảnh của Tnú sau khi cầm vũ khí chiến đấu thật đẹp và lớn lao biết bao. Hình ảnh Tnú hiện lên như những anh hùng thời nào trong các khan, trong các trường ca Tây Nguyên. Khi đốt cháy 2 bàn tay của Tnú kẻ thù muốn dập tắt ý chí phản kháng, muốn tiêu diệt khát vọng chiến đấu của người dân Xô Man. Chúng muốn người dân nơi đây mãi mãi xuôi tay trong kiếp nô lệ thấp hèn dưới lưỡi gươm và nòng súng tàn bạo của chúng. Nhưng Tnú và người dân làng Xô Man không cam chịu khuất phục, mà ngược lại họ đã phản kháng quyết liệt. Họ đã biết vượt lên đau thương để vùng lên cầm vũ khí tự giải phóng mình. Lửa đã thiêu cháy mười đầu ngón tay Tnú, lửa bùng cháy trên mười đầu ngón tay tẩm nhựa xà nu. Nhưng Tnú không thấy đau đớn, anh chỉ thấy lửa cháy ở trong lòng - ngọn lửa chiến đấu sẽ thiêu cháy kẻ thù. Và một tiếng hét căm hờn, phẫn uất đã vang vọng khắp núi rừng Xô man, tiếng hét ấy như khơi dậy cao độ lòng căm thù giặc của cả buôn làng. Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt đất. Đêm ấy lửa cháy suốt trong bếp lửa nhà ưng. Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cái đêm nổi dậy ấy thật hào hùng, sôi động: “Tiếng chiêng nổi lên, đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn suốt đêm nghe cả rừng Xôman ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng. Cái đêm nổi dậy ấy đâu chỉ là của dân làng Xôman mà là sự lớn dậy phi thường của cả 1 cộng đồng, dân tộc. Dường như trong đêm ấy đang sống lại cái không khí linh thiêng hào hùng của những thiên sử thi Tây Nguyên”.
Một điều không thể thiếu khi nhắc tới cuộc đời của Tnú đó chính là hình ảnh hai bàn tay của anh. Đôi bàn tay bị đót cháy của Tnú đã nhóm lên ngọn lửa căm thù giặc sâu sắc của dân làng Xôman, nó còn soi sáng cuộc đời anh. Anh đã thay mặt người dân làng Xôman lên đường theo kháng chiến đi tìm những thằng Dục khác. Bởi lẽ không phải ngẫu nhiên tác giả lại để cho Tnú kể với dân làng mình sự đối đầu của anh với kẻ thù sau này: “Tôi nói: này tao có súng đây, tao có cả dao găm đây nhưng tao không giết mày súng, tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục. Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tao bóp cổ mày thôi”. Nhà văn đã cố tình tô đậm hình ảnh đôi bàn tay Tnú - đôi bàn tay có cả một lịch sử, một số phận.
Lúc còn nhỏ, đôi bàn tay ấy kiên trì học từng nét chữ của anh Quyết, cần cù làm nương phát rẫy. Đôi bàn tay dám lấy đá đập vào đầu mình vì học cái chứ không sáng dạ bằng Mai. Và đôi bàn tay ấy dám chỉ vào bụng mình mà nói với quân giặc “Cộng sản ở đây này” khẳng định lòng trung thành với cách mạng. Lớn lên đôi bàn tay xúc động nắm lấy bàn tay người con gái anh yêu thương và cũng đôi bàn tay ấy xé tấm đồ làm nịu cho đứa con thơ dại. Lửa đốt cháy mười đầu ngón tay để rồi mãi mãi chỉ còn hai đốt không bao giờ mọc lại được….. cho nên Tnú muốn dùng đôi bàn tay ấy để giết chết kẻ thù. Bao uất hận căm hờn đã dồn lên đôi bàn tay kia, nó đã trở thành biểu tượng cho ý chí bất khuất, cho sức sống mãnh liệt của Tnú và người dân làng Xôman. Kẻ thù tàn ác có thể đốt cháy đôi bàn tay nhưng không thể tiêu diệt được sức mạnh phi thường, tiềm ẩn trong con người họ. Đó là ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng. Đó là một dân tộc kiên cường dũng cảm như những khu rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào bị thương mà vẫn xanh tươi bát ngát trải xa tít tắp tận chân trời.
Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu biểu của con người mang đạm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên. Và qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng. Có thể nói qua thiên truyện ngắn xuất sắc này của Nguyễn Trung Thành, người đọc càng thêm hiểu và thêm trân trọng con người Tây Nguyên với biết bao phẩm chất thật đẹp, thật cao quý.
Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành - Mẫu 3
Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở Quảng Nam, Đà Nẵng. Có thể nói: Mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ với những tập tục văn hóa lâu đời, với truyền thống đấu tranh bất khuất đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào của nhà văn. Rừng xà nu là một trong số những tác phẩm tiêu biểu, là bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên, của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh thần thánh chống đế quốc Mỹ. Nhân vật tiêu biểu nhất trong tác phẩm là Tnú.
Bằng ngòi bút khắc họa nhân vật tài tình và khuynh hướng sử thi làm chủ đạo, nhân vật Tnú hiện ra với một góc nhìn vừa mới vừa đầy tính chất anh hùng của thời đại. Đây là một nhân vật anh hùng, là người con vinh quang của làng Xô Man đã được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những đường nét độc đáo. Tính chất sử thi được thể hiện rõ nhất ở chỗ cuộc đời ngỡ như có số phận riêng nhưng thực ra Tnú lại đại diện cho số phận và con đường đi lên của dân tộc.
Cuộc đời Tnú sống chết với cộng đồng, gắn bó với những sự kiện có ý nghĩa nhất của cộng đồng. Anh là một cây xà nu trong muôn vàn những cây xà nu khác nằm dưới tầm đại bác của giặc. Cho dù dưới những cuộc chiến tàn khốc của đại bác và bom đạn của giặc mỹ, những cây xà nu bị cưa ngang thân nhưng ở dưới chúng những cây con lại bắt đầu nhú lên nhọn hoắt. Không cây nào không bị thương vì thế mà số phận của cây xà nu – Tnú cũng phải chịu những thương tích do giặc gây ra.
Ngôi Làng Xô Man có bao nhiêu người đã trở thành nạn nhân của tội ác quân thù “Bà Nhan bị chặt đầu, anh Xút bị bắn chết, cô bé Dít đã trở thành bia cho bọn giặc nhắm bắn vui cười…Đắng cay hơn, khi chính mắt anh phải nhìn phải chứng kiến cảnh giặc dùng roi sắt quật cho vợ con mình chết, và chính mình khi lao vào cứu vợ con cũng bị giặc tẩm lửa xà nu vào mười đầu ngón tay… đớn đau thấy cảnh tượng nhìn người thân mình chịu đòn roi của chính kẻ giặc, rồi Tnú cũng lên đường tham gia lực lượng cũng như cộng đồng người Xô Man của anh nhất tề cầm vũ khí và xây dựng làng chiến đấu.
Nhân vật Tnú có những nét tính cách tiêu biểu. Trước hết anh là một thanh niên gan góc, dũng cảm kiên cường có tính kỷ luật cao. Từ lúc còn nhỏ anh đã vào rừng nuôi cán bộ dù biết rằng bà Nhan, anh Xút đã bị bắt sát hại để cảnh cáo. Tnú đi liên lạc “thường xé rừng mà đi, lựa thác mạnh mà vượt”, học chữ chậm thua Mai, Tnú đã lấy “đá đập vào đầu máu chảy ròng ròng”. Bị giặc bắt tra khảo anh đã quyết không khai, anh đã chỉ vào bụng mình - nói “Cộng sản ở đây”. Ghê gớm nhất đó là khi giặc đốt mười đầu ngón tay, mình vẫn cắn răng không kêu van. Và hành động xông ra cứu vợ con với hai bàn tay trắng phần nào cũng biểu hiện được sự gan góc bất chấp cái chết của Tnú, anh có thể làm tất cả mọi thứ dù hi sinh và cái chết đang đợi mình. Câu chuyện về Tnú được cụ Mết kể trong một đêm nhân sự kiện anh nhớ làng xin đơn vị về nghỉ phép trong một ngày, sáng mai Tnú đã lên đường, điều này chứng tỏ anh chấp hành rất đúng kỷ luật của đơn vị, tôn trọng kỷ luật của làng.
Tính cách thứ hai của Tnú đó là con người giàu ý chí biết vượt lên bi kịch cá nhân để sống đẹp. Tnú từ nhỏ đã đi nuôi cán bộ, vượt ngục về anh lại cùng cộng đồng mình mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc chiến đấu dữ dội ác liệt hơn trong nay mai. Không gì đau đớn hơn có người vợ hiền thục có đứa con bụ bẫm, thế mà Tnú lại chứng kiến những đòn roi man rợ cùng với cái chết của vợ con. Không những thế, Tnú còn là nạn nhân của bọn giặc man rợ.
Nét tính cách thứ ba của Tnú là con người giàu tình nặng nghĩa, gắn bó với cách mạng, hết lòng với anh Quyết, nghe theo lời anh Quyết năng học hành để làm cán bộ.
Tnú mồ côi cha mẹ lại mất vợ con cho nên buôn làng, cộng đồng đối với giờ đây là tất cả. Dân làng là những người đùm bọc anh chính vì thế sau này khi lớn lên khi am hiểu hơn thì anh có thể làm mọi thứ để cứu lấy dân làng của mình. Được nghỉ phép một ngày mà vừa tới đầu làng anh đã cảm nhận được mọi thứ thân thuộc. Anh là người giàu tình cảm, trọng tình nghĩa, gắn bó với cách mạng và quê hương. Chính bản tính gan góc của anh đã khiến cho tinh thần chiến đấu thêm gan dạ, kiên cường giống như hình ảnh của những cây xà nu.
Mỗi khi chúng ta nhắc đến Tnú người ta thường nghĩ về chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa đó là tay Tnú - bàn tay đã từng cầm đá đập vào đầu mình, bàn tay dắt Mai làm nương rẫy, bàn tay chỉ vào bụng mình nói đó là cộng sản, bàn tay sau vượt ngục đã run run nắm lấy tay Mai ở đầu con nước lớn của làng, bàn tay mài rìu, rựa, giáo mác… và rồi cũng bàn tay ấy đã ngắt những trái vả. Hình ảnh nữa là hai cánh rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh đã ôm chặt lấy mẹ con Mai lần cuối, rồi mười đầu ngón tay của Tnú bốc lửa. Trải qua bao nhiêu khốc liệt bao nhiêu trận đánh và chứng kiến bao cảnh chết chóc, bàn tay ấy tham gia trận đánh đã giết những thằng chỉ huy đồn giặc, bàn tay ấy lại cầm đèn pin soi rõ mặt xác quân thù.
Tác phẩm ”Rừng xà nu” của tác giả Nguyễn Trung Thành dạt dào âm hưởng sử thi, nó đã sáng tạo ra một nhân vật sử anh hùng. Cuộc đời bi tráng của Tnú chính là cuộc đời của dân tộc Việt Nam. Song song với anh là những nhân vật mang tính nguồn cội như cụ Mết hay những thế hệ tiếp nối như Dít. Câu chuyện và tinh thần bất khuất kiên cường ấy vẫn mãi bùng cháy trong mỗi con người dân Tây Nguyên.
Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành - Mẫu 4
Rừng xà nu của tác giả Nguyễn Trung Thành được nhiều người đánh giá là bản sử thi bi tráng và anh hùng của dân tộc. Trong chiến tranh kháng chiến chống Mĩ của làng Xô Man, Tnú nhân vật chính để lại nhiều ấn tượng cho người đọc về con người Tây Nguyên anh hùng, bất khuất.
Tnú có tuổi thơ bất hạnh khi đã mồ côi ngay từ khi lọt lòng, anh được nuôi dưỡng bởi dân làng. Từ khi còn là một cậu bé, Tnú được cụ Mết truyền dạy: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn nước non này còn”. Cậu bé luôn thấm hiểu được lí tưởng sống buôn làng, tin tưởng đi theo Cách mạng.
Dù tuổi còn nhỏ nhưng Tnú không thua kém các chiến sĩ khác, rất dũng cảm và đầy quả cảm. Dù có sự vây lùng của kẻ thù, Tnú, Mai nuôi dưỡng và bảo vệ anh Quyết (cán bộ Đảng). Tnú trong một lần vượt qua thác thì bị địch bao vây, nhanh trí Tnú nuốt lá thư của anh Quyết vào bụng. Mặc dù địch bắt tra tấn làm cơ thể trầy xước, thương tích nhưng anh kiên quyết không hé răng nửa lời về cách mạng, góp phần giữ bí mật cho cuộc chiến. Tnú đã hoàn thành công việc của mình một cách xuất sắc góp phần bảo vệ cán bộ đảng an toàn. Không chỉ dũng cảm, gan dạ, anh còn có ý chí, nỗ lực trong học tập. Khi học chữ thua Mai, Tnú trừng phạt mình bằng cách đầy bất ngờ “cầm hòn đá tự đập vào đầu mình máu chảy ròng ròng”. Tnú toát lên vẻ gan lì, dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng. Trải qua một quãng đường từ nhỏ đến lớn rèn luyện cộng với ý chí sắt đá Tnú trở thành chiến sĩ trung thành với cách mạng.
Trở về làng sau quãng thời gian dài, Tnú lãnh đạo dân làng Xô man chống lại bọn ác ôn, Mai nay đã trở thành vợ của Tnú, hai người đã có chung một đứa con. Thế nhưng lại một lần nữa kẻ thù lại cướp đi mái ấm của anh, chúng đã giết vợ con Tnú. Tnú trở nên bất lực trước cái chết thảm thương của vợ con, không chỉ vậy anh còn bị bắt và vũng vẫy như một con thú hoang bị thương. Giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay của Tnú, mười đầu ngón tay đã cháy nhưng Tnú không hề kêu than một lời.
Trước sự dã man, ác ôn của kẻ thù ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xô man bùng cháy. Người Xô Man nổi dậy đồng loạt giết chết giặc. Lòng hận thù biến bàn tay Tnú thành ngọn đuốc châm bùng lên ngọc lửa nổi dậy của dân làng Xôman. Tnú đã xiết vào cổ họng của kẻ thù trả thù cho vợ con và cả những người đã bị bọn chúng giết.
Tnú vượt mọi đau thương cá nhân, tham gia lực lượng giải phóng quét sạch kẻ thù ra khỏi mảnh đất quê hương mang lại độc lập, tự do cho ngôi làng. Tnú thể hiện cho ý chí chiến đấu và khát vọng tự do cho chính mảnh đất Tây Nguyên.
Cuộc đời của Tnú cũng như chính vận mệnh của dân tộc Việt Nam, trải qua mọi đau thương từ kẻ thù nhưng vẫn bất khuất kiên cường để đi đến bến bờ của tự do, hạnh phúc. Tác phẩm ”Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ca ngợi mảnh đất, con người Tây Nguyên trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước, đó cũng là hình ảnh thu nhỏ của đất nước Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ xâm lược.
Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành - Mẫu 5
Truyện ngắn Rừng xà nu của tác giả Nguyễn Trung Thành được đánh giá như một bài “Hịch Tướng Sĩ” thời kì đánh Mĩ để động viên, cổ động nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ trường kì gian khổ. Trong truyện ngắn này, nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật Tnú - biểu tượng cho sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.
Hình ảnh Tnú và hình ảnh rừng xà nu đại ngàn là hai hình ảnh trung tâm xuyên suốt chiều dài tác phẩm. Nhà văn Nguyễn Trung Thành không tự mình kể về Tnú mà ông lựa chọn một cách rất khéo léo để cho chính già làng - Cụ Mết kể về Tnú. Cụ là người đã sống cùng Tnú những ngày khi anh còn bé, đã dõi theo mọi chặng đường anh đi cùng anh trải qua mọi buồn vui khó khăn. Cụ Mết là nhân chứng sống về cuộc đời Tnú. Hình ảnh người anh hùng Tnú hiện lên qua giọng kể ồm ồm của cụ Mết sao thật hào hùng và đậm chất sử thi.
Tnú là người Strá, anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, anh lớn lên trong vòng tay yêu thương bao bọc của người dân làng Xôman. Với anh dân làng Xôman và cụ Mết đã trở thành gia đình thứ hai của anh. Anh luôn một lòng gắn bó với dân làng và sau này khi lớn lên chính cậu bé mồ côi người Strá được dân làng nuôi nấng ngày nào đã trở thành người chiến sĩ cách mạng cầm súng bảo vệ dân làng. Tnú cũng giống như rừng xà nu đại ngàn kia luôn ôm áp bao bọc người dân làng Xôman. Cụ Mết từng nói về Tnú “Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” chính là một lời khen hoàn toàn xứng đáng.
Tnú như một tấm gương phản chiếu cho sự bản lĩnh, gan góc và không ngại khó khăn, thử thách của người dân Xôman nói riêng và đồng bào Tây Nguyên nói chung. Khi còn nhỏ Tnú đã tỏ ra là một đứa trẻ gan dạ. Khi nhìn thấy những tấm gương làm liên lạc như anh Xút, bà Nhan bị bọn địch kia chặt đầu treo cổ thì Tnú vẫn không hề run sợ, anh vẫn dũng cảm xung phong nhận làm liên lạc. Với anh cái chết của anh Xút và bà Nhan như tiếp thêm động lực để anh tiến đến gần hơn với cách mạng, tiến đến gần hơn với con đường có Đảng và cách mạng soi đường chứ không làm anh phải run sợ và chùn bước như chúng nghĩ. Anh cũng giống như rừng xà nu đại ngàn kia dù có chịu đau thương đến nhường nào vẫn không chịu buông tay người dân Xôman “bên cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Tnú đã dùng trí thông minh của mình để tìm ra con đường liên lạc an toàn và “lọt qua hết vòng vây của giặc”, anh “không chọn đường mòn, không chọn quãng nước êm mà chọn con đường gai góc. Hình ảnh người anh hùng Tnú càng hiện lên oai hùng và đầy mưu trí khi bị giặc bắt, Tnú cũng không hề sợ hãi mà nhanh trí nuốt bức thư mật vào bụng. Đã thế, Tnú còn thách thức lại với bọn giặc khi chỉ tay vào bụng và nói: “Cộng sản ở đây này”. Ngay cả khi bị giặc trói bắt đốt mười đầu ngón tay, Tnú vẫn không kêu lên một tiếng, không van xin chúng đến nửa lời. Tất cả những đau đớn ấy chỉ làm cho lòng căm thù trong anh ngày một lớn dần, không hề làm anh nhụt chí mà đó như ngọn lửa châm ngòi cho ngọn lửa nghĩa khí trong anh bùng cháy. Người ta thường nói tuổi trẻ thường gắn liền với sự nông nổi, bồng bột nhưng ở người anh hùng trẻ tuổi Tnú người đọc không hề thấy chút nào của sự bồng bột mà thay vào đó là một tinh thần chiến đấu quả cảm, một người chiến sĩ liên lạc gan dạ và đầy mưu trí.
Chắc hẳn người đọc không thể nào quên được hình ảnh Tnú cầm viên đá đập vào đầu để có thể nhớ được chữ. Cậu bé ấy cứ nghĩ rằng có thể nhét được những con chữ loằng ngoằng kia vào trí óc bằng cách bạo lực ấy. Nhưng khi được anh Quyết giải thích và động viên thì Tnú đã hiểu ra và học hành chăm chỉ hơn. Tinh thần học hỏi và cố gắng vượt lên chính mình của Tnú không phải ai cũng có được và điều đó càng làm cho mọi người tin tưởng và yêu mến đứa con người Strá này hơn.
Động lực nào đã giúp Tnú gan dạ đến vậy. Bởi chính cuộc sống đã dạy anh, đã bồi đắp cho anh những phẩm chất của một người chiến sĩ ngay từ khi còn nhỏ. Ngay từ nhỏ, anh đã mồ côi cha mẹ nhưng được dân làng nuôi nấng vậy nên với anh dân làng chính là cuộc sống là dòng máu đang chảy trong con người anh. Anh đã lớn lên trong vòng tay dân làng, cùng dân làng bảo vệ cán bộ. Anh đã được sống cùng với cán bộ, đã cùng dân làng nuôi và che chở cán bộ nên anh hiểu làm cách mạng là như thế nào, và từ đó lòng yêu nước thù giặc trong anh đã lớn lên từng ngày. Cậu bé ấy đã lớn lên trong vòng tay của những người dân lương thiện, trong vòng tay của những chiến sĩ quả cảm vì nước quên thân thì không có lí gì lại không thể trở thành đứa con của cách mạng, đi theo con đường mà Đảng và cách mạng đã chỉ đường soi lối. Từ khi còn nhỏ, bị giặc bắt, bị đày đọa: “tấm lưng chằng chịt những vết chém” nhưng Tnú chưa bao giờ khai lấy nửa lời. Khi xông ra cứu mẹ con Mai, Tnú bị giặc bắt đốt mười đầu ngón tay và tận mắt chứng kiến giặc tra tấn giết chết người vợ yêu quí và đứa con hết mực yêu thương của vợ chồng anh nhưng không làm anh khuất phục. Lúc đó ai cũng hiểu nỗi đau trong lòng Tnú lớn đến nhường nào, trái tim anh như vỡ òa bởi những người thân duy nhất của anh, chỗ dựa vững chãi nhất của người chiến sĩ ấy đã bị hành hạ cho đến chết ngay trước mắt anh mà anh không thể làm gì được. Anh đã “bứt đứt hàng chục trái vải mà không hay” và nỗi đâu đã biến “hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Chúng nghĩ đánh một đòn tâm lí trí mạng như vậy với Tnú chắc anh không thể đứng dậy được nhưng không ngờ nỗi đau không từ ngữ nào tả hết ấy như tiếp thêm động lực để người con làng Xôman ấy ấy có thêm ý chí và động lực để gia nhập quân đội, để cầm súng giết giặc trả nợ nước báo thù nhà, bảo vệ dân làng và quê hương.
Không chỉ dành tình yêu cho gia đình nhỏ của mình, Tnú còn có một tình yêu lớn lao với quê hương với bản làng. Trên đường trở về với bản làng đi qua cụm cây, ngọn cỏ hay suối nước nào mọi kỉ niệm trong anh đều ùa về. Dường như mọi thứ nơi đây vẫn thuộc về anh như ngày nào. Khi đã được tham gia lực lượng của cách mạng, Tnú là một người luôn tôn trọng kỉ luật đã đề ra. Tuy rất nhớ quê hương, nhớ dân bản nhưng Tnú chỉ chở về thăm quê hương khi có giấy phép, trong giấy ghi được về bao ngày thì anh chỉ về vỏn vẹn đúng số ngày đã được ghi. Với Tnú tôn trọng kỉ luật, tôn trọng cấp trên là đang tôn trọng chính mình. Mọi tình cảm riêng tư được anh dồn nén ở trong lòng và không cho chúng được phép chi phối tới công việc, ảnh hưởng tới niềm tin mà cách mạng và cán bộ đã dành cho anh.
Bằng những ngôn từ sinh động tác giả Nguyễn Trung Thành đã dựng nên một hình tượng một người lính đầy gan dạ, kiên cường. Người chiến sĩ ấy được nuôi dưỡng và lớn lên trong cái nôi cách mạng. Chính người chiến sĩ mang tên Tnú ấy đã để lại trong lòng độc giả sự thán phục về tinh thần chiến đấu và tình yêu quê hương đất nước. Anh như những cây xà nu bất khuất kia, lấy thân mình che chở cho dân làng, góp xương máu của mình cho cách mạng và dâng hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho lí tưởng quang vinh.
1.Mỗi nhà văn, dường như đều có một vùng quê sáng tác. Đối với Nguyên Ngọc, Tây Nguyên hùng vĩ núi non. Tây Nguyên bất khuất kiên cường với những người bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách mạng chính là vùng đất mà ông gắn bó, trăn trở trong sáng tác của mình. Những năm kháng chiến chống Pháp, ông bám trụ ở Tây Nguyên để rồi viết nên tiểu thuyết Đất nước đứng lên. Những năm đánh Mĩ, Nguyên Ngọc lại trở về với vùng gian khổ này từ đầu những năm sáu mươi, ngay sau những ngày đồng khởi cách mạng miền Nam. Cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Tây Nguyên khơi lòng cảm hứng cho ông viết truyện ngắn Rừng xà nu, một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.
Rừng xu nu chỉ là một truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực của nó là lớn lao. Đó là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung nhiệt tình, mưu trí và kiên cường.
Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà nu quanh làng Xô Man của người Strá. Một rừng xà nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù để tiếp nhận ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, rừng xà nu tràn trề sức sống cho dù đại bác của bọn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” dồn dập nã chết chóc đau thương vào nó.
“Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình. Ở những vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại. và đặc quệnh thành từng cục máu lớn. Có những cây con vừa lớn ngang ngực lại bị đại bác chặt đứt làm đôi, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như một thân thể cường tráng. Chúng vươn rất nhanh, thay thế những cày đã ngã. Cứ thể hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng...”.
Nguyên Ngọc miêu tả rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu chất thơ, chắt lọc và tinh tế ở một thứ ngôn ngữ vừa tả vừa gợi, mở ra những liên tưởng phong phú cho người đọc. Hình ảnh rừng xà nu ở đây vừa là hình ảnh thực một rừng cây “ham ánh sáng mặt trời”, vừa là hình ảnh có nghĩa tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày đồng khởi chống Mĩ. Bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân hóa đã phát huy tối đa hiệu lực cua nó. Rừng xà nu hiện lên như một người bạn trung thành che chở cho dân làng Xô Man, như những con người đẹp của buôn làng. Và có thể nói rừng xà nu chính là biểu tượng về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người Việt Nam.
Tái hiện chân thực cuộc chiến đấu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mĩ, nhà văn tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, phát huy truyền thống anh hùng của cha ông và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú và Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man.
Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được dân làng đùm bọc, nuôi dạy khôn lớn. Cậu bé Tnú đến với cách mạng ngay từ những ngày gian khổ, ác liệt nhất khi mà Mĩ Diệm đang ngày đêm khủng bố cách mạng ở khắp mọi nơi. Chính Tnú đã chững kiến cảnh đau thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ vì họ là những người dũng cảm, dám nuôi dấu cán bộ cách mạng. Ngày Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức, lẽ sống ở đời qua sự chỉ bảo của anh cán bộ Quyết. Dũng cảm, mưu trí, lanh lợi là phẩm chất tốt đẹp của Tnú, “nó liên lạc cho anh Quyết từ xã lên huyện. Không bao giờ nó đi đường mòn. Giặc vây các ngả đường nó leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xẻ rừng mà đi, lọt tất cả vòng vây. Qua sông nó không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn em về làng, tra tấn đủ mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai báo, chỉ điềm tĩnh chỏ và bụng mình để trả lời câu hỏi cùa kẻ thù: Cộng sản ở đây này”. Đó không phái là câu trả lời mà là một lời thách thức, dung cảm ! Với lời thách thức ấy, Tnú phải trả giá bằng ba năm tù.
Thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú là một thanh niên, trưởng thành hơn về nhân cách. Anh hiểu rõ nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Anh thực hiện ngay lời dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná… " chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho cuộc chiến đấu sắp tới. Và hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó. Mai, cô bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh.
Lại một thử thách nữa đến với Tnú: bọn giặc ở đồn Dác Hà xuống làng Xô Man truy bắt anh, vợ con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ con. Tnú đành phải ra đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc đối đầu này, phẩm chất kiên cường của anh càng sáng hơn bao giờ hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón tay anh, “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc", răng cắn chặt môi, không một tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giậm vào kẻ thù. Có thể nói Tnú là hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, bất khuất. Sự tàn bạo của kẻ thù đã lên tới tột đỉnh và nhân dân cũng không thể cam chịu sống dưới ách tàn bạo đó. Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang lên, tiếng thét như một lời báo hiệu triệu dân làng cầm vũ khí đứng lên, cả làng Xô Man đứng dậy. “Tiếng giết”, tiếng chân người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh... Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải phóng cho nhân dân, giải phóng đất nước với một nhận định sâu sắc hơn. Điều này có thế thấy rõ qua lời tâm sự của Tnú với dân làng sau “ba năm đi lực lượng”. Anh kể rằng anh giết thằng Dục, tên chi huy đồn giặc ở Đắc Hà, kẻ đã giết vợ con anh, kẻ dã gieo đau thương cho làng Xô Man và theo anh thằng giặc nào “cũng la thằng Dục cả”. Rõ rang, với anh chiếu sĩ giải phóng quân Tnú, mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước cũng là mối thù của gia đình, của quê hương anh. Đó là một nhận thức sâu sắc, nhận thức mà Tnú rút ra được từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng của đất nước và từ cuộc chiến đấu của quê hương.
Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội làng Xô Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi. Dit “còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ...". Vậy mà, khi Tnú trở về, cô bé ấy đã đảm trách những công việc trọng yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải ngẫu nhiên mà là quá trình rèn luyện vượt qua thử thách lúc còn nhỏ. Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan dạ. Lần ấy, Dít bị giặc bắt “Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai bàn chân nhỏ của Dít. Váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó giật lên một cái nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”. Không chỉ gan góc Dít còn là một cô bé cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương của chị Mai, Dít “lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già, đều khóc”. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Xô Man. Trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng, Dít cũng tỏ rõ là người có bản lĩnh, có sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít, không khỏi xúc động, nhìn anh với “đôi mắt mở to bình thản trong suốt”. Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của minh khi hỏi “đồng chí có giấy không?”, khi tuyên bố dứt khoát “không có giấy thì không được, ủy ban phải bắt thôi” và sau khi xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “sao anh về có một đêm thôi”. Con người Dít như vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần tha thiết với quê hương, đành rằng bề ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng bình thản.
Tnú và Dít tiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Xô Man, từ lòng căm thù của họ đến với cuộc chiến đấu của dân tộc và chính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự trưởng thành của họ có cội nguồn của có một mặt là do họ tự vượt mình qua những thử thách lớn lao, mặt khác là do có sự dìu dắt cách mạng cùa cha ông. Đặc biệt sự trưởng thành của Tnú và Dít được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền thông anh hùng cùa người Strá. Cụ Mết chính là đại diện cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Xô Man. Cụ là pho sử sống, là chỗ dựa tinh thần của dân làng. Tuy già nhưng “cụ vẫn quăc thước như xưa... ngực cũng như một tấm xà nu lớn... tiếng nói vẫn ồ ồ vang trong lồng ngực”, vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng. Có lẽ cuộc đời cụ đã nếm trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu, cho nên cụ luôn luôn nhắc nhờ con cháu nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất cúa quê hương. Chứng kiến cái chết thảm thương của Mai và sự bất lực của Tnú trước sự tra tấn dã man tàn bạo của bọn thằng Dục, cụ Mết càng thấu hiếu: Đối với kẻ thù “chỉ có hai bàn tay trắng, chỉ với bàn tay không” thì không thể nào đối đầu với chúng được, phải cầm vũ khí đứng lên! Bài học này, cụ muốn truyền lại cho thế hệ mai sau: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy. San này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu. Chúng nó cầm súng, mình phái cầm giáo’’. Lời cụ rành rẽ vang lên trong ánh lửa bập bùng ở nhà ưng.
Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định vai trò của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống, với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít... có sự trưởng thành lớn lao.
Và không chỉ có lớp người như Tnú, lớp sau Tnú như bé Heng, cũng lớn lên, lớn lên cùng với cuộc chiến đấu ác liệt của làng Xô Man. Với nhân vật bé Heng, Nguyên Ngọc chỉ phác họa vài ba đường nét miêu tả ngoại hình nhưng cũng đủ tạo ra ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Tuổi của bé Heng, lẽ ra, là tuổi đến trường với những trang sách, với những trò chơi vui nhộn nhưng đất nước còn giặc, bé cũng còn nhỏ, bé Heng đã có dáng vẻ của “một người lính thật sự, đội chiếc mũ sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc vào một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng”. Hơn thế, Heng thuộc từng lớp hầm bẫy, hố chông, trở thành người liên lạc như Tnú năm xưa. Thật là từ hào và tin tưởng với một lớp người như bé Heng! Lớp ấy đang lớn lên, trưởng thành, xứng đáng với thế hệ cha anh.
Đọc Rừng xà nu có cảm tưởng như được xem một bộ phim về số phận một con người với biết bao sự kiện. Truyện bắt đầu từ hiện tại từ cái thời điểm anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú đặt chân lên mảnh đất quê hương ‘‘sau ba năm đi lực lượng” rồi ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Quá khứ cứ hiện dần lên trong sự hồi tướng của Tnú, trong lời kể của tác giả, trong lời kể của cụ Những mảng đời quá khứ, những mảng đời hiện tại, cứ đan ngang, soi tỏ cho nhau để cắt nghĩa sự trưởng thành của thế hệ Tnú, sự trưởng thành của làng Xô Man trong cuộc chiến đấu với kẻ thù, để làm nổi rõ chủ đề của truyện, từ nỗi đau riêng và nỗi đau chung, Tnú và làng Xô Man phải cầm vũ khí để tự cứu lấy mình, để giải phóng dân tộc và cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc sinh ra một thế hệ trẻ kế tục xứng đáng với cha ông. Chính cái tư tưởng này đã chi phối kết cấu của Rừng xà nu. Hệ thống sự kiện trong truyện, chủ yếu được tố chức theo sự phát triển tâm lí tính cách nhân vật trung tâm, chứ không theo trật tự thời gian thông thường. Tổ chức sự kiện theo cách đó, nhà văn có điều kiện tập trung miêu tả những tình huống gay cấn làm nổi bật tính cách nhân vật, mặt khác cũng phù hợp với ý nghĩa chính luận của tác phẩm. Hai lần đối đầu trực tiếp với kẻ thù là hai lần Tnú thể hiện rõ phẩm chất kiên cường của anh, tất nhiên tác phẩm này thể hiện ở mỗi lần có khác nhau và có sự phát triển. Sa vào tay giặc khi còn là một cậu bé, Tnú tỏ rõ đức kiên trung quả cảm cùa mình. Còn lần đối đầu với kẻ thù, Tnú rực sáng kiên cường bất khuất trước bóng đen tàn bạo của kẻ thù.
Khắc họa tính cách nhân vật, Nguyên Ngọc có sở trường trong việc lựa chọn những chi tiết tiêu biểu có ý nghĩa khái quát cao, những chi tiết giàu chất tạo hình, giàu chất thơ. Trong nhận thức của người đọc, sừng sững hình ảnh tụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết quắc thước, râu dài, mắt sáng, ngực căng như một cây xà nu lớn. Và cũng xúc động lòng người một cụ Mết ân tình với cháu con lúc trở tay chùi hai giọt nước mắt lớn khi lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú còn ngang dọc những vết thương đã thành sẹo tím. Như vậy nhân vật anh hùng trong Rừng xà nu không chỉ rung cảm người đọc ở sự vượt lên hoàn cảnh khốc liệt của họ mà còn ở những xúc động, những tình cảm thầm kín nơi họ.
Trên những trang viết của mình. Nguyên Ngọc thường trải những cảm xúc trữ tình của ông về con người, đất nước quê hương. Giọng văn của Rừng xà nu đằm thắm chất trữ tình, khi trầm hùng theo ánh lửa chập chờn ở nhà nhưng trong lời kể trang nghiêm xúc động về quá khứ đau thương của cụ Mết, khi tha thiết tuôn chảy theo dòng hồi tường về người thân, theo dòng suy tưởng về quê hương của Tnú... lời văn của Rừng xà nu giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, óng mượt như ngôn ngữ của một bài thơ (ví dụ: đoạn mở đầu tác phẩm). Chính cái vẻ cùa lời văn đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Rừng xà nu là chuyện của con người nhưng qua đó ta thấy số phận của một dân tộc. Từ câu chuyện của Tnú và của làng Xô Man, tác già nói tới sự trưởng thành của cách mạng miền Nam trong những ngày trước và sau đồng khởi. Đọc Rừng xà nu hôm nay, vẫn thấy âm vang cái hào hùng cùa một thời chống Mĩ, một thời có những con người đẹp như cụ Mết, như Tnú, như Dít, như Mai….
HƯỚNG DẪN
A. MỞ BÀI
Tây Nguyên là mảnh đất của văn hóa cồng chiềng và những pho sử thi đồ sộ. Chính mảnh đất này đã thổi hồn vào những trang viết của Nguyễn Trung Thành và để lại nhiều dấu ấn qua “Rừng Xà Nu”, “Đất nước đứng lên”… Truyện ngắn “Rừng xà nu” ra đời vào mùa hè 1965 giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang đến hồi ác liệt. Tác phẩm để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi hình tượng cây xà nu- tiêu biểu cho thiên nhiên và con người Tây Nguyên kiêu hùng, bất khuất.
B. THÂN BÀI
1. Khái quát: Tác phẩm “Rừng Xà Nu” ra đời vào thời điểm mùa hè năm 1965 khi đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ. Tác phẩm được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Bối cảnh của thiên truyện là mảnh đất Tây Nguyên với những con người anh hùng, kiên trung, bất khuất.
2. Hình tượng cây Xà Nu được tác giả miêu tả xuyên suốt trong toàn bộ câu truyện.Trong truyện ngắn này, nhà văn không chỉ mở đầu và kết thúc truyện bằng hình ảnh rừng xà nu “bát ngát đến tận chân trời” mà còn gần hai mươi lần nói đến “Rừng Xà Nu”, “Cây Xà Nu”, “nhựa Xà Nu”, “lửa Xà Nu”, “đuốc Xà Nu”…Xà nu gắn bó với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày thân thuộc với dân làng: ngọn lửa xà nu nấu ăn trong mỗi bếp, lửa xà nu cháy bập bùng trong nhà Ưng tập trung cả dân làng để nghe cụ Mết kể về cuộc đời Tnú. Khói xà nu đen nhẻm thân hình lũ trẻ; khói xà nu còn làm tấm bảng đen cho anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ cụ Hồ… Xà Nu còn tham dự vào những sự kiên quan trọng của cuộc sống làng Xôman: ngọn đuốc xà nu cháy sáng trên tay cụ Mết dẫn cả dân làng đi vào rừng sâu lấy giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Đêm đêm cả dân làng thức mài vũ khí dưới ánh đuốc xà nu. Giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu… Bởi vậy, tác phẩm đặt tên gọi là Rừng Xà Nu là rất hợp lý.
3. Hình tượng cây xà nu qua ngòi bút Nguyễn Trung Thành đã trở thành một thành lũy vững vàng bảo vệ cuộc sống cho buôn làng Xô Man: Mỗi ngày giặc bắn đại bác ba lần vào làng nhưng làng Xô Man vẫn bình yên vì “Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Đổi lại, vì bảo vệ cho dân làng nên cánh rừng xà nu lại chịu nhiều đau thương mất mát: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị đạn đại bác chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”. Ở chỗ khác, nhà văn miêu tả kỹ hơn: “Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người đã bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi, ở những cây này nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, chỉ năm mười hôm là cây chết ”.
Bằng nghệ thuật nhân hoá, ẩn dụ tượng trưng tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù . Viết về nỗi đau của cây mà ta cứ ngỡ như nỗi đau của con người. Mỗi một cây ngã xuống ta cứ ngỡ như một người Xô Man ngã xuống. Phải chăng đó là hình ảnh của anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai, anh Quyết… những người đã ngã xuống vì chính nghĩa dưới bàn tay tàn bạo của kẻ thù. Nhưng trong đau thương, cây xà nu vẫn hiện lên bởi những vẻ đẹp thăng hoa đến sững sờ. Đẹp trong dáng ngã kiêu hùng, bất khuất “đổ ào ào như một trận bão”. Đẹp bởi đường nét, màu sắc, hình khối , trong đau thương mà vẫn hiện hữu hương thơm và ánh sáng “nơi chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành cục máu lớn”.
4. Cây xà nu có sức sống mãnh liệt là hình ảnh tượng trưng cho cuộc sống và phẩm chất người dân Xôman nói riêng, Tây Nguyên nói chung: bằng bút pháp miêu tả tác giả đã mang đến cho người đọc sức sống hoang dại, mãnh liệt của rừng Xà Nu: “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời” . Đau thương nối đau thương, sự sống nối tiếp sự sống, mà sự sống của xà nu là bất diệt, bất tử, không một thế lực nào, không mưa bom bão đạn nào của kẻ thù có thể hủy diệt được. Như một mẫu số nhân “một ngã” thì “bốn năm cây con mọc lên” thách thức, kiêu hãnh. Đúng như lời cụ Mết đã khẳng định “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên, đố chúng nó giết hết được cả rừng xà nu này”.
Thế hệ này ngã xuống, thế hệ khác đứng lên thay thế, tiếp tục chiến đấu với kẻ thù. Con người Xô man cũng vậy: anh Xút bà Nhan hi sinh thì có thế hệ của Mai và Tnú lớn lên tiếp tục xông pha vào mưa bom bão đạn để viết tiếp trang sử của làng. Mai ngã xuống khi tuổi xuân và hạnh phúc đang căng nồng thì Dít lớn lên nhanh chóng trở thành bí thư chi bộ. Rồi thế hệ bé Heng đang tiếp bước cha anh. Tất cả tạo nên một đội ngũ trùng điệp.
5.Vẻ đẹp nữa của cây xà nu đó là loài cây ham ánh sáng mặt trời, yêu tự do. Sự sống của nó chính là sự vươn lên để sinh tồn. Dựa vào đặc điểm đó Nguyễn Trung Thành lại thêm một lần nữa khiến người đọc phải rung động trước những câu văn đầy ánh sáng và hương thơm. Cây xà nu rất ham ánh sáng và khí trời: “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, vô số những hạt bụi vàng bay ra từ nhựa cây thơm mỡ màng”. Đó chính là tiếng gọi của tình yêu tự do. Cũng như Tnú, như dân làng Xôman yêu tự do, khát khao ánh sáng nên họ đã cầm giáo, cầm gươm quyết tâm bảo vệ vùng trời tự do ấy.
6. Và ở rừng Xà Nu còn xuất hiện những cây khác vững chãi, không chịu khuất phục trước giông bão, đạn bom của kẻ thù : “Có những cây xà nu cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ, đạn đại bác không giết nổi chúng. Những vết thương của chúng chóng lành như trên một cơ thể cường tráng. Cứ thế ba năm nay , rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho cả dân làng”. Hình ảnh ấy của cây rừng Xà Nu khiến ta liên tưởng đến hình ảnh của cụ Mết, của sức sống Tnú, của Dít… Đó là vẻ đẹp của bức thành đồng kiên cố, tấm lá thép vĩ đại của làng Xô man. Vì vậy mà suốt năm năm chưa hề có cán bộ nào bị giặc bắt hoặc chết trong rừng làng này. Bởi rừng xà nu đã mang tầm vẻ đẹp “Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”. Tất cả nối tiếp nhau tạo thành một đội ngũ trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau chạy đến tận chân trời.
7. Tương đồng với vẻ đẹp của Rừng Xà Nu chính là vẻ đẹp của con người Xô Man kiêu hùng bất khuất. Bên cạnh ý nghĩa tả thực, rừng Xà Nu còn mang tính biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của nhân dân các dân tộc Tây Nguyên. Phải chăng đó là vẻ đẹp của cụ Mết, người truyền và giữ ngọn lửa tinh thần cách mạng với chân lí ngời sáng “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Là vẻ đẹp của người anh hùng Tnú với tinh thần kìm nén đau thương để biến thành sức mạnh quật khởi. Là vẻ đẹp của Dít với đôi mắt mở to trong suốt, bình thản, ngày Mai chết, Dít như cây xà nu nhanh chóng trưởng thành, nhanh chóng trở thành bí thư chi bộ cùng cụ Mết lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc. Vẻ đẹp của bé Heng, thế hệ xà nu măng non, chưa trưởng thành nhưng tinh thần thì đã “nhọn hoắt như những mũi lê”… Có thể nói hình tượng xà nu nổi bật xuyên suốt tác phẩm, câu chuyện mở ra trong vẻ đẹp mãnh liệt của sự sống trước đau thương mất mát để rồi khép lại vẫn là hình ảnh hào hùng của sự thách thức . Bên cạnh “bốn năm cây xà nu đã bị đánh ngã đã có vô số những cây con đang mọc lên”. Mới mọc thôi nhưng tinh thần chiến đấu lại rất mãnh liệt “Có những cây mới nhú khỏi mặt đất nhọn hoắt như những mũi lê”.
8. Nghệ thuật xây dựng hình tượng: Thủ pháp nghệ thuật so sánh, đối chiếu, ngôn ngữ sử thi hào hùng, nhân cách hóa như một ẩn dụ trên đây trong khi mô tả cây xà nu, đã tạo nên sự chuyển hóa, hòa hợp giữa hình tượng thiên nhiên và con người, tạo nên một bản hợp xướng đầy chất thơ hào hùng tráng lệ về sức sống bất diệt và cuộc chiến đấu bất khuất kiên trung của nhân dân Tây Nguyên giành tự do.
C. KẾT BÀI
Tóm lại, hình tượng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Nó được dùng như một ẩn dụ gợi cho người đọc nghĩ đến con người Tây Nguyên yêu tự do, dồi dào sức sống, bất khuất kiên trung, thủy chung với Cách mạng. Như thế là hình tượng Cây xà nu đã được tác giả đưa lại cho biết bao ý nghĩa mới mẻ giàu tính chất thẩm mỹ và ý nghĩa nhân sinh, trở thành linh hồn tác phẩm.Vì vậy, tác giả đã đặt cho truyện của mình cái tên thật có ý nghĩa: “Rừng xà nu”.
2.Bài làm
Nguyễn Trung Thành là nhà văn của Tây Nguyên, ông viết rất hay, sâu sắc và chân thực về con người và mảnh đất Tây Nguyên hung vĩ. Truyện ngắn “Rừng xà nu” là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn TRung Thành khi ca ngợi về Tây Nguyên đậm chất sử thi. Đặc biệt tác giả đã xây dựng thành công hình tượng cây xà nu mang đậm bản chất, chí khí cho con người sống trên mảnh đất này.
Xuyên suốt tác phẩm “Rừng xà nu” là hình ảnh cây xà nu, có thể xem đây là hình tượng trung tâm, làm nền và cũng là nguồn cảm hứng bất tận để tác giả có thể miêu tả thành công từng nhân vật. Xà nu là loài cây phổ biến ở núi rừng Tây Nguyên, dẻo dao, kiên cường và bất khuất. Nhắc đến rừng xà nu, người ta sẽ liên tưởng đến những con người Tây Nguyên bất khuất, không chịu đầu hàng, luôn hướng về phía trước để bảo vệ độc lập.
Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành-Văn lớp 12
Hình ảnh cây xà nu được tác giả lấy để đặt tên cho nhan đề, mở đầu câu chuyện và kết thúc cũng là hình ảnh xà nu bạt ngàn. KHông phải ngẫu nhiên mà tác giả lại lấy hình tượng này, đó hẳn là dụng ý của chính tác giả. Vừa thể hiện sự hung vĩ của thiên nhiên Tây Nguyên, vừa khẳng định ý chí quật cường của con người mảnh đất Tây Nguyên.
Trước hết, cây xà nu chính là một biểu tượng của núi rừng Tây Nguyên, gắn liền với cuộc sống của Tây Nguyên. Cây xà nu gắn liền với đời sống của dân làng Xô man, sự trưởng thành của từng thế hệ người Tây Nguyên đều gắn liền với hình ảnh cao quý này. Đó là Tnu, chị Mai, cụ Mết, bé Heng. Những con người đó, để bảo vệ lây dân làng, bảo vệ Tây Nguyên đã phải đánh đổi và hi sinh rất nhiều. Xà nu là loại cây mọc thẳng, vươn ra ánh sang, cũng giống như con người Tây Nguyên vẫn luôn hướng về phía trước, dù là khó khan, thử thách như thế nào. Dường như xà nu chính là linh hồn của Tây Nguyên, nó ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người.
Không những thế cây xà nu còn tham gia đánh dấu nhiều sự kiện lịch sử của dân làng Xô man. Ngọn đuốc xà nu dẫn đường cho dân làng tây nguyên, mười ngón tay của Tnu bị đốt cũng được tẩm nhựa của xà nu. Cây xà nu ăn sâu vào trong tâm niệm của mỗi con người, biểu tượng cho tinh thần và ý chí quật cường của người Tây Nguyên. Cây xà nu vẫn được nhắc đi nhắc lại trong mỗi câu chuyện “không có gì mạnh bằng cây xà nu”, mặc dù bị thiêu rụi bao nhiêu thì cây xà nu vẫn kiên cường vượt qua bão giông.
Xà nu là hình ảnh ẩn dụ cho con người Tây Nguyên. Hình ảnh cả rừng xà nu bị nã đạn, chat rụi cũng giống như hình ảnh dân làng Xô man bị áp bức, bóc lột đến tàn bạo. Sự mất mát, đau thương cứ chồng chất khiến cho lầm than cứ nối tiếp, không chịu nguôi. Mặc dù bị đạn phá hủy nhưng cây xà nu vẫn kiên cường, chịu đựng; giống như hình ảnh Mai, Tnu mặc dù bị tra tấn nhưng bằng sức sống bền bỉ vẫn có thê gắng gượng và chiến đấu đến cùng.
Xà nu và những người dân Tây Nguyên dường như có mối giao hòa với nhau, gắn bó khăng khít không rời. Đây cũng chính là dụng ý của tác giả khi xây dựng hình tượng có sức nặng như thế này.
Con người Tây Nguyên có khát vọng hòa bình, muốn cuộc sống ấm no hạnh phúc. Tác giả đã gửi gắm khát khao ấy qua hình tượng xà nu bạt ngàn, trải dài đến vô tận.
Xà nu là loại cây sinh trưởng tốt, sức bền bỉ, dẻo dai. Con người Tây Nguyên có bao nhiêu thế hệ đã ngã xuống, những thế hệ khác lại nối tiếp, phát huy tinh thần chiến đấu. Những thế hệ lão làng như cụ Mết, rồi đến Tnu và cuối cùng là bé Heng, ở họ đều có những khát khao cháy bỏng về tương lai tương lai.
Chắc chắn người đọc sẽ chú ý đến hình ảnh nhân vật Tnu. Cây xà nu và Tnu là hai hình ảnh song song, đi liền nhau để hỗ trợ cho nhau, làm nổi bật nhau. Đặc điểm tiêu biểu của xà nu cũng chính là những đặc điểm của nhân vật Tnu mà không hề lẫn lộn với ai.
NGuyễn TRung Thành bằng tình yêu Tây Nguyên, quan sát tinh tế đã khắc họa thành công hình ảnh cây xà nu có sức ám ảnh đối với người đọc từ đầu tác phẩm đến cuối tác phẩm. Xà nu khiến cho mọi người có cái nhìn ngưỡng mộ đố với mảnh đất và con người tây nguyên.
Phân tích tính sử thi trong "Rừng Xà Nu" của Nguyễn Trung Thành
Câu trả lời của bạn
I. Mở bài (Dẫn dắt vào vấn đề)
II. Thân bài:
1.Khái niệm Sử thi
Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô hoành tráng, miêu tả và ca ngợi những thành tựu, những sự kiện có tính chất toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng, ca ngợi những anh hùng bộ tộc mang sức mạnh thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của bộ tộc (như anh hùng Rama trong Sử thi Ramayana; Hecto trong sử thi Iliat, Ôđixê của Hy Lạp..v.v…Ở Việt Nam có người anh hùng Đam San trong Bài ca Đăm Săn của người Ê Đê…)
Mỗi bộ sử thi chính là niềm tự hào to lớn của dân tộc đó. Sử thi thời cổ đại là thể loại một đi không trở lại. Nền văn học hiện nay không còn thể loại sử thi nữa nhưng cái không khí, tính chất của sử thi vẫn được người cầm bút mang vào trong các sáng tác. Và chất sử thi đã làm nên giá trị, làm nên sức sống cho từng trang viết, làm sống lại không khí hùng tráng của một thời đại anh hùng. Một số truyện ngắn tiêu biểu minh họa cho sự tồn tại của nền văn học sử thi trong Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 như: Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình, Người mẹ cầm súng của nhà văn Nguyễn Thi, truyện ngắn Rừng xà nu, tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyễn Trung Thành, tiểu thuyết Hòn Đất của Anh Đức…
Truyện ngắn Rừng xà nu được in trong tập truyện ngắn Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Tác phẩm được viết vào năm 1965. Đây là thời điểm Mỹ đổ quân tham chiến ở miền Nam . Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Nam ở vào hồi quyết liệt: giặc Mỹ điên cuồng đánh phá Cách mạng miền Nam. Trước sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù, tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân (từ miền ngược đến miền xuôi) càng kiên cường và bất khuất “Họ đã xuống đường và đem cả lương tâm và nhân phẩm bắn tỏa lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai)
Ý 1: Chất sử thi được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên hùng vĩ , tráng lệ vừa đậm chất thơ của núi rừng Tây Nguyên.
Thiên nhiên trong Rừng xà nu thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây”, thì kết túc tác phẩm vẫn là rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Đó chính là bức tranh thiên nhiên toàn cảnh về cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn và hào hùng của dân tộc ta.
Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật như: nhân cách hóa, ẩn dụ, tượng trương, so sánh, bi tráng hóa… nhà văn đã dựng nên bức tranh rừng xà nu ở nhiều góc độ:
“Một cây ngã cả rừng cây lại mọc
Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân”
(Nhà văn Nguyễn Trung Thành)
Người hi sinh đất hồi sinh
Máu người hóa ngọc lung linh giữa đời
(Phan Thị Bích Hằng)
Ý 2: Tnú – hình ảnh người anh hùng bất tử của dân làng Xôman.
Đến với truyện ngắn “Rừng xà nu”, chúng ta được thả hồn theo những cánh rừng xà nu bát ngát, xanh rờn đến tận chân trời, được chứng kiến sức sống mãnh liệt không gì hủy diệt được của những cây xà nu. Mặt khác chúng ta lại khâm phục biết bao người anh hùng Tnú với những phẩm chất tốt đẹp. Xây dựng hình tượng người anh hùng này cũng là biểu hiện chất “Sử thi”.
“Gấp trang sách lại, hình ảnh Tnú với bao phẩm chất tốt đẹp vẫn sống mãi trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Tnú tiêu biểu cho hình mẫu người anh hùng dân tộc Tây Nguyên và cũng mang những nét chung của hinh mẫu anh hùng dân tộc thấm đượm chất “Sử thi”. Cùng với Trần Quốc Toản, La Văn Cầu, Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn Trỗi và biết bao anh hùng, liệt sĩ khác các anh ca lên bài ca khải hoàn chiến thắng cho dân tộc Việt Nam yêu dấu” (Phan Huy Dũng)
Ý 3. Tính cộng đồng trong tác phẩm:
Bên cạnh việc miêu tả,làm nổi bật lên hình ảnh của người anh hùng Tnú, người ta còn thấy được hình ảnh của những con người khác xung quanh nhân vật này, những người gan dạ dũng cảm trong cộng đồng làng Xô man. Mỗi con người là một sức mạnh, mỗi ngọn giáo đứng lên là thể hiện một lòng căm thù. Sức sống mãnh liệt đó được truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ các cụ già đến những em bé còn ngây thơ nhưng đã có ý thức về nỗi đau mất nước, mất người thân, mất chủ quyền dân tộc. Tính chất cộng đồng được thể hiện trong tác phẩm rất rõ:
“Nước Việt Nam từ trong biển máu
Người vươn lên như những thiên thần”
(Tố Hữu)
“Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
(Nguyễn Đình Thi)
Ý 4. Nghệ thuật trong truyện ngắn Rừng Xà Nu
III. Kết bài
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, chất sử thi của tác phẩm.
II. Thân bài
1.Khái niệm Sử thi
Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô hoành tráng, miêu tả và ca ngợi những thành tựu, những sự kiện có tính chất toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng, ca ngợi những anh hùng bộ tộc mang sức mạnh thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của bộ tộc (như anh hùng Rama trong Sử thi Ramayana; Hecto trong sử thi Iliat, Ôđixê của Hy Lạp..v.v…Ở Việt Nam có người anh hùng Đam San trong Bài ca Đăm Săn của người Ê Đê…)
Mỗi bộ sử thi chính là niềm tự hào to lớn của dân tộc đó. Sử thi thời cổ đại là thể loại một đi không trở lại. Nền văn học hiện nay không còn thể loại sử thi nữa nhưng cái không khí, tính chất của sử thi vẫn được người cầm bút mang vào trong các sáng tác. Và chất sử thi đã làm nên giá trị, làm nên sức sống cho từng trang viết, làm sống lại không khí hùng tráng của một thời đại anh hùng. Một số truyện ngắn tiêu biểu minh họa cho sự tồn tại của nền văn học sử thi trong Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 như: Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình, Người mẹ cầm súng của nhà văn Nguyễn Thi, truyện ngắn Rừng xà nu, tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyễn Trung Thành, tiểu thuyếtHòn Đất của Anh Đức…
2. Hoàn cảnh sử thi
Truyện ngắn Rừng xà nu được in trong tập truyện ngắn Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.Tác phẩm được viết vào năm 1965. Đây là thời điểm Mỹ đổ quân tham chiến ở miền Nam . Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Nam ở vào hồi quyết liệt: giặc Mỹ điên cuồng đánh phá Cách mạng miền Nam. Trước sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù, tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân (từ miền ngược đến miền xuôi) càng kiên cường và bất khuất “Họ đã xuống đường và đem cả lương tâm và nhân phẩm bắn tỏa lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai)
3. Chất sử thi thể hiện trong tác phẩm Rừng Xà Nu
Ý 1: Chất sử thi được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên hùng vĩ , tráng lệ vừa đậm chất thơ của núi rừng Tây Nguyên.
Thiên nhiên trong Rừng xà nu thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây”, thì kết túc tác phẩm vẫn là rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Đó chính là bức tranh thiên nhiên toàn cảnh về cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn và hào hùng của dân tộc ta.
Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật như: nhân cách hóa, ẩn dụ, tượng trương, so sánh, bi tráng hóa… nhà văn đã dựng nên bức tranh rừng xà nu ở nhiều góc độ:
- Rừng xà nu chịu nhiều đau thương mất mát do bom đạn của kẻ thù gây ra.
- Sức sống mãnh liệt của cây xà nu không bom đạn nào có thể khuất phục được (So sánh với sức sống của con người Xô Man)
- Cây xà nu ham ánh sáng, yêu tự do, luôn vươn lên đón ánh nắng và khí trời.
- Cây xà nu vững chãi với thế đứng “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho cả dân làng”.
“Một cây ngã cả rừng cây lại mọc
Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân”
(Nhà văn Nguyễn Trung Thành)
Người hi sinh đất hồi sinh
Máu người hóa ngọc lung linh giữa đời
(Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng)
Ý 2: Tnú – hình ảnh người anh hùng bất tử của dân làng Xôman.
Đến với truyện ngắn “Rừng xà nu”, chúng ta được thả hồn theo những cánh rừng xà nu bát ngát, xanh rờn đến tận chân trời, được chứng kiến sức sống mãnh liệt không gì hủy diệt được của những cây xà nu. Mặt khác chúng ta lại khâm phục biết bao người anh hùng Tnú với những phẩm chất tốt đẹp. Xây dựng hình tượng người anh hùng này cũng là biểu hiện chất “Sử thi”.
• Tnú: Cuộc đời đầy đau khổ, cay đắng, bị kẻ thù giết hại cả gia đình, anh đã biến đau thương thành hành động trở thành anh lực lượng đi đánh giặc trả thù nhà nợ nước.
- Tnú và chặng đường đầu của cách mạng (Nuôi giấu cán bộ, làm liên lạc, bị giặc bắt)
- Vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc.
- Cùng một lúc phải hứng chịu hai tấn bi kịch do tội ác của giặc gây ra (vợ con bị giặc giết, bản thân anh bị giặc đốt cụt mười đầu ngón tay)
- Hình tượng đôi bàn tay Tnú (đôi tay cần cù lao động, đôi tay chứng nhân tội ác kẻ thù, đôi tay chưa bao giờ biết phản bội…)
“Gấp trang sách lại, hình ảnh Tnú với bao phẩm chất tốt đẹp vẫn sống mãi trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Tnú tiêu biểu cho hình mẫu người anh hùng dân tộc Tây Nguyên và cũng mang những nét chung của hinh mẫu anh hùng dân tộc thấm đượm chất “Sử thi”. Cùng với Trần Quốc Toản, La Văn Cầu, Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn Trỗi và biết bao anh hùng, liệt sĩ khác các anh ca lên bài ca khải hoàn chiến thắng cho dân tộc Việt Nam yêu dấu” (Phan Huy Dũng)
Ý 3. Tính cộng đồng trong tác phẩm:
Bên cạnh việc miêu tả,làm nổi bật lên hình ảnh của người anh hùng Tnú, người ta còn thấy được hình ảnh của những con người khác xung quanh nhân vật này, những người gan dạ dũng cảm trong cộng đồng làng Xô man. Mỗi con người là một sức mạnh, mỗi ngọn giáo đứng lên là thể hiện một lòng căm thù. Sức sống mãnh liệt đó được truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ các cụ già đến những em bé còn ngây thơ nhưng đã có ý thức về nỗi đau mất nước, mất người thân, mất chủ quyền dân tộc. Tính chất cộng đồng được thể hiện trong tác phẩm rất rõ:
- Đó là hình ảnh sum vầy, quây quần bên nhau, nương tựa vào nhau “cơm nước xong từ phía nhà ưng có ai đấy đánh lên một hồi mõ dài ba tiếng , dân làng lũ lượt kéo tới nhà cụ Mết”. Tất cả mọi người từ các cụ già các cô gái, những đứa trẻ sum tụ bên nhau để nghe câu chuyện cuộc đời Tnú.
- Cụ Mết, thế hệ đi trước, một con người từng xông pha trong kháng chiến chống Pháp, nay lại tiếp tục sứ mệnh tiếp thêm sức mạnh cho con cháu, là người chỉ đường dẫn lối, là người truyền lại kinh nghiệm cho thế hệ mai sau “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
- Dít, một cô gái với lòng dũng cảm, sự thông minh, ấn tượng bởi “đôi mắt mở to và bình thản”. Bình thản trước súng gươm của kẻ thù. Phẩm chất kìm nén đau thương để biến thành hành động, nhanh chóng trở thành cô bí thư chi bộ, cấp chỉ huy cao nhất của làng Xô Man.
- Rồi đến Heng “đội cái mũ sụp xin được của một anh giải phóng, mặc chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một người lính thực sự.”, cũng dũng cảm, cũng nhanh nhẹn như Tnú. Cũng là một cây xà nu con mọc lên, tiếp bước với cây lớn làm nên rừng xà nu, làm nên bản làng Xô man mạnh mẽ.
• Có thể nói chất anh hùng tự ngàn đời đã chảy vào huyết quản của già làng Mết, từ già làng chảy qua Tnú, Tnú chảy qua Mai, Mai chảy qua Dít, Dít chảy qua Heng, Heng chảy vào những cây xà nu con mới mọc đã nhọn hoắt như những mũi lê chóc thẳng lên bầu trời. Dân tộc Việt Nam dù có hy sinh, dù có mất mát nhưng vẫn không bao giờ lùi bước trước quân thù:
“Nước Việt Nam từ trong biển máu
Người vươn lên như những thiên thần”
(Tố Hữu)
“Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
(Nguyễn Đình Thi)
Ý 4. Nghệ thuật trong truyện ngắn Rừng Xà Nu
- Hình thức kể chuyện với cách tạo không khí truyện rất Tây Nguyên đậm đà màu sắc sử thi truyền thống. Bao trùm lên toàn bộ thiên truyện là một khung cảnh nghiêm trang, hào khí lại vừa mang đậm chất lãng mạn cuốn hút về làng Xô man bất khuất kiên cường.
- Giọng văn trong Rừng Xà Nu là giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính sử thi hoàng tráng của tác phẩm.
- Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu truyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên.
- Biện pháp nhân cách hóa, miêu tả cây xà nu như con người Xô Man. Vì vậy cây xà nu hiện ra như một nhân vật của câu truyện. Nguyễn Trung Thành đã biến rừng xà nu thành cả một hệ thống hình ảnh được miêu tả song song với hệ thống hình tượng nhân vật.
- Sử dụng kiểu thời gian gấp khúc “đau thương nuôi con người vụt lớn lên” (Tnú ngày bị bắt mới chỉ đứng ngang bụng cụ Mết, 3 năm sau trở về đã là chàng thanh niên lực lưỡng; Dít ngày Tnus đi còn bé, 3 năm sau anh trở về Dít đã là bí thư chi bộ)
III. Kết bài
Khẳng định vẻ đẹp sử thi của tác phẩm, của thời đại. Liên hệ “Những đứa con trong gia đình”.
Đọc đoạn sau và trả lời câu hỏi :
Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một cái kìm sắt. Anh quay lại:Cụ Mết ông cụ vẫn quắc thước như xưa. Râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng mắt sẫm sáng và thếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng. Ông ở trần ngực căng như một cây sằn U lớn.
(Rừng sằn U- Nguyễn Trung Thành)
a, Đoạn văn trên tả ai?
b, Tác giả chú ý miêu tả những chi tiết nào của nhân vật? Các chi tiết ấy nói lên điều gì về nhân vật?
Sai thiếu chỗ nào bạn bổ sung cho mình nhé. Mình tick cho
Câu trả lời của bạn
a. Đoạn văn trên tả cụ Mết .
b.- tác giả đã chú ý miêu tả râu , mắt và vết sẹo của cụ Mết .
- các chi tiết ấy nói lên vẻ bề ngoài , ngoại hình của cụ Mết.
a. Đoạn văn trên tả cụ Mết .
b.- tác giả đã chú ý miêu tả râu , mắt và vết sẹo của cụ Mết .
- các chi tiết ấy nói lên vẻ bề ngoài , ngoại hình của cụ Mết.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *