Bài học Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành giúp các em nắm vững đề tài, cốt truyện, các chi tiết sự việc tiêu biểu và hình tượng nhân vật chính. Thấy được tài năng của Nguyễn Trung Thành trong việc tạo dựng cho tác phẩm một không khí đậm đà hương sắc Tây Nguyên, một chất sử thi bi tráng và một ngôn ngữ nghệ thuật được trau chuốt kĩ càng. Thông qua bài học và video bài giảng, DapAnHay chúc các em có thêm nhiều tiết học hiệu quả và hấp dẫn hơn tại lớp. Chúc các em học tốt.
⇒ Cây xà nu là biểu tượng cho sự kiên cường, bất khuất, sức sống mãnh liệt và tinh thần đoàn kết, yêu thương tự do của đồng bào Tây Nguyên dưới sự hủy diệt của kẻ thù.
⇒ Tnú vừa là nguyên mẫu của vẻ đẹp ngoài đời vừa mang vẻ đẹp của con người Tây Nguyên.
⇒ Là đại diện của quần chúng, là gạch nối giữa Đảng và đồng bào dân tộc, là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống và cội nguồn. Là chỗ dựa tinh thần và là pho sử sống. Là nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại của các thế hệ người dân Tây Nguyên.
⇒ Vẻ đẹp của người phụ nữ Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
⇒ Là thế hệ tiếp nối để đưa cuộc chiến đến thắng lợi cuối cùng.
⇒ Họ là sự tiếp nối các thế hệ, làm nổi bật tinh thần bất khuất của dân tộc.
Cảm nhận về vẻ đẹp sử thi của hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
"Rừng xà nu” là truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành , tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam thời kì 1945-1975. Chủ đề của tác phẩm được bộc lộ sâu sắc do ý nghĩa khái quát và giàu chất lãng mạn, tạo hình của hình tượng cây xà nu. Để nắm được nội dung bài học cũng như dễ dàng trả lời được các câu hỏi trong phần đọc hiểu của SGK, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Rừng xà nu.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Tác phẩm “Rừng Xà Nu” ra đời vào thời điểm mùa hè năm 1965 khi đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ. Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ hình ảnh này. Để cảm nhận được sâu sắc hơn về truyện ngắn này, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích tính sử thi trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- Phân tích nhân vật cụ Mết trong tác phẩm Rừng xà nu
- Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong Rừng xà nu
- Cảm nhận về hai đoạn văn miêu tả nhân vật Tnú trong truyện Rừng xà nu
- Chất Tây Nguyên trong truyện ngắn Rừng Xà Nu
- Phân tích hình ảnh đôi bàn tay Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- Phân tích vẻ đẹp các thế hệ người Tây Nguyên trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- So sánh chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình
- Chất sử thi trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- So sánh hai nhân vật A Phủ và Tnú
- Phân tích nhân vật Tnú trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- Phân tích hình tượng cây Xà nu trong truyện ngắn Rừng Xà nu của Nguyễn Trung Thành
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Cảm nhận chất Tây Nguyên trong truyện Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành?
Câu trả lời của bạn
Nói về các tác phẩm: Đất nước đứng lên và Rừng xà nu, có nhà nghiên cứu văn học đã nhận định rằng: Có thể coi đây là những bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên , nói rộng ra là về hai cuộc chiến tranh nhân dân kì diệu của dân tộc ta. Tác giả Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) thật sự đã khắc họa được những nhân vật anh hùng gắn bó thành một tập thể anh hùng vừa mang dấu ấn của thời đại, vừa đậm đà dáng nét Tây Nguyên.
Ta hãy phân tích vẻ đẹp của hình tượng các nhân vật nổi bật lên trong bối cảnh hùng vĩ của Rừng xà nu: Tnú, cụ Mết, Dít và bé Heng.
Nhân vật trung tâm của truyện là nhân vật Tnú được tác giả khắc họa bằng những nét tính cách anh hùng, giàu chất sử thi. Trước hết Tnú rất gắn bó với cách mạng. Từ nhỏ Tnú đã từng nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sắc công tác giao liên. Khi bị giặc bắt, Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của giặc. Sau khi vượt ngục, anh cùng cụ Mết tiếp tục lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo mài rựa chiến đấu chống lại kẻ thù.
Tnú tha thiết thương yêu bản làng. Sau ba năm chiến đấu trở về làng, anh nhớ rõ từng hàng cây, từng con đường, từng dòng suối, bổi hổi xúc động khi nghe tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi. Anh yêu thương vợ con tha thiết. Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dùng cây sắt đập chết mẹ con Mai, nỗi đau thương của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặc với một tiếng thét dữ dội và anh dang hai cánh tay trông như hai cánh lim chắc của anh Ôm chặt lấy mẹ con Mai. Càng đau thương, Tnú càng căm thù giặc. Vợ con bị giết, lòng căm hận biến đôi mắt Tnú thành hai cục lửa lớn. Khi bị giặc bắt, mười đầu ngón tay Tnú bị đốt cháy, anh không kêu lên một tiếng nào (…). Răng anh đã cắn nát môi anh rồi.
Yêu thương, căm thù biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Những tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn. Thế là cơn giông bão nổi lên. Cả làng Xô Man vùng dậy suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng… Nỗi đau xé lòng của Tnú đã khiến cho anh và đồng bào anh dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả một tiểu đội giặc hung ác. Riêng Tnú đi “lực lượng” để quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản làng, giải phóng quê hương. Chính trong thực tế chiến đấu mà nhân vật vươn lên nhận thức đó hiểu biết sâu sắc về kẻ thù và nâng lòng căm thù cá nhân lên thành căm thù chung của dân tộc.
Nhân vật tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man là nhân vật cụ Mết. Lịch sử chiến đấu của làng, qua lời kể của cụ Mết, thâm sâu vào tim óc các thế hệ. Cụ là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là pho sử sống của làng. Tấm lòng cụ Mết đối với cách mạng trước sau như một. Cụ đã từng nói: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Trong những năm đen tối cụ Mết cùng dân làng Xô Man, từ thanh niên, ông già bà già, đến lũ trẻ, đi nuôi và gác cho cán bộ và năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này.
Cụ Mết còn là linh hồn làng Xô Man. Chính cụ đã tìm ra chân lý dùng bạo lực để chiến đấu: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Chinh cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi. Hình ảnh ông cụ mắt sáng và xếch ngược, ngực căng như một cây xà nu lớn, cất tiếng nói vang vang như một mệnh lệnh thôi thúc họ vùng lên tiêu diệt kẻ thù… thật rực rỡ như trong một trang sử thi anh hùng: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mối người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa.
Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông! Đốt lửa lên”. Từ ngày ấy làng Xô Man trở thành thành làng chiến đấu. Đó là phần đóng góp không nhỏ của cụ Mết vào công cuộc giải phóng quê hương bản làng.
Nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành từ những đau thương và quật khởi của dân làng là nhân vật Dít. Trong thời gian dân làng Xô Man chuẩn bị chiến đấu, rồi bị địch bao vây, cụ Mết và Tnú dẫn đánh thanh niên vào rừng. Chỉ có con Đít nhỏ, lanh lẹ, cứ sẫm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên. Khi bị giặc bắt, Dít bị chúng bắt dọa, đạn chỉ sượt qua tai xém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ… thì Dít vẫn đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh, dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản… Ngày Mai bị giặc đánh chết và Tnú ra đi, trong khi mọi người, cả cụ già, đều khóc vì cái chết của Mai thì Dít vẫn lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh.
Dít cũng giàu tình cảm thương yêu, khi Tnú về thăm làng, Dít đã là bí thư chi bộ vừa là chính trị viên xã đội. Như ngày nào, đôi mắt Dít vẫn mở to, bình thản, trong suốt khi gặp lại Tnú. Dù trong lòng rất vui: Dít vẫn nghiêm chỉnh thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy về phép của anh. Rồi từ chỗ gọi Tnú là đồng chí, Dít chuyển sang gọi anh là anh, xưng em thật tự nhiên, như người em gái nhỏ của Mai và Tnú ngày xưa và tỏ bày tình thân thiết: “Sao anh về có một đêm thôi… Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”.
Cuối cùng tiêu biểu cho thế hệ trẻ tuổi nhất của dân làng Xô Man là nhân vật bé Heng. Ngày Tnú ra đi lực lượng, bé Heng mới đứng ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà-lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Ngày Tnú về phép, bé Heng lớn lên, cũng ít nói như những người dân làng Xô Man này, với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ một người lính, một chiến sĩ du kích của bản làng. Làng Xô Man giờ đây trở thành làng chiến đấu và con đường vào làng phải qua hai cái dốc chằng chịt hầm chông, hố chông ngăn chặn địch. Bé Heng đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng những công sự này, nên tỏ ra rất hãnh diện. Sự trưởng thành của nhân vật còn thể hiện trong một cử chỉ nhỏ nhưng toát lên ý thức trách nhiệm và sự tiến bộ về’ sinh hoạt đời sống: Khi đưa Tnú ngang một con suối nhỏ bé Heng bảo Tnú rửa chân, nhưng đừng uống nước lạnh. Uống nước lạnh về chị Dít phê bình đó.
Nếu cụ Mết xứng đáng với hình ảnh cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn xanh thẫm thì bé Heng tượng trưng cho cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời sẽ phát triển đến đâu, chưa ai lường được.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Trung Thành mang những nét độc đáo đượm khí vị Tây Nguyên anh hùng. Nếu rừng xà nu tượng trưng cho con người Tây Nguyên kiên cường, thi các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng là hình ảnh những lớp cây xà nu đại diện cho thế hệ nối tiếp nhau của dân làng Xô Man, được khắc họa bằng những nét tính cách cụ thể và sinh động. Qua rừng xà nu ta hiểu biết và mến yêu thêm đất nước và con người Tây Nguyên. Họ đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp chiến đấu chung để giải phóng dân tộc.
Tây Nguyên - mảnh đất hùng vĩ và thơ mộng, với những con người nồng hậu yêu thương mà kiên cường bất khuất, từ lâu đã là nguồn cảm hứng cho biết bao văn nhân nghệ sĩ. Mỗi người đều tìm thấy ở mảnh đất này một biểu tượng đẹp cho tâm hồn cất cánh, ngòi bút thăng hoa. Ngọc Anh có Bóng cây Kơnia như nỗi lòng thổn thức thiết tha của tình yêu thủy chung son sắt, Thu Bồn có Bài ca chim Chơ-rao, ngân vang khúc hát trong trẻo nồng đượm tình người chiến thắng... Còn Nguyễn Trung Thành lại đem đến cho ta hình tượng những Rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời như sức sống bền và bất diệt của nhân dân Tây Nguyên trong công cuộc chống Mỹ cứu nước
Đọc Rừng xà nu, không chỉ những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai tạo nên ấn tượng sâu sắc trong chúng ta, mà còn là cây xà nu - một hình đặc sắc bao trùm toàn bộ thiên truyện ngắn này. Chính hình tượng cây xà nu tạo nên vẻ đẹp hùng tráng, chất sử thi lãng mạn cho câu chuyện về làng Xô Man bất khuất, kiên cường. Đó là hình tượng hàm chứa nhiều ý nghĩa tượng trưng. Qua hình tượng này, người đọc có thể thấy rõ sức sống kiên cường, sức sống mãnh liệt của con người Tây Nguyên nói riêng, của con người Việt nói chung trong những ngày đánh Mỹ. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trung Thành lại miêu tả thật cụ thể, thật chi tiết rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ giàu chất thơ, bằng những “lời có cánh” với một cảm xúc say mê mãnh liệt như đã thấy trong tác phẩm. Gần hai mươi lần nhà văn đã viết về xà nu, dường như cây xà nu tham dự vào tất cả những sinh hoạt, những tâm tình, những buồn vui của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến đấu anh dũng của họ.
Cả một câu chuyện dài, đau thương, bất khuất như một bản anh hùng ca về cuộc đời Tnú, cuộc đời dân làng Xô Man được kể trên nền chính của hình tượng cây xà nu. Cây xà nu, rừng xà nu như những con người, những tâm hồn, vừa là nhân chứng, vừa tham gia vào bản anh hùng ca, cũng vừa chịu đựng mọi gian nan, vất vả, đau thương do tội ác của kẻ thù, nhưng bất chấp tất cả, rừng xà nu vẫn vươn mình cường tráng, vẫn tồn tại bất chấp mọi đau thương: nó tượng trưng cho khát vọng tự do, khát vọng giải phóng, cho phẩm chất anh hùng và sức sống mãnh liệt của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Hình tượng cây xà nu hiện lên trong tác phẩm đầy chất thơ hùng tráng. Mở đầu và kết thúc câu chuyện là hình ảnh “hàng vạn cây xà nu” “sinh sôi nảy nở”,“rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”... “đến hết tầm mắt cùng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời". Rừng xà nu là biểu tượng cho con người. Cây được miêu tả như con người trong sự ứng chiếu với con người, gợi ra những biểu tượng về đời sống, số phận và phẩm cách của con người - các thế hệ dân làng Xô Man đánh Mỹ.
Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”, cũng như Tnú, như dân làng Xô Man yêu tự do. Rừng xà nu cũng như làng Xô Man, chịu nhiều đau thương bởi sự tàn ác của giặc: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đúng ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Nhưng xà nu có sức sống thật mãnh liệt, không gì tàn phá nổi: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn cây xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng trên bầu trời”, cũng như các thế hệ làng Xô Man, lớp này tiếp lớp khác đứng lên. Anh Quyết hy sinh thì có Tnú, Mai: Mai ngã xuống giữa tuổi tràn đầy sức sống, thì Dít lớn lên rất nhanh đến không ngờ, trở thành bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội: rồi những bé Heng, thế hệ tiếp theo của Dít cũng đang lớn lên, tiếp tục cuộc chiến đấu. Đồng thời, ngược lại, nhiều chỗ miêu tả con người, nhà văn đã so sánh với cây xà nu. Cụ Mết thì “ngực căng như một cây xà nu lớn”, vết thương trên lưng Tnú do giặc tra tấn thì “ứa ra một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quyện lại, tím thâm như nhựa xà nu”. Thủ pháp ấy trong miêu tả tạo nên một sự hòa nhập, tương ứng giữa con người và thiên nhiên trong một chất thơ hào hùng, tráng lệ. Nhà văn đã ví cụ Mết “như một cây xà nu lớn” bởi cụ là người hơn ai hết hiểu sự gắn bó của cây xà nu và mảnh đất đang sống, hiểu được sức mạnh tiềm tàng bất khuất của rừng cây cũng như dân làng Xô Man: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!...”.
Cây xà nu gắn bó với con người và cuộc sống dân làng. Xà nu không chỉ có mặt trong đoạn mở đầu và kết thúc, nó còn hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và làng Xô Man của anh. Xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày như đã tự ngàn đời nay của dân làng: Ngọn lửa xà nu trong mối bếp; đống lửa ở nhà rông tập hợp cả dân làng, ngọn đuốc xà nu cháy sáng soi những đoạn rừng đêm; khói xà nu hun tấm bảng đen cho anh Quyết đạt Tnú và Mai học chữ..; xà nu cũng tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống chống Mĩ: ngọn đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ Mết và tất cả dân làng vào rừng lấy dao, mác, dụ, rựa đã giấu kĩ, chuẩn bị cho cuộc nổi dậy, và đêm đêm làng Xô Man thức, dưới ánh đuốc xà nu, mài vũ khí; giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu...; cũng ngọn lửa từ các đuốc xà nu soi sáng rực cái đêm cả làng nổi dậy, soi rõ xác mười tên lính giặc bị giết ngổn ngang quanh đống lửa lớn giữa sân làng...
Cây xà nu còn là người chứng kiến sự giác ngộ, sự hy sinh thầm lặng, lòng dũng cảm, ý chí quật cường của dân làng Xô Man: “Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn. Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng.”. Ánh lửa xà nu soi sáng lời căn dặn của anh Quyết: “Người còn sống phải chuyển dáo, mác, dụ. rựa, tên, ná... Sẽ có ngày dùng tới”. Lửa xà nu thử thách ý chí cũng như lòng can đảm của Tnú: “không có gì đượm bằng nhựa xà nu.. Mười đầu ngón tay đã thành mười ngọn đuốc... Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi.. ”. Căm thù trong anh cháy giần giật như nhựa xà nu bén nhạy để “bàn tay hận thù” thành “bàn tay trả thù” bóp chết tên ác ôn dưới ngách hầm.
Câu chuyện cụ Mết kể phảng phất phong vị anh hùng ca. Đêm kể chuyện dưới ánh lửa xà nu chắc cũng giống như đêm già làng thường kể về các bài: anh hùng ca truyền thống của Tây Nguyên. Giọng điệu sử thi của Rừng xà nu bắt nguồn từ đó. Cây xà nu gắn với quá khứ, hiện tại anh hùng, gắn bó với mọi sinh hoạt, phong tục và đời sống văn hóa của dân tộc Tây Nguyên, khiến cho câu chuyện làng Xô Man đánh Mỹ lung linh sắc màu huyền thoại như Đam San, Xinh Nhã thuở nào...
Có thể nói hình tượng xà nu là mô típ chủ đạo của tác phẩm. Xà nu trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất của dân làng Xô Man. Đó là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới, những vẻ đẹp mới để dựng lên bức tranh sử thi chống Mĩ của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rừng hùng vĩ Tây Nguyên.
Nói về các tác phẩm: Đất nước đứng lên và Rừng xà nu, có nhà nghiên cứu văn học đã nhận định rằng: Có thể coi đây là những bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên , nói rộng ra là về hai cuộc chiến tranh nhân dân kì diệu của dân tộc ta. Tác giả Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) thật sự đã khắc họa được những nhân vật anh hùng gắn bó thành một tập thể anh hùng vừa mang dấu ấn của thời đại, vừa đậm đà dáng nét Tây Nguyên.
Ta hãy phân tích vẻ đẹp của hình tượng các nhân vật nổi bật lên trong bối cảnh hùng vĩ của Rừng xà nu: Tnú, cụ Mết, Dít và bé Heng.
Nhân vật trung tâm của truyện là nhân vật Tnú được tác giả khắc họa bằng những nét tính cách anh hùng, giàu chất sử thi. Trước hết Tnú rất gắn bó với cách mạng. Từ nhỏ Tnú đã từng nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sắc công tác giao liên. Khi bị giặc bắt, Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của giặc. Sau khi vượt ngục, anh cùng cụ Mết tiếp tục lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo mài rựa chiến đấu chống lại kẻ thù.
Tnú tha thiết thương yêu bản làng. Sau ba năm chiến đấu trở về làng, anh nhớ rõ từng hàng cây, từng con đường, từng dòng suối, bổi hổi xúc động khi nghe tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi. Anh yêu thương vợ con tha thiết. Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dùng cây sắt đập chết mẹ con Mai, nỗi đau thương của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặc với một tiếng thét dữ dội và anh dang hai cánh tay trông như hai cánh lim chắc của anh Ôm chặt lấy mẹ con Mai. Càng đau thương, Tnú càng căm thù giặc. Vợ con bị giết, lòng căm hận biến đôi mắt Tnú thành hai cục lửa lớn. Khi bị giặc bắt, mười đầu ngón tay Tnú bị đốt cháy, anh không kêu lên một tiếng nào (…). Răng anh đã cắn nát môi anh rồi.
Yêu thương, căm thù biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Những tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn. Thế là cơn giông bão nổi lên. Cả làng Xô Man vùng dậy suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng… Nỗi đau xé lòng của Tnú đã khiến cho anh và đồng bào anh dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả một tiểu đội giặc hung ác. Riêng Tnú đi “lực lượng” để quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản làng, giải phóng quê hương. Chính trong thực tế chiến đấu mà nhân vật vươn lên nhận thức đó hiểu biết sâu sắc về kẻ thù và nâng lòng căm thù cá nhân lên thành căm thù chung của dân tộc.
Nhân vật tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man là nhân vật cụ Mết. Lịch sử chiến đấu của làng, qua lời kể của cụ Mết, thâm sâu vào tim óc các thế hệ. Cụ là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là pho sử sống của làng. Tấm lòng cụ Mết đối với cách mạng trước sau như một. Cụ đã từng nói: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Trong những năm đen tối cụ Mết cùng dân làng Xô Man, từ thanh niên, ông già bà già, đến lũ trẻ, đi nuôi và gác cho cán bộ và năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này.
Cụ Mết còn là linh hồn làng Xô Man. Chính cụ đã tìm ra chân lý dùng bạo lực để chiến đấu: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Chinh cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi. Hình ảnh ông cụ mắt sáng và xếch ngược, ngực căng như một cây xà nu lớn, cất tiếng nói vang vang như một mệnh lệnh thôi thúc họ vùng lên tiêu diệt kẻ thù… thật rực rỡ như trong một trang sử thi anh hùng: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mối người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa.
Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông! Đốt lửa lên”. Từ ngày ấy làng Xô Man trở thành thành làng chiến đấu. Đó là phần đóng góp không nhỏ của cụ Mết vào công cuộc giải phóng quê hương bản làng.
Nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành từ những đau thương và quật khởi của dân làng là nhân vật Dít. Trong thời gian dân làng Xô Man chuẩn bị chiến đấu, rồi bị địch bao vây, cụ Mết và Tnú dẫn đánh thanh niên vào rừng. Chỉ có con Đít nhỏ, lanh lẹ, cứ sẫm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên. Khi bị giặc bắt, Dít bị chúng bắt dọa, đạn chỉ sượt qua tai xém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ… thì Dít vẫn đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh, dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản… Ngày Mai bị giặc đánh chết và Tnú ra đi, trong khi mọi người, cả cụ già, đều khóc vì cái chết của Mai thì Dít vẫn lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh.
Dít cũng giàu tình cảm thương yêu, khi Tnú về thăm làng, Dít đã là bí thư chi bộ vừa là chính trị viên xã đội. Như ngày nào, đôi mắt Dít vẫn mở to, bình thản, trong suốt khi gặp lại Tnú. Dù trong lòng rất vui: Dít vẫn nghiêm chỉnh thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy về phép của anh. Rồi từ chỗ gọi Tnú là đồng chí, Dít chuyển sang gọi anh là anh, xưng em thật tự nhiên, như người em gái nhỏ của Mai và Tnú ngày xưa và tỏ bày tình thân thiết: “Sao anh về có một đêm thôi… Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”.
Cuối cùng tiêu biểu cho thế hệ trẻ tuổi nhất của dân làng Xô Man là nhân vật bé Heng. Ngày Tnú ra đi lực lượng, bé Heng mới đứng ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà-lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Ngày Tnú về phép, bé Heng lớn lên, cũng ít nói như những người dân làng Xô Man này, với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ một người lính, một chiến sĩ du kích của bản làng. Làng Xô Man giờ đây trở thành làng chiến đấu và con đường vào làng phải qua hai cái dốc chằng chịt hầm chông, hố chông ngăn chặn địch. Bé Heng đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng những công sự này, nên tỏ ra rất hãnh diện. Sự trưởng thành của nhân vật còn thể hiện trong một cử chỉ nhỏ nhưng toát lên ý thức trách nhiệm và sự tiến bộ về’ sinh hoạt đời sống: Khi đưa Tnú ngang một con suối nhỏ bé Heng bảo Tnú rửa chân, nhưng đừng uống nước lạnh. Uống nước lạnh về chị Dít phê bình đó.
Nếu cụ Mết xứng đáng với hình ảnh cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn xanh thẫm thì bé Heng tượng trưng cho cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời sẽ phát triển đến đâu, chưa ai lường được.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Trung Thành mang những nét độc đáo đượm khí vị Tây Nguyên anh hùng. Nếu rừng xà nu tượng trưng cho con người Tây Nguyên kiên cường, thi các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng là hình ảnh những lớp cây xà nu đại diện cho thế hệ nối tiếp nhau của dân làng Xô Man, được khắc họa bằng những nét tính cách cụ thể và sinh động. Qua rừng xà nu ta hiểu biết và mến yêu thêm đất nước và con người Tây Nguyên. Họ đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp chiến đấu chung để giải phóng dân tộc.
Hình ảnh con người Tây Nguyên qua truyện ngắn Rừng Xà nu Nguyễn Trung Thành?
Câu trả lời của bạn
Nói về các tác phẩm: Đất nước đứng lên và Rừng xà nu, có nhà nghiên cứu văn học đã nhận định rằng: Có thể coi đây là những bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên , nói rộng ra là về hai cuộc chiến tranh nhân dân kì diệu của dân tộc ta. Tác giả Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) thật sự đã khắc họa được những nhân vật anh hùng gắn bó thành một tập thể anh hùng vừa mang dấu ấn của thời đại, vừa đậm đà dáng nét Tây Nguyên.
Ta hãy phân tích vẻ đẹp của hình tượng các nhân vật nổi bật lên trong bối cảnh hùng vĩ của Rừng xà nu: Tnú, cụ Mết, Dít và bé Heng.
Nhân vật trung tâm của truyện là nhân vật Tnú được tác giả khắc họa bằng những nét tính cách anh hùng, giàu chất sử thi. Trước hết Tnú rất gắn bó với cách mạng. Từ nhỏ Tnú đã từng nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sắc công tác giao liên. Khi bị giặc bắt, Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của giặc. Sau khi vượt ngục, anh cùng cụ Mết tiếp tục lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo mài rựa chiến đấu chống lại kẻ thù.
Tnú tha thiết thương yêu bản làng. Sau ba năm chiến đấu trở về làng, anh nhớ rõ từng hàng cây, từng con đường, từng dòng suối, bổi hổi xúc động khi nghe tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi. Anh yêu thương vợ con tha thiết. Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dùng cây sắt đập chết mẹ con Mai, nỗi đau thương của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặc với một tiếng thét dữ dội và anh dang hai cánh tay trông như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. Càng đau thương, Tnú càng căm thù giặc. Vợ con bị giết, lòng căm hận biến đôi mắt Tnú thành hai cục lửa lớn. Khi bị giặc bắt, mười đầu ngón tay Tnú bị đốt cháy, anh không kêu lên một tiếng nào (…). Răng anh đã cắn nát môi anh rồi.
Yêu thương, căm thù biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Nhưng tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn. Thế là cơn giông bão nổi lên. Cả làng Xô Man vùng dậy suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng… Nỗi đau xé lòng của Tnú đã khiến cho anh và đồng bào anh dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả một tiểu đội giặc hung ác. Riêng Tnú đi “lực lượng” để quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản làng, giải phóng quê hương. Chính trong thực tế chiến đấu mà nhân vật vươn lên nhận thức đó hiểu biết sâu sắc về kẻ thù và nâng lòng căm thù cá nhân lên thành căm thù chung của dân tộc.
Nhân vật tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man là nhân vật cụ Mết. Lịch sử chiến đấu của làng, qua lời kể của cụ Mết, thâm sâu vào tim óc các thế hệ. Cụ là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là pho sử sống của làng. Tấm lòng cụ Mết đối với cách mạng trước sau như một. Cụ đã từng nói: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Trong những năm đen tối cụ Mết cùng dân làng Xô Man, từ thanh niên, ông già bà già, đến lũ trẻ, đi nuôi và gác cho cán bộ và năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này.
Cụ Mết còn là linh hồn làng Xô Man. Chính cụ đã tìm ra chân lý dùng bạo lực để chiến đấu: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” .Chính cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi. Hình ảnh ông cụ mắt sáng và xếch ngược, ngực căng như một cây xà nu lớn, cất tiếng nói vang vang như một mệnh lệnh thôi thúc họ vùng lên tiêu diệt kẻ thù… thật rực rỡ như trong một trang sử thi anh hùng: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mối người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa.
Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông! Đốt lửa lên”. Từ ngày ấy làng Xô Man trở thành thành làng chiến đấu. Đó là phần đóng góp không nhỏ của cụ Mết vào công cuộc giải phóng quê hương bản làng.
Nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành từ những đau thương và quật khởi của dân làng là nhân vật Dít. Trong thời gian dân làng Xô Man chuẩn bị chiến đấu, rồi bị địch bao vây, cụ Mết và Tnú dẫn đánh thanh niên vào rừng. Chỉ có con Đít nhỏ, lanh lẹ, cứ sẫm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên. Khi bị giặc bắt, Dít bị chúng bắt dọa, đạn chỉ sượt qua tai xém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ… thì Dít vẫn đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh, dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản… Ngày Mai bị giặc đánh chết và Tnú ra đi, trong khi mọi người, cả cụ già, đều khóc vì cái chết của Mai thì Dít vẫn lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh.
Dít cũng giàu tình cảm thương yêu, khi Tnú về thăm làng, Dít đã là bí thư chi bộ vừa là chính trị viên xã đội. Như ngày nào, đôi mắt Dít vẫn mở to, bình thản, trong suốt khi gặp lại Tnú. Dù trong lòng rất vui: Dít vẫn nghiêm chỉnh thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy về phép của anh. Rồi từ chỗ gọi Tnú là đồng chí, Dít chuyển sang gọi anh là anh, xưng em thật tự nhiên, như người em gái nhỏ của Mai và Tnú ngày xưa và tỏ bày tình thân thiết: “Sao anh về có một đêm thôi… Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”.
Cuối cùng tiêu biểu cho thế hệ trẻ tuổi nhất của dân làng Xô Man là nhân vật bé Heng. Ngày Tnú ra đi lực lượng, bé Heng mới đứng ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà-lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Ngày Tnú về phép, bé Heng lớn lên, cũng ít nói như những người dân làng Xô Man này, với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ một người lính, một chiến sĩ du kích của bản làng. Làng Xô Man giờ đây trở thành làng chiến đấu và con đường vào làng phải qua hai cái dốc chằng chịt hầm chông, hố chông ngăn chặn địch. Bé Heng đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng những công sự này, nên tỏ ra rất hãnh diện. Sự trưởng thành của nhân vật còn thể hiện trong một cử chỉ nhỏ nhưng toát lên ý thức trách nhiệm và sự tiến bộ về’ sinh hoạt đời sống: Khi đưa Tnú ngang một con suối nhỏ bé Heng bảo Tnú rửa chân, nhưng đừng uống nước lạnh. Uống nước lạnh về chị Dít phê bình đó.
Nếu cụ Mết xứng đáng với hình ảnh cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn xanh thẫm thì bé Heng tượng trưng cho cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời sẽ phát triển đến đâu, chưa ai lường được.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Trung Thành mang những nét độc đáo đượm khí vị Tây Nguyên anh hùng. Nếu rừng xà nu tượng trưng cho con người Tây Nguyên kiên cường, thi các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng là hình ảnh những lớp cây xà nu đại diện cho thế hệ nối tiếp nhau của dân làng Xô Man, được khắc họa bằng những nét tính cách cụ thể và sinh động. Qua rừng xà nu ta hiểu biết và mến yêu thêm đất nước và con người Tây Nguyên. Họ đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp chiến đấu chung để giải phóng dân tộc.
Lí tưởng sống của thanh niên thời chống Mĩ qua hai nhân vật Tnú trong Rừng xà nu và Việt của Những đứa con trong gia đình?
Câu trả lời của bạn
“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi là hai tác phẩm thành công trong sự khắc họa những hình tượng nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp, cho lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc, sức mạnh chiến đấu của dân tộc Việt Nam chống giặc ngoại xâm.
Cả hai tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đều gắn bó với cuộc chiến đấu chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở tuyến đầu máu lửa à Tác phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu.
Hai truyện ngắn “Rừng xà nu” (1965), “Những đứa con trong gia đình” (1966) đều ra đời trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miền Nam nước ta, dân tộc ta đứng trước trận chiến một mất một còn để bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ quyền sống. Đó là bối cảnh lịch sử để từ đó hai tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với chất sử thi đậm đà.
Qua hai thiên truyện, tác giả đã giúp người đọc khám phá, khâm phục, tự hào trước vẻ đẹp anh hùng cách mạng của những con người bình thường, giản dị mà anh dũng, kiên cường và rất mực trung thành, thuỷ chung với cách mạng.
Đó là sự thể hiện của lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là sự trung thành với lí tưởng cách mạng được thử thách trong những hoàn cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc.
Họ đều là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc: Tnú là người con của làng Xô Man, nơi từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ “ Đảng còn thì núi nước này còn” – Lời cụ Mết. (Rừng xà nu). Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ. (Những đứa con trong gia đình).
Họ đã chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc: Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay. Việt chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn giặc.
Những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Việt vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.
Họ đều mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm:
Tnú từ nhỏ đã gan dạ, đi liên lạc bị giặc bắt được, tra tấn dã man vẫn không khai. Anh vượt ngục trở về, lại là người lãnh đạo thanh niên làng Xô Man chống giặc, bị đốt mười ngón tay vẫn không kêu rên trước mặt kẻ thù. Ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại chống Mĩ.
Việt bị thương trong trận đánh lại lạc mất đơn vị, vẫn chắc tay súng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Đối với chị, Việt ngây thơ, nhỏ bé. Còn trước kẻ thù, Việt vụt lớn lên, chững chạc trong tư thế người anh hùng.
Tóm lại, các nhân vật của hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại chống Mĩ hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để “nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước”. Cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng mãi mãi là bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo.
Vẻ đẹp của hai nhân vật Tnú trong Rừng xà-nu và Việt trong truyện Những đứa con trong gia đình?
Câu trả lời của bạn
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhân vật:
2. Phân tích vẻ đẹp riêng ở mỗi nhân vật:
a. Nhân vật Tnú:
b. Nhân vật Việt:
3. Bình luận:
Phân tích những vẻ đẹp khác nhau của các thế hệ người dân Tây Nguyên thời kháng chiến chống Mĩ trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành?
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Trung Thành (bút danh khác là Nguyên Ngọc) là cây bút gắn bó với con người và vùng đất Tây Nguyên kiên cường, bất khuất. Ông đặc biệt thành công khi viết về Tây Nguyên qua tiểu thuyết Đất nước đứng lên và truyện ngắn Rừng xà nu. Rừng xà nu được ra đời trong những năm tháng quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ (năm 1965), tác phẩm đã đưa người đọc trở về với vùng đất Tây Nguyên đau thương mà anh dũng, kiên cường. Với Rừng xà nu dường như ông đã khẳng định được vị trí số một của mình trong mảng đề tài viết về Tây Nguyên. Bởi đây là một tác phẩm kết tinh được những vẻ đẹp truyền thống của Tây Nguyên hùng vĩ. vẻ đẹp đó không chỉ được thể hiện ở hình tượng đặc sắc cây xà nu mà còn ở cả một hệ thống các nhân vật được người đọc trân trọng, yêu mến như cụ Mết, Tnú, Dít và bé Heng.
Điểm giống nhau của các nhân vật được nhà văn thể hiện trong truyện là ở chỗ tất cả họ đều là những dũng sĩ tiêu biểu cho sức mạnh của thế trận chiến tranh nhân dân ở Tây Nguyên thời chống Mĩ. Họ đều là những con người có lòng yêu nước nồng nàn, có chí căm thù giặc sâu sắc, có tinh thần gan dạ, dũng cảm, có khí phách hiên ngang, bất khuất trước kẻ thù và sống gắn bó, trung thành tuyệt đối với cách mạng.
Bên cạnh những phẩm chất chung ấy, mỗi người trong số họ còn mang những vẻ đẹp riêng khác nhau gắn với các thế hệ con người Tây Nguyên. Theo cách miêu tả của nhà văn, cụ Mết, một già làng 60 tuổi là đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ thứ nhất - thế hệ cha anh. Ở cụ còn in đậm những dấu ấn siêu phàm của những người già bản trong các truyện thần thoại, các khan ở Tây Nguyên. Đó là một người quắc thước, có tiếng nói ồ ồ vang dội trong lồng ngực, có bàn tay nặng trịch, rắn chắc như một kìm sắt, râu đen bóng dài tới ngực, cặp mắt sáng và xếch, vết sẹo ở má phải láng bóng. Cụ ở trần ngực căng như một cây xà nu lớn. Cụ được xem là linh hồn trong cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man, là người nuôi dưỡng ngọn lửa khát vọng tự do, là cầu nối giữa dân làng Xô Man với Đảng. Cụ hiểu rõ và có ý thức sâu sắc về đường lối cách mạng của Đảng. Cụ đã nói với Tnú và dân làng Xô Man: phải dự trữ gạo cho mỗi bếp được ba năm, đánh Mĩ là phải đánh dài. Và từ những trải nghiệm bằng máu và nước mắt cụ đã căn dặn lũ làng một chân lí lịch sử: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo. Rồi chính cụ đã chỉ huy tất cả thanh niên làng Xô Man cầm giáo, mác, dao, rựa bất ngờ xông ra chém ngục mười tên ác ôn sau những tiếng hô sắc lạnh: Chém! chém hết! Cũng chính cụ đã chống giáo xuống nền nhà rông như một lời thề quyết đánh và vang vang truyền hịch: Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà. mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. nếu không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên! Ngay sau đó, lập tức chiêng trống nổi lên, lửa cháy khắp rừng, suốt đêm cả rừng Xô Man ào ào rung động. Không chỉ thế, cụ Mết còn được xem như một cuốn biên niên sử của dân Xô Man. Cụ kể chuyện Tnú cho dân làng nghe, tưởng như cụ đang kể để người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ.
Ở cụ, từ hình dáng, diện mạo đến giọng nói, tư tưởng và hành động đều mang đậm màu sắc huyền thoại, phi thường. Và nói như Nguyễn Trung Thành thì cụ là cội nguồn, là Tây Nguyên thời Đất nước đứng lên còn trường tốn đến ngày hôm nay. Cụ như lịch sử bao trùm nhưng không che lấp đi sự mãnh liệt, sôi nổi và tự giác của thế hệ sau.
Đọc Rừng xà nu, ta dễ dàng nhận thấy thế hệ sau là thế hệ thanh niên, thế hệ chủ lực trong đánh Mĩ ở Tây Nguyên mà đại diện là Dít và Tnú. Theo lời giới thiệu của cụ Mết vào một đêm mưa, quanh bếp lửa hồng, tại một ngôi nhà rông có đầy đủ dân làng tụ họp thì Tnú đi giải phóng đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta. Còn theo cách miêu tả của nhà văn, lúc còn nhỏ, Tnú là một cậu bé giàu cá tính, có lòng tự trọng rất cao. Ở trong rừng học chữ của anh Quyết, học không bằng Mai, anh nổi nóng đập bể cái bảng nứa rồi bỏ ra bờ suối ngồi suốt một ngày. Anh còn cầm một hòn đá tự đập vào đầu mình, máu chảy ròng ròng. Chữ thì anh quên nhưng khi đi rừng, liên lạc, tiếp tế cho cán bộ, đầu anh lại sáng lạ - sáng một cách thông minh, lanh lợi. Giặc vây giáp, phục kích thì anh trèo lên cây cao nhìn khắp mọi phía rồi xé rừng mà đi, lọt qua tất cả các vòng vây của giặc. Khi vượt sông, vượt suối, anh lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình. Bởi anh biết qua chỗ nước êm thằng Mĩ - Diệm hay phục, chỗ nước chảy mạnh chúng nó mới không ngờ. Rồi không may sa vào tay giặc, thằng giặc chĩa họng súng vào tai lạnh ngắt, Tnú nhanh trí nuốt luôn cái thư anh Quyết gửi về huyện vào bụng. Giặc đánh đập, tra tấn dã man bắt Tnú phải khai chỗ ở của du kích, nhưng Tnú vẫn bất khuất, hiên ngang, nó chỉ vào bụng và nói: Ở đây này khiến bọn giặc hết sức kinh ngạc. Chúng giam Tnú trong nhà ngục Kon Tum, Tnú lại vượt ngục trở về. Nghe lời anh Quyết dặn trước lúc hi sinh: Tnú phải học cái chữ cho thật giỏi, để thay tui làm cán bộ. Tnú lại lên núi Ngọc Linh nhưng không phải là để mang đá trắng về làm phấn như ba năm trước mà là đi lấy đá mài về để dân làng mài giáo mác chuẩn bị khởi nghĩa. Càng lớn, Tnú càng mang nhiều vẻ đẹp truyền thống của Tây Nguyên hùng vĩ. Anh có đôi tay chắc khỏe, có bộ ngực cường tráng, có thân hình vạm vỡ đầy sức sống giống như một cây xà nu đã đến độ trưởng thành đang vươn thẳng trên cánh rừng xà nu đại ngàn của núi rừng Tây Nguyên. Tnú trở thành chỉ huy của đội du kích, khiến cho bọn thằng Dục lồng lộn, gầm thét: Con cọp đó mà không giết sớm, nó làm loạn rừng núi này rồi. Chúng nó bắt vợ con anh tra tấn dã man cho đến chết. Tnú nấp sau cây vả, anh nghiến răng đau xót: bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay, đôi mắt anh trở thành hai cục lửa lớn. Nỗi đau xót trong anh nhanh chóng biến thành sức mạnh trả thù. Anh nhảy bổ vào lũ giặc, với hai bàn tay không và mong cứu được vợ con nhưng không thành. Anh bị giặc bắt trói vào cột, tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay. Tnú như nghe thấy cả lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng, mặn chát ở đầu lưỡi, nhưng anh vẫn không kêu la gì. Ngọn lửa xà nu càng tôi luyện thêm khí phách lẫm liệt, càng soi tỏ lòng trung thành vô hạn của anh đối với cách mạng. Đến khi anh thét lên một tiếng dữ dội thì cũng là lúc nhà ưng ào ào chuyển động, rầm rập bước chân, xen lẫn trong tiếng hô của cụ Mết: Chém! Chém hết! Tnú được dân làng Xô Man cứu thoát. Sau đó, mang trong lòng mối thù sâu nặng về cái chết của vợ con và mang trên mình những vết dao chém cùng với mười đầu ngón tay bị giặc đốt, Tnú đi tìm cách mạng, tham gia lực lượng vũ trang chiến đấu để giải phóng quê hương. Trên quãng đường chiến đấu này, với tâm hồn trong sáng, chất phác, giàu lòng yêu thương, Tnú vẫn ôm ấp hình bóng quê hương. Sau ba năm đi giải phóng, được về thăm làng một đêm, anh vẫn yêu tha thiết buôn làng, yêu con nước mát lạnh đầu làng, yêu những hố chông; vẫn nhớ như in những tiếng chày rộn rã, chuyên cần của những cô gái Strá. Và nhớ nhất cái gốc cây bên đường đã gắn với kỉ niệm của anh về Mai, kỉ niệm ấy như cắt vào lòng anh một nhát dao cứa, đau buốt mãi không nguôi. Như thế, Tnú được khắc họa nên như một anh hùng của thời đại nhưng lại mang tầm vóc như một dũng sĩ trong sử thi. Câu chuyện về cuộc đời Tnú là tiêu biểu cho số phận và con đường đấu tranh cách mạng đi từ đau thương, phẫn uất đến sự quật khởi vùng lên đấu tranh để tự giải phóng mình, giải phóng quê hương của các dân tộc ở Tây Nguyên.
Cùng với Tnú là Dít - một cô bí thư chi bộ mới chừng 17-18 tuổi nhưng rất có bản lĩnh. Dít là người dũng cảm kế tiếp con đường của Mai. Ngay từ nhỏ cô đã tỏ ra rất gan dạ: khi Mai cùng đứa con nhỏ bị giặc giết hại, dân làng ai cùng khóc nhưng Dít câm lặng, mắt ráo hoảnh, nuốt hận vào bên trong. Rồi khi dân làng Xô Man bị bao vây, thằng Dục khát máu ra lệnh: Đứa nào ra khỏi làng, bắt được, bắn chết ngay tại chỗ nhưng Dít vẫn bò theo mang nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết và lũ thanh niên. Giặc bắt được Dít, chúng nó biến Dít thành một tấm bia sống. Nghĩa là giặc không bắn trúng mà bắn hăm dọa, nó im bặt và nhìn lũ giặc bằng ánh mắt thản nhiên lạ lùng. Dít nén đau thương và căm thù, cô tích cực tham gia cách mạng, trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội, rất chững chạc và nghiêm túc trong công việc. Điều này được thể hiện ở chi tiết Tnú về thăm làng một đêm, với cương vị của mình Dít đã giữ đúng nguyên tắc là hỏi giấy và ngay sau đó thì lại rất tình cảm. Cô nói với Tnú: Sao anh về có một đêm thôi? Bọn em đứa nào cũng nhớ anh. Càng lớn Dít càng giống Mai: cái mũi hơi tròn, lông mày đậm, đôi mắt mở to bình thản, trong suốt, khiến cho Tnú xúc động. Anh cảm thấy trước mắt anh là Mai đấy và Tnú bất chợt nghe một luồng lạnh rần rần ở mặt và ngực. Đối với dân làng và bé Heng, Dít cũng luôn chiếm được tình cảm quý trọng và sự ủng hộ tích cực. Trong suy nghĩ của bé Heng, dường như chị Dít nói gì cũng đúng và phải thực hiện nghiêm chỉnh. Ví như, bé Heng nói với Tnú: Rửa chân đi, nhưng đừng uống nước lạnh, về chị Dít phê bình cho đấy. Có thể nói, nhà văn đã dành những tình cảm trân trọng, yêu mến xen lẫn với sự khâm phục khi nói về Mai và Dít. Họ là những người phụ nữ Tây Nguyên tiêu biểu thể hiện được vai trò của mình trong chiến tranh cách mạng. Và đây cũng là một bước phát triển mới đáng ghi nhận trong quan điểm sáng tác và phong cách nghệ thuật của nhà văn -khi viết về đề tài Tây Nguyên.
Còn bé Heng là đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ măng non ở núi rừng Tây Nguyên. Heng là nhân vật phụ nhưng thiếu nó thì bức tranh về vẻ đẹp truyền thống ở Tây Nguyên sẽ không hoàn chỉnh. Heng tuy tuổi đời còn nhỏ nhưng đã có dáng vẻ của một tiểu anh hùng. Em luôn khao khát và rất mong được như những anh chị du kích, như những chiến sĩ giải phóng (em muốn có một bộ quân phục như một người lính thực sự). Em hăng hái và nhiệt tình tham gia cách mạng. Em thông thuộc từng hố chông, từng chiến điểm khi dẫn Tnú về làng. Sự năng nổ, háo hức và sự nhiệt tình của bé Heng đã khiến cho người đọc tin tưởng rằng, đó sẽ là lớp người kế tục xứng đáng những truyền thống anh hùng bất khuất của cha ông, của Tây Nguyên hùng vĩ.
Thế hệ trẻ Tây nguyên được Nguyễn Trung Thành thể hiện trong tác phẩm là những con người gan góc dũng cảm, nhiệt thành yêu nước, sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng, không ngại khó khăn gian khổ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Tuy ở họ còn có nhược điểm là thiếu kinh nghiệm trong đấu tranh với kẻ thù nhưng dù sao qua tác phẩm này, nhà văn vẫn khẳng định họ là những người kế thừa xứng đáng truyền thống của cha ông, là lực lượng nòng cốt nhất trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc.
Đọc Rừng xà nu chúng ta thực sự xúc động trước cảnh vật và con người Tây Nguyên. Chúng ta càng thêm yêu mến, trân trọng hơn những con người Tây nguyên anh hùng, bất khuất, có tâm hồn trong sáng, giàu tình cảm thủy chung, nhiệt tình tham gia cách mạng. Có được tình cảm đó, một phần không nhỏ là do chúng ta tiếp nhận được qua vẻ đẹp của các nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng mà nhà văn đã thể hiện trong tác phẩm. Việc khắc họa thành công vẻ đẹp riêng của các nhân vật này đã tái hiện lại cái không khí hào hùng của một thời kỳ lịch sử, chứng tỏ Nguyễn Trung Thành là một cây bút già dặn, giàu cảm xúc, giàu tài năng và sáng tạo. Sự thành công đó chính là một yếu tố quan trọng làm nên tầm vóc giá trị và sức sống lâu bền của tác phẩm.
Nét tính cách tiêu biểu của nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu?
Câu trả lời của bạn
Những năm tháng đánh Mĩ của con người Tây Nguyên đã khơi nguồn cho cảm hứng và những sáng tác thành công về vùng đất cao nguyên mang sức sống mãnh liệt này. Nguyễn Trung Thành với truyện ngắn Rừng xà nu là một trong số đó. Rừng xà nu chính là biểu tượng cho dân làng Xô man bất tử. Trong "Rừng xà nu" Xô man ấy ta bắt gặp một cây xà nu sống mãnh liệt hơn bất cứ cây xà nu nào khác - cây xà nu Tnú. Tnú - người con yêu , niềm tự hào của dân làng, gắn bó với cách mạng, dũng cảm tuyệt vời, căm thù giặc sâu sắc và cũng yêu bản lang như cơ thể mình.
Trước hết Tnú rất gắn bó với cách mạng. Được cụ Mết, một già làng tiêu biểu cho những con người đấu tranh bất khuất của dân làng Xô-man chỉ bảo rằng “cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn”, nên ngay từ lúc nhỏ, Tnú tham gia việc nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sắc công tác giao liên. Nhiều đêm Tnú phải ngủ lại trong rừng vì sợ lỡ giặc lùng ai dẫn cán bộ chạy. Tnú luôn nghe lời chỉ dạy của cán bộ. Được anh Quyết dạy chữ, Tnú khắc phục khó khăn, cố gắng học tập. Không có bảng, không có phấn, Tnú lấy nứa làm bảng và để ba ngày đường tới núi Ngọc Linh mang về một xà lét đầy đá trắng làm phấn. Khi Tnú tỏ ra chán nản vì mình tối dạ, học không nhớ được thì một lời động viên của anh Quyết “không học chữ làm sao làm được cán bộ giỏi”, đã truyền thêm sức mạnh tinh thần, giúp Tnú cố gắng hơn.
Tnú vô cùng gan dạ, dũng cảm. Ngay từ ngày làm giao liên, Tnú không bao giờ chịu đi đường món, cứ xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây, qua sông Tnú không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang. Khi bị giặc bắt, Tnú can đảm chịu những đòn tra tấn, để sau khi vượt ngục, vẫn tiếp tục cùng cụ Mết lãnh đạo dân làng Xô-man mài giáo, mài rựa chống lại kẻ thù. Khi bản làng bị càn quét, vợ con Tnú bị giặc hành hạ giết chết một cách dã man, nhất là khi anh bị thằng Dục tẩm nhựa xà nu để đốt mười ngón tay thành mười ngọn đuốc. Tnú càng thấm thìa nỗi đau thương và căm thù, dần đần nhận thức sâu sắc về kẻ thù và quyết tâm hành động. Anh ra đi “lực lượng”, quyết tiêu diệt cho hết kẻ thù tàn ác, bởi lẽ “chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục cả. Ngoài ra, Tnú còn là người giàu tình cảm thương yêu. Anh tha thiết yêu bản làng. Sinh ra và lớn lên giữa núi rừng tây Nguyên hùng vĩ, giữa những con người mộc mạc, thuần hậu, Tnú thấy gắn bó thân thiết với cảnh và người của quê hương mình. Ba năm đi chiến đấu xa bản làng, khi trở về, Tnú vô cùng xúc động. Anh nhớ rõ từng hàng cây, con đường, từng dòng suối mát. Anh đau đớn khi gặp lại một thân cây to chắn ngang đường, nơi mà ngày xưa, Mai đã thổ lộ tình cảm yêu mến ngay khi anh mới ở tù về. Anh cũng bồi hồi khi nghe tiếng chày giã gạo của dân làng, tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà, và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xưa mà suốt đời anh vẫn nhớ.
Anh yêu thương vợ con tha thiết. Chính vì yêu thương rất nhiều nên anh căm thù sâu sắc bọn giặc đã dùng cây sắt đánh chết vợ con anh. Anh cũng yêu thương mọi người. Làng Xô-man đã dành cho anh một tình cảm đặc biệt nồng hậu, thân thiết. Những cặp mắt tròn xoe, rồi những tiếng ré lên và những tiếng reo của mọi người đã thể hiện nỗi vui mừng đón Tnú về làng.
Bắt nguồn từ tình yêu vợ con, dân làng sâu thẳm trong lòng, từ riêng chung, Tnú đã biến nó thành lòng yêu nước, căm thù giặc, dũng cảm đối với kẻ thù. Tnú chính là hình tượng tiêu biểu của những con người cao nguyên mang sức sống mãnh liệt và tình yêu nồng nàn.
Bình giảng đoạn văn: Làng ở trong tầm đại bác.... tới chân trời?
Câu trả lời của bạn
Mở đầu tác phẩm "Rừng xà nu", Nguyễn Trung Thành viết: “Làng ... gà gáy”. Đó là cách giới thiệu "ngược”, ông đã đem sự việc giới thiệu trước khi giới thiệu cái làng ấy tên gì, ở đâu bằng giọng văn bình thản nhưng không kém phần gần gũi, thân thiết. Bình thản bởi sự việc giặc bắn đại bác đã thành lệ mỗi ngày hai bận như cơm ăn, nước uống của người dân Xô man. Gần gũi, thân thiết bởi mỗi người đều tìm thấy nét chung, nét đồng cảm trong những năm khốc liệt ta bắt gặp những làng trong “tầm đại bác” và bắn thành thông lệ như ở Xô man không ít trên đất nước Việt Nam này.
Chung nhưngg không lẫn, làng Xô man vẫn mang những nét rất riêng. Kiêu hãnh và gan góc với “ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn" đã tạo ra sự khác biệt ấy.
Có lẽ chính vì tính chất “riêng”, “mới lạ”, “đặc sắc”, có tính đại điện, phổ quát cao cho các dân tộc Tây Nguyên nên "Rừng xà nu" được Nguyễn Trung Thành miêu tả thật sinh động, gan góc như một sinh thể có hồn.
Tính chất tàn phá mãnh liệt của chiến tranh in đậm trên mỗi thân cây “ cả rừng xà nu hàng vạn cây, không có cây nào không bị thương. Có cây bị chặt đứng ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn". Chỉ cần ba câu văn thôi nhưng ta có thể thấy trước mắt mình của một rừng xà nu sau mỗi lần “chúng nó bắn”. Nhưng nét đẹp và sự gợi cảm của mỗi câu văn không chỉ là nói lên một hình tượng tàn khốc mang tính tàn phá huỷ diệt như thế. “Một tác phẩm sẽ chết nếu nó miêu tả chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là sự thôi thúc mạnh mẽ mang tính chủ quan của tinh thần thời đại” (M. Gorki), “của niềm vui và nổi đau khổ, của nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt cay đắng” (Rãnu Gamzatop). Những thương của cây xà nu không chỉ là sự phản quang tội ác của giặc, không chỉ mất mát hoàn toàn. Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cây xà nu không chỉ là loại cây thông thường mà dưới góc độ khác, góc độ như một con người, con người Tây Nguyên gan góc, dũng mãnh, đầy quả cảm. Cây xà nu hiên ngang từ dáng đứng thẳng tắp dám hứng “hầu hết đạn đại bác”, đến phẩm chất “thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt”. Tác giả không miêu tả một cây, ông miêu tả cả một rừng cây. Phải chăng một chi tiết nhỏ đó thôi cũng bao hàm một lời hứa lớn. Đó là sự khái quát cao độ của hình tượng cây xà nu đông đảo, toàn diện và có phần chung chung nhưng lại không vô nghĩa, và đặc biệt không hề nhạt hoà, bé nhỏ. Nó cũng như con người: bị thương và chết đi, nhựa của nó chảy ra “dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành cục máu lớn”. Đây không phải là một phép so sánh giản đơn mà giường như trong tiềm thức của người nghệ sĩ, cây xà nu gần gũi thân yêu thật sự không phải là vật vô tri vô giác, ông đó là một sinh thể, là một con người. Lẽ dĩ nhiên trong văn chương có những điều “bất khả giải”, chỉ có thể cảm nhận bằng cảm giác, đôi khi rất khó tin, thậm chí không có sự “trùng khít giữa cái miêu tả và cái được miêu tả” nhưng cái tài của Nguyễn Trung Thành chính là ông đã tạo ra được “ảo tưởng giống như thiệt" (Focdine) của sự vật được phản ánh. Ông đã truyền sự rung cảm từ con tim chủ quan của người nghệ sĩ sang mỗi chúng ta là người tiếp nhân, khiến chúng ta không những yêu mà còn tin vào sức sống cũng như vẻ đẹp rất '"người” tiềm ẩn trong mỗi cây xà nu tưởng hết sức thông thuộc, bình dị. Sức sống mãnh liệt của cây xà nu chính nằm trong sự nối tiếp “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Đúng như Nguyễn Trung Thành nói: “Trong rừng ít có loài cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy”, sức sống và sự kế tiếp của cây rừng xà nu không khỏi khiến ta cảm phục, dường như có chút gì đó rạo rực, bâng khuâng... ta chợt nhớ đến một câu thơ của Tố Hữu:
Lớp cha lớp trước thân sau,
Đã thành đồng chí chung câu quán hành.
Có thể Nguyễn Trung Thành cũng đâu có viết về sự tiếp nối mạnh mẽ của cây rừng xà nu? Phải chăng đằng sau sức sống và sự “sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy”, còn có một sức sống tiềm ẩn khác của con người Tây Nguyên, của dân làng Xô Man trong kháng chiến. Họ cũng dũng mãnh như cây xà nu với “hình nhọn mũi lên lao thẳng lên bầu ười”. Sức mạnh ngòi bút Nguyễn Trung Thành chính là ở ông đã nắm bắt nhuần nhuyễn đặc điểm đó, miêu tả tài hoa và tinh tế sự hoà hợp giữa con người và thiên nhiên Tây Nguyên, khiến ta thấy thấp thoáng ẩn hiện sau mỗi cây xà nu là sự gan góc, sức sống mạnh mẽ và nụ cười cởi mở của dân làng Xô Man. Sự hoà nhập đó đã tạo nên sức gợi cũng như sống tiềm tàng của mỗi câu chữ mà Nguyễn Trung Thành sử dụng. Tuy nhiên cái khéo chính là ông đã miêu tả cây xà nu tuy trong góc độ như một con người nhưng lại không phải là con người, ông không biến một sinh vật thành một người đơn giản để cuối cùng mất đi bản sắc riêng của nó. Xà nu là loại “ham ánh sáng mặt trời”. “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng, ánh sáng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lá vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, mươi hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum suê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã.”
Thật là quật cường và cũng thật kì diệu! Có lẽ bản thân những câu văn cũng đã nói lên sức sống cùng phẩm chất ham sống tuyệt vời của cây xà nu. Nhà văn không miêu tả phiến diện đến nổi khó tin là tất cả các loại cây dưới tầm đại bác đều còn sống và đều vươn lên với sức mạnh kì diệu. Nhưng có điều rất thật “nhà văn có quyền, nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa, ghê tởm, thấp hèn. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, thuỷ chung” (Nguyễn Khải). Nguyễn Trung Thành có miêu tả cái chết của đó là quy luật không tránh khỏi của cuộc sống, đặc biệt là trong chiến tranh nhưng ngay cả khi nó chết, cái còn lại vẫn là chỗ nhựa thơm “long lanh nắng gay gắt”, và đặc biệt là vẫn những cây vượt lên, sinh sôi và phát triển. Hơn bao giờ hết ta hiểu cái giá của sự sống và sức mạnh của sự sống khi nó được châm ngòi, khi nó được “cháy lên để mà toả sáng” (Raxun Gamzatop), trở nên có ích trong cộng đồng của mình “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng.
Cây xà nu là như vậy, đẹp đẽ và kiêu hãnh biết bao. “Tấm ngực lớn” của nó không chỉ thể hiện sức tráng kiện, dũng mãnh đến gai góc của một loại cây ở thời kì ưưởng thành đang nhập nhoà trong sức mạnh cộng đồng như cả dân làng Xô Man mà còn thể hiện chút chân thực đến say lòng người, cùng niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của chính mình.
Cái hay và đặc sắc của đoạn văn chính là ở chỗ nhà văn đã nhìn rừng xà nu như một sinh thể có hồn hoà nhập vào đời sống nhiệl thành của con người Tây Nguyên nói chung, của dân làng Xô-man nói riêng. Khép lại đoạn văn và cũng là toàn tác phẩm là một câu văn đầy sức gợi: “Đứng trên đồi xà nu trông ra xa, đến hết tầm ngắm cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Không phải ngẫu nhiên nhà văn Nguyễn Trung Thành sử dụng câu văn này hai lần, ở trong đoạn này và đoạn cuối tác phẩm. Rừng xà nu dường như đã lớn lên đến sức sống căng tràn nhất, trải dài khắp nẻo đường. Ta như cám giác cánh tay rừng xà nu đang vươn dài ôm lấy làng Xô-man vào lồng ngực lớn của mình, yêu thương, che trở và bảo vệ. Sức mạnh của khu rừng, của làng Xô -man và của cả một chút gì bí ẩn, hoang sơ gợi sự khát khao, kiếm tìm với người biết yêu thương và lời đe doạ đối với kẻ thù xâm lược: “Chừng nào chúng ta còn tồn tại thì các ngươi đừng hòng xâm nhập vào đây phá tan cuộc sống yên bình nơi đây".
"Rừng xà nu" là câu chuyện của cả đời được kể trong một đêm do đó những cảm xúc về cây xà nu chính là những rung cảm mãnh liệt nhất của người nghệ sĩ “được viết ra khi cảm xúc tràn đầy” (Tố Hữu). Theo lời tác giả kể, câu truyện viết ra chỉ trong hai liếng rưỡi nhưng lại được thai nghén hàng chục năm. Ta chợt hiểu sâu sắc đằng sau mỗi dòng chữ kia là tấm lòng yêu thương chất chứa, dồn nén của người nghệ sĩ. Có lẽ ông đã dồn rất nhiều tâm huyết để dựng lên hình tượng cây xà nu đẹp, đầy gợi cảm, mang sức chứa và khái quát cao độ. Nó xứng đáng là kết tinh của thiên nhiên và con người Tây Nguyên dũng mãnh, gan góc và quật cường. Thành công lớn ở đoạn văn chính là hình tượng cây xà nu đã diễn tả sâu sắc và tinh tế nội dung toàn tác phẩm cũng như điều mà nhà văn gửi gắm, ở mỗi cây xà nu ta nhìn thấy hình ảnh một người dân Xô man . Thấy cụ Mết, Tnú, Dít, Heng và lớp lớp dân làng kiêu hãnh, gan góc bất diệt như “Rừng xà nu”.
Vẻ đẹp của hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu?
Câu trả lời của bạn
Những năm tháng hoạt động ở Tây Nguyên đã cho Nguyên Ngọc – Nguyễn Trung Thành vốn hiểu biết sâu sắc về vùng đất này. Đọc các trang viết của từ "Đất nước đứng lên", "Rẻo cao" đến "Rừng xà nu", ta có cảm giác ông là người con của núi rừng Tây Nguyên. Nếu trong "Đất nước đứng lên" ông chọn anh hùng Núp và dân làng Kông Hoa làm tâm điểm cho câu chuyện thì đến "Rừng xà nu" ông cũng chọn một địa chỉ xác định: Dân làng Xô man - xứ sở của những cây xà nu làm bối cảnh cho câu chuyện. Cây xà nu và dân làng Xô man như hình với bóng, gắn bó mật thiết. Người Xô man sinh ra dưới bóng xà nu, lớn lên, làm lụng, hò hẹn dưới bóng xà nu, đến lúc qua đời cũng nằm dưới bóng cây thân thuộc ấy. Có thể nói hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành chính là biểu tượng của con người Xô man.
Nếu chúng ta thống kê đầy đủ thì hình ảnh Xà Nu với những biến thể của đã xuất hiện trong câu chuyện này không dưới hai mươi lần. Với số lần hiện như vậy, hình tượng này đã thấm sâu vào nội dung câu chuyện, thâm nhập đan xen vào đời sống của các nhân vật trong truyện. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó không thôi thì cây Xà Nu mới chỉ là một hình ảnh chứ chưa phải là biểu tượng. Muốn biến một hình ảnh thành một biểu tượng, nhà văn cần phải mô tả theo lối tượng trưng hóa. Và Nguyễn Trung Thành đã hoàn thành công việc một cách hoàn hảo.
Nguyễn Trung Thành đã sử dụng rộng rãi thủ pháp nhân cách hóa. Nghĩa là ông đã mô tả cây xà nu như con người. Chúng ta thấy ở đây những “thân hình Xà Nu”, “nhựa Xà Nu như những cục máu lớn”, “rừng xà nu ưỡn tấm ngực của mình ra che chở cho làng”... Nhờ đó mà rừng Xà Nu cũng hiện ra như một nhân vật của câu chuyện. Thực ra lối viết này không phải hoàn toàn mới mẻ. Điều đáng nói hơn là ở chỗ Nguyễn Trung Thành đã biến rừng Xà Nu thành một hệ thống hình ảnh, được mô tả song song với hệ thống hình tượng nhân vật. Rừng Xà Nu hiện ra với ba lứa cây chính: lứa những cây già, lứa những cây trẻ và lứa những cây non. Chúng lại hiện ra với những cảnh ngộ và thân phận tương ứng với con người: có những cây bị phạt ngang thân mình, có những cây mình đầy thương tích, nhưng không bom đạn nào có thể làm cho nó gục ngã, lại có những cây non mới mọc ra nhưng đã đâm lên khỏi mặt đất nhọn hoắt như những mũi lê. Ba lứa cây Xà Nu, ba loại thân phận Xà Nu tương ứng với ba thế hệ người Xô Man được mô tả trong câu chuyện. Trước hết, đó là thế hệ những người già như cụ Mết. Cụ Mết tiêu biểu cho những người già, những người từng trải có sức sống bền bỉ dẻo dai như chính Tây Nguyên kiên cường gan góc. Tiếp theo cụ Mết là thế hệ thanh niên mà tiêu biểu là Tnú, Mai, Dít. Họ là những con người cường tráng, vạm vỡ mang trong mình sức sống mạnh mẽ của làng. Tuổi trẻ của họ đang được thử thách, tôi luyện, dạn dày trong đấu tranh và bom đạn. Nhưng, vượt lên tất cả, họ vẫn kiên cường trụ vững như những cây xà nu, những con chim đại bàng đã đủ lông mao, lông vũ bay thẳng lên bầu trời. Và cuối cùng là thế hệ thiếu niên như thằng bé Heng. Những đứa trẻ này vừa mới sinh ra mà đã cứng cỏi, gan góc, đã tạc mình theo hình ảnh của thế hệ cha anh. Ba thế hệ người Xô Man được mô tả rất tự nhiên tạo nên một hình tượng tập thể, thành một khối đoàn kết, gắn bó, trụ vững từ nghìn đời nay. Nếu ở Rừng Xà nu người ta thấy sức sống của Xà Nu là bất diệt, dòng nhựa Xà Nu được truyền lại nguyên vẹn từ những cây cổ thụ đến những cây non, thì ở những con người Xô Man người ta cũng thấy dòng máu Tây Nguyên cũng được truyền lại trọn vẹn từ lồng ngực những thế hệ già sang trái tim những thế hệ trẻ. Nó giúp cho tác giả Nguyễn Trung Thành khẳng định một chân lý: sức sống của Tây Nguyên là bất diệt Và chân lý ấy đã trở thành triết lý của bản thân câu chuyện này. Nguyễn Trung Thành đã gửi gắm điều đó vào lời nói của cụ Mết. Phải, chi có cụ Mết, chỉ có cây Xà Nu cổ thụ ấy mới có toàn quyền để phát ngôn cho sức mạnh của Xà Nu: “Không cây nào mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết được hết rừng Xà Nu này”. Và khi người Xô Man đã cầm lấy vũ khí nhất tề đứng lên khởi nghĩa, thì cũng được Nguyễn Trung Thành mô tả như sự nổi giận của rừng già, như sự nổi dậy của những cánh rừng Xà Nu: “Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng...”.
Để biến hình tượng Xà Nu thành một biểu tượng nghệ thuật trọn vẹn. Nguyễn Trung Thành còn sử dụng một kết câu rất hợp lí, đó là kết cấu vòng tròn mang tính luân hồi. Câu chuyện mở ra bằng hình ảnh rừng Xà Nu được đặc tả khá kỹ lưỡng và sắc nét. Cuối cùng Nguyễn Trung Thành lại cũng dùng hình ảnh rừng Xà Nu để khép lại câu chuyện. Đây là lối kết câu vừa đóng vừa mở, nó khép lại câu chuyện này để mở ra một câu chuyện khác. Khiến cho người đọc có cảm tưởng rằng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô Man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên. Người Tây Nguyên hôm nay đang viết tiếp bản anh hùng ca muôn thuở của mình. Kỳ tích anh hùng của Tnú chỉ là sự tiếp tục của những gì mà Đăm San và Xing Nhã đã làm thuở xưa. Và nó hứa hẹn rằng những kỳ tích anh hùng ấy còn được viết tiếp bởi những anh hùng trong thế hệ mới của Dít và Heng. Mặt khác người ta thấy với lối kết cấu này, câu chuyện con mở ra cả trong không gian. Sức mạnh quật cường của con người không chỉ bó hẹp ở làng Xô Man mà còn mở rộng ra cả Tây Nguyên, mở rộng ra mãi ra mãi như là sức mạnh của cả dân tộc này: Đứng ở đồi xà nu cạnh con nước lớn, nhìn “đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm của Nguyễn Trung Thành vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là một sáng tạo độc đáo của nhà văn - cây xà nu chính là sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên và cũng là một hình tượng nghệ thuật bất lử trong văn học kháng chiến chống Mỹ.
Rừng xà nu cho ta thấy rõ sức sông bất diệt của thiên nhiên và con người Tây Nguyên?
Câu trả lời của bạn
I. Mở bài
II. Thân bài
1. Với những tình tiết đặc sắc, túc giả đã miêu tả được hình ảnh rừng xà nu vừa cụ thể vừa mang ý nghĩa tượng trưng
a) Tình tiết “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão... ở chỗ vết thương nhựa ứa ra...rồi dần dần bầm lại và đặc quện lại thành từng cục máu lớn”- là hình ảnh rừng xà nu bị tàn phá bởi đạn đại bác của giặc Mỹ. Đây cũng chính là một hiện thực khắc nghiệt trong cuộc chiến tranh. Giặc Mĩ điên cuồng bắn phá thiên nhiên, con người gây ra bao nhiêu nước mắt. Với Tnú, với dân làng Xô-man, với người Tây Nguyên - thì đó là món nợ phải trả băng máu.
b) Sức sống mãnh liệt của rừng xà nu cũng là sức sống bất diệt của dân làng Xô-man, của con người Tây Nguyên: “Trong rừng có ít loại cây sinh sôi nảy nở nhanh như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. “Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”. Hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng cho dân làng Xô-man luôn khao khát vươn tới cuộc sống tự do, cuộc sống độc lập. “Nhưng cũng có những cây vượt lên được ngang quá đầu người... Đạn đại bác không thể giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng... thay thế những cây đã già”. Sự vươn lên mạnh mẽ của cây xà nu cũng chính là sự tiếp nối của các thế hệ trong cuộc đấu tranh một mất một còn với giặc Mỹ của dân làng Xô- của con người Tây Nguyên (tiêu biểu là hình tượng Dít, bé Heng...).
a) Cây xà nu gắn bó mật thiết với dân làng Xô-man, có thể nói đó là một phần cuộc sống của họ. (Từ cụ Mết được miêu tả: “ngực cáng như một cây xà nu lớn” cho đến lũ trẻ mặt mũi “lem luốc khói xà nu” đến ánh lửa từ mất cây xà nu Tnú soi cho Dít gằn gạo. xà nu xông đen tấm bảng để Tnú và Mai học chữ …bọn giặc đốt cháy mười ngón tay của Tnú cũng lại bằng nhựa cây xà nu. Vì thiên nhiên ở đây như hoà vào cuộc sống, con người: “Rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”.
b) Đoạn văn cuối truyện ngắn - hình ảnh rừng cây xà nu bị đạn đại bác chặt ngã được miêu tả, được nhắc lại, kể cả hình ảnh:
“Quanh đó vô số những cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những lưỡi lê”- Hình ảnh này làm người đọc liên tưởng tới lời cụ Mết: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già người trẻ, mỗi người phải tìm một cây giáo, một cây mác...”. Nỗi đau, niềm căm thù sôi sục đã đánh thức họ. Họ không còn cách nào khác là phải tự đứng lên, nghe tiếng gọi của Đảng, để tự giải phóng mình. Hình ảnh những cây xà nu nhọn hoắt như những lưỡi lê - cùng với dân làng Xô-man và giáo mác, chông của họ là lời tuyên chiến với kẻ thù, là lời thách thức sống chết với giặc.
c) Cùng với cách sắp xếp thời gian độc đáo trong truyện, cùng với việc xây dựng rất tài tình những phẩm chất điển hình ở những nhân vật điển hình – hai đoạn văn miêu tả rừng xà nu ở đoạn văn đầu và cuối tác phẩm đã góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn này. Cũng thấy được nguyên nhân sâu xa bên trong: đó chính là sự gắn bó, tình cảm thương yêu của nhà văn dành cho đồng bào Tây Nguyên.
III. Kết bài
Những điểm chung và riêng ở các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít?
Câu trả lời của bạn
I. Mở bài
Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng. Với Nguyễn Trung Thành đó là Tây Nguyên. Ta đã gặp một anh hùng Núp trong Đất nước đứng lên thời chống Pháp, giờ đây ta lại đến với các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít trong Rừng xà nu thời chống Mĩ. Họ đều là những người con kiến cường bất khuất của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ nhưng mỗi người lại mang những nét riêng, những vẻ đẹp riêng khó quên.
II. Thân bài
"Rừng xà nu" là câu chuyện làng Xô-man (Tây Nguyên) chống Mĩ. Truyện có nhiều nhân vật nhưng tiêu biểu nhất là ba nhân vật: Cụ Mết (già làng), Tnú (thanh niên) và Dít (phụ nữ). Đó là hai thế hệ già trẻ cùng tiếp nối nhau đứng lên đánh Mĩ. Truyện có hé mở cho người đọc thấy thế hệ thứ ba là thế hệ của bé Heng để hoàn thiện bức tranh Tây Nguyên chống Mĩ.
Ba nhân vật nói trên được nhà văn miêu tả sinh động, hấp dẫn, trở thành những ấn tượng lâu bền trong lòng người đọc, bởi vì, ở mức độ nhất định, họ đã được điển hình hóa, vừa mang nét chung của con người Tây Nguyên đánh Mĩ, lại mang nét riêng in đậm tính cách và phẩm chất của từng người cụ thể.
1. Nét chung
Nét chung ở đây là phẩm chất anh hùng. Họ đều là những người con kiên cường bất khuất của Tây Nguyên, thể hiện ở những điểm sau đây:
2. Nét riêng
Các nhận vật đều anh hùng, kiên cường, bất khuất, nhưng mỗi người lại anh hùng theo cách riêng, và sự kiên cường bất khuất cũng được biểu lộ khác nhau tùy theo tuổi tác, giới tính, cương vị xã hội và hoàn cảnh riêng của từng người. Tất cả đã làm nên đặc điểm riêng và vẻ đẹp riêng của từng nhân vật.
a) Cụ Mết: Già làng, người chỉ huy, linh hồn của làng Xô-man chống Mĩ. Một cụ già khỏe mạnh quắc thước “ngực căng như một cây xà nu lớn”, hai tay rắn chắc như hai gọng kìm, tiếng nói ồ ồ vang vang. Cụ chỉ huy dân làng xông vào giết sạch bọn ác ôn trên sàn nhà rông, đốt lên ngọn lửa đồng khởi cháy sáng khắp rừng Xô-man với chân lí giản dị “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo !”… “Cụ còn là niềm tin, người tổ chức, tập hợp dân làng đoàn kết chống giặc. Cái đêm cụ kể về cuộc đời của Tnú cho dân làng nghe bên ngọn lửa xà nu bập bùng vừa đầm ấm, vừa trang nghiêm, lại có gì linh thiêng như kể về một huyền thoại.Cụ chính là cây xà nu vững chãi nhất trong rừng xà nu Xô man.
c) Dít: Cô gái trẻ giàu nghị lực, bản lĩnh đã trưởng thành mau chóng trong phong trào chống Mĩ để trở thành người lãnh đạo cao nhất của đân làng Xô man: bí thư chi bộ và chính trị viên xã đội. Nét tính cách nổi bật là gan dạ (giặc bắn uy hiếp tinh thần, áo quần rách tả lơi mà vẫn bình thản như không) và kiên quyết rắn rỏi (kiểm tra giấy phép của Tnú rất kĩ) nhưng vẫn là người phụ nữ giàu tình cảm, cô giới tính (cảm thấy bùi ngùi khi Tnú lại phải đi ngay).
Ba nhân vật được xây dựng sinh động, hấp dẫn, mang vẻ đẹp riêng của từng người. Ba vẻ đẹp ấy lại hòa vào nhau để làm nên vẻ đẹp chung của con người Tây Nguyên chống Mĩ. Hình ảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường đánh giặc ở cuối tác phẩm chính là sự kết tụ rất hài hòa ba vẻ đẹp ấy và lắng sâu vào lòng người đọc.
Vẻ đẹp của hình tượng các nhân vật Tnú, cụ Mết, Dít, bé Heng?
Câu trả lời của bạn
I. Mở bài
II. Thân bài
1. Nhân vật Tnú
* Được tác giả khắc họa bằng những nét tính cách độc đáo, giàu chất sử thi.
a) Trước hết Tnú rất gắn bó với cách mạng. Từ nhỏ Tnú đã từng nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sấc công tác giao liên. Khi bị giặc bắt, Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của giặc. Sau khi vượt ngục, anh cùng cụ Mết tiếp tục lãnh đạo dân làng Xô-man mài giáo, mài rựa chiến đấu chống kẻ thù.
b) Tnú tha thiết thương yêu bản làng. Sau ba năm chiến đấu trở về làng, anh nhớ rõ từng hàng cây, từng con đường, từng dòng suối, bồi hồi xúc động khi nghe tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi.
Anh yêu thương vợ con tha thiết. Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dùng chày sắt đập chết mẹ con Mai, nỗi đau thương của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặc với mội tiếng thét dữ dội và anh dang hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.
c) Càng đau thương, Tnú càng căm thù giặc. Vợ con bị giết, lòng căm hận biến đôi mắt Tnú thành hai cục lửa lớn.
Yêu thương, căm thù biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng... Chính nỗi đau xé lòng của Tnú đã khiến cho anh và đồng bào anh dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả một tiểu đội giặc hung ác. Riêng Tnú ra đi lực lượng để quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản làng, giải phóng quê hương. Chính trong thực tế chiến đấu mà nhân vật vươn lên nhận thức đó, hiểu biết sâu sắc về kẻ thù và nâng lòng căm thù cá nhân lên thành căm thù chung của cả dân tộc.
2. Nhân vật cụ Mết
a) Cụ Mết tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô-man. Lịch sử chiến đấu của làng, qua lời kể của cụ Mết, thấm sâu vào tim óc các thế hệ. Cụ là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là pho sử sống của làng.
b) Tấm lòng cụ Mết đối với cách mạng trước sau như một. Cụ đã từng nói: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Trong những năm đen tối, cụ cùng dân làng Xô-man, từ thanh niên, ông già bà già, đến lũ trẻ đi nuôi và gác cho cán bộ: năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này.
c) Cụ Mết là linh hồn của làng Xô-man. Chính cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi. Hình ảnh ông cụ mắt sáng và xếch ngược, ngực căng như một cây xà nu lớn, cất tiếng nói vang vang như một mệnh lệnh thôi thúc họ vùng lên tiêu diệt kẻ thù... thật rực rỡ như trong một trang sử thi anh hùng. “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên !"...
Từ ngày ấy, làng Xô-man trở thành làng chiến đấu. Đó là phần đóng góp không nhỏ của cụ Mết vào công cuộc giải phóng quê hương bản làng.
3. Nhân vật Dít
a) Dít là nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành từ những đau thương và quật khởi của dân làng. Trong thời gian dân làng Xô-man chuẩn bị chiến đấu, rồi bị địch bao vây, cụ Mết và Tnú dẫn đám thanh niên vào rừng. Chỉ có con Dít nhỏ, lanh lẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên. Khi bị giặc bắt, Dít bị chúng bắn dọa, đạn chỉ sượt qua tai, sém lóc, cày đầy quanh hai chân nhỏ... đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản...
- Ngày Mai bị giặc đánh chết và Tnú ra đi, trong khi mọi người, cả cụ già, đều khóc vì cái chết của Mai và Dít vẫn lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh. Tất cả chi tiết trên thể hiện tính cách kiên cường, sức chịu đựng phi phường của Dít, biết dồn nén đau thương để nung nấu lòng căm thù. Như những người con đã khuất của làng Xô-man, Dít căm thù trên cơ sở nhận thức rõ bản chất của kẻ thù, để quyết tâm chiến đâu tiêu diệt chúng.
b) Dít rất giàu tình cảm thương yêu:
Khi Tnú về thăm làng, Dít đã là bí thư chi bộ vừa là chính trị viên xã đội. Như ngày nào, đôi mắt Dít vẫn mở to, bình thản, trong suốt khi gặp lại Tnú. Dù trong lòng rất vui mừng, Dít vẫn thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy về phép của anh. Rồi từ chỗ gọi Tnú là đồng chí, Dít chuyển sang gọi là anh, xưng em thật tự nhiên, như người em gái nhỏ của Mai và Tnú ngày xưa và tỏ bày tỏ tình thân thiết: “Sao anh về có một đêm thôi? (...). Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”.
4. Nhân vật bé Heng
a) Ngày Tnú ra đi lực lượng, bé Heng mới đứng ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chí mới đeo cái xà-lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Ngày Tnú về phép, bé Heng trưởng thành, với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ một người lính, một chiến sĩ du kích của bản làng. Làng Xô-man giờ đây trở thành làng chiến đấu và con đường vào làng phải qua hai cái dốc chằng chịt hầm chông, hố chông ngăn chặn địch. Bé Heng đã góp phần không nhỏ vòa việc thiết lập những công sự này, nên tỏ ra rất hãnh diện.
b) Nếu cụ Mết xứng đáng với hình ảnh cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn xanh thẫm, thì bé Heng tượng trưng cho cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời, sẽ phát triển đến đâu, chưa ai lường được.
III. Kết bài
"Nhân vật trong Rừng xà nu đều là những người con kiên cường bất khuất trong công cuộc chống Mĩ cứu nước." Phân tích các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít để làm sáng tỏ nhận định trên?
Câu trả lời của bạn
I. Mở bài
Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng. Với Nguyễn Trung Thành, đó là Tây Nguyên. Ta đã gặp một anh hùng Núp trong Đất nước đứng lên thời chống Pháp, giờ đây ta lại đến với các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít trong Rừng xà nu thời chống Mĩ. Họ đều là những người con kiên cường bất khuất của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ nhưng mỗi người lại mang những nét riêng, những vẻ đẹp riêng khó quên.
II. Thân bài
Rừng xà nu là câu chuyện làng Xô Man (Tây Nguyên) chống Mĩ. Truyện có nhiều nhân vật nhưng tiêu biểu nhất là ba nhân vật: cụ Mết (già làng), Tnú (thanh niên) và Dít (phụ nữ). Đó là hai thế hệ già - trẻ cùng tiếp nối nhau đứng lên đánh Mĩ (truyện còn hé mớ cho người đọc thấy thế hệ thứ ba là thế hệ của bé Heng để hoàn thiện bức tranh Tây Nguyên chống Mĩ).
Ba nhân vật nói trên được nhà văn miêu tả sinh động, hấp dẫn, trở thành những ấn tượng lâu bền trong lòng người đọc, bởi vì, ở mức độ nhất định, họ đã được điển hình hóa, vừa mang nét chung của con người Tây Nguyên đánh Mĩ, lại mang nét riêng in đậm tính cách và phẩm chất cùa từng người cụ thể.
A. Nét chung
Nét chung ở đây là phẩm chất anh hùng. Họ đều là những người con kiên cường bất khuất cùa Tây Nguyên, thể hiện ở những điểm sau đây:
B. Nét riêng
Đều anh hùng, kiên cường, bất khuất nhưng mỗi người lại anh hùng theo cái cách riêng, và sự kiên cường bất khuất cũng được biểu lộ khác nhau tùy theo tuổi tác, giới tính, cương vị xã hội và hoàn cảnh riêng của từng người. Nó làm nên đặc điểm riêng và vẻ đẹp riêng của từng nhân vật.
1. Cụ Mết: Già làng, người chỉ huy, linh hồn của làng Xô Man chống Mĩ Một cụ già khỏe mạnh quắc thước “như cây cổ thụ giữa buôn ngàn”, “ngực vồng cao như thân cây xà nu lực lường”, hai tay rắn chắc như hai gọng kìm, tiếng nói ồ ồ vang. Cụ chi huy dân làng xông vào giết sạch bọn ác ôn trên sàn nhà rông, đốt lên ngọn lửa đồng khởi cháy sáng khắp rừng Xô Man với chân lý giản dị “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!...” Cụ còn là niềm tin người tổ chức, tập hợp dân làng đoàn kết chống giặc. Cái đêm cụ kể về cuộc đời cùa Tnú cho dân làng nghe bên ngọn lửa xà nu bập bùng vừa đầm ấm, vừa trang nghiêm, lại vừa có gì linh thiêng như kể về một huyền thoại...
2. Tnú: Người con ưu tú cua buồn làng đã ra đi đánh giặc (giải phóng quân) để trả thù cho quê hương và cho bản thân mình. Nét tính cách chủ yếu là quyết liệt, mạnh mẽ, rất đặc trưng cho sự kiên cường bất khuất của con người Tây Nguyên sống giữa núi rừng hùng vĩ. Căm thù thì như lửa cháy ngùn ngụt (hai con mắt như hai cục than đỏ, tay bóp nát trái vả lúc nào không biết), trả thù thì dứt khoát, lạnh lùng, trừng phạt đích đáng kẻ đã tra tấn mình (bóp chết kẻ thù bằng chính hai bàn tay cụt). Cuộc đời và vẻ đẹp riêng của nhân vật như được kết tụ lại trong hai bàn tay: bàn tay hận thù và bàn tay trả thù. Đó là hình ảnh "bàn tay Tnú” độc đáo và đầy ấn tượng của Nguyền Trung Thành.
III. Kết bài
Ba nhân vật được xây dựng sinh động, hấp dẫn, mang vẻ đẹp riêng của từng người. Ba vẻ đẹp ấy lại hòa vào nhau để làm nên vẻ đẹp chung của con người Tây Nguyên chống Mĩ. Hình ảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường đánh giặc ở cuối tác phẩm chính là sự kết tụ rất hài hòa vẻ đẹp ấy để nó lắng sâu vào lòng người đọc.
Ý nghĩa của câu nói “Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo” của cụ Mết?
Câu trả lời của bạn
Vẻ đẹp chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua nhân vật Tnú và nhân vật Việt?
Câu trả lời của bạn
Trong bài “Nhận đường”, Nguyễn Đình Thi có viết: “Văn nghệ phụng sự kháng chiến nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang đúc nên văn nghệ mới của chúng ta”. Từ chiến trường đầy ác liệt, từ những nỗi đau chiến tranh chất chứa đầy máu và cả sự hy sinh , những áng văn bất hủ đã được tạo nên "Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi đã ra đời trong hoàn cảnh ấy. Dẫu hai tác phẩm ấy được viết theo hai phong cách khác nhau nhưng cả hai nhà văn đã gặp nhau ở nơi hội tụ của mọi ánh sáng văn chương chân chính mọi thời đó là chủ nghĩa anh hùng cách mạng lớn lao, cao cả, hào hùng. Vẻ đẹp ấy được thể hiện rõ nét nhất qua nhân vật Tnú và nhân vật Việt.
Mỗi nhà văn có một sở trường riêng về một đề tài và khi nhắc đến văn học kháng chiến chống Mĩ ta không thể không nhắc đến hai nhà văn tiêu biểu đó là Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi. Nguyễn Trung Thành sinh năm 1932 ông là nhà văn có sở trường viết về vùng đất Tây Nguyên anh hùng, bất khuất. Nguyễn Thi (1928-1968) tuy là người Bắc nhưng ông lại có cảm tình sâu sắc với mảnh đất Nam Bộ. Chính vì vậy ông đã được coi là nhà văn, con người Nam Bộ kiên cường. Cả hai tác giả đều gắn bó với cuộc kháng chiến chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở hai tuyến đầu máu lửa của Tổ quốc Tác phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu. Hai truyện ngắn “Rừng xà nu” (1965) và “Những đứa con trong gia đình” (1966) đã phản ánh thật rõ ràng và đậm nét ý chí quyết tâm đánh giặc ngoại xâm của dân tộc ta; lòng căm thù giặc cũng như những phẩm chất anh hùng của người chiến sĩ trong công cuộc đấu tranh để gìn giữ non sông của cha ông ngàn đời. Nhân vật Tnú và Việt trong hai tác phẩm là hai nhân vật tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, yêu cách mạng của con người Việt Nam trong kháng chiến. Ở họ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng cao cả và thiêng liêng nhất chính là vẻ đẹp anh hùng cách mạng .
Vậy thế nào là chủ nghĩa anh hùng cách mạng ? Đó là sự thể hiện của lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là sự trung thành với lí tưởng cách mạng được thử thách trong những hòan cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc. Tnú và Việt là sự kết tinh của chủ nghĩa anh hùng cao đẹp ấy.
Trước tiên đọc tác phẩm “Rừng xà nu” ta có thể dễ dàng cảm nhận được vẻ đẹp anh hùng rực rỡ ở nhân vật Tnú. Tnú là người con của dân làng Xôman, cha mẹ mất sớm và được dân làng cưu mang, nuôi dưỡng. Cũng như người dân làng “có cái bụng thương núi, thương nước”, Tnú đã sớm có lòng yêu thương nhân dân, làng xóm. Từ tấm lòng này, Trú đã mở rộng thành tình yêu gắn bó trung thành thủy chung sâu nặng với Cách mạng, cán bộ Cách mạng. Bởi ngay từ khi còn là một cậu bé, Tnú được cụ Mết, người gìn giữ và truyền ngọn lửa Cách mạng từ thế hệ này sang thế hệ khác cho hay: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn nước non này còn”. Vì vậy ngay từ chặng đầu của cuộc đời, Tnú đã xuất hiện với tư cách của người anh hùng Tây Nguyên thời chống Mỹ. Dù còn nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra gan góc táo bạo, đầy quả cảm như Kim Đồng, Lê Văn Tám, Vừ A Dính… Bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù, chặt đầu những người đi nuôi cán bộ – đầu anh Xút, bà Nhan đang bị chúng treo lủng lẳng đầu bản xóm, Tnú đã cùng với Mai xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết, một cán bộ trung kiên của Đảng. Đây là một công việc vô cùng khó khăn và đầy nguy hiểm nhưng Mai và Tnú đã làm rất tốt để dân làng Xô man mãi tự hào ” Năm năm chưa hề có cán bộ bị giặc bắt hoặc bị giết ở trong rừng”.
Làm liên lạc chuyển thư cho anh Quyết, Tnú có cái đầu sáng lạ lùng. Vốn là con người nhanh trí, táo bạo thích mạo hiểm, Tnú không bao giờ đi đường mòn, bị giặc vây các nẻo đường, Tnú leo lên cây cao xé rừng mà đi vượt qua mọi vòng vây. Tnú không vượt qua suối những nơi nước cạn dễ đi mà thường băng qua những con thác hiểm như cưỡi lên lưng con cá kình. Có lần vượt qua thác, chuẩn bị lên bờ thì họng súng đen ngòm đã chĩa vào gáy lạnh ngắt. Tnú kịp nuốt lá thư của anh Quyết vào bụng bảo đảm bí mật. Tnú bị giặc giam cầm ở ngục tù Kontum với biết bao đòn roi, thương tích. Địch tra tấn hỏi “Cộng sản ở đâu?” Tnú đã không ngần ngại đặt tay lên bụng và nói: “Ở đây này!”. Và lưng Tnú lại hằn lên những vết dao chém ngang dọc của kẻ thù. Đúng Tnú là con người rất giàu phẩm chất thủy chung, trung thành với Cách mạng mà bất khuất hiên ngang trước kẻ thù “Uy vũ không thể khuất phục”.
Ba năm sau, Tnú vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô man đánh giặc. Và Mai, người bạn từ thuở thiếu thời, đã cùng Tnú trưởng thành qua năm tháng đầy thử thách khốc liệt của chiến tranh nay đã là vợ của Tnú. Đứa con trai kháu khỉnh vừa đầy tháng là hoa trái đầu mùa của mối tình thơ mộng và thủy chung ấy. Hạnh phúc gia đình lứa đôi của Tnú đang đẹp như trăng rằm lung linh tỏa sáng cả núi rừng Tây Nguyên. Song kẻ thù tàn bạo dã man đã đập vỡ tổ ấm hạnh phúc của Tnú một cách không tiếc thương. Chúng đã giết vợ con anh bằng cây gậy sắt, hòng uy hiếp tinh thần Cách mạng của Tnú, người cầm đầu, linh hồn của cuộc nổi dậy. Đoạn văn diễn tả sự bất lực của Tnú trước cái chết của vợ con thật bi thương tràn đầy xúc cảm và ấn tượng “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy… bụng anh có lửa đốt. Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Căm thù đau nhói trong tim và bừng cháy trong hai con mắt – một chi tiết thật dữ dội. Tnú nhảy vào giữa đám lính, hai cánh tay như cánh gỗ lim của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. Nhưng không còn kịp nữa!
Tnú bị bắt, bị trói. Vợ và con chết cả rồi nhưng Tnú không khóc. Anh ghìm nén nỗi đau, cố gắng vượt qua bi kịch cá nhân để tiếp tục sống và chiến đấu. Trước cái chết cận kề, Tnú không hề run sợ mà anh cảm thấy mình thật bình thản. Anh nghĩ “Đứa con chết rồi. Mai chắc cũng đã chết. Mình rồi cũng chết thôi”. Nhưng Tnú không sợ, điều làm Tnú day dứt và băn khoăn nhất chính là không sống được đến ngày cùng dân làng Xô man đánh giặc, rồi khi có lệnh của Đảng cho đánh ai sẽ lãnh đạo dân làng Xô Man ? Tnú hoàn toàn không nghĩ đến mình nữa, Tnú đã đặt cái chung, cái nhiệm vụ lên trên bi kịch của mình. Đó là thái độ biến đau thương thành hành động.
Giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay của Tnú. Chúng định dùng lửa để thiêu rụi ý chí đấu tranh của dân làng Xô man. Nhưng chúng đã nhầm. Chúng đã vô tình thắp lên ngọn lửa đồng khởi, ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xô man. Một ngón, hai ngón rồi ba bốn ngón của Tnú bốc cháy. Không gì đượm băng lửa Xà nu. Mười ngón tay của Tnú nhanh chóng thành mười ngọn đuốc sống. Kì lạ thay, người Cộng Sản ấy không hề kêu van, dù “răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Đúng rồi, Tnú không thèm kêu van nhưng Tnú đã thét lên một tiếng “Giết”. Tiếng thét ấy làm rung chuyển núi rừng, làm lay động tâm can con người. Và cộng hưởng cùng tiếng thét ấy là tiếng chân người chạy rầm rập trên nhà Ưng, tiếng cụ Mết ồ ồ “Chém! Chém hết, Giết, giết hết!”, Tiếng thét ấy trở thành ngòi nổ làm bùng cháy cả khối thuốc nổ căm hờn của dân làng Xôman. Trong phút chốc họ đã chứng kiến cảnh : “xác 10 tên giặc nằm ngổn ngang quanh đống lửa.”
Cuộc đời bi tráng của Tnú đã làm sáng tỏ một chân lý giản dị mà sâu xa của cuộc sống được cụ Mết truyền dạy cho con cháu: “sau này, tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cấm giáo”. Đó là chân lý của Cách mạng được nảy sinh từ mảnh đất Tây Nguyên thấm máu và nước mắt. Đó là một chân lý thật nghiệt ngã nhưng tất yếu: Phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu tự giải phóng của nhân dân. Câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biều cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.
Đến với “những đứa con trong gia đình”, Nguyễn Thi cũng đã khắc học rất thành công vẻ đẹp anh hùng cách mạng sáng ngời của nhân vật Việt. đó là một cậu con trai mới lớn, hồn nhiên, vô tư luôn tranh giành với chị ngay cả trong cuộc sống bình thường lẫn khi đi đánh giặc. đêm trước ngày đi bộ đội trong khi Chiến bàn bạc chuyện gia đình và nói với em những lời trang nghiêm thì Việt lúc “ lăn kềnh ra ván cười khì khì” lúc lại rình “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay” và cuối cùng “ngủ quên lúc nào không biết”.
Nhưng có lẽ đẹp đẽ hơn cả ở Việt-làm nên vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng chính là tinh thần chiến đấu quả cảm , kiên cường. Việt không chỉ là một con người giàu lòng yêu thương mà còn là một chiến sĩ giải phóng quân dũng cảm, mang trong mình dòng máu gia truyền của những con người gan góc không bao giờ khuất phục trước sự tàn bạo. Việt đã chiến đấu bằng tất cả sức mạnh lần thể chất tinh thần, bằng ý chí bất khuất thừa hưởng từ một gia đình cách mạng. Ông nội , chú Năm, ba Việt đều tham gia kháng chiến. Cha bị chặt đầu, mẹ bị trúng pháo của giặc .. những hình ảnh đó mãi in sâu trong tâm trí Việt. chính mối thù nhà là động lực thúc đẩy hai chị em việt anh dũng chiến đấu.
Giữa trận đánh, Việt bị thương nặng. mất liên lạc với đồng đội, trơ trọi một thân, đói khát, mình đầy thương tích, Việt vẫn can đảm chịu đựng. dù lúc tỉnh lúc mê, Việt vẫn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu mỗi khi choàng dậy “ Việt day họng sung về hướng đó “ nếu mày đổ quân thì sung tao còn đạn” Việt ngầm bảo bọn địch khi nghe tiếng xe bọc thép của chúng chạy mỗi lúc một gần. Cuối cùng khi đồng đội đã tìm được Việt dù kiệt sức, anh vẫn giữ được tư thế chiến đấu sinh tử với kẻ thù “một ngón tay của cậu vẫn còn nhúc nhích , một viên đạn đã lên nòng và chung quanh cậu dấu xe bọc thép còn nằm ngang dọc” hình ảnh đó đã cho ta thấy tính cách anh hùng của Việt một chàng trai yêu nước ,sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Một dáng vóc cao cả, phi thường, đáng khâm phục.
Có thể nói, xây dựng hình tượng nhân vật Tnú và Việt hai nhà văn đã thể hiện sự trân trọng sâu sắc trước những con người của dân tộc, vì dân tộc. Cùng được sáng tác trong kháng chiến chống Mĩ nên ở hai nhân vật đều có nhiều nét tương đồng trong vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng. Họ là những người con đã kế thừa xuất sắc truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc: Tnú là người con của làng Xô Man, nơi tất cả người dân đều hướng về cách mạng. Còn Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nứơc, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam Bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ. Họ đã phải chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc: Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay. Việt chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn giặc. Những đau thương đó đã hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Việt vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.
Không chỉ vậy ở họ còn mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm.Tnú từ nhỏ đã gan dạ, đi liên lạc bị giặc bắt được, tra tấn dã man vẫn không khai. Anh vượt ngục trở về, lại là người lãnh đạo thanh niên làng Xô Man chống giặc, bị đốt mười ngón tay vẫn không kêu rên trước mặt kẻ thù à Ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại chống Mĩ. Việt bị thương trong trận đánh lại lạc mất đơn vị, vẫn chắc tay súng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Đối với chị, Việt ngây thơ, nhỏ bé.,còn trước kẻ thù, Việt vụt lớn lên, chững chạc trong tư thế người anh hùng.
Có thể nói Tnú và Việt đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Tuy nhiên, không chỉ có những nét chung độc đáo vẻ đẹp anh hùng cách mạng ở nhân vật Tnú và Việt mà còn mang những nét riêng khác biệt. Việt là một con người được sinh ra và trưởng thành trên miền non nước Nam Bộ vì vậy ở anh có tính chất sôi nổi, bộc trực, trọng nghĩa. Còn Tnú lại hiện lên với hình ảnh “vóc dáng vạm vỡ” chứa trong đó cái mênh mang, hoang dại, trong sạch của núi rừng, ở Tnú nổi bật lên với vẻ đẹp của một con người Tây Nguyên huyền thoại, kỳ vĩ, đậm chất sử thi.
Như hai bản anh hùng ca thời đại đánh Mĩ, hai tác phẩm đã khắc sâu được cuộc chiến đấu của dân tộc chống lại kẻ thù xâm lược hết sức ác liệt và gay go. Qua đó tác giả cũng ngợi ca phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ, là những con người tiêu biểu cho cộng đồng về lí tưởng và phẩm chất, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu hi sinh. Với giọng văn ngợi ca, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn cách mạng, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời kỳ chống Mĩ, hai tác phẩm đều được tác giả làm hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước. Qua đó cũng thấy rằng, cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng như Tnú và Việt mãi mãi là bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo.
Ý nghĩa câu nói của Cụ Mết?
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Trung Thành bằng tài năng của mình đã để cho tư tưởng ấy hoá thân thành những hình tượng nghệ thuật sôi động bão hoà cảm xúc, tư tưởng ấy vì vậy không phải là thứ triết lí trừu tượng khô cứng không mang thứ màu xám của lí thuyết mà là thứ “cây đời mãi mãi xanh tươi”.
Tư tưởng ấy đã khái quát được quy luật đấu tranh cách mạng đồng thời khẳng định vai trò sức mạnh của vũ khí cũng như những phẩm chất tốt đẹp của con người. Đó là quy luật có áp bức có đấu tranh, phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực hung bạo của kẻ thù. Để đất nước được độc lập, cuộc sống nhân dân được ấm no thì không còn cách nào hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.
Được diễn đạt dưới hình thức giá trị mộc mạc của một già làng miền núi, triết lí ấy càng dễ thấm sâu vào tâm hồn của những người dân Xô Man, của các cộng đồng dân tộc trên các dải đất tự nhiên.
Phân tích nhân vật Tnú - một dũng sĩ phi thường của làng Xô Man thời kháng chiến chống Mĩ?
Câu trả lời của bạn
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là một kiệt tác văn chương thời chống Mĩ in đậm khuynh hướng sử thi hào hùng.
Trong thế trận chiến tranh nhân dân thần kì của làng Xô Man, nhân vật Tnú mang tầm vóc một dũng sĩ phi thường đã để lại trong lòng ta nhiều rung cảm và ngường mộ.
Có thể nói, nhân vật trung tâm cua truyện Rừng xà nu là Tnú. Trong nhà ưng, xung quanh bếp lửa hồng, một đêm mưa có mặt đông đủ lũ làng, cụ Mết đặt bàn tay chắc nịch lên vai Tnú giới thiệu: “… nó đi giải phóng quân đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm... Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng “bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Tnú vốn là một chú bé giàu cá tính. Ở trong rừng học chữ với anh Quyết, nó học không bằng Mai..., nó nổi nóng “đập bể cái bảng nứa...", bỏ ra ngồi ngoài suối suốt ngày, rồi nó cầm một hòn đá “tự đập vào đầu. cháy máu ròng ròng ". Chữ thì Tnú hay quên, nhưng đi rừng, đi đường núi thì “đầu nó sáng lạ lùng". Giặc vây ráp, phục kích, Tnú trèo lên cây cao nhìn khắp mọi phía, “xẻ rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây”. Vượt sông vượt suối, Tnú lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, nó “cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”, và Tnú biết, “qua chỗ nước êm thẳng Mĩ - Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ!”. Khi chẳng may sa vào tay giặc, họng súng của thằng giặc phục kích “chĩa vào tai lạnh ngắt”, Tnú đã nhanh trí “nuốt luôn cái thư” của anh Quyết gửi về huyện trong một ngọn lá dong. Lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của bọn giặc, nhưng Tnú vẫn bất khuất hiên ngang. Ba năm bị tù trong ngục Kon Tum. Tnú đã vượt ngục trở về. Tnú đã đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi dân làng Xô Man trước lúc anh tử thương. Anh Quyết đã dặn? “Tnú phải học chữ giỏi, thay tui làm cán bộ”. Lần thứ hai, Tnú lại lên núi Ngọc Linh, không phải đi lấy đá trắng về làm phân như ba năm trước, mà là đi lấy một gùi đá mài. Làng Xô Man đã chuẩn bị khởi nghĩa: phát rẫy trồng pom-chu xanh cả núi rừng, đêm đêm cả làng thức, mài giáo mác. Tnú đã trở thành chỉ huy đội du kích, làm cho thằng Dục ác ôn lồng lên, gầm lên. “Con cọp đó không giết sớm, nó làm loạn rừng núi này rồi!”. Vợ con anh đã bị giặc bắt, tra tấn dã man cho đến chết. Tnú cùng đội du kích rút vào trong rừng, anh đã nghiến răng ‘bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”. Đôi mắt của anh trở thành “hai cục máu lớn”. Thương xót và căm thù tột độ, Tnú không kìm nổi lòng mình nữa, với hai bàn tay không, anh đã nhảy xổ vào lũ giặc mong cứu được vợ con. Tnú là một con người gang thép. Lũ giặc đã trói anh bằng dây rừng, dùng giẻ tẩm nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay Tnú. Ngọn lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu mặn chát ở đầu lưỡi “cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi? Cháy, không, Tnú sẽ không kêu? Không?”. Ngọn lửa xà nu và độ nóng của nó đã soi sáng lòng trung thành vô hạn, đã tôi luyện khí phách lẫm liệt cùa Tnú lên tầm vóc phi thường vĩ đại? Khi Tnú thét lên một tiếng dữ dội cũng là lúc tiếng chân “rầm rập” quanh nhà ưng, nhiều tiếng thét dữ dội hơn... Nhà ưng ào ào chuyển động. Tiếng hô của cụ Mết vang lên “Chém! Chém hết!". Và lửa đã cháy khắp rừng...
Mẹ con Mai đã bị giặc giết. Lưng Tnú đầy vết dao của giặc chém. Mười ngón tay của anh, ngón nào cũng bị thằng Dục đốt ,cháy mất một đốt. Bà Nhan, anh Xút, anh Quyết.. nhừng người thân yêu của anh đã bị giặc giết, vết thương lành, Tnú đi tìm cách mạng, đi Giải phóng quân để tìm diệt những thằng Dục ác ôn, đứa thì ờ trong đốn, đứa thì ngoan cố chui xuống hầm ngầm.
Tnú còn có một tâm hồn đẹp, chất phác, trong sáng. Tâm hồn anh vẫn ôm ấp hình bóng quê hương. Sau ba năm đi Giải phóng quân đánh giặc về thăm làng một đêm, cái gốc cây bên đường gợi lên trong lòng anh một kỉ niệm về Mai, “kỉ niệm đó cắt vào lòng anh một nhát dao nửa”. Tnú yêu làng, yêu những hố chông, những giàn thò sắc lạnh cùa làng anh, yêu con nước mát lạnh... Anh nhớ nhất làng, nhớ day dứt lòng anh suốt, ba năm chính là “tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai cùa Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe thấy tiếng chày ấy rồi.. ”.
Tnú mang tầm vóc như một dũng sĩ trong sử thi. Lòng trung thành, khí phách anh hung, tinh thần lẫm liệt bất khuất của Tnu làm chúng ta ngưỡng mộ; tâm hồn chất phác, trong sang, thủy chung của anh đã làm cho chúng ta xúc động, yêu thương, Nguyễn Trung Thành xây dựng nhân vật Tnu bằng tất cả sự chắt lọc tâm hồn, tưởng như ông không viết, ông không tả… mà hình như, ông là một nghệ sĩ đúc tượng Tnú, một anh hùng thời đại bằng một chất liệu siêu kim loại !...
Rừng xà nu là một truyện ngắn thấm đấm màu sắc sử thi , huyền thoại. Hình thức kể chuyện qua nhân vật cụ Mết già làng gợi lên không khí thiêng liêng cổ truyền. Mái nhà ưng là nơi tụ hội của dân làng Xô Man, cũng là nơi để họ trừng trị lũ ác ôn khát máu, lũ tay sai Mĩ – Diệm. Rừng động, lửa cháy, tiếng cồng âm vang, đại bác giặc, cây xà nu đổ ào ào như một trận bão, tiếng mài giáo mác… Tất cả thật hào hung, bi tráng. Rừng xà nu đã nêu cao một nhân lí cách mạng: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy. Sau này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm sung, mình phải cầm giáo!”. Qua chủ đề ấy, cây xà nu, Tnú là những người dân làng Xô Man hiện lên mang tầm vóc dung sĩ, tiêu biểu cho chủ nghĩn anh hung trong thời đại Hồ Chí Minh.
Tính sử thi của tác phẩm Rừng xà nu.
Câu trả lời của bạn
Để dẫn ra một tác phẩm tiêu biểu có thể minh hoạ cho sự tồn tại của “nền văn học sử thi” trong văn học Việt Nam 1945 – 1975, tưởng không có tác phẩm nào tiêu biểu hơn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Quả đây là một truyện ngắn mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn (thực ra, với các tác phẩm thuộc loại này, chỉ nói đến tính sử thi là đủ, bởi cảm hứng lãng mạn đã trở thành một phần tất yếu của nó).
Tính sử thi của Rừng xà nu được biểu lộ trước hết ở những sự kiện có tính chất toàn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô man hoàn toàn không có ý nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Tình thế bị o ép của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc sống đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ – Diệm thi hành luật 10-59, khủng bố dữ dội những người yêu nước, những người kháng chiến cũ. Khi làng Xô Man đứng dậy thì gương mặt của làng lúc này lại chính là gương mặt của cả nước trong những ngày quyết tâm đánh Mĩ và thắng Mĩ – một gương mặt rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh đón nhận những thử thách mới.
Biểu hiện thứ hai của tính sử thi trong Rừng xà nu là truyện ngắn đã xây dựng thành công hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể tới trong đó đều có tính đại diện cao, mang trong mình hình ảnh của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong Rừng xà nu là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng trong cuộc đời chung. Tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản : gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng. Chiến công của mỗi người tuy đa dạng mà thống nhất. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên không phải do riêng một người mà do tất cả mọi người viết ra. Bản trường ca của núi rừng không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hoà của nhiều giọng. Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng là những nhân vật tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ còn có bao người khác nữa cũng không chịu sống mờ nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập công, đều muốn góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Dĩ nhiên, hình tượng văn học nào cũng là sự thống nhất giữa cái cá biệt và cái phổ quát, nhưng ở Rừng xà nu, cảm hứng hướng về cái chung đã mang tính chất chi phối.
Biểu hiện thứ ba của tính sử thi ở truyện ngắn Rừng xà nu là nó đã miêu tả các sự kiện, các nhân vật anh hùng từ một cái nhìn chiêm ngưỡng, khâm phục. Các chi tiết đời thường ít được nhắc tới. Nhà văn chỉ tâm đắc với những chi tiết nào có khả năng làm phát lộ được phẩm chất anh hùng của nhân vật. Tả cụ Mết, nhà văn chú ý tới giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực” của cụ. Tưởng như trong tiếng cụ nói có âm vang của tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng của núi rừng, của lịch sử. Và quả thật, cụ là hình ảnh tượng trưng của truyền thống vững bền. Mỗi lời cụ thốt ra kết tinh trải nghiệm của cả một dân tộc. Nó cô đúc, sâu sắc, vang vọng như những chân lí. Chả thế mà cả làng Xô Man nghe như uống từng lời cụ nói và cả rừng xà nu cũng “ào ào rung động” như một sự hoà điệu, một sự tạo nền. Ngay cuộc đời của Tnú, một cuộc đời trải ra trong chính thời hiện tại cũng đã được lịch sử hoá và nhuốm màu huyền thoại. Đêm đêm bên bếp lửa nhà ưng, cụ Mết đã kể chuyện anh cho lũ làng, cho thế hệ con cháu nghe. Anh đã trở thành niềm tự hào của làng, là một biểu tượng sống động của người anh hùng được tất cả ngưỡng vọng, học tập.
Tính sử thi của Rừng xà nu còn thể hiện ở giọng văn tha thiết, trang trọng mà tác giả đã sử dụng khi kể về sự tích của làng Xô Man. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm giác say sưa. Ta bị cuốn theo câu chuyện không gì cưỡng nổi, tưởng mình đang được tắm trên một dòng sông mênh mang, tràn trề sinh lực, hoặc tưởng mình đang bị thôi miên bởi một bản nhạc giao hưởng hùng tráng.
Phân tích nhân vật Tnú để làm rõ hình tượng người anh hùng cách mạng?
Câu trả lời của bạn
Cuộc sống thành một vòng luân hồi với thói quen được lặp đi lặp lại, và với cánh rừng xà nu này, tiếng đaị bác, mảnh đạn văng, khói thuốc súng sọc vào mũi, những tiếng kêu thé trong đau đớn, những tiếng gầm trong oán hận hay sự im lặng sau tất cả, giờ đã trở nên quen thuộc. Con người rồi sẽ dần thích nghi, mà lẹ hơn đó là thiên nhiên. Rừng xà nu thay da đổi thịt nhanh hơn bao giờ hết, không phải vì chu kì thiên nhiên thay đổi mà là kia, tiếng máy bay gầm rú, những nòng pháo đỏ hỏn ngun ngút khói; đó mới chính là nguyên nhân cho sắc xanh mới mỗi ngày của khu rừng này. Và quyện lấy nhau, con người hòa cuộc đời mình vào những mảng xanh đó, dân làng Xô man đã ở đây, nhúng máu thịt mình vào đất đen mun của rừng.
Tnú xa làng đã lâu. Hãy nói lâu theo nghĩa của tinh thần, hãy nói lâu theo tình cảm của đứa con xa vòng tay cha mẹ, hãy nói lâu theo nổi đau chia lìa mãi của lứa đôi và hãy nói lâu theo thang bậc đau đớn nhất của người sống với một nửa cuộc đời bị tàn phá. Thời gian trôi, con người vốn mượn nó để phũ lên quá khứ, che đâỵ khi quá khứ bi thương, hay tăng thêm phần phấn khích cho quá khứ oai hùng, thì ở đây nơi Tnú, ta gặp lại tất cả.
Rồi cách mạng tìm đến anh, hay anh tìm đến cách mạng ? Cánh tay cầu cứu vùng vẫy ra hay cánh tay cứu cánh chụp lấy ? Hay đó là duyên nợ đau đớn cho cả hai cá thể ấy tìm thấy nhau ? Chiến tranh là nợ để duyên kia kết thành. Hãy nhìn vào bản thân rồi nhìn vào Tnú, có ai muốn mình trở thành anh hùng ? Chúng ta đau, chúng ta khổ, chúng ta chết, nhưng đó là bản thân chúng ta, chúng ta chịu được. Nhưng người yêu thương, xóm làng đó, từng mái nhà, bậc thang, từng tiếng chày, tiếng suối; quen thuộc đến nằm lòng, để rồi bặt im lặng, biến mất đi trong ngỡ ngàng; những điều ấy ai chịu được ?
Hãy nói lên sự khác nhau ? Không. Hãy nói lên sự tương đồng ? Nhiều. Cùng một tình yêu, cùng một dòng máu; hãy bỏ qua khác biệt tuổi tác và giới tính, hãy nghĩ đến cái chung; họ thấm nhuần cách mạng và một khi đã là đồng chí, chúng ta đã là một. Cụ Mết sừng sững giữa đêm, như hồn thiêng núi rừng, cụ dạy bảo những mầm non kia, vạch rõ con đường cho những ai chập chững và nới rộng niềm tin cho những ai đang bước trên con đường đó.
Hãy nhìn họ từ xa, xa thêm nữa để rồi thấy họ chỉ như một vòng tròn quanh lửa đỏ, họ là một, một vòng tròn đầy đặng như niềm tin tuyệt đối không lung chuyển của cả một thế hệ cho cách mạng. Cách mạng là lửa, sưởi ấm lòng con trẻ qua những khoảng đen của lịch sử.
Giọng cụ Mết vẫn vang lên, rung động quá khứ, cộng hưởng cả vào hiện tại và tương lai. Thế nào là anh hùng cách mạng ? Hãy nhìn vào họ, từng ánh mắt như bị hút sâu vào dòng tư tưởng của cụ Mết, hãy nhìn kĩ họ, từng độ tuổi, từng màu tóc có khác nhưng tất cả họ xứng là là anh hùng cả. Một đứa trẻ vót chông miệt mài hay băng suối băng rừng với đôi chân nhỏ thì khác gì với người trưởng thành xông pha nơi trận mạc ? Cụ Hồ từng nói : người lớn làm việc lớn, người nhỏ làm việc nhỏ. Vị tất thảy là bảo vệ cho cái mình yêu thương, bảo vệ cho niềm tin, hạnh phúc và bất cứ lúc nào cần thiết, họ phó mặt tính mạng, điều đó chẳng phải cao quí lắm sao ?
Tnú đi “lực lượng”, rồi sẽ có nhiều bước chân theo bước chân mở đường đó. Họ đi vì họ học từ quá khứ, không để quá muộn để rồi tận mắt nhìn vợ con mình chết, không để quá muộn để bị đàn áp đến đường cùng. Họ đi vì họ biết nhìn về tương lai, sau đường chân trời xa tít tắp của các tán xà nu đủ sắc xanh ấy, mặt trời vẫn mọc lên một màu đỏ chót. Họ thấy đó như máu trong tim vẫn đều đặng dồn khắp cơ thể, họ thấy đó như niềm tin bất diệt vào con đường họ chọn. Chỉ có cách mạng, như một thực thể sống, cùng sống cùng chết với vận mệnh quốc gia. Ngã xuống hay đứng lên, bước tiếp hay mãi yên nghỉ, tất cả họ đều là anh hùng.
Lịch sử nhớ họ, sẽ có rất nhiều sẽ hi sinh, nhưng một nước Việt tự do độc lập sẽ là minh chứng hùng hồn cho sự hi sinh to lớn đó, hãy nhớ đến họ, để rồi mỗi khi nhắc đến chúng ta chỉ đơn giản gọi : những anh hùng.
Ý nghĩa đôi bàn tay Tnú khi bị thằng Dục tẩm nhựa xà nu đốt?
Câu trả lời của bạn
Chất sử thi trong truyện ngắn Rừng xà nu?
Câu trả lời của bạn
Rừng xà nu được viết ra vào giữa năm 1965, trong những ngày bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ của Mĩ ở miền Nam nước ta. “Đó là những ngày sôi sục, nghiêm trang, nghiêm trọng, lo lắng, quyết liệt, hào hứng, hào hùng: dân tộc ta bước vào cuộc chạm trán mất còn trực tiếp với đế quốc Mĩ”.
Tuy kể về những sự kiện xảy ra trước đó mấy năm nhưng truyện ngắn này đã tiếp được hơi thở hào hùng của thời hiện tại, và hiện thực được mô tả mang đậm ý nghĩa phổ quát. Chuyện làng Xô Man trở thành chuyện của cả “Đất nước đứng lên” trong cuộc đối đầu lịch sử.
Hình tượng lớn lao bao trùm toàn bộ tác phẩm là hình tượng những cây xà nu. Chính nó đã đem lại cho tác phẩm sức khái quát lớn cũng như sự sinh động, chân thực như cuộc đời. Và trước hết nó khơi lên nguồn cảm hứng dạt dào ở người viết, trở thành điểm tựa điểm gợi tứ để nhà văn suy ngẫm về mạch sống của đất nước và sức sống của nhân dân. Không phải ngẫu nhiên mà có một câu văn được lặp lại gần y nguyên đến hai lần ở phần đầu và phần kết thúc của tác phẩm: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân trời”. Đấy là một điệp khúc trầm hùng làm nền cho toàn bộ câu chuyện. Tác giả chưa bao giờ để gián đoạn mạch kể về rừng xà nu. Cây xà nu khi thì tách ra, khi thì hòa nhập với con người. Tả cây xà nu tác giả ưa dùng thủ pháp nhân hóa, còn khi là con người ông lại thường xuyên liên hệ, so sánh với cây xà nu. “Xà nu”, “xà nu” – tác phẩm trùng trùng điệp điệp với những “xà nu” và đó chính là điểm khá cơ bản quy định chất thơ hào hùng của nó (thơ, như có người nhận xét, là một kết cấu trùng điệp đầy âm vang).
Hãy trở lại với đoạn mở đầu của truyện ngắn. Nhà văn đã đem hết bút lực của mình ra để tả một khu rừng xà nu. Đấy không phải là một khu rừng xà nu chung chung mà là khu rừng xát cạnh làng Xô Man, kế bên con nước lớn (nguồn sống của con người) và lọt trong tầm đại bác của đồn giặc. Ngay từ đầu ta đã thấy rừng xà nu phải đối diện với những thử thách ác liệt, dữ dội. Thương tích là không thể tránh khỏi: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ngang như một trận bão”. Nhưng sức sống mãnh liệt của cây xà nu mới là điều tác giả muốn nhấn mạnh: “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nẩy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Chúng khỏe vì chúng tha thiết với mặt trời: “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tấp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”. Thật là một đoạn miêu tả sống động, giàu chất tạo hình nhưng không chỉ có ý nghĩa tả thực. Rừng xà nu, đấy chính là một ẩn dụ về con người: con người đau khổ, con người bất khuất, con người khát khao tự do, con người của truyền thống anh hùng lớp trước lớp sau liên tục đứng lên bảo vệ phẩm giá của mình … Thêm nữa, rừng xà nu ở đây còn là một hình tượng tượng trưng, một biểu tượng cho con người Tây Nguyên, cho cả một dân tộc hiệp sĩ : “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Trong hành động ưỡn tấm ngực lớn chứa đựng biết bao nhiêu là kiêu hãnh, nó biểu thị một phẩm chất phóng khoáng, hào hiệp và là một hành động tự nguyện do xác định được đúng vị trí đứng đầu bão táp của mình. Để diễn tả một nội dung phong phú như vậy qua hình tượng cây xà nu, tác giả đã sử dụng một giọng văn thiết tha pha chút cường điệu. Nhiều lúc như không nén nổi những xúc động đang tràn ngập vì yêu thương, vì yêu thương và cả kính trọng nữa, nhà văn đã thốt lên những lời nhận xét trực tiếp, để lộ cái tôi của mình “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nẩy nở khoẻ như vậy”, “Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế”. Hàng loạt động từ, trạng từ gây cảm giác mạnh được huy động cho mục đích miêu tả: ào ào, ứa, tràn trề, ngào ngạt, long lanh, gay gắt, bầm, ngã gục, lao thẳng, phóng, vượt, ưỡn .v.v. Đặc biệt, tác giả đã sử dụng rất đắt cái nhìn của điện ảnh để cho sự vật hiện lên động và nét hơn. Ống kính của ông khi thì lùi ra xa để ghi lấy toàn cảnh rừng xà nu, khi lại rà sát, soi kỹ dáng vươn lên kiêu dũng của những cây xà nu con. Có lúc tác giả quay chếch ống kính để trước mắt ta, màn ảnh như chao đảo: một cảnh tượng tuyệt vời nên thơ, tráng lệ hiện ra: “ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp …”.
Mạch cảm xúc đã được khơi lên. Hướng đi của ngòi bút đã được hình dung. Điểm “neo” những ấn tượng và quan sát phong phú đã được xác định với một cái làng cụ thể. Từ đây toàn bộ câu chuyện cứ thế mà tuôn chảy và hiện rõ trước mắt người viết, người đọc mồn một từng chi tiết từng hình ảnh.
Chuyện làng Xô Man được bắt đầu từ thời điểm hiện tại: “Ba năm đi lực lượng bữa nay Tnú mới có dịp ghé về thăm làng. Thằng bé Heng gặp ở con nước lớn dẫn anh về” đấy là những lời kể cô đúc hé lộ một lịch sử và báo hiệu một đổi thay. Quả thực làng Xô Man đã đổi thay nhiều lắm so với ngày Tnú ra đi. Khắp núi rừng đâu cũng có cạm bẫy chờ sẵn “chờ đón” quân thù. Một lớp người mới trưởng thành đứng ra gánh vác công việc kháng chiến. Sinh hoạt trong một làn vui tươi và có quy củ. Tất cả toát lên một vẻ hồ hởi tự tin khiến cho Tnú không khỏi có chút ngỡ ngàng. Phải nói rằng sự lựa chọn thời điểm bắt đầu câu chuyện hết sức thích hợp. Tất cả phải từ hôm nay và cho hôm nay, cũng y như mục đích kể chuyện tại nhà Ưng của cụ Mết. Đó là sự chuẩn bị tinh thần để bước vào một thử thách to lớn mới. Những lời nhắc nhở trầm vang như tiếng chiêng, cồng của cụ Mết: “Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ …” cũng chính là lời nhắn gửi của độc giả, trước hết là độc giả của thời kỳ lịch sử ấy.
Ra đời trong một thời điểm hào hùng của lịch sử, lại kể về những sự việc có tầm vóc thời đại, giọng điệu trần thuật có màu sắc anh hùng ca đã được sử dụng rất đắc địa. Lời kể của tác giả đã hoà lẫn với lời kể của cụ Mết và dòng hồi tưởng của Tnú một cách hết sức tự nhiên. Cái bi tráng của một giai đoạn cách mạng cùng khí thế chiến đấu bừng bừng của buôn làng Tây Nguyên ngày nổi dậy đã được tái hiện với đúng “chất” của nó. Trên dài đất cao nguyên hùng vĩ này từng có người dân sống nghẹt thở dưới ách áp bức, khủng bố bạo tàn của Mĩ Diệm.
Khắp nơi đều có dấu vết tội ác của chúng. Thiên nhiên bị tàn phá. Nhân dân bị chém giết. Chúng “đi trong rừng xà nu như con beo” với những “lưỡi lê dính máu”. Quả là chúng đang làm chủ cả núi rừng, nhưng là cách làm chủ của beo sói. Khi kể chuyện Tnú hồi nhỏ đi liên lạc bị giặc bắt, có đến ba lần tác giả nói đến vết dao trên lưng em. Đó là một chi tiết nghệ thuật tiêu biểu tố cáo tội ác man rợ của kẻ thù. Ngay tấm lưng nhỏ bé, non trẻ “rộng chưa bằng bề ngang của cái xà lét mẹ để lại” dường như sinh ra để cha mẹ vuốt ve cũng phải hứng chịu những sự vùi dập tàn bạo, phũ phàng nhất. Ở một đoạn khác, khi nói đến tình thế bị o ép dữ dội của dân làng Xô Man trước ngày khởi nghĩa, tác giả đã có dụng ý mô tả môt loạt âm thanh kinh khủng, đó là tiếng cười sằng sặc, giần giật của thằng Dục ác ôn, tiếng roi vun vút, tiếng gậy sắt nện hừ hự xuống thân người …
Nhưng sự việc đã diễn ra theo đúng quy luật có áp bức có đấu tranh, và một chân lí cách mạng dần dần được làm sáng tỏ: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Rừng xà nu không chỉ chuyện làng Xô Man trong đau thương mà chủ yếu là chuyện làng Xô Man đứng dậy. Tác giả đã rất thành công khi xây dựng chân dung một tập thể anh hùng. Họ gồm những cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng … mỗi người mỗi vẻ nhưng đều giống nhau ở sự gan góc, ở lòng trung thành với cách mạng. Sự gan góc, trung thành ấy không biểu hiện ồn ào. Nó ít lời mà dồn nén biết bao dữ dội. Tnú bị bắt, cụ Mết chỉ nói: “Tnú đừng làm xấu hổ làng Xô Man”. Tnú trả lời bằng bằng một cái nhìn. Giặc cởi trói cho Tnú để em chỉ chỗ người cộng sản, Tnú để bàn tay lên bụng mình nói “Ở đây này”. Rồi đôi mắt của Mai, cái nhìn của Dít .. rõ ràng đó là cái im lặng của những người đã chịu nhiều đau khổ, cái im lặng đầy sức mạnh, đầy đe dọa với quân thù, nó báo trước sự bùng nổ ghê gớm của lòng căm giận. Trong tác phẩm còn có một đoạn rất đáng chú ý khác nói về sự dũng cảm của Dít trước quân ác thú. Có thể nói trong khoảnh khắc, Dít đã lớn rất nhiều, thoạt đầu Dít khóc thét lên khi bị chúng bắn dọa. Nhưng đến viên đạn thứ mười, Dít đã chùi nước mắt, bình thản nhìn về bọn giặc. Đây là một chi tiết giàu tính tượng trưng. Không thể nói sự thay đổi đó của Dít như nói về một sự trấn tĩnh bình thường. Trong tình thế khó khăn con người phải tự lớn vượt lên mau chóng nếu không sẽ bị đè bẹp. Dềnh dàng là chết. Điều đó đúng với cả làng Xô Man, cả Tây Nguyên và cả cách mạng miền Nam ngày ấy.
Trong nhiều nguyên nhân tạo nên sức quật khởi của làng Xô Man mà tác giả có ý thức nêu lên, nguyên nhân thuộc về truyền thống lịch sử đã được biểu hiện qua một hình tượng sinh động: cụ Mết. Đúng là tác giả viết trong một bài hồi ức: “Ông là cội nguồn. Là Tây Nguyên của thời Đất nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử bao trùm, nhưng không che lấp sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn sành sỏi và tự giác hơn của thế hệ sau”. Để tả cụ Mết tác giả thường mượn những đặc tính của cây xà nu làm đối tượng so sánh: ngực cụ “căng như một cây xà nu lớn”, còn bàn tay “nặng như sắt” của cụ thì “sần sùi như vỏ cây xà nu” tiếng nói của cụ cũng thật đặc biệt: “nặng trịch”, “ồ ồ” “dội vang trong lồng ngực” tưởng như tiếng âm vọng của núi rừng. Đúng là không thể hình dung nổi cuộc sống chiến đấu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên mà lại thiếu hình ảnh cụ Mết. Riêng đối với phương diện hình thức nghệ thuật của tác phẩm, hình ảnh đó tạo nên màu sắc Tây Nguyên đậm đà trên từng trang viết và tạo những điểm nhấn góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề, những điểm nhấn gắn liền với các câu nói mang ý nghĩa tông kết, giáo dục và kêu gọi của cụ: “Nghe rõ chưa, các con rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bây còn sống phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo! …” có thể nói thêm: nếu thiếu hình ảnh cụ Mết, tác phẩm sẽ thiếu đi một cơ sở quan trọng để sử dụng cái giọng trầm hùng vang vọng rất sử thi như nó đã có.
Nhiều đêm bên bếp lửa trong nhà ưng, cụ Mết đã kể cho con cháu nghe chuyện về anh Tnú. Đó là câu chuyện của thời hiện tại nhưng đã được lịch sử hoá bởi nó quá tiêu biểu cho hành trình số phận của các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mĩ. Cuộc đời của Tnú đã trải qua biết bao thử thách khốc liệt ngay từ thuở còn thơ. Chính những thử thách ấy đã hun đúc nên một con người mang nhiều phẩm chất tốt đẹp: gan dạ, trung thưc, một lòng một dạ gắn bó với cách mạng. Khi lớn lên, hạnh phúc riêng vừa đánh chết ngay trước mắt anh mà anh không làm gì được. Bản thân anh bị giặc bắt và bị chúng đốt cụt mười đầu ngón tay. Từ nỗi đau thương và căm thù đó, anh tham gia lực lượng quân giải phóng góp phần bảo vệ quê hương, trở thành niềm tự hào của buôn làng, thánh tấm gương cho cụ Mết dùng để giáo dục thế hệ sau. Khắc hoạ nhân vật Tnú, tác giả rất chú ý miêu tả hai bàn tay của anh – hai bàn tay biết kể với chúng ta về số phận một con người. Nhìn chung, với nhân vật Tnú cũng như với hầu hết các nhân vật khác, tác giả thường nhắc đi nhắc lại một đặc điểm nỗi bật nào đó của họ. Phải chăng ở đây có dấu vết của cách giới thiệu nhân vật trong sử thi? Dù sao đây cũng là một trong những đặc điểm hình thức khá nổi bật của truyện ngắn này.
Rừng xà nu là trải nghiệm một đời văn, một đời chiến sĩ được nhốt chặt trong một khuôn khổ hẹp. Niềm xúc động thiêng liêng về hình ảnh kì vĩ của tổ quốc giữa những ngày thử thách đã thôi thúc Nguyễn Trung Thành viết nên thiên truyện này. Đó là một tác phẩm rất cô đọng nhưng cũng hết sức bay bổng, gợi nên những cảm xúc vừa trầm lắng vừa say mê. Một tác phẩm xuất sắc khá xứng tầm với thời đại đánh Mĩ oanh liệt, hào hùng.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *