Bài học giúp các em nắm được một cách hệ thống và biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo những kiến thức cơ bản về văn học Việt Nam và văn học nước ngoài đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 12 học kì 1.
Để nắm vững kiến thức phần văn học chương trình học kì 1 lớp 12, các em có thể tham khảo thêm bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:
"Mới đây, các giáo sư tâm lí học ở Trường Đại học York và Toronto (Canada) đã tìm ra những bằng chứng để chứng mình rằng: Đọc sách văn học thực sự giúp con người trở nên thông minh và tốt tính hơn.
Những nghiên cứu của các giáo sư đã cho thấy những người thường xuyên đọc sách văn học thường có khả năng thấu hiểu, cảm thông và nhìn nhận sự việc từ nhiều góc độ. Ngược lại, những cá nhân có khả năng thấu cảm tốt cũng thường lựa chọn sách văn học để đọc.
Sau khi đã tìm thấy mối liên hệ hai chiều ở đối tượng độc giả là người lớn, các nhà nghiên cứu tiếp tục tiến hành với trẻ nhỏ và nhận thấy những điều thú vị, rằng những trẻ được đọc nhiều sách truyện thường có cách ứng xử ôn hoà, thân thiện hơn, thậm chí trở thành đứa trẻ được yêu mến nhất trong nhóm bạn.
Đọc một "nội dung sâu sắc" khác với cách đọc "mì ăn liền" của chúng ta khi lướt qua các trang mạng. Hiện tại, việc thực sự đọc, chìm lắng vào một nội dung văn học là việc ngày càng hiếm thấy trong đời sống đương đại.
Theo các nhà tâm lí học, việc chú tâm đọc một nội dung sâu sắc có tầm quan trọng đối với mỗi cá nhân giống như việc người ta cần bảo tồn những công trình lịch sử hay những tác phẩm nghệ thuật quý giá. Việc thiếu đi thói quen đọc nghiêm túc sẽ gây ảnh hưởng tới sự phát triển trí tuệ và cảm xúc của những thế hệ "sống trên mạng".
(Trích Đọc sách văn học giúp chúng ta thông minh hơn?
Theo http:/www dantricom.vn)
1. phong cách ngôn ngữ?
2.ghi lại câu nêu khái quát của đoạn
3.ý kiến của em :"Theo các nhà tâm lí học, việc chú tâm đọc một nội dung sâu sắc có tầm quan trọng đối với mỗi cá nhân giống như việc người ta cần bảo tồn những công trình lịch sử hay những tác phẩm nghệ thuật quý giá"
4. rút ra 2 thông điệp cho bản thân
Câu trả lời của bạn
1. Phong các ngôn ngữ báo chí 2. Đọc sách văn học thực sự khiến con người trở nên thông minh, tốt tính hơn. 3. Nhận định trên hoàn toàn đúng. Bởi đọc sách có nội dung sâu sắc khiến ta dành nhiều thời gian nghiền ngẫm một nội dung vấn đề nào đó. Khi vấn đề được nghiền ngẫm cũng đồng nghĩa với việc bạn rút ra được bài học nào đó từ cuốn sách. Điều này khác hẳn với việc đọc những bài báo ngắn, những mẩu tin, có thể việc đọc đó cung cấp cho người đọc cung cấp thông tin hữu ích tạm thời nhưng nó sẽ chỉ lướt qua đầu họ, khiến họ thụ động hoặc tiếp nhận thông tin mà không có sự phản tư. Điều này nguy hại và dễ nảy sinh tư duy "mì ăn liền", tâm lí nóng vội, chỉ muốn có ngay kết quả hiện ra trước mắt mà không muốn hoặc không cần trải nghiệm cả một quá trình suy tư, chiêm nghiệm về vấn đề. 4. Thông điệp cho bản thân: - Sống chậm lại, nghĩ khác đi, yêu thương nhiều hơn. - Hình thành và rèn luyện thói quen đọc sách truyện (văn học) và suy nghiệm về vấn đề đặt ra trong tác phẩm
1. Phong các ngôn ngữ báo chí
2. Đọc sách văn học thực sự khiến con người trở nên thông minh, tốt tính hơn.
3. Nhận định trên hoàn toàn đúng. Bởi đọc sách có nội dung sâu sắc khiến ta dành nhiều thời gian nghiền ngẫm một nội dung vấn đề nào đó. Khi vấn đề được nghiền ngẫm cũng đồng nghĩa với việc bạn rút ra được bài học nào đó từ cuốn sách. Điều này khác hẳn với việc đọc những bài báo ngắn, những mẩu tin, có thể việc đọc đó cung cấp cho người đọc cung cấp thông tin hữu ích tạm thời nhưng nó sẽ chỉ lướt qua đầu họ, khiến họ thụ động hoặc tiếp nhận thông tin mà không có sự phản tư. Điều này nguy hại và dễ nảy sinh tư duy "mì ăn liền", tâm lí nóng vội, chỉ muốn có ngay kết quả hiện ra trước mắt mà không muốn hoặc không cần trải nghiệm cả một quá trình suy tư, chiêm nghiệm về vấn đề.
4. Thông điệp cho bản thân: - Sống chậm lại, nghĩ khác đi, yêu thương nhiều hơn. - Hình thành và rèn luyện thói quen đọc sách truyện (văn học) và suy nghiệm về vấn đề đặt ra trong tác phẩm
1. Phong các ngôn ngữ báo chí
1. Phong các ngôn ngữ báo chí
2. Đọc sách văn học thực sự khiến con người trở nên thông minh, tốt tính hơn.
3. Nhận định trên hoàn toàn đúng. Bởi đọc sách có nội dung sâu sắc khiến ta dành nhiều thời gian nghiền ngẫm một nội dung vấn đề nào đó. Khi vấn đề được nghiền ngẫm cũng đồng nghĩa với việc bạn rút ra được bài học nào đó từ cuốn sách. Điều này khác hẳn với việc đọc những bài báo ngắn, những mẩu tin, có thể việc đọc đó cung cấp cho người đọc cung cấp thông tin hữu ích tạm thời nhưng nó sẽ chỉ lướt qua đầu họ, khiến họ thụ động hoặc tiếp nhận thông tin mà không có sự phản tư. Điều này nguy hại và dễ nảy sinh tư duy "mì ăn liền", tâm lí nóng vội, chỉ muốn có ngay kết quả hiện ra trước mắt mà không muốn hoặc không cần trải nghiệm cả một quá trình suy tư, chiêm nghiệm về vấn đề.
4. Thông điệp cho bản thân: - Sống chậm lại, nghĩ khác đi, yêu thương nhiều hơn. - Hình thành và rèn luyện thói quen đọc sách truyện (văn học) và suy nghiệm về vấn đề đặt ra trong tác phẩm
1. Phong các ngôn ngữ báo chí
2. Đọc sách văn học thực sự khiến con người trở nên thông minh, tốt tính hơn.
3. Nhận định trên hoàn toàn đúng. Bởi đọc sách có nội dung sâu sắc khiến ta dành nhiều thời gian nghiền ngẫm một nội dung vấn đề nào đó. Khi vấn đề được nghiền ngẫm cũng đồng nghĩa với việc bạn rút ra được bài học nào đó từ cuốn sách. Điều này khác hẳn với việc đọc những bài báo ngắn, những mẩu tin, có thể việc đọc đó cung cấp cho người đọc cung cấp thông tin hữu ích tạm thời nhưng nó sẽ chỉ lướt qua đầu họ, khiến họ thụ động hoặc tiếp nhận thông tin mà không có sự phản tư. Điều này nguy hại và dễ nảy sinh tư duy "mì ăn liền", tâm lí nóng vội, chỉ muốn có ngay kết quả hiện ra trước mắt mà không muốn hoặc không cần trải nghiệm cả một quá trình suy tư, chiêm nghiệm về vấn đề.
4. Thông điệp cho bản thân:
- Sống chậm lại, nghĩ khác đi, yêu thương nhiều hơn.
- Hình thành và rèn luyện thói quen đọc sách truyện (văn học) và suy nghiệm về vấn đề đặt ra trong tác phẩm
Cho khổ thơ sau:
"Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cưới thiết tha."
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Nêu nội dung đoạn thơ và các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn. Nêu tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó.
Câu trả lời của bạn
1 Thể hiện niềm vui sướng hân hoan khi mùa thu cách mạng tháng 8/1945 thành công. 2 Biện pháp tu từ nhân hóa. Tác dụng: miêu tả sinh động, chân thực hình ảnh đất trời vào thu: sắc trời mùa thu trong xanh, gió thu lay động cành lá khiến lá cây xào xạc như tiếng reo vui, tiếng nói cười 3 - Cả đoạn thơ tập trung miêu tả hình ảnh đất nước. Qua đoạn thơ, hình ảnh đất nước hiện ra sinh động, chân thực, gần gũi. Đó là một đất nước tươi đẹp, rộng lớn, màu mỡ, phì nhiêu, tràn đầy sức sống. - Cảm xúc của nhà thơ yêu mến, tự hào về đất nước .
Nguyễn Đình Thi có câu thơ viết về mùa thu rất gợi:
"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới"
Có những câu thơ đẹp, giàu cá tính sáng tạo:
"Những dòng sông đỏ nặng phù sa"
Thơ Nguyễn Đình Thi có bản sắc riêng, có những tìm tòi về hình ảnh và ngôn ngữ, dạt dào về cảm xúc khi ông viết về đất nước trong chiến tranh:
"Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng".
Kết thúc bài thơ "Đất nước" là hình ảnh nước Việt Nam - Tổ quốc thân yêu - lẫm liệt và hiên ngang, quật khởi và kiêu hãnh trong tư thế hào hùng chiến đấu và chiến thắng:
"Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lóa".
Khổ thơ kết này được Nguyễn Đình Thi sử dụng rất sáng tạo thể thơ lục ngôn thể hiện cảm xúc như bị dồn nén lại, chất chứa trong lòng đất nước bấy nay. Giọng thơ bừng bừng vang lên như một khúc ca chiến trận. Đất nước đã trải qua những năm dài "đau thương chiến đấu", biết bao máu đổ xương rơi, bao hi sinh gian khổ "Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội - Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh", thì mới có cảnh tượng hào hùng này:
"Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ".
Cả đất nước đứng lên nổ súng tấn công quân xâm lược; tiếng súng nổ rung trời, quân thù bị giáng những đòn chí mạng. Trên những con đường chiến dịch, quân và dân ta ào ào ra trận, "người người lớp lớp" (Trần Dần), "đêm đêm rầm rập như đất rung" (Tố Hữu) vì thế trong tổng công kích, tổng phản công mới có cảnh tượng "súng nổ rung trời giận dữ" như vậy. Đất nước tiến công với sức mạnh của cả dân tộc. Hai tiếng "rung trời" cảm nhận thế đánh của đất nước mang tầm vóc kì vĩ vũ trụ. Đó là thế tiến công của quân dân ta trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ mới có sức mạnh thần kì ấy. Tiếng súng ấy còn chứa chất bao nỗi căm thù, giận dữ sôi sục. Giận dữ vì quân thù đã giày xéo đất nước ta, gây ra bao nhiêu tội ác tày trời: "Bát cơm chan đầy nước mắt",… "những cánh đồng quê chảy máu", và đã 9 năm trời đằng đẵng "Dây thép gai đâm nát trời chiều" quê hương đất nước ta. "Giận dữ" biến thành sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.
Câu thơ "Người lên như nước vỡ bờ" là một câu thơ hàm súc, khơi nguồn cảm hứng từ một thành ngữ - tục ngữ dân gian: "Tức nước vỡ bờ" rồi tạo nên một so sánh, để hình tượng hóa sức mạnh chiến đấu vô cùng mạnh mẽ và to lớn của nhân dân ta quyết đánh tan mọi kẻ thù, cuốn phăng mọi thế lực tàn ác trên con đường đất nước đi tới tương lai tươi sáng. Câu thơ nói ít mà gợi nhiều, thế và lực của đất nước dồn nén và tích tụ, bật lên và phóng tới như một mũi tên từ cánh cung thần của người anh hùng thần thoại. Sức mạnh của thời đại Hồ Chí Minh, của 9 năm kháng chiến chống Pháp của đất nước ta đã truyền cho ngòi bút Nguyễn Đình Thi niềm tin tưởng tự hào để viết nên những vần thơ hào sảng, cho ta nhiều liên tưởng và cảm xúc về sức mạnh quật khởi của đất nước anh hùng.Hai câu cuối như một tổng kết về hành trình lịch sử của đất nước. Có "rũ bùn" mới có "đứng dậy", từ "máu lửa" mới có cảnh tượng "sáng lòa". Câu thơ như một lời đúc kết về chiến tranh cách mạng, về một chân lí lịch sử của đất nước ta trong thời đại Hồ Chí Minh:
"Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn, đứng dậy sáng lòa".
Chữ "từ" trong câu thơ nói lên một quá trình, một sự thay đổi lớn lao của đất nước. Ba tiếng "Nước Việt Nam"cất lên, vang lên trong vần thơ biểu lộ niềm vui sướng tự hào vô hạn của tác giả. Mười sáu năm sau, trên chiến trường Trị Thiên giữa những ngày sôi sục đánh Mỹ, kết thúc bài thơ "Đất nước" - Chương V bản trường ca "Mặt đường khát vọng", nhà thơ trẻ Nguyễn Khoa Điềm, cũng có cảm hứng tự hào ấy đã gọi tên Đất Nước:
"Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa
Thì tin yêu ngay thẳng đón ta vào
Ta nghẹn ngào: Đất nước Việt Nam ơi!".
Từ "máu lửa" là từ những hi sinh, mất mát, đau thương. Nói như Chế Lan Viên thì "Mỗi trang sử đất này đều ngập máu cha ông" (Sao chiến thắng). Từ "máu lửa" là từ những năm dài kháng chiến "một gốc tre ba đời đánh giặc". "Từ máu lửa" là từ nô lệ lầm than mà nhân dân "rũ bùn đứng dậy" trong tư thế lẫm liệt chiến thắng vẻ vang: "sáng lòa".
Câu thơ từ nhịp 6 chuyển sang nhịp 2 diễn tả dáng đứng Việt Nam hào hùng:
"Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn / đứng dậy/ sáng lòa".
"Đứng dậy" – thể hiện sức mạnh quật khởi của đất nước, khát vọng tự do của nhân dân cầm vũ khí chiến đấu với quyết tâm "thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!" (Hồ Chí Minh). "Từ máu lửa" đến "rũ bùn đứng dậy" mới có cảnh tượng huy hoàng: "sáng lòa". Tứ thơ này được viết ra bằng cảm hứng lãng mạn nói về viễn cảnh của đất nước sau ngày đánh thắng quân xâm lược, bước vào một kỉ nguyên mới: độc lập, tự do, thịnh vượng. Câu thơ còn mang một hàm nghĩa lịch sử: cái giá của độc lập, tự do và niềm tự hào lớn lao về đất nước và kháng chiến.
Đoạn thơ trên mang đầy vẻ đẹp hàm súc về ngôn ngữ, vẻ đẹp tráng lệ về niềm tự hào đất nước, về kháng chiến. Ý thơ khái quát nâng lên tầm trí tuệ: khẳng định và ngợi ca sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đoạn thơ cho ta niềm tin về đất nước trên hành trình lịch sử: "Rũ bùn đứng dậy sáng lòa", để ta sung sướng, reo lên:
"Ta nghẹn ngào: Đất nước Việt Nam ơi!".
1 Thể hiện niềm vui sướng hân hoan khi mùa thu cách mạng tháng 8/1945 thành công.
2 Biện pháp tu từ nhân hóa. Tác dụng: miêu tả sinh động, chân thực hình ảnh đất trời vào thu: sắc trời mùa thu trong xanh, gió thu lay động cành lá khiến lá cây xào xạc như tiếng reo vui, tiếng nói cười
3 - Cả đoạn thơ tập trung miêu tả hình ảnh đất nước. Qua đoạn thơ, hình ảnh đất nước hiện ra sinh động, chân thực, gần gũi. Đó là một đất nước tươi đẹp, rộng lớn, màu mỡ, phì nhiêu, tràn đầy sức sống.
- Cảm xúc của nhà thơ yêu mến, tự hào về đất nước .
1. Thể hiện niềm vui sướng hân hoan khi mùa thu cách mạng tháng 8/1945 thành công Việt Bắc cái nôi của CM Việt nam được giải phóng .Thể thơ tự do
2. Biện pháp tu từ nhân hóa. Tác dụng: miêu tả sinh động, chân thực hình ảnh đất trời vào thu: sắc trời mùa thu trong xanh, gió thu lay động cành lá khiến lá cây xào xạc như tiếng reo vui, tiếng nói cười. Đó là một hình ảnh đất nước mới mẻ, tinh khôi, rộn rã sau ngày giải phóng.
3. Tác dụng của phép tu từ điệp ngữ: cụm từ “của chúng ta”, “chúng ta” được nhắc lại nhiều lần trong đoạn thơ nhằm khẳng định, nhấn mạnh quyền làm chủ đất nước của dân tộc ta.
Hãy chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ trong bài thơ :
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
(Chế Lan Viên - Tiếng hát con tàu)
Không chép mạng nha..... thanks nhé mai nộp rồi hihi
Câu trả lời của bạn
Qua đoạn thơ trích, người viết cần phải phân tích được những nét chính sau:
- Nêu rõ được cách sử dụng biện pháp so sánh ở mức độ cao, so sánh nhiều, so sánh liên tiếp.
- Những hình ảnh để so sánh chọn lọc, tiêu biểu.
- Hai câu thơ đầu so sánh các hình ảnh của thiên nhiên với thiên nhiên, nhấn mạnh ý trở về với cội nguồn, hồi sinh, phát triển.
- Hai câu thơ sau so sánh với con người: trẻ thơ được uống sữa, được đưa nôi. Chú ý nhấn mạnh sự gặp lại đúng lúc, thời điểm của đứa trẻ thơ khát sữa với người mẹ hiền - nêu bật lên sự trở về của nhà thơ với nhân dân, người mẹ vĩ đại.
- Biện pháp tu từ :
+ So sánh : Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa- Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
=> Tác dụng : Khát vọng trở về với đất nước, nhân dân
+ Ẩn dụ : Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
=> Tác dụng : Diễn tả niềm hạnh phúc được hồi sinh, phát triển, trở nên tươi đẹp. Lấy thế giới cỏ cây, chim muông để nói về niềm vui sướng hạnh phúc khi “con gặp lại nhân dân" là một cách nói thấm thìa, đậm đà
- Biện pháp tu từ :
+ So sánh : Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa- Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
=> Tác dụng : Khát vọng trở về với đất nước, nhân dân
+ Ẩn dụ : Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
=> Tác dụng : Diễn tả niềm hạnh phúc được hồi sinh, phát triển, trở nên tươi đẹp. Lấy thế giới cỏ cây, chim muông để nói về niềm vui sướng hạnh phúc khi “con gặp lại nhân dân" là một cách nói thấm thìa, đậm đà
Phát hiện Biện pháp tu từ và cho biết tác dụng
dữ dội và dịu êm
ồn ào là lặng lẽ
sông ko hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Câu trả lời của bạn
I. Đôi nét về tác giả Xuân Quỳnh
- Xuân Quỳnh sinh năm 1942, mất năm 1988, tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh
- Quê quán: La Khê, thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội)
- Xuân Quỳnh xuất thân trong một gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, Xuân Quỳnh ở với bà nội.
- Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa của Đoàn văn công nhân dân Trung ương, là biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III.
- Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Năm 2007, Xuân Quỳnh được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
- Tác phẩm chính: Tơ tằm – Chồi biếc (in chung), Hoa dọc chiến hào, Gió Lào cát trắng, Lời ru trên mặt đất, Tự hát, Hoa cỏ may, Bầu trời trong quả trứng, truyện thơ Truyện Lưu Nguyễn
- Phong cách thơ: Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằn thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.
II. Đôi nét về tác phẩm Sóng
1. Hoàn cảnh ra đời
- Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tê ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh
- Bài thơ in trong tập Hoa dọc chiến hào
2. Bố cục (4 phần)
- Phần 1 (2 khổ thơ đầu): Nhận thức về tình yêu qua hình tượng sóng
- Phần 2 (2 khổ tiếp theo): Suy nghĩ, trăn trở về cội nguồn và quy luật của tình yêu
- Phần 3 (3 khổ thơ tiếp theo): Nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt của người con gái trong tình yêu
- Phần 4 (còn lại): Khát vọng về tình yêu vĩnh cửu, bất diệt
3. Giá trị nội dung
Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.4. Giá trị nghệ thuật
- Hình tượng sóng đôi giúp nhà thơ diễn tả những cảm xúc khó nói trong tình yêu
- Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp linh hoạt phù hợp trong việc diễn tả các cung bậc, sắc thái cảm xúc khác nhau
- Ngôn ngữ gần gũi, trong sáng, dung dị, tinh tế
III. Dàn ý phân tích Sóng
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về nhà thơ Xuân Quỳnh (tiểu sử, phong cách thơ...)
- Giới thiệu khát quát về bài thơ “Sóng” (hoàn cảnh ra đời, nội dung chính....)
II. Thân bài
1. Nhận thức về tình yêu qua hình tượng sóng
- Thủ pháp đối lập: dữ dội - dịu em, ồn ào - lặng lẽ
→ Các cung bậc, sắc thái khác nhau của sóng cũng giống như những cung bậc tình cảm phong phú, những trạng thái đối cực phức tạp, đầy nghịch lí của người phụ nữ khi yêu
- Hình ảnh ẩn sụ, nhân hóa “Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể”: khát vọng vươn xa, thoát khỏi những gì chật chội, nhỏ hẹp, tầm thường
→ Quan niệm mới về tình yêu: yêu là tự nhân thức, là vươn tới cái rộng lớn, cao xa
- Phép so sánh, liên tưởng “Ôi con sóng ngày xưa ... Bồi hồi trong ngực trẻ”: Lời khẳng định khát vọng tình yêu cháy bỏng, mãnh liệt luôn luôn thường trực trong trái tim tuổi trẻ
2. Những suy nghĩ, trăn trở về cội nguồn và quy luật của tình yêu
- Sử dụng dày đặc các câu hơi tu từ “Từ nơi nào sóng lên?”, “Gió bắt đầu từ đâu?”: thể hiện mong muốn muốn tìm được cội nguồn của tình yêu, lí giải được tình yêu, khát khao hiểu được tình yêu, hiểu được bản thân mình và hiểu được người mình yêu.
- Câu trả lời “Em cũng không biết nữa”: Lời tự thú chân thành của người phụ nữ, đầy hồn nhiên, nữ tính. Tình yêu là bí ẩn, những trạng thái trong tình yêu luôn là những điều khó lí giải.
3. Nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt của người con gái khi yêu
- Nỗi nhớ là tình cảm chủ đạo, luôn thường trực trong trái tim những người đang yêu
+ Nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời gian: “dưới lòng sâu... trên mặt nước...”, “ngày đêm không ngủ được”
→ Nỗi nhớ da diết, sâu đậm
+ Tồn tại trong ý thức và đi vào cả tiềm thức: “Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức”
→ Cách nói cường điệu nhưng hết sức hợp nhằm tô đậm nỗi nhớ mãnh liệt của tác giả
+ Nghệ thuật nhân hóa, hóa thân vào sóng để “em” tự bộc lộ nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của mình
- Lòng thủy chung, son sắt của người con gái trong tình yêu:
+ “Em”: phương Bắc phương Nam - “Hướng về anh một phương”
→ Lời thể thủy chung son sắt tuyệt đối
+ “sóng” : ngoài đại dương → “Con nào chẳng tới bờ”
→ quy luật tất yếu.
+ Lòng thủy chung là sức mạnh để tình yêu vượt qua mọi khó khăn, thử thách để tới với bến bờ hạnh phúc
⇒ Lời khẳng định cho cái tôi của một con người luôn vững tin ở tình yêu
4. Khát vọng về tình yêu vĩnh cửu, bất diệt
- Sự nhạy cảm và lo âu của tác giả về cuộc đời trước sự trôi chảy của thời gian “Cuộc đời tuy dài thế ... Mây vẫn bay về xa”
- “Làm sao” gợi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.
- Khát khao của người phụ nữa được hòa mình vào cuộc đời, được sống trong “biển lớn tình yêu” với một tình yêu trường cửu, bất diệt với thời gian
III. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:
+ Nội dung: bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người
+ Nghệ thuật: hình ảnh sóng đôi sóng và em, thể thơ năm chữ, ngôn ngữ dung dị, trong sáng...
- Cảm nhận về bài thơ: bài thơ cho chúng ta thấy rõ những cung bậc cảm xúc sâu lắng, thầm kín trong tình yêu. Đó là tiếng lòng, là nhịp chảy của những trái tim đang khao khát, rạo rực yêu thương.
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
- Hai câu thơ đầu với nghệ thuật đối: “Dữ dội - dịu êm”; “Ồn ào - lặng lẽ” đã khắc họa rõ hình ảnh và vẻ đẹp của những con sóng dựa trên những tính từ miêu tả đặc trưng của sóng bao đời nay. Chỉ bằng cách sử dụng cặp từ đối nhau , phần nào ta thấy được sự khái quát trạng thái của sóng, nó cũng như tâm trạng của một con người, cũng " dữ dội, ồn ào" và khi qua đi thì lại về với vẻ " dịu êm - lặng lẽ"
- Hai câu tiếp theo tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Có lẽ tác giả đã tinh ý khi lập thành một chuỗi các từ ngữ có liên quan đến nhau : sông, sóng, bể. Nghệ thuật nhân hóa khiến cho hình ảnh của sóng như tâm tư của một con người, nhìn từ một khía cạnh nào đó là sự khát khao không gò bó và mong muốn vươn ra một không gian cao, rộng lớn ( Sóng tìm ra tận bể)
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Trong hai câu thơ mở đầu tác giả đã sử dụng tới hai cặp tính từ trái nghĩa để miêu tả đặc điểm của sóng biển: “dữ dội – dịu êm”, “ồn ào – lặng lẽ”. Thông thường đứng giữa những cặp tính từ trái nghĩa là quan hệ từ biểu đạt sự tương phản “tuy – nhưng”, thế nhưng ở đây nhà thơ nữ Xuân Quỳnh lại sử dụng quan hệ từ “và” vốn biểu đạt quan hệ cộng hưởng, cộng thêm, nối tiếp. Như vậy những đặc điểm tưởng như đối lập lại thống nhất với nhau và luôn tồn tại trong một chỉnh thể là sóng. Trong cái dữ dội có cái dịu êm, trong sự ồn ào lại chứa đựng sự lặng lẽ.Những trạng thái đối lập của sóng cũng chính là những trạng thái đối lập trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Trong tình yêu, tâm hồn người phụ nữ không hề bình lặng mà đầy biến động: có khi sôi nổi cuồng nhiệt, cũng có khi e lệ, kín đáo, có lúc đằm thắm, lúc hờn ghen…
Tác giả tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa trong hai câu thơ tiếp theo, con sóng được nhân hóa qua động từ “tìm” trong hành trình từ sông ra tới biển:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Tác giả đã khéo léo sử dụng động từ “tìm” trong việc nhân hóa con sóng đã cho ta thấy được sự chủ động của con sóng, con sóng chủ động chối bỏ những phạm vi chật hẹp “sông” để vươn tới những phạm vi rộng lớn bao la “bể”.
Cảm nhận của em về đoạn thơ :(phân tích giá trị biểu cảm của phép tu từ)
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông.
Các bn giúp mình với mình cần lắm
Câu trả lời của bạn
Bất cứ một người Việt Nam nào cũng từng nghe và thuộc bài thơ Quê hương của Đỗ Trung Quân. Bài thơ đã được nhạc sĩ Giáp Văn Thạch phổ nhạc với ca từ không hề thay đổi, bằng giai điệu mượt mà, trữ tình, đằm thắm. Ai đã từng nghe một lần, không dễ gì quên được.
Ba khổ thơ đầu, với cấu trúc A là B, nhà thơ đưa ra một định nghĩa về quê hương theo cách của riêng mình:
– Quê hương là chùm khế ngọt
– Quê hương là đường đi học
– Quê hương là con diều biếc
– Quê hương là con đò nhỏ
– Quê hương là cầu tre nhỏ
– Quê hương là đêm trăng tỏ
Nhà thơ đã sử dụng biện pháp lặp từ ngữ, lặp cấu trúc ngữ pháp câu, biện pháp liệt kê, cấu trúc thơ vắt dòng rất đặc sắc. Khung cảnh làng quê trên mọi miền Tổ quốc Việt Nam hiện lên thân thương, giản dị mà xúc động lòng người. Những cặp câu thơ dần hiện lên như những thước phim quay chậm, cảnh vật có gần có xa, có mờ có tỏ, có lớn có nhỏ. Nhịp thơ đều đặn, nhịp nhàng, gần như cả bài thơ chỉ có một nhịp 2/4.
Cả ba khổ thơ với những câu thơ cùng một nhịp, kết cấu giống nhau nhưng vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát vô cùng. Phải chăng, vẻ đẹp của những hình ảnh thơ đã làm cho người đọc quên đi hình thức bên ngoài của ngôn ngữ ? Nhà thơ đã biến cái không thể thành cái có thể, và được độc giả nồng nhiệt đón nhận bằng một sự đồng cảm rất tự nhiên. Quê hương là một khái niệm trừu tượng, nhà thơ đã cụ thể hoá nó bằng những hình ảnh sống động. Quê hương không thể tương đương với chùm khế ngọt, đường đi học rợp bướm vàng bay, con diều biếc thả trên cánh đồng, con đò nhỏ khua nước ven sông, cầu tre nhỏ, nón lá nghiêng che, đêm trăng tỏ, hoa cau rụng trắng ngoài hè… nhưng tất cả những điều đó lại làm nên một hình ảnh quê hương đẹp đẽ, lung linh, trọn vẹn và thiêng liêng. Người xưa nói: hãy xúc động hồn thơ để ngọn bút có thần. Với lòng yêu quê hương thiết tha, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh quê hương mang hồn quê, cảnh quê, người quê bằng một ngọn bút có thần…
“Quê hương là chùm khế ngọt” – chùm khế ngọt nhỏ bé, ngọt mát, êm dịu, một thứ quà quê thanh đạm, bình dị, quá đỗi bình dị mà sao day dứt và ám ảnh? Có lẽ vị ngọt thanh của khế làm mát dịu lòng ta, trái khế ngọt mang hương vị của ca dao cổ tích, dư vị thắm thiết của tình nghĩa con người. Đấy là quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi nhũng người thân yêu của ta ở đó, nơi ta đã đi qua thời thơ dại với con đường đến trường rợp bướm vàng bay.
Hình ảnh con bướm vàng cũng là một hình ảnh thực và đặc sắc của làng quê mà ở thành phố không bao giờ thấy được. Nhà thơ Giang Nam nhớ về tuổi thơ “Có những ngày trốn học đuổi bướm cạnh cầu ao – Mẹ bắt được chưa đánh roi nào đã khóc”, nhà thơ Huy Cận nhớ “Một buổi trưa không biết ở thời nào – Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao – Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ”, và nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa viết bài thơ đầu tiên của mình là bài Con bướm vàng. Ở bài thơ Quê hương nêu trên, hình ảnh con đường đi học “rợp bướm vàng bay” đẹp như một giấc mơ, đẹp như trong truyện cổ tích vậy.
Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh so sánh mang ý nghĩa sâu sắc. Quê hương được so sánh với mẹ vì đó là nơi ta được sinh ra, được nuôi dưỡng lớn khôn, giống như người mẹ đã sinh thành nuôi ta khôn lớn trưởng thành. Vì vậy, nếu ai không yêu quê hương, không nhớ quê hương mình thì không trở thành một người tốt được. Lời thơ nhắc nhở mỗi chúng ta hãy luôn sống và làm việc có ích, hãy biết yêu quê hương xứ sở, vì quê hương là mẹ và mẹ chính là quê hương, vì “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở – Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn” (Chế Lan Viên).
“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay."
Quê hương với mỗi người thật giản dị, thân thương. Yêu quê là yêu con đường đến trường, yêu những mái nhà tranh, yêu cánh đồng lúa chín...Nhà văn Ê-ren-bua đã từng nói: suối chảy vào sông, sông chảy ra biển, tình yêu tổ quốc bắt nguồn từ lòng yêu với những thứ thân thuộc quanh mình. Tình yêu đất nước bao giờ cũng bắt nguồn từ tình yêu quê chân thành, giản dị như thế. Có những so sánh hình ảnh quê hương thật gần gũi. Nhà thơ Đỗ Trung Quân chắc hẳn yêu quê lắm mới có những hình ảnh so sánh đẹp và dễ đi vào lòng người đến thế. Đọc câu thơ nhiều người ngỡ ngàng khi nhận ra, quê hương sao gần quá. Nó ở trong tuổi thơ, trong câu chuyên bà kể, trong lời hát mẹ ru, trong trái cây dịu mát. Quê hương là chùm khế ngọt, quê hương là con đường đi học. Còn gì gần gũi hơn thế với mỗi người dân đất Việt. Quê hương là vô hình, khó định nghĩa và khó có thể gợi ra được cụ thể, rõ ràng. Thế nhưng nhà thơ đã đưa ra cho ta một định nghĩa thật giản dị, biến cái vô hình thành hữu hình. Quê hương có thể nhìn thấy, có thể cầm nắm, có thể thưởng thức được mỗi ngày. Với chùm khế ngọt con người cảm nhận quê hương đầy đủ nhất bằng mọi giác quan. Tuổi thơ ai cũng trải qua những năm tháng tới trường. Con đường đi học đã trở thành người bạn tri kỉ. Hình ảnh “rợp bướm vàng bay” gợi nên cho ta những gì thân thương và trong sáng nhất của tuổi học trò. Quê hương là thế đó. Nhắm mắt lại ta như thấy quê hương đã ở đó rồi, ở ngay bên trong trái tim mỗi con người.
Gợi ý:
- Tình yêu đất nước bao giờ cũng bắt nguồn từ tình yêu quê chân thành, giản dị như thế. Có những so sánh hình ảnh quê hương thật gần gũi. Nhà thơ Đỗ Trung Quân chắc hẳn yêu quê lắm mới có những hình ảnh so sánh đẹp và dễ đi vào lòng người đến thế. Đọc câu thơ nhiều người ngỡ ngàng khi nhận ra, quê hương sao gần quá. Nó ở trong tuổi thơ, trong câu chuyên bà kể, trong lời hát mẹ ru, trong trái cây dịu mát. Quê hương là chùm khế ngọt, quê hương là con đường đi học.......
-Với chùm khế ngọt con người cảm nhận quê hương đầy đủ nhất bằng mọi giác quan. Tuổi thơ ai cũng trải qua những năm tháng tới trường. Con đường đi học đã trở thành người bạn tri kỉ. Hình ảnh “rợp bướm vàng bay” gợi nên cho ta những gì thân thương và trong sáng nhất của tuổi học trò. Quê hương là thế đó. Nhắm mắt lại ta như thấy quê hương đã ở đó rồi, ở ngay bên trong trái tim mỗi con người.
- Hình ảnh về quê hương trong bài thơ(chùm khế ngọt, đường đi học…) là những hình ảnh gần gũi, giản dị, thân thuộc với mỗi con người . Những hình ảnh thơ cho ta thấy quê hương không phải là những gì lớn lao mà là những kỉ niệm gắn bó với quá trình trưởng thành của mỗi con người vì vậy quê hương giản dị nhưng rất đỗi thiêng liêng.
Thoáng cái, ông Bằng như quên hết xung quanh và bản thể. Dâng lên trong ông cái ảm xúc thiêng liêng rất đỗi quen thân và tâm trí ông bỗng mờ nhoà, phiêu diêu lãng đãng gần xa, ẩn hiện tầng tầng lớp lớp những ảnh hình khi tỏ khi mờ, chập chờn như trong chiêm bao. Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu. Con vẫn văng vẳng nghe đâu đây lời giáo huấn của ông cha, tiên tổ. Con vẫn đinh ninh ghi khắc công ơn sinh thành dưỡng dục của thầy mẹ, gia tộc, ông bà, cha mẹ, tổ tiên, con như thấy từ trong tâm linh, huyết mạch sự sinh sôi nảy nở, phúc thọ an khang của cháu con đời đời nối tiếp trong cộng đồng dân tộc yêu thương. Và em, cùng con trai cả của ba mẹ. Em cùng con đã mất và vẫn hằng sống, hằng vui buồn, chia sẻ, đỡ nâng dắt dìu tôi cùng các cháu, các con, các em
1:Nêu nội dung chính của đoạn trích
2:Rút ra bài học cho bản thân từ đoạn văn
3:viết một đoạn văn(200 từ) thể hiện suy nghĩ của anh chị về truyền thống văn hóa của dân tộc đc gợi ra từ đoạn trích
Câu trả lời của bạn
1. Nội dung chính của đoạn trích: tục thờ cúng tổ tiên, khấn vái cha mẹ, những người đã khuất.
2. Bài học: Cần biết trân trọng, giữ gìn quá khứ, giá trị truyền thống tốt đẹp và công ơn của tổ tiên, cha mẹ.
=> Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
1. Nội dung chính của đoạn trích: tục thờ cúng tổ tiên, khấn vái cha mẹ, những người đã khuất.
2. Bài học: Cần biết trân trọng, giữ gìn quá khứ, giá trị truyền thống tốt đẹp và công ơn của tổ tiên, cha mẹ.
=> Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
Lập bảng thông tin về tiểu sử một số nhà thơ, nhà văn Việt Nam nổi tiếng cần nhớ? (Tố Hữu, Xuân Diệu, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Trần Đăng Khoa,..)
(*Giới hạn: Chương trình trung học cơ sở)
Câu trả lời của bạn
Tô Hoài
Tô Hoài - nhà văn của những sự lạ
Tô Hoài - nhà văn của những sự lạ Không ai bảo ông là lập dị. Ông chủ trương sống hòa vào với đời thường, song những chuyện kể dưới đây thì quả là rất... lạ. Và người viết bài này, nếu không có một thời gian làm trợ lý cho ông ở Hội Văn nghệ Hà Nội thì hẳn cũng khó hình dung rằng ở ông lại có thể nảy sinh những chuyện dị thường như thế. | Nhà văn Tô Hoài |
(Theo hanoi.vnn.vn)
Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài
Nhà văn Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27 tháng 9 năm 1920 (tức ngày 16-8 năm Canh Thân) tại thị trấn Nghĩa Đô, Tử Liêm, Hà Nội. Quê quán: thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Nơi ở hiện nay: thị trấn Nghĩa Đô Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam có bằng Cao đẳng tiểu học, Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Naln 1957. |
Từ 1945 - 1958 làm phóng viên rồi Chủ nhiệm báo Cứu quốc Việt Bắc.
Từ 1957 - 1958 Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.
Từ 1958 - 1980 Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.
Từ 1986 - 1996 Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội.
Tô Hoài, Mai Trang, Mắt Biển, Thái Yên, Vũ Đột Kích, Hồng Hoa.
Tác phẩm chọn lọc
Đoàn Giỏi
Đoàn Giỏi (17/5/1925 - 2/4/1989) là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957. Tiểu sử Đoàn Giỏi sinh ở quê tại thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc xã Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang), trong một gia đình địa chủ. Ông từng theo học tại trường Mỹ thuật Gia Định trong những năm 1939-1940. Khi Cách mạng tháng Tám thành công và toàn quốc kháng chiến bùng nổ, gia đình ông đã tự nguyện hiến toàn bộ nhà cửa, ruộng đất cho chính quyền Việt Minh. |
Trong những năm Việt Nam chống Pháp, Đoàn Giỏi công tác trong ngành an ninh, rồi làm công tác thông tin, văn nghệ, từng giữ chức Phó trưởng Ty thông tin Rạch Giá (1949). Từ năm 1949 đến năm 1954, ông công tác tại Chi hội Văn nghệ Nam Bộ, viết bài cho tạp chí Lá Lúa, rồi tạp chí Văn nghệ Miền Nam.
Sau 1954, ông tập kết ra Bắc, đến năm 1955 ông chuyển sang sáng tác và biên tập sách báo, công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, rồi Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III. Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đoàn Giỏi còn có các bút danh khác: Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư.
Ngoài truyện, truyện ngắn, ký, Đoàn Giỏi còn sáng tác thơ. Đất rừng phương Nam là truyện viết cho lứa tuổi thiếu nhi rất thành công và nổi tiếng của ông. Truyện đã được dịch ra nhiều tiếng nước ngoài, tái bản nhiều lần, được dựng thành phim và in trong Tủ Sách Vàng của Nhà xuất bản Kim Đồng.
Ông mất ngày 2 tháng 4 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh ung thư. Ngày 7 tháng 4 năm 2000, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định đặt tên ông cho một phố thuộc Quận Tân Phú.
Tác phẩm
Truyện
* Đường về gia hương (1948)
* Cá bống mú (1956)
* Đất rừng phương Nam (1957)
* Cuộc truy tầm kho vũ khí (1962)
Truyện ngắn
* Hoa hướng dương (Đoàn Giỏi) (1960)
Truyện ký
* Ngọn tầm vông (1956)
* Trần Văn Ơn (1955)
* Từ đất Tiền Giang
* Người thủy thủ già trên hòn đảo lưu đày
* Đèn tôi bay về Lục Hồ Chí Minh
Ký
* Khí hùng đất nước (1948)
* Những dòng chữ máu Nam Kỳ 1940 (1948)
* Trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
* Cây đước Cà Mau
* Tết Nguyên Đán ở Nam Bộ
Kịch thơ
* Người Nam thà chết không hàng (1947)
* Chiến sĩ Tháp Mười (1949)
Thơ
* Bến nước mười hai
* Truyện thằng Cồi
* Giữ vững niềm tin (1954)
Biên khảo
* Những chuyện lạ về cá (1981)
* Tê giác giữa ngàn xanh (1982)
Thành tựu nghệ thuật
Đoàn Giỏi là nhà văn đã biến đất rừng phương Nam trở thành thân thuộc, đáng yêu đối với độc giả, không chỉ là độc giả nhỏ tuổi. Những trang văn của ông thấm đượm hơi thở của sông nước, rừng cây, những câu chuyện cả thực cả kỳ bí của thiên nhiên Nam bộ hoang sơ và truyền được hơi thở ấy cho độc giả. Có được điều đó không những là nhờ tình yêu của ông đối với miền đất Nam bộ quê hương mà còn ở óc quan sát tỷ mỷ, tinh tế, lối văn kể chuyện hấp dẫn trong tác phẩm của mình.
Ngoài lề
Gia đình Đoàn Giỏi đã hiến toàn bộ nhà cửa, ruộng đất cho chính phủ và, trụ sở của Uỷ ban nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang hiện nay chính là nhà của gia đình ông. Sau khi Việt nam thống nhất năm 1975 Đoàn Giỏi đi lại rất nhiều giữa hai miền Nam, Bắc nhưng không có nhà riêng, khi ở Hà Nội ông thường ở Hội nhà văn Việt Nam và khi vào Nam ở nhờ nhà bạn bè.
Trong giới văn học có kể về giai thoại Đoàn Giỏi viết "Đất rừng phương Nam". Tháng 2 năm 1957, Đoàn Giỏi nhận được đặt hàng của Hội văn nghệ Việt Nam viết một tác phẩm về thiếu nhi Nam Bộ, thời gian viết trong 4 tháng. Tuy nhiên, mãi đến tháng 5, khi nhà văn Nguyễn Huy Tưởng nhắc lại yêu cầu này và nhấn mạnh thời điểm ra đời của Nhà xuất bản Kim Đồng, Đoàn Giỏi mới bắt đầu chấp bút. Chỉ trong một tháng, ông đã kịp hoàn tất tác phẩm đúng thời gian dự kiến. Tác phẩm được xuất bản ngay thời điểm ra đời của Nhà xuất bản Kim Đồng và đã thành công vượt mức mong đợi. "Đất rừng phương Nam" được tái bản rất nhiều lần và được dịch và xuất bản ở Liên Xô, Hungari, Trung Quốc, Đức, Cuba...
Tương truyền, các nhà văn Nam Bộ tập kết, cùng cư trú tại nhà số 19 Tôn Đản, Hà Nội đã có câu đối giễu Đoàn Giỏi: "Ở Trung Quốc, có ông Tào Ngu mà giỏi; Ở Việt Nam có ông Đoàn Giỏi mà ngu".. Tuy nhiên, đây chỉ là câu đối vui, không hàm ý chỉ trích mà ngầm so sánh Đoàn Giỏi có vị trí tương tự như nhà viết kịch Trung Quốc Tào Ngu.
Những nhận định về tác phẩm của Đoàn Giỏi
Tạ Duy Anh
Tiểu sử: Tạ Duy Anh tên thật là Tạ Việt Dũng, sinh ngày 9/9/1959 tại xã Hoàng Diệu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Ðông, đã trải qua những thời kỳ nhập ngũ, giải ngũ, làm việc tại công trường thủy điện Hòa Bình và từ đó bắt đầu viết văn. Theo học trường viết văn Nguyễn Du, tốt nghiệp khóa IV, làm cán bộ giảng dạy tại trường. Tạ Duy Anh là hội viên Hội Nhà Văn từ 1993. |
Bút danh: Tạ Duy Anh, Lão Tạ, Bình Tâm.
Thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết.
Các tác phẩm:
*Bước qua lời nguyền (1990)
*Khúc dạo đầu (1991)
*Đi tìm nhân vật
*Lão Khổ (1992)
*Hiệp sĩ áo cỏ
*Thiên thần sám hối
*Luân hồi (1994)
*Bến thời gian
Võ Quảng
Võ Quảng - cuộc đời và sự nghiệp
Võ Quảng (1920-2007) là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Sự nghiệp văn chương của ông chủ yếu tập trung về đề tài thiếu nhi. Ông cũng là người đầu tiên dịch tác phẩm "Don Quixote" sang tiếng Việt dưới bút danh Hoàng Huy từ năm 1959. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thường Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007. | Nhà văn Võ Quảng |
Võ Quảng - nhà văn của thiếu nhi
Đỉnh cao trong sáng tạo nghệ thuật của Võ Quảng là bộ tiểu thuyết Quê nội và Tảng sáng phản ánh sinh động những thay đổi sâu sắc ở một vùng quê mà Cách mạng tháng Tám vĩ đại đã đem lại sự hồi sinh cho mỗi người dân. Tác giả đã để ra mười lăm năm năm tâm huyết cho bộ sách này. Nhà phê bình Lê Quang Trang nói về công phu của Võ Quảng khi viết tác phẩm này như sau: "So với bản thảo đầu số chữ còn lại khoảng một phần tư. Bản thảo được chữa đi chữa lại năm lần. Có nhiều chương chữa tới sáu lần. Đấy là không kể các chi tiết câu chữ được sửa chữa thường xuyên do một ý nghĩ bất chợt nảy sinh ra. Ngay Quê nội khi in lần thứ tư (ở XBKĐ - 1983) tác giả vẫn nghiền ngẫm tiếp thu những ý kiến phê bình góp ý của đồng nghiệp mà ông thấy hợp lý để sửa chữa cho hoàn chỉnh tới mức cao nhất". | Tiểu thuyết Quê nội của Võ Quảng |
An-phông-xơ Đô-đê
Alphonse Daudet là một văn sĩ Pháp vào thế kỷ thứ 19. Sanh tại Nime, miền Nam nước Pháp vào ngày 13 tháng 5 năm 1840. Gia đình đã rời quê lên Lyons khi xí nghiệp tơ vải của cha ông bị suy sụp và phải đóng cửa. Ông theo tiếp tục bậc trung học tại đây nhờ một bổng, nhưng cuối cùng phải bỏ học hẳn khi cuộc hôn nhân của bố mẹ đổ vỡ. Daudet theo chân anh là Ernest đến Paris và được nhận vào làm ký giả cho tờ Figaro. |
Minh Huệ
Minh Huệ tên thật: Nguyễn Đức Thái, sinh năm: 1924 mất ngày 11/10/2003. Quê ông ở Bến Thủy, Thành phố Vinh, Nghệ An. Ông sử dụng những bút danh: Minh Huệ, Mai Quốc Minh, Nguyễn Thái |
Nguyễn Kim Thành sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Đến năm 9 tuổi, ông cùng cha trở về sống tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cha ông - nhà báo Hải Triều - là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục ngữ. Ông đã dạy Tố Hữu làm thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà nho, thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và rất thương con. Cha mẹ đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu. Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học Huế. Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin, Maxim Gorky,... qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với lý tưởng cộng sản. Năm 1936 ông gia nhập Đoàn thanh niên Dân chủ Đông Dương. Năm 1938 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4/1939, ông bị bắt, bị tra tấn dã man và đày đi nhà lao Thừa Phủ (Huế) rồi chuyển sang nhà tù Lao Bảo (Quảng Trị) và nhiều nhà tù khác ở Tây Nguyên. Tháng 3-1942, ông vượt ngục Đắc Lay (nay thuộc Kon Tum) rồi tìm ra Thanh Hóa, bắt liên lạc với Đảng (về hoạt động bí mật ở huyện Hậu Lộc và thôn Tâm Quy, xã Hà Tân, huyện Hà Trung, Thanh Hóa). Đến năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên - Huế. Năm 1946, ông là Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước: Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (đợt 1). Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng ban Thống nhất Trung ương, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng ban Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khoá II và VII. Trong thời gian phụ trách mảng văn nghệ, ông là người đã phê phán quyết liệt phong trào Nhân văn - Giai phẩm (1958). Nhiều ý kiến coi ông là tác giả chính của vụ án Văn nghệ - Chính trị này. Sau khi Lê Duẩn mất, có sự thay đổi mạnh mẽ tiến tới đổi mới nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế toàn diện. Ông bị mất uy tín chính trị vì phải chịu trách nhiệm trong những vụ khủng hoảng tiền tệ những năm 1980 nên bị miễn nhiệm các chức vụ quản lý, chỉ còn giữ một chức danh nghiên cứu mang tính học thuật. Ông mất lúc 9 giờ 15 phút 7 giây, ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện 108.
Minh Huệ sáng tác ở các thể loại: thơ, bút ký, tiểu thuyết, tiểu luận. Các tác phẩm chính:
* Tiếng hát quê hương (1959)
* Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành
- Thiếu niên
- Hoạt động trong đảng Cộng sản
ca ngợi cuộc sống cao đẹp của bác nhà thơ tố hữu có viết :
"bác sống như trời đất của ta
yêu từng ngọn lúa,mỗi cành hoa
tự do cho mỗi đời nô lệ
sữa để em thơ,lụa tặng già"
đoạn thơ trên giúp em hiểu gì về bác hồ kính yêu?
Câu trả lời của bạn
– Niềm vui của Bác gắn với niềm vui của dân tộc với những chiến công để đi gần tới hoà bình, độc lập, tự do, gắn với niềm vui của thiên nhiên cây trái, cuộc sống tạo vật, con người.
Niềm vui của Bác gắn với niềm vui của dân tộc với những chiến công để đi gần tới hoà bình, độc lập, tự do, gắn với niềm vui của thiên nhiên cây trái, cuộc sống tạo vật, con người.
Niềm vui của Bác gắn với niềm vui của dân tộc với những chiến công để đi gần tới hoà bình, độc lập, tự do, gắn với niềm vui của thiên nhiên cây trái, cuộc sống tạo vật, con người.
Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Hình ảnh ví von trong thơ Tố Hữu rất tiêu biểu cho tư duy thơ của ông. Ví von không làm cho sự vật, con người cụ thể hơn mà là khái quát hơn, cao hơn, trừu tượng hơn và bóng bảy hơn.
– Niềm vui của Bác gắn với niềm vui của dân tộc với những chiến công để đi gần tới hoà bình, độc lập, tự do, gắn với niềm vui của thiên nhiên cây trái, cuộc sống tạo vật, con người.
Đoạn thơ cho thấy những nét đẹp trong cuộc sống của Bác Hồ kính yêu. Đó là cuộc sống gần gũi với tất cả mọi người như trời đất của ta, cuộc sống tràn đầy tình yêu thương đến từng ngọn lúa, mỗi cành hoa. Cảm động nhất là cuộc sống của Bác luôn vì hạnh phúc của con người. Bác hi sinh cả đời mình vì cuộc sống đấu tranh giành độc lập, tự do cho mỗi đời nô lệ, vì niềm vui cho tất cả mọi người (“Sữa để em thơ, lụa tặng già “).
"Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già"
(Bác ơi - Tố Hữu).
Suốt cả cuộc đời mình, Bác đã để lại cho đời nhiều thứ quý giá, trong đó có một suối nguồn tình cảm sâu nặng nghĩa tình, nâng niu quý trọng mà Bác đã dành cho nhiều thế hệ phụ nữ Việt Nam. Còn nhớ, trong những năm tháng bôn ba tìm đường cứu nước, trong những vấn đề Người quan tâm, Người đặc biệt chú ý đến trẻ em và phụ nữ ở các thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng, Người cho đó là những lớp người khổ nhất trong những người khổ cực. Người căm ghét bọn thống trị luôn "đối xử một cách hết sức bỉ ổi với người phụ nữ... và xúc phạm tới phong hóa, trinh tiết và đời sống của họ" (Bản án chế độ thực dân). Mỗi một phụ nữ, một trẻ em bị đánh, bị giết đều làm tác giả đau đớn. Người đã từng thốt lên: "Một em bé bị lột trần truồng, một thiếu nữ ruột gan lòi ra, cánh tay trái cứng đờ giơ nắm tay lên chĩa vào ông trời vô tình". Có gì xúc động hơn, khi thấy nỗi lòng Người đồng cảm với nỗi lòng của những người mẹ mất con, người vợ mất chồng trong vụ Pháp giết hại những người Việt Nam tại Khám lớn Sài Gòn. Người đã từng lên tiếng vạch trần những hành động dã man của lũ mặt người dạ thú với những người phụ nữ "Không một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngược của bọn người xâm lược...", chúng "mắng một phụ nữ Nam An là con đĩ, con bú dù... Ngay giữa chợ Bến Thành ở Sài Gòn... bọn gác chợ người Âu cũng không ngần ngại dùng roi gân bò, dùi cui đánh người phụ nữ bản xứ...".Qua những hành động ấy ,cho thấy Bác rất yêu thương con người ,nhất là trẻ em ,phụ nữ ,người già... Bác quả là tấm gương sáng để chún ta noi theo
1) Tìm những câu giao nói về bói
2) Tìm những câu ca dao nói về chuột và mèo
Câu trả lời của bạn
Sắc nanh, chuột dễ cắn được cổ mèo
Chuột gặm chân mèo
Chuột khôn cũng thể chuột nhà
Dầu khôn dầu dại cũng là chồng em
Chuột bầy làm chẳng nên hang
Nắng lên cho mối bắt gà
Một trăm đàn bà đánh giặc cho vua
Con tép nó kẹp con cua
Một bầy cá mại cõng rùa đi ăn
Chồn đèn cắn cổ chó săn
Chuột kêu chút chít, đòi ăn con mèo
Chó chạy, chồn rượt đuổi theo
Chuột gặm chân mèo, muỗi đốt cánh dơi
Cây cao bóng mát chơi vơi
Gà con tha quạ lên ngồi cành tre
Con voi ấp trứng sau hè
Gà con đi kiện, vịt què vô Nha
Nực cười rết nuốt trứng gà
Đàn ông có chửa, đàn bà có râu
Trai tơ sắm cối giã trầu
Bà già bạc đầu nằm ngửa trong nôi
Chẳng tin đốt đuốc mà coi
Thầy chùa đang ướp cá mòi nấu chay
Bài1:
- Số thầy là số lôi thôi
Quanh năm lận đận, cạy nồi vét xoong.
Số thầy là số long đong
Quanh năm thầy chỉ đón non đoán già
Ốm đau chạy thuốc chạy thang
Đừng nghe thầy bói mua vàng cúng ma.
- Thầy bói nói dựa.
Chưa học đui, đã đòi bói ra sự thật.
No ăn thì đắt bói, đói ăn thì đắt khoai.
Nghe thầy bói đói rã họng.
-Thừa tiền thì đem mà cho,
Đừng có xem bói đem lo cho mình .
- Tiền buộc giải yếm bo bo,
Đưa cho thày bói thêm lo vào mình.
- Ốm đau chạy bữa thuốc thang,
Đừng đi xem bói mua vàng cúng ma.
- Thầy bói, thầy số, thầy đồng,
Nghe ba thầy ấy cái lông không còn.
- Miệng bà đồng lồng chim khướu.
- Hòn đất mà biết nói năng,
Thì thầy địa lí cái răng không còn.
QUẢ BÓNG ĐEN
Một cậu bé da đen đang chơi đùa trên bãi cỏ, phía bên kia đường một người đàn ông đang thả nhẹ những quả bóng lên bầu trời, những quả bóng đủ màu sắc, xanh, đỏ, tím, vàng và có cả màu đen nữa.
Cậu bé nhìn khoái chí, chạy tới chỗ người đàn ông, hỏi nhỏ:
- Chú ơi, những quả bóng màu đen có bay cao được như những quả bóng khác không ạ?
Người đàn ông quay lại, bất giác giấu đi những giọt nước mắt sắp lăn nhẹ trên đôi gò má, ông chỉ lên những đám bóng bay này chỉ còn những chấm nhỏ và trả lời cậu bé;
- “……”
Không biết người đàn ông nói gì mà chỉ thấy “cậu bé nở nụ cười rạng rỡ”
- mVăn bản trên sử dụng phong cách ngôn ngữ chính là gì???
Câu trả lời của bạn
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật nhé
Tự sự .
neu cam nhan cua em ve doan tho sau :
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!
Câu trả lời của bạn
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.
Điệp khúc của chúng ta cứ ngân nga, vang vọng giữa đất trời, sông núi. Tất cả những gì thân yêu, quen thuộc trên đất nước này đều là của chúng ta. Còn gì sung sướng và tự hào hơn mấy tiếng ấy sau hàng trăm năm nô lệ, dân tộc Việt Nam đổ bao xương máu mới giành lại được quyền làm chủ. Cùng nguồn cảm hứng say sưa, dào dạt như thế, nhà thơ Tố Hữu cũng đã say sưa thốt lên : Của ta, trời đất, đêm ngày, Núi kia, đồi nọ, sông này của ta! (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên).
Cái thế đứng của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ là thế đứng của con người tự do kiêu hãnh ngẩng cao đầu. Trời thu xanh biếc, núi rừng hùng vĩ, những cánh đồng thơm mát, những ngả đường bát ngát, những dòng sông đỏ nặng phù sa… càng trở nên bội phần đẹp đẽ vì đã về tay ta. Đoạn thơ với nhạc điệu rộn ràng, hình ảnh nối tiếp hình ảnh, quấn quýt hòa quyện vào nhau, tạo nên vẻ đẹp của đất nước Việt Nam sau ngày độc tập. Âm hưởng thơ mênh mang, trải dài vô tận với những âm tiết vang, sáng: ta, thơm ngát, bát ngát, phù sa… Các dòng thơ liên kết với nhau, cùng xoay quanh và làm nổi bật ý nghĩa: Niềm kiêu hãnh, tự hào to lớn của con người Việt Nam về chủ quyền độc lập, về đất nước quê hương ngàn lần tươi đẹp.
Có được mùa thu đẹp hôm nay, nắm chủ quyền tự do, độc lập trong tay, chúng ta không thể không nghĩ đến những sức mạnh đã làm nên nó. Đó chính là truyền thống bất khuất bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc:
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm ri rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Giọng thơ đang rộn ràng, háo hức ở đoạn trên, đến đoạn này chợt trở nên suy tư, trầm lắng. Nước chúng ta, giản đơn ba chữ mà chứa chất thiêng liêng pha lẫn tự hào. Câu thơ tiếp theo như một lời khẳng định: Nước những người chưa bao giờ khuất. Đó là một thực tế hiển nhiên. Suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm, bao phen chống ngoại xâm, có thắng có bại, song đất nước này, dân tộc này chưa bao giờ khuất phục trước bạo lực quân thù. Truyền thống bất khuất ấy truyền từ đời này sang đời khác. Anh linh, hùng khí tổ tiên như tụ cả lại trong lòng đất: Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất, Những buổi ngày xưa vọng nói về. Tiếng đất là tiếng của lịch sử dựng nước và giữ nước không ngơi nghỉ, là tiếng của ngày xưa vọng nói về hiện tại.
Âm điệu câu thơ chuyển từ hồ hởi, lan tỏa sang suy ngẫm, dồn nén, lắng sâu. Mặt đất vững chắc chẳng bao giờ nghiêng ngả, lung lay. Mồ hôi, xương máu kết tụ vào đó lâu đời đã thành tiếng nói truyền thống của cha ông. Mặt đất lặng im nhưng tiếng đất luôn rì rầm bên tai con cháu cho đến tận ngày nay. Quá khứ anh hùng, bất khuất làm nền cho hiện tại cũng anh hùng, bất khuất. Nói như nhà thơ Tố Hữu thì đây chính là tiếng của cha ông thuở trước, luôn luôn nhắc nhở các thế hệ con cháu hãy giữ lấy đất nước thiêng liêng của tổ tiên để lại.
I. MỞ BÀI
- Đất nước là một tác phẩm ngắn được sáng tác trong một thời gian dài. Nguồn cảm hứng của Nguyễn Đình Thi trải suốt cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1948 đến năm 1955. Có thể coi đoạn trích sau đây đã kết tinh nghệ thuật của toàn bài thơ nổi tiếng này (ghi lại 14 dòng thơ đề bài).
- Ta hãy phân tích đoạn thơ trên.
III. THÂN BÀI
Bài thơ Đất nước hình thành từ ba mảng thơ, chủ yếu lấy từ bài thơ "Sáng mát trong như sáng năm xưa" viết năm 1948 và bài thơ "Đêm mít tinh" viết năm 1949, kết hợp với đoạn sau cùng (khổ 5 đến khổ 10) viết năm 1955. Riêng mười bốn câu thơ trích thể hiện một cảm hứng nhất quán về đất nước: tự hào về đất nước ta giàu đẹp, truyền thống dân tộc ta anh hùng, nhân dân ta chiến đấu kiên cường vì độc lập, tự do.
A. ĐẤT NƯỚC QUA HÌNH ẢNH MÙA THU MỚI
1. Từ hoài niệm về những ngày thu đã xa trong đoạn mởđầu, ý thơ dẫn vào cảm xúc về mùa thu nay của cách mạng, của dân tộc giữa khung cảnh chiến khu Việt Bắc.
- Đoạn thơ mở đầu bằng một dòng thơ năm tiếng bình dị nhưng tạo cảm giác có sự thay đổi lớn: một mùa thu mới của dân tộc, của đất nước đang hồi sinh. Lời thơ vút cao, giọng thơ sôi nổi thể hiện niềm vui náo nức:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Cảnh sắc thiên nhiên của đất nước quê hương thật tươi vui. Nếu mùa thu xưa xao xác gió heo may buồn thì mùa thu nay gió thổi rừng tre phấp phới; năm xưa lá rơi đầy thềm nắng của những con phố dài Hà Nội thì nay cả bầu trời Việt Bắc xanh biếc tươi vui:
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
- Niềm vui to lớn lan tỏa khắp đất trời, cỏ cây và tràn ngập cả lòng người. Nhà thơ đang lắng tâm hồn để cảm nhận niềm vui từ làn gió thu trong mát, từ sắc trời thu trong biếc và nhất là từ giọng nói tiếng cười thiết tha của mọi người, trong nỗi mừng vui quê hương vừa được giải phóng qua nghệ thuật nhân hóa với chủ thể trữ tình "Trời thu".
2. Cảm xúc về mùa thu đất nước còn gắn liền với niềm tự hào làm chủ đất nước. Dưới cái nhìn say đắm của nhà thơ, đất nước trải rộng núi sông, nơi nào cũng tươi đẹp, nơi nào cũng màu mỡ phì nhiêu:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
- Điệp khúc của chúng ta như ngân lên, vang vọng cả không gian bao la. Tất cả những gì thân quen thuộc trên đất nước này là của chúng ta. Tư thế của nhân vật trữ tình trong mấy câu thơ trên là thế đứng của con người kiêu hãnh ngẩng cao đầu sau bao năm chiến đấu gian khổ, giành được quyền làm chủ đất nước. Trời thu, núi rừng, những cánh đồng tham mát, những ngả đường bát ngát, những dòng sông đỏ nặng phù sa trở nên đẹp đẽ, đáng yêu lạ thường, vì đã thuộc về ta.
- Hình ảnh tiếp nối hình ảnh, nhạc điệu rộn ràng, âm hưởng khoáng đạt, lời thơ trải dài như vô tận, các dòng thơ liên kết nhau cùng xoay quanh một nội dung, đó là niềm kiêu hãnh tự hào của con người làm chủ đất nước.
B. ĐẤT NƯỚC TRONG TRUYỀN THỐNG BẤT KHUẤT CỦA DÂN TỘC
1. Từ không gian rộng lớn của đất nước (trời xanh, núi rừng, những cánh đồng, những ngả đường, những dòng sông), mạch thơ chuyển sang chiều dài của thời gian. Cảm hứng của nhà thơ từ hiện tại trờ về quá khứ, nói lên truyền thống bất khuất của dân tộc:
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
- Từ giọng điệu rộn ràng náo nức ở đoạn thơ trên, giọng thơ chợt trầm lắng suy tư. Nước chúng ta, dòng thơ chỉ ba từ nhưng chất chứa bao điều thiêng liêng pha lẫn tự hào. Và dòng thơ tiếp theo là một khẳng định: Nước những người chưa bao giờ khuất.
2. Lịch sử dân tộc với hàng ngàn năm kiên cường chống xâm lược vang lên hồn thiêng sông núi. Hồn thiêng ấy là tiếng vọng không bao giờ dứt từ nhiều thế hệ cha ông, đã trở thành tiếng nói của truyền thống. Ý thơ toát lên một chân lí: quá khứ lịch sử của dân tộc ta anh hùng bất khuất đã làm nền cho hiện tại cũng anh hùng bất khuất.
- Như vậy bề dày của hàng ngàn năm lịch sử dân tộc đã được Nguyễn Đình Thi nhận thức và diễn đạt sâu sắc qua những dòng thơ giản dị mà thâm trầm, sâu lắng:
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
III. KẾT BÀI
- Mười bốn dòng thơ đã thể hiện chất trữ tình bay bọng hòa quyện chất chính luận sâu sắc, với nghệ thuật diễn đạt tài hoa, từ ngôn ngữ giàu hình ảnh gợi cảm đến những dòng thơ giàu âm điệu, giọng thơ lúc sôi nổi rạo rực, lúc lắng đọng suy tư.
- Nghệ thuật đó cũng thể hiện được một đề tài vừa là nguồn cảm hứng chủ đạo của thơ ca thời kì hiện đại trong nhiều bài thơ có giá trị của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi, đó là đề tài về đất nước.
1, Lập bảng danh sách các nhà văn, nhà thơ quê ở tỉnh Đồng Nai, theo trình tự: họ tên, bút danh (nếu có), năm sinh, năm mất (nếu đã mất) và tác phẩm chính. Chú ý: chỉ thống kê những tác giả có sáng tác trước năm 1975.
1, Sưu tầm và chép lại một bài thơ hoặc một bài văn (khoảng vài trang có thể là đoạn trích) viết về phong cảnh thiên nhiên, con người, sinh hoạt văn hóa, truyền thống lịch sử của quê hương em và em thấy hay
Câu trả lời của bạn
Sài Gòn! Một ngày vật lộn với cơm áo, với lo toan trong đời thường, với bực bội, mệt nhọc... nhưng khi hoàng hôn đến, đêm xuống... Sài gòn như lột xác... Một Sài Gòn dễ thương dịu dàng... mê đắm... Những ánh điện muôn màu, những làn gió nhẹ từ bến Bạch Đằng làm dịu mát 1 ngày oi bức và người Sài gòn dường như quên tất cả để hưởng thụ.. Sài Gòn là một thành phố mất ngủ! Dường như trong sự ồn ào tất tả của cái thành phố đầy sinh lực này, ban ngày người ta luôn chạy đuổi theo một cái gì không rõ tên. Ðể rồi khi đêm đến, thành phố như lắng lại trong cái se se lạnh, khiến người con gái phải khoác lên mình chiếc áo khoác mỏng, người con trai chạy xe chậm hơn. Có một Sài Gòn về đêm với những quán cà phê khá yên tĩnh dọc theo những trục đường lớn như Ðồng Khởi, Lê Quý Ðôn, Phạm Ngọc Thạch, Võ Văn Tần... với những đôi tình nhân thả bộ dọc theo đường Tôn Ðức Thắng, bến Bạch Ðằng; một Sài Gòn về đêm, xe máy đèo bạn chạy lòng vòng trên phố không mục đích, khuya mệt về nghỉ... Có nhiều người cho rằng "Sài Gòn khi về đêm mới thật là Sài Gòn". Chẳng biết nhận định ấy có mức độ chính xác như thế nào, chỉ có điều, cứ mỗi tối có dịp đi trên đường phố Sài Gòn, hẳn mỗi người sẽ cảm nhận được phần nào mạch sống của Sài Gòn và người Sài Gòn theo cách riêng của mình. Đêm Sài Gòn lung linh nhiều màu sắc, sống động và chân thực. Từ mỗi con đường góc phố, quán cafe đến những ngôi chợ nhỏ sinh hoạt thâu đêm suốt sáng, những mảnh đời lặng lẽ trong đêm, dù được sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn hay người tứ phương chọn Sài Gòn là mảnh đất dừng chân, tất cả đều góp phần tạo nên một Sài Gòn về đêm chẳng mấy khi chịu lặng dừng nhịp sống. Có người lại bảo Sài Gòn không có giấc ngủ khuya. Điều này có lẽ đúng! Và dường như chỉ có thể cảm nhận một cách chính xác nếu một đêm nào đó có dịp thao thức cùng Sài Gòn, hòa mình vào hơi thở của một thành phố đô thị phát triển vào bậc nhất của cả nước..
Bình Nguyên Lộc (7 tháng 3 năm 1914 - 7 tháng 3 năm 1987), tên thật là Tô Văn Tuấn, là một nhà văn lớn, nhà văn hóa Nam Bộ trong giai đoạn 1945-1975. Ngoài bút danh Bình Nguyên Lộc, ông còn có các bút danh Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn, Tôn Dzật Huân, Phóng Ngang, Phóng Dọc, Diên Quỳnh...
Bình Nguyên Lộc sinh tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Ông xuất thân trong một gia đình trung lưu đã có mười đời sống tại Tân Uyên.[2] Cha là ông Tô Phương Sâm (1878-1971) làm nghề buôn gỗ. Mẹ là bà Dương Thị Mão (hay Mẹo) (1876-1972). Theo giấy khai sinh, Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7 tháng 3 năm 1915. Tuy nhiên, trên thực tế có thể ông sinh ít nhất một năm trước ngày ghi trong giấy khai sinh, nghĩa là năm 1914, nhưng không rõ có đúng là ngày 7 tháng 3 hay không. Nhà ông chỉ cách bờ sông Đồng Nai hơn một trăm mét và con sông in đậm dấu ấn trong một số tác phẩm của ông sau này như truyện ngắn Ðồng đội (trong Ký thác), hồi ký Sông vẫn đợi chờ (viết và đăng báo ở California,Mỹ)..
Từ năm 1919 đến 1920, ông theo học chữ nho với một ông đồ trong làng. Sau đó Bình Nguyên Lộc học trường tiểu học ở Tân Uyên vào những năm 1921-1927. Năm 1928 ông ở nhà luyện tiếng Pháp để thi vào trung học Pétrus Ký ở Sài Gòn. Từ 1929 đến 1933, ông học trung học ở trường Pétrus Ký và lấy bằng Thành chung (Diplôme d´Études Primaires Supérieures, tú tài phần thứ nhất) năm 193. Tuy nhiên, có tài liệu nói ông đậu bằng Thành chung trong niên khóa 1933-1934 và thôi học do kinh tế khủng hoảng. Cũng có tài liệu nói ông không học xong trung học và nghỉ học năm 1935.
Truyện ngắn đầu tay của ông có tên Phù sa, viết về công cuộc Nam tiến của người Việt vào miền đất mới Nam Kì, đăng trên tạp chí Thanh niên của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát. Ông kết bạn với những tác giả khác viết cho báo Thanh niên như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Hoàng Tư, Lâm Thao Huỳnh Văn Phương, Dương Tử Giang, Nguyễn Tấn Sĩ... Vào khoảng năm 1943, ông hoàn tất tác phẩm Hương gió Đồng Nai (khởi thảo từ năm 1935), tập truyện ngắn và tùy bút về hương đồng cỏ nội đất Đồng Nai. Tác phẩm được Xuân Diệu, Huy Cận và vài nhà văn khác tán thưởng, nhưng sau đó bị thất lạc trong chiến tranh.
Truyện ngắn và tiểu thuyết :
Truyện dài chưa in :
Nghiên cứu :
Thơ:
Em hãy cho biết cảm thụ văn học là gì ?
Câu trả lời của bạn
Cảm thụ văn học là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm (trong cuốn truyện, bài văn, bài thơ,…) hay một bộ phận của tác phẩm (đoạn văn, đoạn thơ,…) thậm chí là một từ ngữ có giá trị trong câu văn, câu thơ.
Cảm thụ văn học là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm (trong cuốn truyện, bài văn, bài thơ,…) hay một bộ phận của tác phẩm (đoạn văn, đoạn thơ,…) thậm chí là một từ ngữ có giá trị trong câu văn, câu thơ.
Cảm thụ văn học là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm (trong cuốn truyện, bài văn, bài thơ,…) hay một bộ phận của tác phẩm (đoạn văn, đoạn thơ,…) thậm chí là một từ ngữ có giá trị trong câu văn, câu thơ.
Cảm thụ văn học (CTVH) là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm (trong cuốn truyện, bài văn, bài thơ,…) hay một bộ phận của tác phẩm (đoạn văn, đoạn thơ,…) thậm chí là một từ ngữ có giá trị trong câu văn, câu thơ.
Khi đọc (hoặc nghe) một câu chuyện, một bài thơ, ta không những hiểu mà còn phải xúc cảm, tưởng tượng và thật sự gần gũi, “nhập thân” với những gì đã đọc. Đọc có suy ngẫm, tưởng tượng và rung động thật sự sẽ giúp ta CTVH tốt.
- Để có được năng lực CTVH sâu sắc và tinh tế, cần có sự say mê, hững thú khi tiếp xúc với thơ văn; chịu khó tích luỹ vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học, nắm vững kiến thức cơ bản về Tiếng Việt phục vụ cho CTVH; kiên trì rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn về CTVH.
Thứ nhất: Cảm thụ văn học là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm (trong cuốn truyện, bài văn, bài thơ,…) hay một bộ phận của tác phẩm (đoạn văn, đoạn thơ,…) thậm chí là một từ ngữ có giá trị trong câu văn, câu thơ.
Thứ hai : Khi đọc hoặc nghe một câu chuyện, một bài thơ, ta không những hiểu mà còn phải xúc cảm, tưởng tượng và thật sự gần gũi, “nhập thân” với những gì đã đọc. Đọc có suy ngẫm, tưởng tượng và rung động thật sự sẽ giúp ta cảm thụ văn học tốt.
Thứ ba: Để có được năng lực cảm thụ văn học sâu sắc và tinh tế, cần có sự say mê, hững thú khi tiếp xúc với thơ văn; chịu khó tích luỹ vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học, nắm vững kiến thức cơ bản về Tiếng Việt phục vụ cho cảm thụ văn học; kiên trì rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn về cảm thụ văn học.
^-^ Học tốt nhé!
Tìm và phân tích giá trị nghệ thuật của hình ảnh hoán dụ trong câu thơ sau:
"Hỡi những trái tim không thể chết
Chúng tôi đi theo bước các anh
Những hồn Trần Phú vô danh
Sông xanh biển cả cây xanh núi ngàn"
(Tố Hữu)
Câu trả lời của bạn
Trong đoạn thơ trên , tác giả đã sử dụng hình ảnh hoán dụ :
"trái tim" : chỉ tình yêu nước thương dân , yêu lí tưởng của các liệt sĩ Cách mạng
"hồn Trần Phú" : biểu thị một tấm gương , một liệt sĩ Cách mạng
" sóng xanh , cây xanh " :là hiện tượng bộ phận của núi , của biển , biểu thị sự trường tồn bất diệt
Qua đoạn thơ trên , Tố Hữu đã ca ngợi lòng yêu nước . Nhà thơ khẳng định tên tuổi và tinh thần Cách mạng của các liệt sĩ như Trần Phú - đời đời bất tử , trường tồn với đất nước thương yêu.
Trong đoạn thơ trên , tác giả đã sử dụng hình ảnh hoán dụ :
"trái tim" : chỉ tình yêu nước thương dân , yêu lí tưởng của các liệt sĩ Cách mạng
"hồn Trần Phú" : biểu thị một tấm gương , một liệt sĩ Cách mạng
" sóng xanh , cây xanh " :là hiện tượng bộ phận của núi , của biển , biểu thị sự trường tồn bất diệt
Qua đoạn thơ trên , Tố Hữu đã ca ngợi lòng yêu nước . Nhà thơ khẳng định tên tuổi và tinh thần Cách mạng của các liệt sĩ như Trần Phú - đời đời bất tử , trường tồn với đất nước thương yêu.
Từ bài "Chân quê" của Nguyễn Bích viết một đoạn văn khoảng 8-10 câu trình bày suy nghĩ của em về vấn đề giữ gìn truyền thống văn hóa của dân tộc
Câu trả lời của bạn
Mở bài:
Đất nước đang trong quá trình hội nhập quốc tế, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là vấn đề quan trọng, ý thức của thanh thiếu niên Việt Nam trong vấn đề này là điều rất đáng quan tâm suy nghĩ.
Thân bài:
1. ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của thanh thiếu niên Việt Nam được biểu hiện ở nhiều phương diện : cách sống, lối sống, quan niệm, suy nghĩ, ở hoạt động, nói năng, ăn mặc, ứng xử.
Qua những biểu hiện trên, có thể thấy rõ ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của thanh thiếu niên Việt Nam là như thế nào ?
2. Xem xét nguyên nhân của vấn đề này phải nhìn ở cả 2 mặt : khách quan và chủ quan. Khách quan là sự tác động của môi trường sống, của bối cảnh thời đại. Chủ quan là bản thân sự vận động trong tư duy của đối tượng : các thanh niên, thiếu niên đã quan tâm, suy nghĩ ở mức độ nào về vấn đề này.
3. Với một ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc như vậy, thanh thiếu niên Việt Nam đang tác động như thế nào đến bộ mặt văn hoá dân tộc, đang để lại một kết quả ra sao cho tương lai, đặc biệt là trong bối cảnh quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra sôi động.
4. Xã hội, gia đình, bản thân mỗi thanh niên, thiếu niên nên làm gì để góp phần khẳng định bản sắc văn hoá Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
Trong cuộc sống ngày nay, xã hội ngày càng phát triển, các xu hướng mới ra đời và nhanh chóng lan rộng. Đứng trước thực trạng đó vần đề giữ gìn truyền thống dân tộc càng ngày càng được quan tâm nhiều hơn.
Có thể hiểu truyền thống dân tộc là gì? Truyền thống dân tộc là những giá trị văn hóa tinh thần được hình thành trong quá trình lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Giữ gìn truyền thống dân tộc là bảo vệ các truyền thống dân tộc trước nguy cơ bị pha tạp, bị mất đi để từ đó phát triển nó ngày một tốt đẹp hơn.
Vậy tại sao chúng ta cần giữ gìn truyền thống dân tộc? Vâng! Bởi vì để có được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc biết bao thế hệ con người đã dùng trí tuệ, nhận thức của mình hun đúc lên. Có những truyền thống cha ông ta đã dùng cả máu và nước mắt để bảo vệ chúng trong các cuộc xâm lược tàn bạo của kẻ thù như: truyền thống uống nước nhớ nguồn, tương thân tương ái, đoàn kết… Kẻ thù tàn bạo luôn tìm cách kích động, chia rẽ dân tộc ta nhưng nhờ những truyền thống tốt đẹp ấy đã giúp dân tộc ta đứng vững trước khó khăn, đồng lòng, hiệp lực đánh đuổi giặc ngoại xâm. Ngoài ra, truyền thống dân tộc còn rất quan trọn trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân, cộng đồng. Con người sống không có truyền thống hẳn sẽ khó hòa mình vào xã hội, khó có thể thành công. Một dân tộc không có văn hóa truyền thống riêng sẽ dễ bị thôn tính trước âm mưu đồng hóa của kẻ thù. Việc giữ gìn truyền thống của dân tộc còn là biểu hiện cao nhất của lòng biết ơn của thế hệ sau với thế hệ trước, những người đã hi sinh biết bao để giữ gìn truyền thống cho thế hệ trẻ hôm nay. Nó cũng thể hiện một nhân cách dám chịu trách nhiệm, dám gánh vác cảu thế hệ trẻ.
Tuy nhiên, một số người hiện nây còn đi ngược lại truyền thống dân tộc, không hiểu rõ truyền thống, đi ngược lại với đạo đức, văn hóa dân tộc. Những việc làm đó thể hiện sự kém hiểu biết, sự vô ơn của con người. Chúng ta cần tỉnh táo khi tiếp xúc với những người ấy.
Vậy thanh niên ngày nay làm thế nào để có thể giữu gìn truyền thống văn hóa dân tộc? Trước hết, thanh niên cần tích cực, chủ động học tập, trau dồi kiến thức, văn hóa, bồi dưỡng và hoàn thiện nhân cách để biết cách ứng xử tốt trước truyền thống dân tộc. Mỗi người cần yêu và tự hào bởi truyền thống của dân tộc mình; sống phù hợp với đạo đức, truyền thống văn háo dân tộc; ứng xử văn minh trước những hành vi suy đồi đạo đức. Thanh niên cũng cần biết giữ gìn, bảo vệ và quảng bá các cơ sở vật chất có giá trị văn hóa của dân tộc như: di tích lịch sử, tượng đài danh nhân, các loại hình nghệ thuật (hát chèo, hát quan họ, múa rối nước…)…
Nói tóm lại, mỗi người đặc biệt là thế hệ trẻ ngày nay cần có trách nhiệm trong việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc. Không giữu gìn được truyền thống dân tộc chúng ta không còn xứng đáng với thế hệ trước, chúng ta khiến dân tộc đứng trước nguy cơ bị thôn tính. Chúng ta hãy cùng hành động ngay hôm nay!
Bản sắc văn hóa dân tộc là giá trị cốt lõi nhất của nền văn hóa, thể hiện tâm hồn, cốt cách, tình cảm, lý trí, sức mạnh của dân tộc, tạo nên chất keo kết nối các cộng đồng người gắn bó, đoàn kết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Những giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những động lực to lớn đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của quốc gia dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước, giữ nước và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng hòa những giá trị văn hóa bền vững, phản ánh diện mạo, sắc thái, cốt cách, tâm hồn, tâm lý… của một dân tộc, được thường xuyên hun đúc, bổ sung và lan tỏa trong lịch sử dân tộc, trở thành tài sản tinh thần đặc sắc, tạo nên sức mạnh gắn kết cộng đồng và để phân biệt sự khác nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác trong cộng đồng nhân loại.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực còn có mặt tiêu cực của nó đó là nguy cơ xói mòn, phai nhạt và biến dạng hệ thống giá trị trong bản sắc văn hóa dân tộc, sự ru nhập của lối sống tư sản, suy giảm thuần phong mỹ tục, sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Thanh niên là lực lượng xung kích, sáng tạo có vai trò quan trọng to lớn trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, họ là lực lượng trực tiếp tham gia bảo vệ, giữ gìn, bổ sung, phát triển và quảng bá những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc thông qua việc thực hiện nội dung, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, để phát huy vai trò của thanh niên với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay chúng ta phải thực hiện có hiệu quả một số nội dung, biện pháp cơ bản sau:
Những giá trị tinh hoa văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc được xây dựng và ghi nhận bởi những chiến công hy sinh thầm lặng của biết bao thế hệ người dân Việt Nam. Nó là kết tinh những gì là tinh túy nhất của dân tộc để rồi chính những giá trị đó lại lung linh tỏa sáng, soi sáng con đường chúng ta đi. Không chỉ bây giờ mà mãi mãi về sau những giá trị tinh hoa văn hóa của dân tộc sẽ là hành trang, động lực để cho thanh niên Việt Nam chúng ta tiến vào kỷ nguyên mới tô thắm nên truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc.
đất nước đang trong quá trình hội nhập quốc tế,giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là một vấn đề quan trọng.ý thức của các thanh niên việt nam trong vấn đề này là một vấn đề rất đáng quan tâm suy nghĩ.vấn đề này được xem xét về cả hai mặt.mặt khách quan là sự tác động của môi trường sống và của bối cảnh hiện tại.chủ quan là sự vận động trong tư duy của đối tượng;các thanh niên các thiếu niên quan tâm.với một ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa của thanh thiếu niên như vậy đang tác đọng xấu đến bộ mặt văn hóa dân tộc.xã hội việt nam phải cùng nhau chung tay giữu gìn bản săc sắc hóa của dân tộc.bản sắc văn hóa là những cái riêng của mỗi dân tộc vì vậy nên nó là một nhiệm vụ quan trọng của thế hệ trẻ
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Lòng trắc ẩn có nguồn gốc từ sự thấu cảm. Thấu cảm là khả năng nhìn thế giới bằng con mắt của người khác, đặt mình vào cuộc đời của họ. Giống như cái lạnh thấu tủy hay cái đau thấu xương, thấu cảm là sự hiểu biết thấu đáo, trọn vẹn về một ai đó, khiến ta hiểu được suy nghĩ của họ, cảm được những cảm xúc của họ, và tất cả xảy ra mà không có sự phán xét. Khả năng đọc được tâm trí và tâm hồn của người khác là một khả năng phát triển ở những người mẫn cảm. Thấu cảm khiến ta hồi hộp khi quan sát một người đang đi trên dây ở trên cao, làm chúng ta cùng vui buồn với một nhân vật trong truyện.
Thấu cảm xảy ra trong từng khoành khắc của cuộc sống. Một đứa trẻ ba tuổi chìa con gấu bông của mình cho em bé sơ sinh đang khóc để dỗ nó. Một cô gái nhăn mặt khi theo dõi bạn mình trên giường bệnh chật vật uống một viên thuốc đắng. Mùa EURO 2016 kết thúc với một hình ảnh đẹp; một cậu bé Bồ Đào Nha tiến tới an ủi một fan người Pháp cao to gấp rưỡi mình, đang ôm mặt khóc vì đội Pháp thua trận chung kết. Anh người Pháp cúi xuống ôm cậu bé mà người vẫn rung lên nức nở. Cậu đợi cho tới khi anh đi khuất hẳn rồi mới tiếp tục phất cờ mừng chiến thắng.
(Trích Thiện, Ác và Smartphone - Đặng Hoàng Giang, NXB Hội nhà văn, 2017, tr.275)
Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Câu 2: Theo tác giả, thấu cảm là gì?
Câu 3: Nhận xét về hành vi của đứa trẻ ba tuổi, co gái có bạn bị ốm, cậu bé Bồ Đào Nha được nhắc đến trong đoạn trích.
Câu 4: Anh/Chị có đồng tình với ý kiến: Lòng trắc ẩn có nguồn gốc từ sự thấu cảm? Vì sao?
(Đề thi THPT Quốc gia 2017 môn Ngữ văn)
Câu trả lời của bạn
Bạn bên trên trả lời đầy đủ và đúng rồi đó ^^
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận.
Câu 2. Theo tác giả, thấu cảm là khả năng nhìn thế giới bằng con mắt của người khác, đặt mình vào cuộc đời của họ.
Câu 3. Nhận xét về hành vi của các nhân vật được nhắc tới trong văn bản:
- Đứa bé ba tuổi sẵn sàng chìa con gấu bông của mình cho em bé sơ sinh để dỗ em bé đang khóc.
- Cô gái nhăn mặt cảm nhận được cái đắng ngắt của vị thuốc mà bạn mình đang phải uống.
- Cậu bé Bồ Đào Nha an ủi một cổ động viên người Pháp sau trận chung kết EURO 2016.
Các hành động ấy, ở nhiều lứa tuổi khác nhau, nhiều nền văn hoá khác nhau, trong những hoàn cảnh không giống nhau nhưng đều thể hiện sự cảm thông, sẻ chia với những buồn đau, mất mát, những khó khăn của người khác - dẫu cho người ấy là bạn hay là đối thủ của mình. Đó là những hành động đẹp, thể hiện sự thấu cảm và lòng trắc ẩn. Những hành động đẹp làm nên vẻ đẹp nhân cách của con người, vẻ đẹp văn hoá của xã hội.
Câu 4. Học sinh có thể nêu quan điểm riêng của mình về vấn đề (đồng ý hoặc không đồng ý hoặc có bổ sung ...) nhưng cần phải lập luận mạch lạc, thuyết phục.
- Đồng ý với ý kiến trên vì lòng trắc ẩn là tấm lòng thương xót người khác một cách kín đáo, sâu xa. Chỉ có thể yêu thương người khác khi ta thực sự hiểu họ, đồng cảm với họ. Và để làm được điều đó, ta phải biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, đồng cảm với người khác. Đó chính là sự thấu cảm. Vậy thấu cảm chính là nguồn gốc của lòng trắc ẩn.
- Bổ sung: Nhiều khi sự thấu cảm thôi chưa đủ để tạo nên lòng trắc ẩn. Con người cần có tình yêu thương, lòng nhân ái, vị tha. Xã hội cũng cần có sự bao dung và đề cao những giá trị nhân văn. Có như vậy, lòng trắc ẩn, tình yêu thương mới được lan toả trong cộng đồng.
Bài Sự bùng nổ của mùa xuân- thanh thảo . Xác định pt biểu đạt chính của văn bản này..???
Câu trả lời của bạn
PTBĐ chính : Diễn biến , biểu cảm
PTBĐ chính là: Biểu cảm nhé
Câu 4:
_ Hình ảnh thể hiện sự bùng nổ của mùa xuân:
+ Những giọt sương lặn vào lá cỏ
+ Cái mát lành đầy sức mạnh
+ Long lanh bình thản trước vầng dương
+ Hạt giống
+ Những chồi non
_ Thông điệp:
Từ một hiện tượng trong thiên nhiên, Thanh Thảo gợi mở cho ta nhiều suy ngẫm về con người, cuộc sống:
+ Sức sống bền bỉ, mãnh liệt của thiên nhiên, và cũng chính là sức sống bền bỉ, mãnh liệt của con người trước sóng gió cuộc đời.
+ Cách nhìn nhận, khám phá cái đẹp của đời sống: Đời sống vẫn luôn tiềm ẩn những vẻ đẹp kì diệu. Có những sự vật bề ngoài tưởng chừng mong manh, những con người thoạt nhìn rất nhỏ bé, khiêm nhường (như giọt sương, lá cỏ) nhưng lại ẩn chứa một sức mạnh lớn lao, một vẻ đẹp kì diệu (Vẫn giữ lại cái mát lành đầy sức mạnh, Vẫn long lanh, bình thản trước vầng dương).
Xem thêm tại: https://DapAnHay/de-so-11-de-thi-thu-thpt-quoc-gia-mon-ngu-van-c30a48783.html#ixzz5pyiXXEjP
Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong câu sau:
"Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có thuyền mới biết
Biển đi đâu, về đâu."
Câu trả lời của bạn
Biện pháp nổi bật là nghệ thuật ẩn dụ : thuyền như người con trai nhiều khát vọng, biển là cô gái đầy bao dung thực chất là mượn hình ảnh biển và thuyền mà nói về tình cảm của mình sự hiểu nhau của anh và em như thuyền, biển và cả nỗi nhớ họ dành cho nhau...( kết hợp với ẩn dụ là biện pháp nhân hóa?) từ những hình ảnh rất thực của cuộc sống, thi sĩ Xuân Quỳnh đã thẻ hiện được tình yêu cháy bỏng của mình qua những vẫn thơ đầy khát khao với những cung bậc khác nhau của tình yêu; một tình yêu giản dị mà cháy bỏng, cồn cào. Ở đó thấy được cả chất nữ tính của thơ Xuân Quỳnh
hãy nói ngắn gọn nội dung của một quyển sách mà em yêu thích
Câu trả lời của bạn
Có ai mà chưa từng một lần trải qua vị đắng của cuộc sống, lâm vào những tình huống, hoàn cảnh tuyệt vọng, bế tắc và không biết chọn lối đi nào. Và dường như mọi dự định, mọi ước mơ đều sụp đổ, không còn điểm tựa. Cảm thấy hụt hẫng và không muốn làm gì, chỉ có ý nghĩ chấm dứt buông xuôi trôi đi nỗi buồn. Những lúc như vậy hẳn ai cũng cần một động lực để đứng lên và tôi cũng vậy. Tôi đã từng tìm cho mình những cuốn sách về cuộc sống nhằm khắc phục những hạn chế và đưa ra cho mình những bài học kinh nghiệm, cho đến khi tôi tìm thấy cuốn sách ”Hạt giống tâm hồn’’. Cuốn sách đã làm không ít người thức tỉnh về bài học cuộc sống, đem lại sự đồng cảm cho nhiều người.
“Hạt giống tâm hồn” một cuốn sách nổi tiếng về các câu chuyện nghệ thuật sống và giá trị đạo đức được công ty First News Trí Việt góp nhặt, sưu tầm. Bộ sách là nguồn cảm hứng và sự thúc đẩy con người vươn lên trong mọi nghịch cảnh, chiến thắng chính mình và sống xứng đáng với phẩm chất của mình.
Cuốn “Hạt giống tâm hồn” có một câu nói của Oprah Winfey rằng: “Cuộc sống luôn chứa đựng những nổi đau mà ta không thể nào đoán trước được. Thế nhưng hãy tin rằng mọi chuyện buồn điều lướt qua chúng ta rất nhanh như một đoạn phim ngắn”. Cuốn sách đem lại nhiều cảm xúc cho người đọc, mỗi người sẽ có những cảm nhận riêng về cuốn sách. Riêng tôi, sự kiên cường ý chí vươn lên chống lại chông gai của từng nhân vật trong cuốn sách là cảm nhận tôi từ họ.
“Hạt giống tâm hồn” là cuốn sách viết lên những bài học quý giá dành tặng những người đang phải đối đầu với những thử thách mà cuộc sống đem lại, là người bạn tâm sự sát cánh bên ta khi nỗi buồn ập đến, cũng là cuốn sách lấy đi những giọt nước mắt đầy cảm xúc trong trái tim người đọc.
Tôi dường như đã hiểu thêm về cuộc sống này. Có những người bất hạnh và đau khổ hơn ta, nhưng vì họ tin và họ đang thấy những điều kì diệu và tiếp tục cố gắng.
Cuốn sách như một trang mở đầu trong tôi, biến tôi từ con số không và biết đứng lên dần mỗi khi vấp ngã.Đắc tâm nhất ngoài cảm nhận về cuộc sống, tôi đã biết thêm cho mình những bài học quý báu. Trước đó tôi đã đặt ra hàng trăm lý do, hàng trăm câu hỏi làm sao để dẫn đến thành công và làm thế nào để chọn được con đường tương lai tốt . Hầu hết những lý do đó không có câu trả lời và không có cách giải quyết. Nhưng đến giờ, tôi đã tìm thấy câu trả lời trong “Hạt giống tâm hồn” chỉ bằng hai chữ nỗ lực.
“Hạt giống tâm hồn” như một phép màu kì diệu mách chúng ta khi gặp phải thử thách, những khó khăn tưởng chừng như không vượt qua nhưng chỉ cần có ý chí và niềm tin bạn sẽ vượt qua những khó khăn đó và chạm đến đích thành công.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, nếu chúng ta mang một sức mạnh ý chí, gạt đi những giọt nước mắt đau khổ để đứng dậy, sẵn sàng đối mặt với những khó khăn đó thì ta sẽ nhận ra: Đằng sau những giọt nước mắt đó vẫn còn một niềm vui và hạnh phúc và trái lại nếu dễ dàng vứt kiếm buông xuôi thì ta chỉ nhận được thất bại song song với những nỗi buồn ám mãi không buông.
Có những lúc tôi thất bại và muốn lùi lại nhưng rồi tôi đã cố gắng bước lên vì “Hạt giống tâm hồn” mang cho tôi sức mạnh vi diệu ấy.
“Hạt giống tâm hồn” cuốn sách mang lại niềm tin cho mọi người và đem lại phần nào thành công cho ta, giúp ta thấy được giá trị của cuộc sống. Cảm ơn “Hạt giống tâm hồn” cuốn sách giúp tôi nhận thức đúng về giá trị bản thân và làm nguồn động lực khi tôi vấp ngã, thất bại trong cuộc sống./.
Cuộc sống cúa chúng ta sẽ kéo dài bao lâu? Không ai trong chúng ta có thể biết được. Chúng ta chẳng biết điều gì sẽ đến vào sáng mai khi chúng ta thức dậy. Vậy mà tôi, bạn, chúng ta liệu chúng ta đã sống hết mình trong cuộc sống này hay chưa? Hay chúng ta chỉ duy trì một cuộc sống đơn điệu, chẳng hề thấy hạnh phúc khi mỗi ngày được tỉnh dậy một cách khỏe mạnh? Tôi đã từng như thế, từng trải qua những tháng ngày đơn điệu, vô hồn của tuổi trẻ, cho đến khi bắt gặp hình ảnh Saitou Aya trong tác phẩm nhật ký của cô – “Một lít nước mắt”. Cuốn nhật ký ấy đã khiến tôi rơi nước mắt, khiến tôi chợt nhận ra tôi đã thờ ơ với cuộc sống của mình đến mức nào!
Có lẽ nhiều bạn trong giới trẻ chúng ta hiện nay không hào hứng với những cuốn sách, các bạn không quan tâm, không muốn mất thời gian của mình vào chúng mà thay vào đó, các bạn sử dụng các thiết bị điện tử thông minh như Smartphone, Ipad, … Theo thống kê của thế giới, Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ đọc sách ít nhất thế giới, chỉ khoảng 0,7 cuốn/ năm so với Nhật Bản là 55 cuốn/ năm hay quốc gia Do Thái là 88 cuốn/ năm. Có lẽ rằng sách không cuốn hút các bạn bằng máy tính, smartphone, tivi hay ipad, … nhưng giá trị mà sách mang lại cho bạn vô cùng to lớn. Đó là nguồn tư duy khổng lồ, tri thức vô hạn, những cảm xúc chân thành. Sách chưa cuốn hút các bạn có lẽ bởi vì các bạn chưa tìm thấy cuốn sách của chính mình. Với tôi, cuốn sách đã thay đổi nhận thức của tôi với cuộc đời, cho tôi thêm tri thức và niềm tin, biến đổi cả cuộc sống của tôi, đó chính là “Một lít nước mắt”.
“Một lít nước mắt” là cuốn nhật ký của một cô bé người Nhật, mười bảy tuổi, tên là Kitou Aya. Cuộc sống của cô bé vốn vẫn bình thường, êm đềm trôi qua cho đến một ngày cô bé đột nhiên bị ngã quỵ ở trên đường đi học về và cha mẹ cô đã quyết định đưa cô vào bệnh viện. Các bác sĩ đã chẩn đoán cô bé bị mắc căn bệnh nan y “thoái hóa dây thần kinh tiểu não”. Căn bệnh ấy khiến cho người mắc sẽ dần trở nên yếu đuối, không thể khống chế được cơ thể của mình nữa, không thể tiếp tục các hoạt động như một người bình thường được nữa. Aya đã bị cầm tù trong chính cơ thể của mình, thân thể cứ ngày một yếu đi, từ một học sinh năng động, khỏe mạnh, Aya trở nên dần yếu hơn, từ việc phải từ bỏ các môn học thể thao yêu thích như chạy bộ, cầu lông, … leo cầu thang cũng trở thành một nỗi mệt nhọc lớn. Thế nhưng, vượt lên trên tất cả, Aya đã cố gắng từng ngày từng ngày, cố gắng học tập, cố gắng giao tiếp và cả động viên mọi người nữa. Aya luôn muốn trở thành một người có ích, không làm phiền tới ai dù đang mắc bệnh nặng. Từ việc leo cầu thang lên lớp, tới việc đi vệ sinh, Aya đều muốn tự làm, cô luôn thấy mình thật có lỗi khi bắt mọi người phải chăm sóc mình. “Mình thật có lỗi quá!” Aya đã nói vậy khi một người bạn nhẫn nại giúp cô leo từng bậc cầu thang.
Từng trang nhật ký của Aya là minh chứng cho tinh thần chiến đấu với bệnh tật tới cùng, luôn lạc quan, vui vẻ, mạnh mẽ và không bao giờ được bỏ cuộc. Gia định của Kitou Aya đã rất đau khổ, nhưng chính Aya lại là người vực lại tinh thần cho cả nhà. Có lẽ ai đọc qua cũng không khỏi ám ảnh hình ảnh của Aya khi cô phải bò trên sàn nhà bằng cả chân và tay để di chuyển, mẹ của Aya ở phía sau đã cùng bò với con gái mình. Và khi cô bé bật khóc vì quá đau đớn, người mẹ ấy cũng đã bật khóc cùng người con của mình. Thế nhưng chính Aya lại động viên mẹ mình rằng: “Mẹ ơi, mẹ đừng khóc, con sẽ không đau nữa mà!” Tuy không thể thực hiện được ước mơ trở thành một giáo viên như mong ước, nhưng những trang nhật ký thấm đẫm nước mắt của Aya đã truyền cảm hứng cho hàng triệu độc giả trên khắp thế giới. Và câu chuyện về một Aya mạnh mẽ, luôn yêu đời, nghị lực sống của cô có lẽ luôn sống mãi trong lòng mỗi người khi được đọc từng trang nhật ký ấy.
Đọc hết tất cả những trang nhật ký của Aya, tôi mới nhận ra mình đã luôn vô tâm tới mức nào! Tôi không hề cảm thấy biết ơn vì cuộc sống đã cho tôi khỏe mạnh để học tập, không hề biết nhẫn nại thực hiện những điều nhỏ nhặt. Và chính “Một lít nước măt” đã giúp tôi thay đổi nhân sinh quan của mình về cuộc đời. Cuộc đời vốn chẳng mắc nợ tôi điều gì cả. Vậy nên tôi phải sống làm sao để luôn được là mình trọn vẹn từng ngày, sống trọn vẹn từng khoảnh khắc. Aya – cô bé mạnh mẽ mới mười bảy tuổi ấy đã dạy tôi phải biết vươn lên trong mọi hoàn cảnh dù hoàn cảnh đó có khắc nghiệt đến thế nào thì chắc chắn bằng tinh thần của mình, chúng ta sẽ vượt lên trên tất cả. Bài học về lòng dũng cảm, về tinh thần lạc quan, mạnh mẽ ấy đã khiến cho tôi thêm niềm tin vào cuộc sống, thêm trân trọng từng khoảnh khắc được sống. Và hơn thế nữa, tôi nhận ra rằng dù bất cứ điều gì xảy đến với tôi, gia đình sẽ là người luôn luôn song hành, luôn ủng hộ và yêu thương tôi, dù tôi có ra sao đi chăng nữa.
Nếu ai đó đang dần mất đi niềm tin vào cuộc sống, cảm thấy cuộc đời của mình thật không trọn vẹn thì hãy thử một lần lật giở từng trang nhật ký “Một lít nước mắt” của Aya Kitou. Tôi không biết bạn sẽ nhận được gì từ cuốn sách, nó có chạm đến được trái tim của bạn hay không, nhưng chắc chắn tinh thần, ý chí mạnh mẽ của Aya, niềm mong mỏi được sống, được vui chơi, mơ ước của cô bé mười bảy tuổi ấy sẽ khiến bạn phải khâm phục! Biết đâu đấy, sau khi đọc xong cuốn sách này, khi tỉnh dậy vào một buổi sáng, bạn chợt nhận ra rằng: Cuộc đời mình thật tươi đẹp biết bao!
Mỗi chúng ta ai ai cũng đều có những sở thích của riêng mình và bản thân tôi cũng vậy, tôi luôn đam mê đọc sách, tôi thích rất nhiều thể loại sách, những cuốn sách để lại cho tôi nhiều ấn tượng nhất có lẽ là cuốn Đắc Nhân Tâm của tác giả Dale Carnegie.
Cuốn sách này mang lại cho tôi rất nhiều nhiều kiến thức hay trong cuộc sống, nó dạy tôi cách làm người, cách đối nhân xử thế và dạy tôi biết cách cư xử đúng mực với mọi người xung quanh. Con người có lẽ ai cũng có những cái yêu thích của riêng mình và tôi nghĩ rằng việc đọc sách mang lại cho tôi rất nhiều những kiến thức bổ ích. Nó giúp tôi phát triển thêm tư duy, học hỏi được nhiều bài học quý báu từ cuộc sống.
Sách vở đó là tài sản tinh thần của con người, chính vì vậy, mỗi tác giả đều cố gắng chắt lọc những cái cần thiết và quan trọng nhất mà mình tích lũy được để viết lên những cuốn sách để đời. Tài sản của mỗi con người là khác nhau và bản thân tôi nghĩ rằng tài sản mà tôi có được đó là việc tích lũy vốn tri thức mà ngày ngày tôi đang dần học hỏi và rèn luyện, đó là thứ tài sản quý báu, không phải dùng bằng tiền có thể mua được, tôi phải bỏ thời gian, công sức, tài sản của mình ra để học hỏi và có được nó, chính vì vậy tôi luôn trân trọng và phát huy nó mỗi ngày.
Ngày nay xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu và thi hiểu đọc sách của người đọc cũng càng ngày càng giảm dần, chính vì thế sách vở ngày càng mất đi giá trị của nó. Công nghệ ngày càng hiện đại con người dường như quên đi nhiều thứ có giá trị của cuộc sống, họ luôn tích lũy cho mình vốn tri thức từ cuộc sống, nhưng dường như quên đi nhiều thứ, đang ra cần trân trọng và giữ gìn nó mỗi ngày. Chúng ta cần phải biết sống một cách có ý nghĩa, có như vậy khi ngoảnh lại, chúng ta mới không cảm thấy luyến tiếc vì những gì đã xảy ra với chính mình.
Đắc Nhân Tâm có lẽ là cuốn sách mà tôi thấy nó hữu ích nhất, trong những cuốn sách mà tôi đã từng đọc, nó không chỉ làm cho tôi hiểu được nghệ thuật thuyết phục con người, biết cách sống đúng đắn hơn cho cuộc sống này, mà còn cung cấp cho ta vốn tri thức lớn. Tác giả là người hiểu rộng, tài cao, chính vì thế, những câu từ mà ông viết lên cũng luôn giàu giá trị biểu tượng, con người cần phải học hỏi, trân trọng và giữ gìn những tài sản vô giá này, đó là tài sản quý báu mà chúng ta nên học hỏi, giữ gìn và phát huy được giá trị tuyệt vời của nó.
Phân tích hình ảnh chiếc thuyền trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
Câu trả lời của bạn
Một tác phẩm hay hấp dẫn và thành công không chỉ ở nội dung và hình thức mà còn là ở hình tượng của tác phẩm đó. Hình tượng có thể là con người và cũng có thể là vật, miễn sao sự vật con người ấy nói lên được ý nghĩa mà nhà văn muốn truyền tải tới bạn đọc. Nếu như Nguyễn Tuân lấy hình tượng con sông Đà để giới thiệu vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của nó thì Nguyễn Minh Châu lấy hình tượng chiếc thuyền ngoài xa để nói lên những dụng ý nghệ thuật của mình. Vậy dụng ý nghệ thuật của nhà văn qua hình tượng ấy là gì?
Chiếc thuyền ngoài xa được Nguyễn Minh Châu sáng tác trong thời kì đổi mới của đất nước. Khi ấy xã hội đang trên đà phát triển, kinh tế phát triển theo xu hướng hàng hóa nhiều thành phần và hàn gắn vết thương chiến tranh đi lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước có nhiều cái mới tốt đẹp văn minh hơn nhưng đồng thời vẫn có những mảng tối mà nhà nước không thể đi sâu hết được. Cho nên với ý thức của một người nghệ sĩ Nguyễn Minh Châu không hổ danh là người mở đường tinh anh khi sáng tác thành công truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Trong truyện ngắn ấy ngoài những hình tượng người đàn bà hay người nghệ sĩ Phùng thì chúng ta đặc biệt ấn tượng với hình tượng chiếc thuyền ngoài xa.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm đã là một ẩn ý nghệ thuật về hình tượng này. Chiếc thuyền ngoài xa theo nghĩa tả thực thì nó chính là không gian sinh sống của những cặp vợ chồng làng chài. Nó là những chiếc thuyền mưu sinh của con người đánh cá. Nói một cách khác đi thì đó chính là nhà của họ. Thế nhưng nếu như chỉ hiểu theo nghĩa tả thực kia thì chẳng có gì gọi là ẩn ý ở đây cả.
MỞ BÀI
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”. Và quả thật ông đã đào sâu vào các tầng sâu lịch sử, phát hiện ra con người và cuộc sống với nhiều nghịch lí để đi đến một triết lí nào đó. Trong các tác phẩm của mình Nguyễn Minh Châu đã thể hiện điều này như một sở trường.
- Trong Bức tranh, Mảnh trăng cuối rừng, Bến quê và đến Chiếc thuyền ngoài xa ta vẫn bắt gặp nghịch lí trong cuộc sống mà Nguyễn Minh Châu đã phát hiện ra và lấy nó làm tâm điểm để xây dựng tác phẩm.
II. THÂN BÀI
Truyện Chiếc thuyền ngoài xa là phát hiện về đời sống và con người trong nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, chằng chịt. Bao nghịch lí đời thường được mở ra: một người trưởng phòng thông minh muốn có tờ lịch "tĩnh vật hoàn toàn” nhưng thực tế không thể tước bỏ được hình ảnh con người; một nghệ sĩ săn được cảnh thuyền và biển thật đẹp thì chính từ cảnh đó lại xuất hiện những cái thật xấu một người đàn bà bị chồng hành hạ vô lí nhưng không bao giờ muốn từ kẻ bỏ độc ác ấy; những chiến sĩ nhiệt thành từng chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể làm thế nào để giải thoát cho một người đàn bà bất hạnh v.v.. Đây là những minh chứng sinh động cho cách nhìn đa diện của Nguyễn Minh Châu, như chính ông từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử".
1. Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh
a) Phát hiện thứ nhất
Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đã tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh, đã dự tính bố cục, đã "phục kích" mấy buổi sáng để "chộp” được một cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ đẹp "trời cho" trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: "... trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới... toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp... tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần tâm hồn". Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp, cái tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mơ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mĩ, thấy tận tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng nạn của cuộc đời.
b)Phát hiện thứ hai
Nếu phát hiện thứ nhất của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy thơ mông thì phát hiện thứ hai lại đầy nghịch lí, nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã từng có "cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại", anh đã từng chiên nghiệm "bản thân cái đẹp chính là do đạo đức", vậy mà hoá ra đằng sau cái đẹp "toàn bích, toàn thiện" mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là "đạo đức", là "chân lí của sự hoàn thiện". Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ một phương cách để giải toả những uất ức, khổ đau. Phùng đã từng là người cầm súng chiến đấu để có vẻ đẹp thanh bình của thuyền, biển mênh mông, không thể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô hạo. Nhưng anh chưa kịp công ra thì thằng Phác, con lão đàn ông đã kịp để che chở cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ hai, khi lại phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thể hiện được bản chất người lính không thể làm ngơ sự bạo hành của cái ác. Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hình thật khủng khiếp, ghê sợ.
2. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài
Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người như Phùng và Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô lí. Bề ngoài, đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khổ “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng", vậy mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy. Chỉ qua những lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng thương đó mới thấy nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hi sinh của bà là tình thương vô bờ đối với những đứa con: "... đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng đến dưới chục đứa... phải sống cho chứ không thể sống cho mình...". Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không thể khác được. Trong khổ triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: "Vui nhất là lúc nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...", "trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ"; ”ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn..." Qua câu chuyện của người đàn bà càng thấy rõ; không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận sự việc, hiện tượng của cuộc sống.
3. Cảm nghĩ của tác giả về các nhân vật trong chuyện
a) Người đàn bà hàng chài
Tuy không có tên tuổi cụ thể, một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả lập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này. Trạc ngoài 40 tuổi, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với "khuôn mặt mệt mỏi", người đàn bà ấy gợi ấn tượng về cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ. Bà thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau, khi bị chồng đánh "không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách trốn chạy", bà coi đó là lẽ đương nhiên, chỉ đơn giản bởi trong cuộc mưu sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khoẻ mạnh và biết nghề, chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên: "...Tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài" - một sự cam chịu nhẫn nhục như thế thật đáng để chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việl Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hi sinh.
b) Lão đàn ông độc ác
Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến "anh con trai cục tính nhưng hiền lành" xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác. Cứ khi nào thấy khổ quá là lão đánh vợ, đánh như để giải toả uất ức, để trút cho sạch nỗi tức tối, buồn phiền: "lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong đời vẫn có những kẻ như thế, nói như Nam Cao trước kia, chỉ để thoả mãn lòng ích kỉ. chúng tự cho mình cái quyền được hành hạ mọi người. Lão đàn ông "mái tóc tổ quạ", "chân chữ bát", "hai con mắt đầy vẻ độc dữ" vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên biết bao đau khổ cho chính những người thân của mình. Phải lảm sao để nâng cái phần thiện, cái phần người trong những kẻ thô bạo ấy.
c) Chị em thằng Phác
Trong một gia đình mà bố mẹ có chuyện lục đục, đáng thương nhất là những đứa trẻ. Chúng bị đẩy vào tình thế thật khó xử: biết đứng về phía ai, biết làm thế nào để trọn đạo làm con? Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lí. Chắc trong lòng cô bé tan nát vì đau đớn: bố điên cuồng hành hạ mẹ; chỉ vì thương mẹ mà thằng em định cầm dao ngăn bố... Cô bé kúc ấy là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương, cô đã hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi mẹ phải đến toà án huyện. Còn thằng Phác lại thương mẹ theo kiểu một đứa con còn nhỏ, theo cáo cách một đứa con trai vùng biển: nó "lặng lẽ đưa má ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những nốt rỗ chằng chịt", nó "tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Mặc dù thật khó chấp nhận kiểu bảo vệ của nó, nhưng hình ảnh thằng Phác vẫn khiến người ta cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào.
d) Người nghệ sĩ nhiếp ảnh
Vốn là người lính chiến từng vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền lúc bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra ngay sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác. Mới đầu, chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ và người vợ nhẫn nhục chịu đựng, Phùng hết sức "kinh ngạc", anh "há mồm ra mà nhìn", rồi sau như một phản xạ tự nhiên, anh "vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới". Hành động ấy nói được nhiều điều. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.
4. Nét nghệ thuật độc đáo
a) Cách tạo tình huống truyện
Ở tác phẩm này, nét độc đáo trong xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu là cách tạo tinh huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Nếu coi tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Nếu coi tình huống là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người, thì với Phùng, việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ là một sự kiện như thế. Trước đó, Phùng nhìn đời bằng con mắt của một nghệ sĩ, anh rung động, say mê trước vẻ đẹp "trời cho" của thuyền và biển sớm mai. Chính trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn nhất, anh bất ngờ chứng kiến đôi vợ chồng từ con thuyền "thơ mộng” bước xuống, rồi lão đàn ông đánh vợ một cách dã man và vô lí, tình huống đó được lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ chứng kiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng mà còn thấy được thái độ, hành động của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha với mẹ. Từ đó đến cuối truyện, Phùng đã có một cách nhìn đời khác hẳn. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài ấy, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu sâu thêm bản chất người đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình. Tình huống truyện đã được Nguyễn Minh Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn để phát hiện tính cách nhìn người, phát hiện sự thật cuộc đời.
b) Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật
Người kể chuyện ở đây là nhân vật Phùng. Việc chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời thường của tình huống truyện, lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.
Ngôn ngữ các nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: Giọng điệu lão đàn ông thật thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ đầy vẻ tục tằn, hung bạo: những lời của người đàn bà thật dịu dàng và xót xa khi nói với con, thật đớn đau và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của mình: những lời của Đẩu ở toà án huyện là giọng điệu của một naười tốt bụng, nhiệt thành,... Việcsử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần khắc sâu thêm chủ đề - tư tưởng của truyện ngắn.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *