Bài học giúp các em nắm được một cách hệ thống và biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo những kiến thức cơ bản về văn học Việt Nam và văn học nước ngoài đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 12 học kì 1.
Để nắm vững kiến thức phần văn học chương trình học kì 1 lớp 12, các em có thể tham khảo thêm bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Trình bày những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp M Solokhop
Câu trả lời của bạn
Sôlôkhốp đã từng sống ở Matxcơva, làm đủ mọi ngành nghề: lao công, khuân vác, kế toán, thợ xây… để sinh sống và để thực hiện “giấc mơ viết văn”. Ngoài giờ làm việc ông đến tòa soạn báo Thanh niên, tham gia sinh hoạt nhóm văn học Đội cận vệ trẻ và say mê sáng tác. Ở Matxcơva ông được đăng một vài tác phẩm nhưng không thể định cư lâu dài vì ông cảm thấy “thiếu quê hương’’.
1925, Sôlôkhốp lại trở về vùng sông Đông, bắt tay viết Sông Đông êm đềm. Đây là bộ tiểu thuyết sử thi đồ sộ có thể sánh với Chiến tranh và hòa bình của M. Gorki.
Ông được đánh giá là một nhà văn hiện thực vĩ đại. Theo quan niệm của ông, chủ nghĩa hiện thực ở thời đại cách mạng tư tưởng “đổi mới, cải tạo cuộc sống vì hạnh phúc của con người”.
Các tác phẩm nổi tiếng của Sôlôkhốp là Đất vỡ hoang, Sông Đông êm đềm, Họ chiến đẩu vì Tổ quốc, Số phận con người…
* Cuộc đời:
- Mikhaiin SôlôKhôp là nhà văn hiện thực vĩ đại Nga sinh năm 1905 , mất 1984 , xuất thân trong một gia đình nông dân vùng thảo nguyên cạnh sông Đông .
- Ông rất gắn bó với con người và cảnh vật quê hương trong những bước chuyển mình đau đớn và phức tạp của lịch sử . Chính vì thế tác phẩm của ông thấm đẫm hơi thở và linh hồn của cuộc sống vùng sông Đông .
- Sôlô Khốp là người trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại , ông thấu hiểu được những nỗi khổ đau và số phận con người trong cuộc chiến tranh . Chính điều này đã tạo ra một bước ngoặc trong các sáng tác của ông .
* Sự nghiệp :
-Sôlô Khôp là nhà văn xuất sắc của nước Nga , ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị như : Những truyện ngắn sông Đông , Sông Đông êm đềm , Số phận con người , Đất vỡ hoang ,…
- Sôlô Khôp được trao tặng giải thưởng nô ben về văn học năm 1965
Mác nói rằng:" Đức tính quý nhất ở người phụ nữ là tính dịu dàng. Theo em ý kiến trên có đúng ko. Phụ nữ hiện nay cần những phẩm chất nào
Bạn nào giúp mình đi. Mình đang rất cần
Câu trả lời của bạn
Ý kiến trên đúng.
Nhưng phụ nữ hiện nay cũng cần một số đức tính khác như: duyên ngầm, thông minh và có chính kiến, biết chăm sóc gia đình, có khiếu hài hước, độc lập, tự chăm lo được cho bản thân, linh hoạt, hảo tâm,...........
~A-men~
Nêu tên những tập thơ chính và những nét đặc sắc về nghệ thuật thơ của L. Aragon ?
Câu trả lời của bạn
Nêu tên những tập thơ chính và những nét đặc sắc về nghệ thuật thơ của L. Aragon
* Tác phẩm tiêu biểu :
+ Enxa (1959)
+ Đôi mắt Enxa (1942)
+ Anh chàng say đắm Enxa (1963) ,...
* Nghệ thuật thơ Aragon:
+ Không sử dụng các loại dấu chấm câu
+ Xóa nhòa ranh giới giữa thơ và văn xuôi bằng việc kéo dài câu thơ.
+ Thường sử dụng biện pháp lặp đi lặp lại.
Phân tích đoạn thơ sau:
“Em ơi buồn làm chi
...
Sao xót xa như rụng bàn tay
(Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm )
Câu trả lời của bạn
Hoàng Cầm là một nhà thơ yêu nước, trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Là người con của quê hương Kinh Bắc xưa nên Hoàng Cầm không chỉ kế thừa những truyền thống văn hóa tốt đẹp của quê hương, mà còn thể hiện trong những trang văn của mình một tình yêu tha thiết dành cho quê hương. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” là bài thơ tiêu biểu cho nguồn cảm xúc dạt dào, vô hạn ấy. Viết về quê hương bằng tất cả những tình yêu chân thành, sâu sắc nhất nên người đọc cảm nhận ở bài thơ này những cảm xúc chân thật, sống động nhất của Hoàng Cầm. Đặc biệt, thông qua khổ thơ đầu nhà thơ vừa gợi mở cho người đọc những ấn tượng đầu tiên về bức tranh quê hương nhiều màu sắc, những hình ảnh, những địa danh được mở ra đều quá đỗi giản dị, chân quê nhưng nguồn cảm xúc chứa đựng trong đó thì dạt dào khiến người đọc cảm thấy choáng ngợp.
Bài thơ “Bên kia sông Đuống” được Hoàng Cầm sáng tác trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, đó là khi nhà thơ đang hoạt động cách mạng ở núi rừng Việt Bắc thì nghe tin quê hương mình bị thực dân Pháp đánh phá. Với tình yêu mãnh liệt dành cho quê hương, cùng sự đau lòng khôn xiết trước thực tế phũ phàng, ngay trong đêm nhà thơ Hoàng Cầm đã sáng tác bài thơ “Bên kia sông Đuống”, vừa thể hiện sự xót xa trước thực tại bị tàn phá, đóng chiếm của quê hương vừa là thể hiện lòng tự hào về những giá trị truyền thống của dân tộc. Mở đầu bài thơ, tuy cảm xúc vẫn đang khắc khoải, trực trào ra bên ngoài nhưng giọng thơ vẫn thể hiện sự điềm tĩnh, da diết, đó chính là lời tâm tình của nhà thơ:
“ Em ơi, buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống”
Gợi ý phần thân bài
1. Đại ý: Đoạn thơ là một cái nhìn toàn cảnh về quê hương Kinh Bắc từ quá khứ đến hiện tại
2. Hai câu đầu:Cần khai thác:
- Giọng điệu câu thơ như một lời an ủi vỗ về, lời hứa hẹn trở về quê hương.
- Nhân vật “em” là một hình tượng nghệ thuật, là sự phân thân của tác giả để tạo ra đối thoại nhằm mục đích để tác giả bày tỏ nỗi buồn trước hoàn cảnh quê hương bị giặc tàn phá.
- Hình ảnh sông Đuống vừa mang ý nghĩa tả thực chỉ con sông ở Kinh Bắc vừa mang ý nghĩa biểu trưng chỉ quê hương Kinh Bắc.
- Nghệ thuật phối thanh: Sử dụng chủ yếu thanh bằng, nhạc điệu nhẹ nhàng phù hợp để an ủi vỗ về nỗi buồn.
3.Hình ảnh quê hương trong quá khứ:
- Hình ảnh:cát trắng phẳng lì / lấp lánh ->miêu tả vẻ đẹp tươi tắn, rực rỡ của con sông
- Hình ảnh : trôi đi miêu tả dáng chảy êm đềm, gợi liên tưởng đến sự thanh bình yên ả của quê hương trong quá khứ.
- Các từ láy biêng biếc, xanh xanh cùng với các từ liệt kê các cây hoa màu như ngô, khoai, mía, dâu gợi nên tính chất trù phú của vùng đất Kinh Bắc
=> Đoạn thơ thể hiện niềm tự hào của tác giả về Kinh Bắc trong quá khứ. Đó là một vừng đất tươi đẹp, thanh bình và trù phú.
4. Kinh Bắc trong hiện tại: Câu thơ “Sông Đuống nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ” đã sử dụng biện pháp nhân hóa, miêu tả con sông như một sinh thể sống động có hồn, có tâm trạng. Tư thế “Nằm nghiêng nghiêng” là một tư thế chứa đựng niềm lo âu, trăn trở của tác giả trước hiện tại của quê hương.
5. Tâm trạng tác giả: Tập trung thể hiện ở hai câu cuối.
- Thông qua việc sử dụng điệp câu hỏi tu từ, tác giả nhấn mạnh tâm trạng ngổn ngang : nhớ - tiếc - xót xa trước hoàn cảnh quê hương.
- Nghệ thuật so sánh “Xót xa như rụng bàn tay” nhằm cực tả nỗi đau, nỗi đau như cứa vào da thịt. Từ nỗi đau đó, ta cảm nhận quê hương là một phần trong đời sống của tác giả. Điều đó thể hiện tình cảm sâu sắc của Hoàng Cầm đối với quê hương.
Nêu hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Kính gửi cụ Nguyễn Du” ?
Câu trả lời của bạn
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Kính gửi cụ Nguyễn Du” :
- Tháng 10 và tháng 11/ 1965, Tố Hữu có chuyến đi công tác vào các tỉnh miền Trung. Khi ấy, cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đã lan rộng vùng khu IV cũ từ Thanh Hóa đến Quảng Bình trở thành tuyến lửa ác liệt
- Trong chuyến đi này, Tố Hữu đã làm một chùm thơ mang tính thời sự, in đậm những hình ảnh và khí thế của cuộc chiến đấu.
- Cũng trong chuyến đi đó, nhà thơ đã qua huyện Nghi Xuân, quê hương cụ Nguyễn Du đúng vào dịp kỉ niệm 200 năm sinh của đại thi hào Nguyễn Du. Tố Hữu sáng tác “Kính Gửi Cụ Nguyễn Du” – đưa vào tập “RA TRẬN” 1972.
Phân tích cái hay của đoạn thơ sau:
" Ôi! Sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về... Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ."
Câu trả lời của bạn
Bốn cặp lục bát sau Tố Hữu dùng để tả cảnh hè đến và cảnh mùa thu. Nếu như sắc màu chủ đạo của cảnh động là màu xanh điểm vào đó có sắc hoa tươi đỏ, của cảnh xuân là màu trắng hoa mơ, thì của mùa hè là màu vàng tươi đẹp của rừng phách: Ve kêu rừng phách đổ vàng. Đây là một câu thơ vào loại hay nhất của bài thơ Việt Bắc. Câu thơ sáu chữ mà thấy được sự chuyển đổi của cảnh sắc thiên nhiên. Câu thơ ấy ran lên một tiếng ve kêu không dứt trong màu vàng chói chang của rừng phách dưới nắng hạ. Cuối cùng, cảnh thu hiện ra với màu sắc dịu hiền của ánh trăng, màu của mơ ước về cuộc sống hoà bình giữa những ngày gian khổ. Cảnh nào cũng đẹp, mùa nào cũng đáng yêu và mỗi mùa là một bức tranh nên thơ, kì thú.Bức tranh bốn mùa ấy còn ánh lên vẻ đẹp đằm thắm của con người Việt Bắc. Cảnh làm nền cho người và người gắn với cảnh, chúng quyện hoà vào nhau và tô điểm cho nhau. Dường như những cảnh ấy phải có những con người này và nhà thơ đã đưa vào bức tranh Việt Bắc những con người thật bình dị đáng yêu: hình ảnh người lên núi với lưỡi dao lấp lánh ánh nắng cạnh sườn, bàn tay "chuốt từng sợi giang" của người đan nón và "cô em gái hái măng một mình" giữa khúc nhạc ve ran và sắc vàng rừng phách. Cả tiếng hát ân tình nữa cũng làm cho rừng thu êm dịu và ánh trăng hoà bình toả sáng lung linh.Không hiểu Việt Bắc sâu sắc, không yêu Việt Bắc nồng nàn và nhớ Việt Bắc tha thiết thì không thể dựng lên bức tranh quê hương cách mạng đẹp tuyệt diệu và ấm tình người đến thế. Nhưng để có bức tranh này, còn có quan điểm đúng đắn và cách nhìn tiến bộ của nhà thơ cách mạng. Khác với những cái nhìn sai lệch trước đây về miền núi và con người miền núi là nơi "ma thiêng nước độc" vởi những con người dữ tợn, kém văn minh,...) Tố Hữu đã có một :ách nhin đầy thông cảm, thương yêu và ưu ái với quê hương cách mạng. Bức tranh thơ này chính là bắt nguồn từ sự gắn bó chung thủy, từ lòng nhớ thương sâu nặng của nhà thơ đối với cảnh và người Việt Bắc.Tình cảm nhớ thương tha thiết ấy là âm hưởng bao trùm cả đoạn thơ và nhịp điệu dịu dàng trầm bổng của thể thơ lục bát làm cho âm hưởng đó bâng khuâng, tha thiết. Kết cấu của bài thơ Việt Bắc là kết cấu đối đáp, có ta và mình, có người đi kẻ ở, nhưng thực ra đó chỉ là sự phân thân của một chủ thể trữ tình.Câu thơ trên là lời đáp, lời giãi bày của người đi nhưng không hẳn là thế. Nhớ cảnh nhớ người, nhớ đến từng chi tiết sống động như vậy là nỗi nhớ chung của con người đã cùng gắn bó với nhau, đồng cam cộng khổ trong "mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”.Khép lại đoạn thơ là tiếng hát ân tình, thuỷ chung của người chiến sĩ cách mạng miền xuôi, của đồng bào Việt Bắc. Tiếng hát ấy vang trong lòng người đi, luôn nhắc nhớ những ngày tháng nghĩa tình sắt son. Tiếng hát ấy là chiếc cầu nối giữa tấm lòng với tấm lòng, giữa quá khứ, hiện tại và cả tương lai
Bạn tham khảo nha!
Chỉ ra và phân tích nét nghệ thuật độc đáo trong những câu thơ sau:
a. Người giai nhân bến đợi dưới cây già
Tình du khách thuyền qua không buộc chặt.
(Lời kĩ nữ- Xuân Diệu)
Câu trả lời của bạn
Biện pháp tu từ so sánh không sử dụng quan hệ từ cho thấy thân phận của người kĩ trong xã hội xưa thật đáng thương. Họ được ví như cái bến nước chờ đợi “du khách” như con thuyền nay qua bến này, mai qua đợi bến khác, lấy đâu ra sự chung tình? Qua đó, thấy lòng thương cảm mà tác giả dành cho kĩ nữ.
Phép nói quá: Mài gươm -> đá núi mòn; voi uống ->nước sông cạn thể hiện sự lớn mạnh phi thường của nghĩa quân Lam Sơn.
Phép nhân hoá “trăng nhòm khe cửa” (nguyên tác: nguyệt tòng song khích trăng theo vào trong song cửa sổ cho thấy trăng trở thành người bạn tri kỉ, tri âm với thi nhân; thể hiện tình yêu thiên nhiên thiết tha của Bác và thiên nhiên cung trở nên sống động, có hồn hơn trong tình yêu của con người.
Chỉ ra và phân tích giá trị biểu đạt của biện pháp tu từ đc sử dụng:
“Nhà ai mới nhỉ, tường vôi trắng
Thơm phức mùi tôm nặng mấy nong
Ngồn ngộn sân phơi khoai dát nắng
Giếng vườn ai vậy , nước khơi trong ? “
(Mẹ Tơm- Tố Hữu)
Cảm ơn nha!!!!
Câu trả lời của bạn
biện pháp tu từ: biến đổi trật tự cú pháp trong khổ thơ :"Thơm phức mùi tôm...sân phơi"\(\rightarrow\)thể hiện sự trù phú, đủ hạnh phúc, ấm no, cuộc sống mới của một vùng quê biển được thể hiện nổi vật hẳn lên.
Sáng tác của Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh không bao gồm những thể loại nào trong các thể loại sau đây:
A. Văn chính luận | B. Truyện kí |
C. Thơ ca | D.Hò vè |
Câu trả lời của bạn
D, Hò vè
Thấy hàng dài người dân vật vã dắt xe chết máy dưới nước ngập, 3 anh em anh Thắng đã trưng biển ra đường “Cứu hộ sửa chữa xe máy bị ngập nước cho bà con. Miễn phí” và cứu hộ sửa xe 5 tiếng liên tục cho tới khi hết xe bị hư. Ghi nhận hành động đẹp của 3 anh em sửa xe miễn phí, chiều 4.10 Hội Liên hiệp thanh niên VN TP.HCM đã có buổi trao bằng khen cho 3 anh em cứu hộ xe máy bị ngập nước miễn phí trên đường Phan Huy Ích (quận Tân Bình, TP.HCM). Tại phòng trọ của 3 anh em họ, gồm Phạm Như Thắng (25 tuổi), Nguyễn Tài Dũng (28 tuổi, cùng quê Quảng Ngãi) và Nguyễn Mạnh Cường (25 tuổi, quê Bình Thuận), ông Hồ Tấn Đạt, Phó chủ tịch Hội liên hiệp thanh niên VN TP.HCM nói: “Chúng tôi đánh giá đây là một trong những hành động rất là ý nghĩa và nhân văn. Đây là một trong những gương sáng sống đẹp, sống có ích vì cộng đồng”.
1.Nêu nội dung chính của văn bản?
2.Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản?
3.Vì sao 3 anh em anh Tháng được đánh giá là " những gương sáng sống đẹp,sống có ích vì cộng đồng"?
4.Văn bản trên gợi cho anh chị suy nghĩ gì về lẽ sống?Hãy viết đoạn văn nghị luận (khoản 5-7 dòng) trình bày suy nghĩ đó?
Câu trả lời của bạn
1. 3 anh em anh Thắng vào TP.HCM từ năm 2004. Khi mới “chân ướt chân ráo” từ mảnh đất miền Trung lam lũ vào nơi phố thị phồn hoa, cả 3 chọn học nghề sửa chữa xe máy. Thành thạo nghề, cả 3 ra làm thợ thuê cho các cửa hàng với mức lương 5-6 triệu/tháng.
2. ko pít
3. Vì lòng tốt của họ: Thấy hàng dài người dân vật vã dắt xe chết máy dưới nước ngập, 3 anh em anh Thắng đã trưng biển ra đường ““Cứu hộ sửa chữa xe máy bị ngập nước cho bà con. Miễn phí” và cứu hộ sửa xe 5 tiếng liên tục cho tới khi hết xe bị hư.
4. Tự viết đi
Nêu cảm nhận của em về câu thơ sau:"Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn''.
Câu trả lời của bạn
Tiếng hát con tàu là một trong những thành công tiêu biểu cho phong cách thơ Chế Lan Viên: phong cách triết luận - tâm tình. Đó là lúc nhà thơ vừa dồi dào cảm xúc, vừa trĩu nặng suy tư. Tiếng hát con tàu vừa dạt dào tình cảm với đất nước và con người, vừa tràn đầy những suy tư chiêm nghiệm về lẽ đời, lẽ sống của con người, lẽ sống của thơ ca, trong đó có những đoạn đã kết tinh được toàn bộ xúc cảm và ý thơ của toàn bài.
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
Khổ thơ mở đầu bằng một câu giản dị, cất lên từ nguồn cảm xúc mãnh liệt: Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Câu thơ được ngắt thành hai vế, mỗi vế được bắt đầu bằng chữ “nhớ”, tạo cho câu thơ âm hưởng như một điệp khúc. Nó gợi ra hình ảnh một cái tôi, một nhân vật trữ tình chìm đắm trong một nỗi nhớ triền miên. Kỉ niệm này chưa mờ đi, ki niệm khác đã trỗi dậy,., đến câu thứ hai, cảm xúc đã có phần chuyến hóa thành suv tư, đúc kết:
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Nhưng dầu sao đây mới chỉ là một sự khái quát đơn thuần. Phải đến hai câu tiếp theo nó mới thật sự là triết lí, xúc cảm đã kết tinh thành châm ngôn:
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
Câu thơ này là sự đúc kết về một quy luật nhân sinh, một sự kì diệu của tâm hồn, nó đánh động đến tâm linh của tất cả chúng ta. Trong đời ai chẳng từng sống ở những mảnh đất, qua những miền quê, nhất là những cán bộ kháng chiến. Những năm tháng sống với các miền đất ấy, chính là những quãng đời của chúng ta. Những quẵng đời ấy nối tiếp nhau dệt thành cuộc đời mỗi con người. Đúng vậy, đời người là gì nếu chẳng phải là sự kế tiếp tuần hoàn của “ở” và “đi”. Chuyện “ở” và “đi” của con người đã chứa đựng trong đó sự chuyển hóa âm thầm mà chính chúng ta cũng không hay biết. Khi ta ở, nghĩa là khi ta đang sống trong hiện tại, thì hiện tại dường như chưa cho chúng ta thấy tình cảm thật sự của mình. Thậm chí, ta tưởng như miền đất ta đang ở cũng chỉ như bao nhiêu miền đất khác chỉ là nơi đất ở thế thôỉ. Phải đến khi vì một lí do nào đó ta phải từ giã miền đất ấy, quãng đời sống ở đây bỗng trở thành quá khứ, miền đất từng cưu mang ta lùi lại phía sau lưng, bấy giờ ta mới hiểu. Nhìn vào lòng ta, ta mới chợt nhận ra: chính ta đã gắn bó với miền đất kia từ lúc nào ta cũng không hay. Tình cảm cứ âm thầm hình thành, âm thầm cho đất đã hóa tâm hồn. Thì ra, trong những ngày tháng ta đi, mãnh đất từng che chở, nuôi nấng ta vẫn cứ dõi theo ta từng bước, vẫn thầm nhắc ta trở lại, ấy thế mà nhiều lúc ta thật vô tình. Song, kì thực là mảnh đất ấy đã gắn bó máu thịt với ta. Đất đã hóa tâm hồn, nghĩa là miền đất ấy mang trong nó tâm hồn của một cố nhân. Nhưng quan trọng hơn là miền đất ấy đã hóa thành tâm hồn của chính ta. Mảnh đất mà ta từng sống đã trở thành một phần đời ta. Ta không thể hình dung được đầy đủ về cuộc đời mình, nếu thiếu đi những năm tháng sống trên mảnh đất ấy. Những kỉ niệm với mảnh đất kia là một phần cuộc đời ta, là hành trang tinh thần không thể thiếu của ta.. Có lẽ vì thế mà tác giá đã viết Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn! Câu thơ này gợi nhớ đến một câu thơ nồi tiếng của Hoàng Trung Thông.
Bàn tay ta làm nên tất cá.
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.
Câu thơ cuối cùng được viết theo một lối tư duy. Đó là lối đúc kết triết lí dựa vào lô gíc. biện chứng. Cũng phát hiện về sự kì diệu, nhưng nếu Hoàng Trung Thông khám phá ra sự kì diệu của tình cảm. Nói khác đi, đó là thành sự kì diệu của bàn tay và trái tim. sỏi đá thành cơm là một sự biến hóa, nhưng dù sao vật chất cũng mới chỉ là vật chất. Còn đất đá hóa tâm hồn thì quả thật là một sự đột biến, hởi vật chất đã hóa thành tinh thần. Thậm chí, từ dạng thô sơ nhất của vật chất biến thành dạng tinh túy nhất của tinh thần. Khách thể đã hóa thân vào chủ thể, làm thành chủ thể theo cái quy luật ậm thầm đó. Rõ ràng, câu thơ của Chế Lan Viên là một chân lí có tính phổ biến toàn nhân loại, nó không chỉ đúng với một nơi, một thời, mà đúng với hết thảy con người trên thế gian này.
Đoạn thơ này là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ, trong đó có những câu được xem là hay nhất của đời thơ Chế Lan Viên, ở đây, những cảm xúc sâu lắng lại được một suy tư sắc sảo nâng đỡ, cuối cùng nó đã kết tinh thành những câu thơ vừa đẹp, vừa trĩu nặng triết lí. Nghĩa là thành công này rất tiêu biểu cho một phong cách thơ của Chế Lan Viên: triết luận - tâm tình.
GỢI Ý:
Trọng tâm cần bàn luận là tình yêu thương của con người với quê hương, xứ sở; với những miền đất từng gắn bó... Trước khi bàn luận, cần phân tích ngắn gọn và khái quát nội dung câu thơ của Chế Lan Viên:
- Nhà thơ đã khám phá một quy luật muôn đời của trái tim con người: khi ta mới đặt chân đến một nơi nào đó, mọi thứ còn xa lạ nên "chỉ là nơi đất ở". Nhưng khi ta từ biệt nơi ấy ra đi, đất đã lưu giữ một phẩn đời với bao nhiêu kỉ niệm và ân tình nên đã "hoá tâm hồn".
- Sự chuyển hoá kì diệu ấy là "bằng chứng" cho sức mạnh của tình đời, tình người: Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương...
Trong quá trình bàn luận, cần đưa ra những dẫn chứng phù hợp, tiêu biểu để minh hoạ và tăng sức thuyết phục cho hộ thống luận điểm.
đặc điểm văn học lãng mạn giai đoạn 30-45? ai biết trả lời mình với
Câu trả lời của bạn
Văn học lãng mạn Việt Nam (1932 – 1945) – ảnh hưởng sâu sắc của văn học Pháp
– Đây là thời kì thực dân Pháp sang đô hộ VN, chúng dùng chính sách “chia để trị”. Chúng chia nước ra thành ba kì, ba hình thức cai trị khác nhau.
– Về văn hoá, chúng dùng chính sách “nhồi sọ”, đào tạo cho những người tri thức VN bằng nền văn hoá Pháp để chúng ta lệ thuộc vào Pháp. Như chúng ta đã viết, nền văn hoá Pháp là nền văn minh nhân loại, là các nôi của nền văn chương lãng mạn với những cây bút nổi tiếng như: Paul Verlaine, Rim Beau, Paul ELare…rất nhiều nhà thơ VN bị ảnh hưởng trào lưu văn học Pháp để hình thành trên diễn đàn văn chương VN .
– Văn học lãng mạn chia làm hai bộ phận:
+ Thơ mới: gồm những cây bút tiêu biểu như Xuân Diệu (người bị ảnh hưởng nhiều nhất), Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử, Vũ Hoàng Chương….
+ Văn xuôi: Tự lực văn đoàn: Khải Hưng, Nhất Linh, Hoàn Đạo, Thạch Lam thường viết về văn chương thoát ly cuộc đời.
Chống lại lễ giáo Phong kiến, đề cao khát vọng của cái tôi cá nhân trong tình yêu, trong cảm nhận cuộc sống, ca ngợi cõi tiên, ca ngợi vẻ đẹp của đất nước, thể hiện nỗi buồn và sự bế tắc của một bộ phận thanh niên tiểu tư sản đương thời. Thể loại chủ yếu: Thơ ca ( Phong trào Thơ Mới), truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút… Dòng văn học lãng mạn đã có những đóng góp to lớn vào quá trình đổi mới và hiện đại hóa văn học của văn học dân tộc.
Nêu đặc điểm của truyện ngắn hiện đại
Câu trả lời của bạn
THƠ HIỆN ĐẠI : là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng , những cảm xúc, giàu hình ảnh và có nhịp điệu .
là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng , những cảm xúc, giàu hình ảnh và có nhịp điệu .
là 1 thể loại VH,thường đc kể =văn xuôi.Có xu hướng ngắn gọn ,hàm nghĩa, súc tích và thường tập trung vào một tình huống
truyện ngắn đã có lịch sử phát triển lâu dài. Tuy nhiên, truyện ngắn mang dấu hiệu hiện đại chỉ thực sự ra đời ở đầu thế kỉ XX, gắn với sự xuất hiện, nở rộ của báo chí và các hoạt động xuất bản . Lâu nay, dấu hiệu hiện đại của truyện ngắn giai đoạn đầu thế kỷ XX chủ yếu được phân tích qua những phương diện: chủ đề tư tưởng, nhân vật, ngôn ngữ… trong khi nghệ thuật trần thuật nói chung, nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kết cấu nói riêng – những yếu tố quan trọng tạo nên sự biến đổi theo hướng hiện đại của truyện ngắn đầu thế kỷ XX chưa được quan tâm khảo sát một cách toàn diện. Khi xem xét truyện ngắn đầu thế kỷ XX, có thể nhận thấy đặc điểm lớn của nó là sự đan xen cũ - mới trong nghệ thuật trần thuật mà cốt truyện - kết cấu là những phương diện thể hiện rất rõ điều đó. I. Trước hết, xin đề cập tới phương diện cốt truyện của truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỉ XX. Khảo sát ba loại cốt truyện tiêu biểu của truyện ngắn đầu thế kỷ XX: cốt truyện luận đề, cốt truyện có các sự kiện mang tính kịch cao, cốt truyện tâm lý, chúng tôi thấy cốt truyện của truyện ngắn đầu thế kỉ XX một mặt vẫn mang một số đặc điểm của truyện ngắn trung đại, mặt khác đã bước đầu bộc lộ những dấu hiệu hiện đại, mới mẻ đáng ghi nhận. 1. Cốt truyện luận đề Qua khảo sát truyện ngắn luận đề đầu thế kỷ XX như các truyện: Chân tướng quân, Tráng sĩ Cao Thắng, Tước Thái thiền sư của Phan Bội Châu, Một nhà bác học, Câu chuyện gia tình của Nguyễn Bá Học; Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn của Nguyễn Chánh Sắc, Một cánh hoa chìm của Nguyễn Văn Cơ, Bác nghiện của Vũ Miễn Nam, Trên lầm dưới lỗi của Trần Quảng Nghiệp và nhiều truyện khác, chúng tôi thấy những truyện trên do chỉ chú trọng miêu tả sự kiện để hướng tới một khái quát mang tính luận đề, tác giả có xu hướng nói thay nhân vật nên nhân vật bị lu mờ, khô cứng hoặc hầu như không có tính cách.Ví như trong Câu chuyện gia tình của Nguyễn Bá Học, nhân vật bà già được miêu tả với những hành động, lời nói không phù hợp với hoàn cảnh xuất thân của con người bà - một bà mẹ chân quê nhưng lại có thể nói những lời của bậc túc nho. Nhân vật bà già được miêu tả một cách tóm lược và bị biến thành cái loa phát ngôn cho những quan niệm, những thuyết lý đạo đức truyền thống của tác giả. Đây là hiện tượng ảnh hưởng thi pháp truyện ngắn trung đại còn có ở truyện ngắn đầu thế kỷ XX đặc biệt ở các truyện ngắn của thế hệ các tác giả Nho học lúc bấy giờ. Nhưng bên cạnh đó, một số tác phẩm có cốt truyện luận đề đầu thế kỷ XX như truyện Tước Thái thiền sư, Dư sinh lịch hiểm ký… đã bước đầu bộc lộ những dấu hiệu hiện đại, tính cách nhân vật đã có sự vận động, phát triển rõ nét qua nhiều thử thách. Đây là điều chưa được đặt thành vấn đề trọng tâm ở các tập truyện ngắn trung đại. Một dấu hiệu hiện đại nữa trong cốt truyện luận đề đầu thế kỷ XX là nếu cốt truyện luận đề trong văn học trung đại thường cài đặt nhiều chi tiết ly kỳ, sản phẩm của quá trình thần thánh hoá, truyền thuyết hoá theo quan điểm dân gian, tín ngưỡng dân gian thì cốt truyện luận đề của truyện ngắn đầu thế kỷ XX không đi theo hướng đó. Hướng tới tính xác thực của chi tiết, lập luận lôgíc, biện chứng, các truyện ngắn luận đề đầu thế kỷ XX đã có sức thuyết phục và gây ấn tượng nhất định với bạn đọc. Tất nhiên, vì ở vào giai đoạn giao thời nên dấu hiệu hiện đại của kiểu cốt truyện này trong truyện ngắn đầu thế kỷ XX chưa thật sáng rõ. Cốt truyện luận đề của truyện ngắn 1900 - 1932 chưa đạt tới độ nhuần nhị, in sâu vào trí nhớ người đọc với những triết lý sâu lắng như trong các truyện mang tính luận đề của Nam Cao, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu . sau này. Thêm vào đó, trong những truyện ngắn có tính luận đề đầu thế kỷ XX, chưa thấy có những nhân vật có tính cách trọn vẹn, đầy đặn với số phận, cuộc đời nhiều chông gai, nhiều “tì vết” kiểu như những Điền, Hộ trong truyện của Nam Cao, những cô Đào, cô Tấm trong truyện của Nguyễn Khải sau này mà nhân vật của giai đoạn đầu thế kỷ XX thường chỉ hiện lên như một phương diện nào đó của tính cách. Dẫu sao, những dấu hiệu hiện đại của nó cũng đáng được ghi nhận cho buổi đầu hiện đại hoá văn xuôi tự sự Việt Nam, trong đó có truyện ngắn. 2. Cốt truyện có các sự kiện mang tính kịch cao Theo quan niệm truyền thống, truyện phải có những phần lắt léo, những sự kiện mang tính kịch, kết thúc bất ngờ làm mọi người ngạc nhiên. Đó chính là tiền đề cho những truyện có các sự kiện mang tính kịch cao. Nhưng trong quá trình phát triển, loại cốt truyện này cũng có sự biến đổi. Văn xuôi tự sự trung đại thường chỉ chú trọng đến hành động, sự kiện với những nội dung cốt yếu mà không phát triển dông dài, không có yếu tố thừa như ở tiểu thuyết và truyện ngắn hiện đại. Có cảm giác tác giả chỉ quan tâm đến sự kiện mà ít lưu ý tới miêu tả trạng thái tâm lý nhân vật. Đến đầu thế kỉ XX đã bắt đầu xuất hiện những truyện mà số phận, tính cách nhân vật được tập trung khắc hoạ qua những sự kiện, biến cố và qua diễn biến nội tâm. Có thể thấy rõ điều này qua các truyện như: Câu chuyện nhà sư của Nguyễn Bá Học, Tái sinh sinh, Sùng bái giai nhân của Phan Bội Châu . Tái sinh sinh của Phan Bội Châu là một truyện có cốt truyện hấp dẫn. Truyện kể về nhà cách mạng Lệ Mai Tử bị bắt giam vào ngục tối. Lệ Mai Tử đã cùng người học trò của mình lập mưu giả chết để vượt ngục, ra với trời tự do và trở lại cuộc đời hoạt động cách mạng. Truyện Con rùa của Nguyễn Ái Quốc cũng là một tác phẩm có cốt truyện căng thẳng đầy kịch tính với một kết thúc bi hài. Tất nhiên, bên cạnh những tác phẩm như trên còn nhiều tác phẩm có cốt truyện kiểu này nhưng sơ sài, kém hấp dẫn, nặng về thuyết lý như Tráng sĩ Cao Thắng của Phan Bội Châu, Một cánh hoa chìm của Nguyễn Văn Cơ, Bác nghiện của Vũ Miễn Nam . Do chưa khắc họa được những tính cách sống động, nhân vật dường như được xây dựng chỉ để minh họa cho các luận đề tư tưởng của truyện, vì thế mà truyện kém hấp dẫn, nhân vật chỉ là những hình bóng mờ nhạt hoặc cứng nhắc. Ở khoảng mười năm cuối của giai đoạn 1900 - 1930 đã có nhiều truyện ngắn mà các sự kiện trong truyện diễn ra không trùng khớp với thứ tự diễn tiến như trong cốt truyện truyền thống. Những truyện kiểu này thường bắt đầu bằng tính huống có tính cao trào để từ đó mà xoáy sâu vào phản ánh một số hình tượng nhất định, ứng với nó là kiểu kết cấu phá vỡ tuyến tính thời gian như Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn và một số truyện khác của Nguyễn Công Hoan như Oẳn tà roằn, Ngựa người và người ngựa, Răng con chó nhà tư bản, Hai thằng khốn nạn Những truyện này sẽ tạo cho người đọc những ấn tượng nghệ thuật mới mẻ. Ở truyện Sống chết mặc bay, mở đầu đã là cảnh đối lập mang tính cao trào: hình ảnh hàng ngàn sinh linh đang náo loạn trước nguy cơ đê vỡ - một sự kiện có tính đe dọa tới sự sống còn của bao người và cảnh nhân vật quan phụ mẫu vẫn “uy nghi, chễm chệ ngồi .”, ngài vẫn “ù thông tôm, chi chi nẩy, điếu mày!” .Kịch tính cứ được đẩy lên mãi, để rồi kết thúc truyện, người đọc thực sự phẫn nộ trước sự vô lương tâm, vô trách nhiệm và mất hết lương tri của tên quan phụ mẫu đối với mạng sống của bao người dân nghèo khổ. Cũng như vậy, ở truyện Răng con chó nhà tư bản của Nguyễn Công Hoan, tình huống kịch tính của truyện lại đặt vào cuối tác phẩm sau việc người ăn mày vì giành đĩa thức ăn của con chó mà đấm gãy hai chiếc răng của nó. Tên nhà giàu “nghiến răng, nhảy tót lên ô tô nổ máy xình xịch, bật đèn pha lên”, với quyết tâm “ông kẹp cho mày chết tươi rồi ông đền mạng. Bất quá ba chục là cùng!”. Không cần phải nhiều lời bình luận, bản thân hành động ấy đã cho thấy nhà tư bản kia hoàn toàn là một con ác thú, phi nhân tính. Với sự đổi mới trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện như trên, có thể thấy truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX đã có những bước đổi dòng đáng ghi nhận, từ những cốt truyện kịch tính kiểu truyền thống, truyện ngắn đầu thế kỉ XX đã học tập, sáng tạo những cốt truyện kịch tính kiểu văn học phương Tây – vốn là điều mới mẻ với văn học Việt Nam lúc bấy giờ. 3. Cốt truyện tâm lý Trong truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX có một loại cốt truyện hầu như chưa thấy xuất hiện trong văn học trung đại, đó là những truyện không có cốt truyện - còn gọi là cốt truyện tâm lý như Trằn trọc đêm xuân của Mân Châu, Giấc mộng của Công Bình, Giọt lệ hồng lâu của Hoàng Ngọc Phách, Tuyết Nga của Tùng Toàn, À! Chiêm bao của Nguyễn Bá Học . Truyện ngắn Tuyết Nga của Tùng Toàn là một truyện không có cốt truyện. Mâu thuẫn truyện không phải là những mâu thuẫn xã hội mà là mâu thuẫn trong nội tâm nhân vật Thanh Hà: mâu thuẫn giữa việc muốn cưới được người đẹp Tuyết Nga - một mẫu hình người con gái nết na, đoan chính và có học thức với việc giữ được tình huynh đệ với Băng Hồ - người mà Tuyết Nga yêu, mâu thuẫn giữa việc được làm chủ sắc đẹp Tuyết Nga với việc giữ được cốt cách người quân tử. Trọng tâm truyện Tuyết Nga đã chuyển từ sự kiện sang nhân vật, từ những điều trông thấy sang những điều cảm thấy, đó là những xung đột nội tâm trong lòng Thanh Hà để cuối cùng chọn một giải pháp thoả đáng nhất cho tình yêu của mình. Nếu ở truyện ngắn trung đại, các sự kiện luôn giữ vai trò chính yếu thì đến đầu thế kỉ XX đã xuất hiện những truyện mà sự kiện trở nên mờ nhạt, ý nghĩa truyện nhiều khi không còn nằm ở cốt truyện mà nằm ở cách kể, cách sử dụng các chi tiết truyện để miêu tả nội tâm, miêu tả thế giới cảm giác của con người về cuộc sống. Như ở truyện Giọt lệ hồng lâu của Hoàng Ngọc Phách, hầu như không có biến cố hay sự kiện gì đáng kể, chỉ có dòng tâm trạng của cô gái lầu xanh với bao nỗi sầu thương lan tràn trên những trang giấy. Có thể khẳng định với sự xuất hiện của kiểu truyện không có cốt truyện này, những dòng cảm xúc, nội tâm của con người - những vui buồn, hờn giận, ghen tuông, sầu tủi, nhớ mong, hạnh phúc . của con người đã được trải rộng ra trên những trang giấy. Nếu chỉ có kiểu truyện truyền thống nặng về các sự kiện xã hội thì chắc những dòng nội tâm đó không được giãi bày nhiều như thế. Tuy nhiên, trong buổi đầu sinh thành, kiểu truyện không có cốt truyện đầu thế kỉ XX vẫn chỉ là những thử nghiệm. Nhìn chung, những truyện ngắn không có cốt truyện của giai đoạn này còn tạo cảm giác lan man, “dây cà dây muống”, câu văn chưa đạt tới độ tinh tế, nội tâm nhân vật còn giãi bày tràn lan nên chưa có khả năng truyền tới cho người đọc những cái “rùng mình mới mẻ” bởi cách suy tư về tình đời, tình người ý nhị mà sâu lắng như ở những trang văn của Thạch Lam, Thanh Tịnh giai đoạn sau. Như vậy, qua việc tìm hiểu nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong truyện ngắn đầu thế kỷ XX, có thể thấy truyện ngắn đầu thế kỷ XX vẫn còn những cốt truyện chịu ảnh hưởng của thi pháp truyện ngắn trung đại - kiểu cốt truyện gắn bó chặt chẽ với sự kiện, biến cố. Đồng thời đã có những cốt truyện mang dấu hiệu mới mẻ: kiểu cốt truyện đầy kịch tính, bất ngờ góp phần bộc lộ tính cách nhân vật một cách rõ nét và kiểu cốt truyện tâm lí. II. Trong mối quan hệ chặt chẽ với những đổi mới ở phương diện xây dựng cốt truyện, nghệ thuật kết cấu của truyện ngắn đầu thế kỉ XX cũng bước đầu có những dấu hiệu hiện đại đáng ghi nhận. Sau đây, chúng tôi xin trình bày một số kiểu kết cấu cơ bản và những dấu hiệu hiện đại của chúng. 1. Kết cấu đảo lộn thời gian của sự kiện Một trong những hình thức mới mẻ mà truyện ngắn từ đầu thế kỷ XX đem đến trên phương diện kết cấu cốt truyện là sự đảo lộn thời gian của sự kiện - tức là nghệ thuật trần thuật không tuân theo trình tự diễn tiến của cốt truyện tự nhiên theo thời gian tuyến tính (đi từ “nhân” tới “quả”). Các truyện này thường bắt đầu ở phần giữa hoặc phần kết thúc của cốt truyện tự nhiên. Sự tái tạo lại trật tự nghệ thuật cho các sự kiện trong cốt truyện là một đặc trưng của tư duy nghệ thuật hiện đại. Đầu thế kỷ XX đã xuất hiện nhiều truyện có kiểu kết cấu này như: Tái sinh sinh của Phan Bội Châu, Trên lầm, dưới lỗi của Trần Quảng Nghiệp…Đặc biệt kết cấu phá vỡ tuyến tính thời gian xuất hiện nhiều ở các tác phẩm đăng trên Nam phong tạp chí như Nước đời lắm nỗi của Phạm Duy Tốn, Có gan làm giàu của Nguyễn Bá Học… Nguyễn Bá Học là nhà văn thường được đánh giá là có cách viết truyện cũ kỹ, với nhiều tác phẩm có kết cấu theo thi pháp trung đại. Nhưng ngay trong sáng tác của nhà văn này cũng đã có vài truyện có dấu hiệu hiện đại mà Có gan làm giàu là một tác phẩm có sự cách tân trong kết cấu. Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Bá Học mô tả cuộc sống cần kiệm, hạnh phúc của một đôi vợ chồng nghèo. Cho đến một hôm chồng ốm, vợ mới biết bí mật của chồng. Người chồng thuật lại quá khứ và khát vọng vươn lên làm giàu của mình. Rõ ràng đây là kết cấu phá vỡ tuyến tính thời gian. Kết cấu như thế, tác giả muốn chuyển sự chú ý của người đọc từ sự kiện xảy ra bên ngoài sang nội tình bên trong, nhấn mạnh ý chí mãnh liệt của nhân vật .Sự đảo lộn trật tự thời gian của các sự kiện có ý nghĩa không nhỏ trong việc thể hiện nội dung tác phẩm nên kiểu kết cấu này đã rất phổ biến ở truyện ngắn các giai đoạn sau. 2. Kết cấu truyện lồng trong truyện Với truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX, kết cấu truyện lồng trong truyện là một lối kết cấu mới mẻ, thể hiện việc chịu ảnh hưởng phương Tây rõ nét, mà tác phẩm đầu tiên cần kể tới là truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản. Trong truyện Thầy Lazarô Phiền có tới 2 chuyện: chuyện thứ nhất là của nhân vật “tôi” kể cho bạn đọc nghe (việc mình đã gặp thầy Phiền như thế nào, thầy Phiền đã kể lại chuyện đời mình cho nhân vật “tôi” nghe ra sao, nhân vật “tôi” đã biết được kết cục cuộc đời thầy thế nào…). Chuyện thứ hai là của thầy Phiền kể cho nhân vật “tôi” nghe (việc thầy đã lấy được một người vợ đáng yêu như thế nào, thầy đã nghi ngờ và tìm cách giết vợ, để rồi giờ đây đớn đau và hối hận ra sao …). Đây cũng là kết cấu truyện Câu chuyện nhà sư của Nguyễn Bá Học, Tái sinh sinh của Phan Bội Châu, Ôi! Ái tình của Công Bình. Đáng lưu ý là: Ôi! Ái tình cùng với truyện Thầy Lazaro Phiền và Câu chuyện nhà sư không chỉ có chung kiểu kết cấu truyện lồng trong truyện mà còn giống nhau ở cách kết thúc đầy bi kịch. Một đặc điểm đáng lưu ý nữa là ở những tác phẩm có kết cấu truyện lồng trong truyện như vừa nêu trên hai câu chuyện trong một truyện không tách rời mà luôn được chêm xen vào nhau một cách linh họat tạo ra ấn tượng về sự chân thực của chuyện được kể, kéo độc giả lại gần với thế giới nghệ thuật của tác phẩm hơn, đồng thời tạo sự sinh động cho truyện. Kết cấu truyện như thế hoàn toàn mới mẻ đối với truyền thống truyện Việt Nam. Mặt khác, sự đan cài hai câu chuyện vào nhau là một cách thức tạo sự luân phiên điểm nhìn, góp phần làm cho con người nhân vật (nhất là thế giới nội tâm của nó) được xem xét dưới nhiều góc độ và được xây dựng một cách tự nhiên hơn. Đó chính là thế mạnh của kết cấu truyện lồng trong truyện, góp phần tạo dựng cho truyện một nghệ thuật trần thuật hiện đại. 3. Kết cấu dưới hình thức thư từ, nhật ký Một số không nhiều truyện ngắn từ đầu thế kỷ XX đến 1932 có kết cấu dưới hình thức thư từ, nhật ký khá độc đáo. Các truyện ngắn Giọt lệ hồng lâu, Ôi! Thiếu niên, Một bức thư, Duyên nợ trăm năm . thực chất là những lá thư. Với kết cấu theo hình thức lá thư như vậy, những điều riêng tư sâu kín sẽ được thổ lộ, phô bày một cách tự nhiên hơn và nội dung được kể cũng có thể dàn trải, biến hoá linh họat hơn và tạo ấn tượng đậm nét về một cái tôi nhân vật. Nói cách khác, hình thức bức thư thường tạo ra kết cấu mở cho tác phẩm. Văn học thế giới đã có nhiều tác phẩm có kết cấu kiểu này như: Những bức thư gửi từ Ba Tư, Những bức thư gửi từ cối xay gió, Nhật kí tiểu thư John . Trong truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX, tác phẩm có kết cấu dưới hình thức bức thư được đánh giá cao là Vi hành của Nguyễn Ái Quốc. Vi hành còn được coi là một tác phẩm có kết cấu theo tình huống giả định. Tình huống giả định ở đây là sự nhầm lẫn đến tức cười của dân Pháp, chính quyền thực dân Pháp, tưởng “tôi” là Khải Định. Do sự nhầm lẫn đó mà nhân vật “tôi” bất đắc dĩ phải nghe những lời bình luận có vẻ coi thường của dân Pháp dành cho Khải Định - vua bù nhìn xứ thuộc địa. Từ đó mà người đọc hình dung ra chân dung không lấy gì làm đẹp của vua Khải Định. Và tình huống giả định có sự nhầm lẫn giữa Khải Định với những người dân An Nam khác cứ được phóng đại lên mãi, khiến cho mức độ châm biếm ngày càng gay gắt. Ta có thể gặp kiểu kết cấu này ở một số tác phẩm của Ngô Tất Tố như Về chuyện mang nặng đẻ đau hoặc trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng giai đoạn sau. 4. Kết cấu theo mạch phát triển tâm lý Có thể nói đây là kiểu kết cấu mới mẻ nhất trong văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Đó là kiểu kết cấu của những tác phẩm có cốt truyện tâm lí nhằm miêu tả những diễn biến tinh vi, phức tạp của đời sống nội tâm con người. Trong những truyện này, chỉ có một vài sự việc, còn lại là cảm giác, suy nghĩ của nhân vật với những hồi ức, liên tưởng và độc thọai nội tâm. Nếu có sự kiện thì sự kiện chỉ đóng vai trò khơi gợi cho dòng chảy tâm lý. Tiêu biểu cho truyện có kết cấu tâm lý này là những truyện của Thạch Lam (Dưới bóng hoàng lan, Hai đứa trẻ, Gió lạnh đầu mùa .), những truyện của Thanh Tịnh (Tôi đi học .) hay Đời thừa, Giăng sáng . của Nam Cao. Với tinh thần học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa và nghệ thuật văn xuôi tự sự phương Tây, văn học phương Tây, văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX đã xuất hiện những tác phẩm có kết cấu tâm lý mà nổi tiếng là Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách. ở thể loại truyện ngắn cũng đã có một số truyện có kết cấu tâm lý như vậy. Đó là truyện Giọt lệ hồng lâu của Hoàng Ngọc Phách, Trằn trọc đêm xuân (Mân Châu), Tuyết Nga (Tùng Toàn), Mai (Ngô Ngọc Kha) . Đáng chú ý là những tác phẩm có kết cấu tâm lý này đều thuộc khuynh hướng lãng mạn. Giọt lệ hồng lâu là một áng văn trữ tình bằng thư với những lời lẽ ai oán, sầu, thảm, xót xa cho thân phận tủi nhục của những cô gái lầu hồng khi ốm đau, bệnh tật, khi nhạt phấn phai hương. Và truyện cứ thế tiếp diễn theo mạch cảm xúc với những giằng xé trong tâm hồn của cô gái chốn hồng lâu. Độc giả sau khi đọc xong những truyện như thế này thường khó kể lại được nội dung truyện, nếu có thì chỉ tóm lại được ý chính trong vài ba câu ngắn ngủi, nhưng lại rất ấn tượng với những nỗi niềm, cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trong đó. Liên hệ với thơ trữ tình, có cảm giác những truyện ngắn này có một sự tương đồng nào đó với thi ca, hay đúng hơn trong những truyện ngắn có kết cấu theo dòng tâm lý luôn thấm đẫm chất thơ, chất trữ tình. Như vậy, khi xem xét truyện ngắn đầu thế kỉ XX, có thể nhận thấy đặc điểm lớn của nó là sự đan xen cũ – mới trên cả hai phương diện cốt truyện và kết cấu. Vẫn còn không ít truyện nặng về kể sự, lí sự với hình thức tự sự kiểu chương đoạn, kết cấu theo thời gian tuyến tính khá đơn điệu. Nhưng mặt khác, truyện ngắn đầu thế kỷ XX đã có nhiều dấu hiệu hiện đại, thể hiện ảnh hưởng của kết cấu phương Tây, tạo nên sự đổi mới trong nghệ thuật trần thuật. Với những đổi mới đó, truyện ngắn đầu thế kỷ XX đã góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam thế kỉ XX. . số đặc điểm của truyện ngắn trung đại, mặt khác đã bước đầu bộc lộ những dấu hiệu hiện đại, mới mẻ đáng ghi nhận. 1. Cốt truyện luận đề Qua khảo sát truyện. các tập truyện ngắn trung đại. Một dấu hiệu hiện đại nữa trong cốt truyện luận đề đầu thế kỷ XX là nếu cốt truyện luận đề trong văn học trung đại thường
Mọi người giúp em đề này được không ạ? Đề bài: Có ý kiến cho rằng :Văn học việt nam từ thế kỉ V –thế kỉ XV ca ngợi tinh thần yêu nước và tinh thần quật khởi chống giặc ngoại xâm. Qua các văn bản Nam quốc sơn hà của lí thường kiệt , hịch tướng sĩ của trần quốc tuấn, bình ngô đại cáo của nguyễn trãi ,chiếu rời đô của lí thái tổ hãy làm sáng tỏ nhạn định trên.
Câu trả lời của bạn
I. MỞ BÀI
- Từ khi Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, giành được nền độc lập, tự chủ, dân tộc ta không ngừng đấu tranh anh dũng để bảo vệ đất nước suốt bao thế kĩ.
- Trong bối cảnh lịch sử đó, văn học từ thê kỉ X đến thế kỉ XV đã thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước, tinh thần quật khơi chống xâm lược của dân tộc ta.
- Qua một số tác phẩm tiêu biểu của giai đoạn văn học này, ta hãy làm sáng tỏ vấn đề trên.
II. THÂN BÀI
A. TINH THẦN YÊU NƯỚC
- Thê kỉ X đến thế kỉ XV là thời kì lịch sử có nhiều chiến công hiển hách của dân tộc ta trong sự nghiệp chiến đấu bảo vệ đất nước: phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh qua các trận chiến Như Nguyệt, Bạch Đằng, Chi Lăng với những tên tuổi chói lọi của các anh hùng Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi.
- Nội dung văn học thời kì này phản ánh tinh thần yêu nước với những biểu hiện cụ thể.
1. Yêu nước là thương dân, vì dân diệt bạo
- Trước hết là lòng căm thù giặc sâu sắc.
Hịch tướng sĩ lên án bọn giặc xâm lược với thái độ sôi sục, coi giặc như cú diều, dê chó, hổ đói, trực tiếp bộc lộ nỗi căm hờn qua lời tâm sự của chủ tướng nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, thề rằng sẽ xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.
Binh Ngô đại cáo cũng miêu tả giặc như một bầy dã thú, thằng há miệng, đứa nhe răng để tàn hại nhân dân ta.
- Thương dân điêu linh vì bị giặc đày đọa, vơ vét, khủng bố tàn sát, nên người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã:
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
- Để vì dân mà diệt bạo:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
(Bình Ngô đại cáo)
2. Yêu nước làxây dựng đất nước hòa bình
- Mong ước giang san bền vững muôn đời:
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy nghìn thu.
(Phò giá về kinh)
- Tự hào khi đất nước sạch bóng quân thù, mở đầu một giai đoạn xây dựng hòa bình:
Giặc tan muôn thuở thanh bình
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
(Phú sông Bạch Đằng)
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
(Bình Ngô đại cáo)
B. TINH THẦN QUẬT KHỞI CHỐNG XÂM LƯỢC
1. Ý thức độc lập tự chủ và tinh thần quật khởi chống xâm lược
- Thể hiện qua lời cảnh báo bọn giặc cướp nước:
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
(Sông núi nước Nam)
- Thể hiện qua lời hịch của Trần Quốc Tuấn quyết bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cáo Nhai; qua chí khí, hào hùng của tướng lãnh, hào khí ngất trời của ba quân đời Trần:
Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh át sao Ngưu.
(Tỏ lòng)
- Thể hiện nỗi đau lòng nhức óc, mưu tính việc khôi phục nền độc lập cho nước nhà qua lời Đại cáo bình Ngô:
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
(Bình Ngô đại cáo)
2. Ý chí chiến dấu kiên cường, lập chiến công lừng lẫy đuổi giặc ra khỏi bờ cõi
- Chiến thắng rực rỡ trong đời Trần:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân Hồ
(Phò giá về kinh)
- Với khí thế oai hùng:
Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.
(Phú sông Bạch Đằng)
- Ý chí kiên cường dũng mãnh của nghĩa quân Lam Sơn:
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
- Tiến công giặc như vũ bão, chiến thắng oanh liệt:
Đánh một trận, sạch không kinh ngạc,
Đánh hai trận, tan tác chim muông.
Nổi gió to trút sạch lá khô
Thông tổ kiến phá toang đê vỡ.
(Bình Ngô đại cáo)
III. KẾT BÀI
- Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là giai đoạn giành độc lập và bảo vệ nền độc lập của dân tộc ta. Quá trình lịch sử vẻ vang đó chẳng những ghi nhận những chiến công hiển hách của dân tộc mà còn xây dựng được một nền văn học viết rất đáng tự hào.
- Nền văn học viết đó, với nội dung chủ yếu là tinh thần yêu nước, tinh thần quật khởi chống xâm lược, đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc ta.
I. MỞ BÀI
- Từ khi Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, giành được nền độc lập, tự chủ, dân tộc ta không ngừng đấu tranh anh dũng để bảo vệ đất nước suốt bao thế kĩ.
- Trong bối cảnh lịch sử đó, văn học từ thê kỉ X đến thế kỉ XV đã thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước, tinh thần quật khơi chống xâm lược của dân tộc ta.
- Qua một số tác phẩm tiêu biểu của giai đoạn văn học này, ta hãy làm sáng tỏ vấn đề trên.
II. THÂN BÀI
A. TINH THẦN YÊU NƯỚC
- Thê kỉ X đến thế kỉ XV là thời kì lịch sử có nhiều chiến công hiển hách của dân tộc ta trong sự nghiệp chiến đấu bảo vệ đất nước: phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh qua các trận chiến Như Nguyệt, Bạch Đằng, Chi Lăng với những tên tuổi chói lọi của các anh hùng Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi.
- Nội dung văn học thời kì này phản ánh tinh thần yêu nước với những biểu hiện cụ thể.
1. Yêu nước là thương dân, vì dân diệt bạo
- Trước hết là lòng căm thù giặc sâu sắc.
Hịch tướng sĩ lên án bọn giặc xâm lược với thái độ sôi sục, coi giặc như cú diều, dê chó, hổ đói, trực tiếp bộc lộ nỗi căm hờn qua lời tâm sự của chủ tướng nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, thề rằng sẽ xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.
Binh Ngô đại cáo cũng miêu tả giặc như một bầy dã thú, thằng há miệng, đứa nhe răng để tàn hại nhân dân ta.
- Thương dân điêu linh vì bị giặc đày đọa, vơ vét, khủng bố tàn sát, nên người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã:
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
- Để vì dân mà diệt bạo:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
(Bình Ngô đại cáo)
2. Yêu nước làxây dựng đất nước hòa bình
- Mong ước giang san bền vững muôn đời:
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy nghìn thu.
(Phò giá về kinh)
- Tự hào khi đất nước sạch bóng quân thù, mở đầu một giai đoạn xây dựng hòa bình:
Giặc tan muôn thuở thanh bình
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
(Phú sông Bạch Đằng)
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
(Bình Ngô đại cáo)
B. TINH THẦN QUẬT KHỞI CHỐNG XÂM LƯỢC
1. Ý thức độc lập tự chủ và tinh thần quật khởi chống xâm lược
- Thể hiện qua lời cảnh báo bọn giặc cướp nước:
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
(Sông núi nước Nam)
- Thể hiện qua lời hịch của Trần Quốc Tuấn quyết bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cáo Nhai; qua chí khí, hào hùng của tướng lãnh, hào khí ngất trời của ba quân đời Trần:
Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh át sao Ngưu.
(Tỏ lòng)
- Thể hiện nỗi đau lòng nhức óc, mưu tính việc khôi phục nền độc lập cho nước nhà qua lời Đại cáo bình Ngô:
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
(Bình Ngô đại cáo)
2. Ý chí chiến dấu kiên cường, lập chiến công lừng lẫy đuổi giặc ra khỏi bờ cõi
- Chiến thắng rực rỡ trong đời Trần:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân Hồ
(Phò giá về kinh)
- Với khí thế oai hùng:
Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.
(Phú sông Bạch Đằng)
- Ý chí kiên cường dũng mãnh của nghĩa quân Lam Sơn:
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
- Tiến công giặc như vũ bão, chiến thắng oanh liệt:
Đánh một trận, sạch không kinh ngạc,
Đánh hai trận, tan tác chim muông.
Nổi gió to trút sạch lá khô
Thông tổ kiến phá toang đê vỡ.
(Bình Ngô đại cáo)
III. KẾT BÀI
- Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là giai đoạn giành độc lập và bảo vệ nền độc lập của dân tộc ta. Quá trình lịch sử vẻ vang đó chẳng những ghi nhận những chiến công hiển hách của dân tộc mà còn xây dựng được một nền văn học viết rất đáng tự hào.
- Nền văn học viết đó, với nội dung chủ yếu là tinh thần yêu nước, tinh thần quật khởi chống xâm lược, đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc ta.
I. Mở bài
- Lịch sử dân tộc Việt Nam từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV là lịch sử chống ngoại xâm: Tống, Nguyên - Mông và Minh, với bao chiến công hiển hách.
- Văn học giai đoạn này đã khẳng định quyển tự chủ, tinh thần chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc với nhiều tác phẩm nồng nàn lòng yêu nước thương dân.
II. Thân bài
- Khẳng định quyển tự chủ và quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc:
Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
(Sông núi nước'Nam- Lí Thường Kiệt)
-Tự hào là một đất nước có lãnh thổ, có nền văn hiến, có phong tục và lịch sử lâu đời:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bển xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.
(Dại cáo bình Ngô -NguyễnTrãi)
- Ca ngợi lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc:
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng".
- Đề cao tinh thần đoàn kết một lòng nếm mật nằm gai chiến đấu của nhân dân ta:
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phất phới.
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
-> Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến mọi thắng lợi của dân tộc ta.
- Khẳng định sức mạnh to lớn, khí thế chiến đấu và chiến thắng:
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận sạch không kình ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông.
- Tuyên bố nền hòa bình dộc lập, khẳng định sơn hà xã tắc bền vững lâu dài:
Xã tắc từ đây bền vũng Giang sơn từ đây đổi mới Càn khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh Nghìn năm vết nhục nhã sạch làu Muôn thuở nền thái bình vững chắc
(Đại cáo bình Ngô -Nguyễn Trãi)
III. Kết bài
- Khẳng định nội dung các tác phẩm văn học cổ từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV đã thể hiện rõ nét lòng yêu nước, khẳng định quyền tự chủ, niềm tự hảo, tinh thần chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc.
- Mãi mãi tinh thần yêu nước ấy sẽ là sức mạnh cổ vũ, động viên nhiều thế hệ trẻ mai sau trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ khi Ngô Vương Quyền đánh đuổi quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, giành được nền độc lập, tự chủ, dân tộc ta không ngừng đấu tranh anh dũng để bảo vệ đất nước suốt mấy thế kỉ dài.
Trong bối cảnh lịch sử đó, văn học từ thế kỉ X đên thế kỉ XV đã thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước, tinh thần quật khởi chồng xâm lược của dân tộc ta.
Qua một số tác phẩm tiêu biểu của giai đoạn văn học này, ta hảy làm sáng tò vấn đề trên.
Thế kỉ X đến thế kỷ XV là thời kì lịch sử có nhiều chiến công hiển hách của dân tộc ta trong sự nghiệp chiến đấu bảo vệ đất nước: phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh qua các trận chiến Như Nguyệt, Bạch Đằng, Chi Lăng, với những tên tuổi chói lọi của các anh hùng Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi.
Nội dung văn học thời kì này phản ánh tinh thần yêu nước với những biểu hiện cụ thể.
* Yêu nước là thương dân, vì dân diệt bạo
Trước hết là lòng căm thù giặc sâu sắc.
Hịch tưởng sĩ lên án bọn giặc xâm lược với thái độ sôi sục, coi giặc như cú diều, dê chó, hổ đói, trực tiếp bộc lộ nỗi căm hờn qua lời tâm sự của chủ tướng: nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, thề rằng sẽ xã thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.
Bình Ngô đại cáo cũng miêu tả giặc như một bầy dã thú, thằng há miệng, đứa nhe răng để tàn hại nhân dân ta.
Thương dân điêu linh vì giặc đày đoạ, vơ vét, khủng bố tàn sát, nên người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã:
Ngẫm thù lớn há đội trời chung;
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Để vì dân mà diệt bạo:
Việc nhân nghĩa cốt ở yến dân;
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
(Bình Ngô đại cáo)
* Yêu nước là xây dựng đất nước hoà binh
Mong ước giang san bền vững muôn đời:
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy nghìn thu.
(Phò giá về kinh)
Nội dung chủ yếu của văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là tinh thần yêu nước, tinh thần quật khởi chống xâm lược.
Tự hào khi đất nước, sạch bóng quân thù, mở đầu một giai đoạn xây dựng hoà bình:
Giặc tan muôn thuở thanh bình
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.
(Phủ sông Bạch Đằng)
Muôn thuở nền thái bình vững chắc;
so sánh sự giống nhau và khác nhau của bút kí tùy bút hồi kí
Câu trả lời của bạn
Tuỳ bút là viết tuỳ thích theo ý thích của mình, không có chủ đề gì cả, thường là miêu tả cảm xúc của tác giả về vấn đề gì đó. Thể kí ghi lại một cách tương đối tự do những cảm nghĩ của người viết, kết hợp với việc phản ánh thực tế khách quan.
Hồi ký là sáng tác thuộc nhóm thể tài ký, là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả, kể về những sự kiện có thực xảy ra trong quá khứ mà tác giả đã chứng kiến.
Tuỳ bút là viết tuỳ thích theo ý thích của mình, không có chủ đề gì cả, thường là miêu tả cảm xúc của tác giả về vấn đề gì đó. Thể kí ghi lại một cách tương đối tự do những cảm nghĩ của người viết, kết hợp với việc phản ánh thực tế khách quan. Hồi ký là sáng tác thuộc nhóm thể tài ký, là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả, kể về những sự kiện có thực xảy ra trong quá khứ mà tác giả đã chứng kiến.
TUỲ BÚT:
thể loại kí, nhà văn dùng ghi lại những suy nghĩ, cảm xúc, hồi tưởng của mình về bất cứ vấn đề gì, sự việc nào, không theo một khuôn khổ nhất định hay một hệ thống chặt chẽ mà tuỳ theo dòng cảm xúc, dòng suy nghĩ nhất thời, như để ngọn bút đưa đi từ liên tưởng này sang liên tưởng khác. TB giàu tính chất trữ tình, nặng về những ý nghĩ riêng tư, vì thế mà sâu sắc, thâm trầm và lôi cuốn người đọc. Lời văn cũng phóng khoáng, thoải mái.
Trong văn học Việt Nam, Phạm Đình Hổ có cuốn "Vũ trung tuỳ bút" (Tuỳ bút viết những ngày mưa). Tiểu thuyết "Chiếc lư đồng mắt cua" của nhà văn Việt Nam hiện đại Nguyễn Tuân là một thiên tuỳ bút dài và những bài kí trong tập "Sông Đà" hay "Hà Nội ta đánh giặc Mĩ giỏi" của ông cũng là những trang TB đặc sắc
BÚT KÍ:
thể văn thuộc loại kí (ghi chép) nhằm ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong cuộc sống bằng những nhận xét, những cảm xúc của người viết. BK thường nói về người thật, việc thật cùng những suy nghĩ, bình luận chân thực của người viết. BK thường được xem là thể trung gian giữa kí sự và tuỳ bút. Không có ranh giới rạch ròi giữa các loại kí (BK, kí sự, tuỳ bút), mà biến hoá tuỳ theo ý định sáng tác và đặc điểm, bút pháp của nhà văn. Ở Việt Nam, BK còn có nhiều tên khác, cách viết cũng đa dạng như "Công dư tiệp kí" của Vũ Phương Đề (tiệp kí: ghi nhanh), "Thoái thực kí văn" của Trương Quốc Dụng (kí văn: ghi những điều nghe thấy được), "Kiến văn tiểu lục" của Lê Quý Đôn (ghi chép gọn những điều tai nghe mắt thấy).
phân tích tâm trạng mị đêm tình mùa xuân
liên hệ với nhân vật liên trong hai đứa trẻ từ đó nhận xét về tư tương nhân đaoh của hai tác giả
Giúp mình với
Câu trả lời của bạn
1. Giới thiệu sơ lược về Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Tâm trạng của Mị trước đêm xuân.
2. Phân tích tâm trạng Mị trong đêm mùa xuân.
3. Kết luận
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đọan sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến.
Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng của đổng bào miền núi Tây Bắc. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân với những tình tiết chân thực và cảm động đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái xinh đẹp mà bất hạnh.
Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Vì đẹp người đẹp nết nên Mị được nhiều chàng trai trong vùng để mắt tới. Tương lai của cô lẽ ra sẽ tốt lành, yên ấm, nhưng chì vì món nợ truyền đời của cha mẹ mà Mị bị bắt về làm con dầu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Tuổi xuân của Mị đã bị A Sử, gã con trai xấc xược và hung bạo tước đoạt, giày xéo.
Quãng đời Mị sống trong nhà thống lí là chuỗi dài những đọa đày, tủi nhục. Tuy danh nghĩa là con dâu nhà quan lớn nhưng thực chất Mị chỉ là đầy tớ, nô lệ, bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa. Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhịn và cam chịu. Lúc mới bị bắt về, Mị phản ứng quyết liệt, định ăn lá ngón tự tử, nhưng rồi thương xót cha già, Mị không đành lòng chết. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cuộc sống không còn ý nghĩa. Cô sống mà như đã chết. Đau khổ triền miên đã làm cho Mị hóa thờ ơ, lạnh lùng. Mọi cảm xúc trong cô dường như đã chai lì. Tuy nhiên, khát vọng sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt. Trong Mị luôn tồn tại hai con người tưởng chừng đối lập: Con người bên ngoài lạnh lùng vô cảm và con người bên trong có sức sống âm thầm nhưng mãnh liệt.
Tác giả lấy khung cảnh mùa xuân, đêm xuân làm nền cho diễn biến tâm trạng của Mị. Mùa xuân, đất trời tưng bừng màu sắc, rộn rã âm thanh, rất gần gũi với quãng đời hồn nhiên, vui vẻ ngày trước của Mị: Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió vã rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ... Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.
Đoạn văn tả cảnh mùa xuân trên vùng núi cao Tây Bắc với những hình ảnh đặc sắc sinh động và đầy sức sống. Màu sắc sặc sỡ của những chiếc váy hoa của các cô gái phơi trên các mỏm đá báo hiệu Tết đã đến gần. Tiếng cười ầm của đám trẻ con chơi quay trên sân chơi trước nhà. Tiếng sáo thổi réo rắt rủ bạn tình đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa... Những đêm tình mùa xuân đã tới.
Sức sống tưng bừng của vạn vật mùa xuân đã làm cho tâm hồn Mị hồi sinh. Tâm trạng Mị lúc này pha trộn giữa nhiều cung bậc cảm xúc: vui sướng và đau khổ, tủi nhục đến mức muốn chết và khao khát sống. Những cảm xúc ấy đang trỗi dậy, cuộn xoáy, trào dâng trong lòng Mị.
Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn trên sân chơi đầu bản thì Mị thiết tha bồi hồi khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình từ đầu núi vọng lại. Mị nhẩm thầm bài hát quen thuộc mà thời con gái cô hay hát:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.
Sau bao năm câm lặng trong đau khổ, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khe khẽ cất tiếng hát thầm.
Cảnh vui xuân nhộn nhịp ở đầu bản và cảnh ăn Tết ồn ào trong nhà thống lí Pá Tra đã tác động mạnh tới tâm hồn Mị, khiến cô nhớ lại thời con gái chưa xa. Lúc đầu, Mị hành động theo thói quen một cách vô thức: Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Mị uống rượu mà như uống nỗi tủi hận, cay đắng vào lòng, hay là Mị cố tình uống thế cho thật say để quên đi nỗi khổ? Tuy nhiên, hành động ấy thể hiện một sự chuyển biến khác thường đang diễn ra trong tâm trạng người con gái đáng thương.
Bi kịch bắt đầu khi ý thức về bản thân của Mị đang trỗi dậy. Mị say rượu lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát Men rượu đánh thức nỗi nhớ về phần đời đã qua: Mị đang sống về ngày trước. Tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng bên tai Mị. Đấy là tiếng sáo của tình yêu rạo rực, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống. Dường như lúc này, Mị không còn là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pa Tra nữa mà là cô gái xinh đẹp đang uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo: Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị: Mị thổi sáo giỏi... có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Hồi tưởng về mùa xuân tươi đẹp thời con gái, điều đó cho thấy con người thật của Mị đang hồi sinh. Khát vọng sống như ngọn lửa đang bừng cháy trong tâm hồn Mị.
Diễn biến tâm trạng Mị rất phức tạp: Cô đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn giữa thân phận tù túng của người con dâu gạt nợ và mong muốn được tự do đi chơi Tết của cô gái đang khao khát tự do và tình yêu. Liệu Mị có dám cắt đứt sợi dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận mình để đến với những cuộc chơi vui vẻ, với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt du dương?!
Mải mê chìm đắm trong quá Khứ nên Mị tạm quên hiện tại: Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau, Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi Mị từ từ bước vào buồng. Tâm trạng Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi.
Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy trong lòng khiến Mị càng thêm một phẫn uất trước tình cảnh tủi nhục của mình. Bao nhiêu người có chồng mà vẫn đi chơi ngày Tết đấy thôi. A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra. Tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường:
Anh ném pao, em không bắt,
Em không yêu, quả pao rơi rồi...
Mị muốn quên thời con gái ngày trước mà không sao quên được. Tiếng sáo cứ lửng lơ trong đầu khiến cho Mị thiết tha bồi hồi.
Khi A Sử bất ngờ vào buồng để thay áo mới, tiếp tục đi rình bắt thêm con gái nhà người ta đem về làm vợ; Mị lặng lẽ, thản nhiên xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo. A Sử nhìn Mị, Mị không thèm nói một lời. Những hành động "nổi loạn" diễn ra trong khi tiếng sáo đang rập rờn trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi với tay lấy váy hoa... là Mị đã thực sự sống lại thời con gái với bao ước mơ tươi đẹp.
Mị đã bừng tỉnh; quá khứ, hiện tại đan xen trong tâm hồn Mị. Hiện tại thì tăm tối, ngột ngạt, mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lơ lửng bay ngoài đường, đánh thức quá khứ đẹp đẽ chưa xa.
Những hành động khác thường của Mị đã bị A Sử trấn áp phũ phàng. Sau câu hỏi ngạc nhiên và giận dữ: Mày muốn đi chơi à?, A sử trói Mị bằng cả một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Không có một dòng nào miêu tả thái độ phản kháng của Mị. Suốt từ đầu đến cuối, Mị chỉ im lặng, âm thầm cam chịu. Tuy vậy, ẩn chứa bên trong lại là một cô Mị hoàn toàn khác, một cô Mị đang say mê sống với những kỉ niệm tình yêu. A Sử chỉ trói buộc được thể xác chứ không thể trói buộc được tâm hồn Mị.
Miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài dường như đã nhập thân vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn nâng đỡ tâm hồn Mị. Tai Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đảm chơi. Tuy Mị chưa giải thoát được thể xác nhưng Mị đã giải thoát được tâm hồn: Lòng Mị bồi hồi theo tiếng sáo: Em không yêu, quả pao rơi rồi, Em yêu người nào, em bắt pao nào... Những vết dây trói đau nhức đưa Mị trở về với thực tại đau đớn, khổ nhục. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách... Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Mị đang sống với con người bên trong của mình: Chừng đã khuya... Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi nhớ đến thời điểm trai bản đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Lúc này, thực tại và quá khứ cứ đan xen vào nhau, giằng xé tâm hồn Mị. Càng nhớ tới kỉ niệm cũ, Mị càng xót xa, đau khổ, phẫn uất trước thực tại phũ phàng : Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tĩnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.
Mị bàng hoàng tỉnh... Không một tiếng động. Mị thương những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan... Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: Đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết, cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt.
Như thế là cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành. Mị không thể thoát khỏi địa ngục trần gian là nhà bố con tên thống lí, nhưng Mị không còn là con ngựa, con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do. Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt sóng dâng lên rồi nhanh chóng tan ra, dù chưa làm thay đổi cuộc đời Mị nhưng những đợt sóng ngầm của cảm xúc đến lúc nào đó sẽ tuôn trào mãnh liệt mà bằng chứng là hành động Mị liều lĩnh cởi trói cứu A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài.
Ở đoạn văn này, tác giả miêu tả hành động của Mị rất ít, nhưng người đọc vẫn bị cuốn hút bởi một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy, có một sức sống tiềm tàng mà không một thế lực tàn ác nào vùi dập được. Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác giả đều phù hợp với diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị. Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa! Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm xuân thấm đẫm tính nhân văn, góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị; thể hiện một cách chân thật và cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ chổng A Phủ.
con gặp lại nhân dân như nai về suối vũ . Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa . Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
Câu trả lời của bạn
Khổ thơ hàm chứa một tiền giả định. Khi nhà thơ viết “Con gặp lai nhân dân…” tức là giữa nhân vật chữ tình và nhân dân vốn đã có một mối quan hệ nhất định. Phải là những người đã gặp nhau đã sống cùng nhau thì mới có thể diễn tả như vậy.
Đại từ xưng hô “Con” với nhân dân đã xác định được tính chất, mức độ của mối quan hệ đó. Vậy là với nhân dân, nhân vật trữ tình có một quan hệ khăng khít, máu thịt. Họ đã từng có những ngày tháng gắn bó yêu thương, đã từng chia ngọt sẻ bùi. Khổ thơ của Chế Lan Viên gợi nhắc những câu thơ ân tình thủy chung của nhà thơ Tố Hữu trong bài Việt Bắc khi nhà thơ và những người kháng chiến chia tay với những người dân chiến khu Việt Bắc yêu thương:
Trên hành trình của một hồn thơ đi từ “thung lũng đau thương” ra “cánh đồng vui”, từ “chân trời cùa một người” đến với “chân trời cua tất cả”, hơn ai hết, Chê Lan Viên hiểu được vai trò lớn lao của Đảng và Nhân dân, những người mà nhà thơ cho rằng đã “thay đổi đời tôi, thay đổi thơ tôi”. Niềm hạnh phúc rưng rưng của một nhà thơ đã nhận chân ra giá trị đích thực của cuộc đời mình khi trở về với Nhân dân đã được nhà thơ diễn đạt một cách chân thành và xúc động qua những câu thơ:
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
( Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)
Tiếng hát con tàu là bài thơ được sáng tác từ một sự kiện kinh tế - xã hội: cuộc vận động nhân dân đi xây dựng vùng kinh tế mới vào năm 1960. Tuy nhiên, bài thơ không chỉ dừng lại với ý nghĩa tuyên truyền cho một đường lối, chính sách của Đảng. Với tư cách là một nhà thơ, từ thực tế đời sống với những yêu cầu, đòi hỏi mới đối với người nghệ sĩ, nhà thơ đã thể hiện được khát vọng trở về với đất nước và nhân dân - cội nguồn của mọi cảm hứng sáng tạo. Đó là niềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ khi được trở về với nhân dân:
“Con gập lai nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa”
Trong hoài niệm của nhà thơ về Tây Bắc, nhân dân không phải là một khái niệm trừu tượng mà được hiện diện qua những cuộc đời, những số phận cụ thể. Đó là người anh du kích với “chiếc áo nâu suốt một đời vá rách. Đêm cuối cùng anh gửi lại cho con”, là thằng em liên lạc: “Mười năm tròn không mất một phong thư”, là bà mế “lửa hồng soi tóc bạc. Năm con đau mế thức một mùa dài”... Họ là những người có cuộc đời nghèo khó nhưng đã hi sinh trọn đời cho Cách mạng, được nhà thơ nhắc đến bằng tất cả lòng biết ơn chân thành nhất. Từ nhừng con người, những cuộc đời cụ thể ấy, mạch cảm xúc thơ lại hướng đến suy tưởng, khái quát:
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
Đoạn thơ gây ấn tượng cho người đọc trước hết bởi lối xưng hô nhằm tạo ra quan hệ ruột thịt: “Con gặp lại nhân nhân”. Cách xưng hô giản dị mà chân thành, ấm áp đã cụ thể hóa một lần nữa mối quan hệ giữa nhà thơ và nhân dân. Đây là một nhận thức mới mẻ thể hiện hành trình của một quá trình nhận thức; từ cái tôi chật hẹp của chính mình, người nghệ sĩ đã hòa nhập với cuộc sống rộng lớn của nhân dân. Đây cũng là nhận thức của Xuân Diệu khi ý thức về chỗ đứng, về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với nhân dân:
“Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu
Tôi sống với muôn người chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao”
(Những đêm hành quân)
Vì vậy, lối xưng hô ân tình ấy sở dĩ gây được xúc động trong lòng người đọc cũng chính là bơi nhà thơ đã nói được tấm lòng của cả một thế hệ mà có lần Chế Lan Viên đã trách cứ với chính mình vì “lỡ nhịp” với cuộc sống của nhân dân:
Có thể nào quên cả một thời thơ ấy
Tổ quốc trong lòng mà có cũng như không
Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng thấy
Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng
(Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi tha tôi)
Trong niềm xúc động chân thành ấy, nhà thơ đã diễn đạt ý nghĩa của cuộc trở về với nhân dân bằng lối so sánh đầy bất ngờ, sáng tạo. Đây là một lối so sánh, liên tưởng trùng điệp. Chỉ có bốn câu thơ mà xuất hiện đến năm lần biện pháp so sánh. Cảm giác như niềm hạnh phúc được trở về với nhân dân: bỗng nở xòe như những cánh hoa rực rỡ và ấm áp sắc màu. Lối so sánh phức này là một đặc trưng thể hiện phong cách nghệ thuật thơ Chế Lan Viên Trong bốn câu thơ đề từ, nhà thơ đã so sánh Lòng ta, Tâm hồn ta với hai hình ảnh: con tàu và Tây Bắc. Đến phần sau của bài thơ, khi nói về nỗi nhớ, về tình yêu, những câu thơ ấy lại một lần nữa khoe sắc qua lối liên tưởng:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương
Việc xây dựng hình tượng thơ qua lối so sánh phức có ý nghĩa rất lớn về thể hiện niềm xúc động rưng rưng của nhà thơ, đồng thời tạo được sự liên tưởng nhiều chiều với những quan hệ ngang dọc trong trí tưởng tượng của người đọc.
Những biện pháp so sánh ở đây lại được xây dựng từ những hình ảnh rất bình dị, quen thuộc, đặc biệt với người dân miền núi: nai, suối, cũ, cỏ, chim én, mùa xuân, chiếc nôi. Điều này cũng ghi nhận nỗ lực của nhà thơ trên con đường từ bỏ những hình ảnh xa lạ, ma quái ở những tập thơ trước Cách mạng để trở về với thế giới bình dị, mang trong đó hơi thở cuộc sống của nhân dân. Nếu trước dây, người đọc luôn bắt gặp những hình ảnh cầu kì, thậm chí điên loạn: bóng ma Hời, những sông vắng lê mình trong bóng tối... thì đến bài thơ, đoạn thơ này là những hình ảnh đầy ắp vẻ đẹp của hiện thực đời sống.
Cái hay trong đoạn thơ còn là cách sắp xếp những hình ảnh so sánh của nhà thơ. Đó là lối so sánh tăng dần theo cấp độ. Ba vế so sánh đầu hướng về tự nhiên, về ngoại vật. Nhưng đến hai vế so sánh còn lại lại hướng về con người và nhu cầu tồn tại của con người: trẻ thơ đổi lòng - gặp sữa; nôi ngừng - cánh tay đưa. Chính cách sắp xếp ấy có ý nghĩa rất lớn trong việc thể hiện niềm biết ơn chân thành và sâu sắc của nhà thơ khi được về với Nhân dân.
Không những thế, lối so sánh trong khổ thơ còn mang đậm tính triết lí: Mỗi sự vật chỉ có thể có ý nghĩa khi đặt trong mối quan hệ máu thịt với các sự vật khác. Nai và suối cũ — đó là hai yếu tố không thể tách rời, trong đó, suối cũ đã trở thành môi trường sống cùa loài nai. Tháng Giêng, tháng Hai là thời điểm bắt đầu của một năm. Thời điểm ấy thích hợp nhất cho sự phát triển của cỏ cây, hoa lá. Mùa xuân và những cánh chim én; trẻ thơ và nhu cầu gặp sữa... đều là những hình ảnh luôn được đặt trong những mối quan hệ chi phối lẫn nhau. Mượn những hình ảnh trong đời sống tự nhiên và xã hội, mượn những quy luật ấy để nhà thơ nói đến một mối quan hệ lớn hơn: nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi phản ánh đời sống. Hiện thực đời sống là điểm xuất phát đồng thời cũng là cái đích cuối cùng mà mỗi tác phẩm văn học phải hướng tới. Nếu đánh rơi mất đời sống, thơ ca sẽ chết khô trên trang giấy. Nhưng để phản ánh được hiện thực đời sống, người nghệ sĩ phải gắn bó cuộc đời mình với nhân dân, phải cùng nhịp đập với hàng triệu trái tim của nhân dân, có lẽ, không nhà thơ nào lại diễn đạt chân lí của quá trình sáng tạo ấy hay và sâu sắc như Chế Lan Viên.
Đây là một trong những đoạn thơ khá hay trong bài thơ. Với lối xây dựng hình ảnh mới lại, với lối so sánh giản dị nhưng sâu sắc. Chế Lan Viên đã hướng người đọc đến một quy luật có tính phổ quát: trở về với nhân dân là con đường tất yếu. Nó phù hợp với quy luật của tự nhiên cũng như phù hợp với đạo lí tình cảm con người. Bởi vì chỉ có con đường ấy mới mở ra được những chân trời lớn cho người nghệ sĩ. Đi trên con đường ấy, Chế Lan Viên đã thực sự thành công, trở thành tiếng thơ hào hùng, tiếng kèn xung trận trong những năm chống Mĩ sau này.
phân tích hình tượng nhân vật tnú trong tác phẩm rừng xà nu
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ông là nhà văn có công đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Truyện ngăn Rừng xà nu là tác phẩm tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tnú, người con kết tinh mọi vẻ đẹp của nhân dân Tây Nguyên trên nền tập thể nhân dân anh hùng và hình tượng rừng xà nu hùng vĩ trong những ngày kháng chiến chống Mĩ gay go, ác liệt.
Rừng xà nu (1965) ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung bộ (số 2- 1965), sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, đất nước chia làm hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi khắp miền Nam. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối. Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. Rừng xà nu được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ.Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù tàn ác.
Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Câu chuyện về cuộc đời anh là câu chuyện được sử thi hóa qua lời kể của cụ Mết.Cuộc đời Tnú gắn liền với cuộc đời làng Xô Man. Âm hưởng sử thi chi phối tác giả trong khi xây dựng nhân vật này. Tác giả xuất phát từ vấn đề cộng đồng để phản ánh đời tư của Tnú.Tnú được xây dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lí tưởng. Nhà văn lấy nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ỏ Tây Nguyên. Năm 1959, anh Đề đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu đội lính Diệm và bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang.
Tnú là con của dân làng Xô Man. Dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu mang anh. "Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta". Chính tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho anh niềm tin yêu cuộc sống, tin vào chính mình, gắn bó sâu sắc với bản làng quê hương, với những gì thân thuộc như tiếng chày giã gạo của những cô gái, con nước mát lạnh đầu bản, những cụ già, những em nhỏ,... sau ba năm đi lực lượng, được về thăm làng, Tnú thấy bồi hồi, xúc động trước cảnh vật thân thuộc quê hương.
Ngay từ nhỏ anh đã là người gan dạ, dám đi tiếp tế lương thực cho cán bộ, làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện. Và cũng từ đấy Tnú bộc lộ một trí tuệ hơn người. "Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình" bởi theo Tnú "Qua chỗ nước êm thàng Mĩ - Diệm hay phục, qua chỗ nước mạnh nó không ngờ". Giặc vây các ngả dường thì Tnú leo lên một cây cao, nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà di, lọt qua tất cả các vòng vây. Tnú nghe theo anh Quyết, cố học chữ để sau này thay anh lãnh đạo cách mạng. Quyết tâm học chữ của Tnú thể hiện dứt khoát trong hành động tự đạp hòn đá vào đầu, máu chảy ròng ròng khi cậu thua Mai trong việc nhớ những con chữ. Tnú từ nhỏ đã tâm niệm trong đầu câu nói của cụ Mết: Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn.
Tnú là hiện thân của sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, với Đảng, là hiện thân của sự khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khoẻ chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày cuả kẻ thù. Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn. Tnú không hề biết sợ hãi, không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng. Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện, Tnú bị giặc bắt. Họng súng chĩa vào tai lạnh ngắt, Tnú kịp nuốt luôn cái thư. Giặc giam cầm, tra khảo Tnú dã man, lưng Tnú dọc ngang vết dao chém nhưng anh quyết không khai một lời. Anh tìm cách vươt ngục về làng và tiếp tục sự nghiệp lãnh đạo dân làng chuẩn bị chiến đấu. Sức mạnh của anh dường như tăng thêm bởi sự hun đúc của một tình yêu lớn với một người con gái luôn luôn hiền dịu, nhượng nhìn, của một gia đình hạnh phúc cùng Mai và đứa con nhỏ.
Vậy mà bằng ấy cái có, Tnú đã không cứu dược mẹ con Mai khỏi bị kẻ thù giết hại. Cuộc đời Tnú gắn liền với những đau thương mà không chỉ riêng anh gánh chịu. Cái đau đớn mang trên thân xác Tnú là hiện hữu cái đau thương của dân làng Xô Man trong chiến tranh Mái ấm gia đình từng là mơ ước của biết bao đôi thanh niên ấy bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù. Mai và con anh bị kẻ thù giết chết ngay trước mắt anh. Tnú không cứu được vợ, được con, đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng. Vì Tnú cũng chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí. Hình ảnh mười đầu ngón tay rừng rực cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng mà còn nói lên một chân lí sâu sắc và tàn nhẫn : khi một Tnú có ý chí mà tay không thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào ngạt và như đọng nắng quê hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt chính những bàn tay vẫn hằng ngày chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy.
Tnú không cứu được mẹ con Mai. Không thể chiến đấu với quân thù bằng tay không và lòng căm thù mù quáng. Nhưng Tnú không chìm đắm trong đau thương mất mát, anh biết vượt qua nỗi đau ấy, biến đau thương thành căm hơn và tôi luyện ý chí chiến đấu. Bị giặc bắt sau khi Mai chết, Tnú không nghĩ đến bản thân mà chỉ lo lắng đến việc ai sẽ tiếp tục lãnh đạo dân làng kháng chiến khi Đảng phát lệnh. Chỉ còn cách cầm vũ khí, lúc đó lửa xà nu sẽ tắt trên bàn tay của Tnú. Lửa xà nu chỉ còn soi xác giặc ngổn ngang. Núi rừng Xô Man sẽ ào ào rung động. "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo...". Đó là một chân lí lớn của cách mạng miền Nam: phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Sau khi được cụ Mết và thanh niên giải thoát bằng chính giáo mác anh và buôn làng mài, Tnú gia nhập lực lượng chính quy. Và có lẽ việc Tnú đi lực lượng cũng bắt nguồn từ lí tưởng đó. Anh đi lực lượng để hiện thực hóa việc "cầm giáo" mà cụ Mết truyền dạy và cũng để có điều kiện chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Ra đi để trả thù nước, rửa thù nhà. Dù bàn tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng cử động được có nghĩa là cầm súng được. Anh đi bộ đội, trở thành tấm gương lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man. Đối với dân làng, Tnú là một biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và ý chí. Bên cạnh cụ Mết, người cha tinh thần, Tnú là hiện thân của những khát vọng vươn lên. Mỗi một việc làm của anh đều đem lại sự nhận thức cho mọi lứa tuổi. Anh về thăm quê, cấp trên cho chỉ có một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người thân nhưng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp hành nghiêm túc nội qui quân đội mới là Tnú. Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định đùa nhưng những ánh mắt chờ đợi của mọi người anh lại thôi. Bởi ở anh một lời nói, một hành động đều có thể để lại một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và tinh thần của người dân Xô Man.
Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay của anh. Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật. Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn. Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy, bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ, bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây... Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân vật. Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt. "Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc", thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh "nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi". Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt lũ giặc, mở ra tràn sử đấu tranh mới của dân làng. Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời. Đến cuối tác phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm.Như vậy, có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện. Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến công của Tnú đều gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy.
Cũng như nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, giầu chất lí tưởng, là kết tinh vẻ đẹp anh hùng của người dân Tây Nguyên. Qua nhân vật này Nguyễn Trung Thành muốn thể hiện một số phận nhất là con đường của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân Miền Nam trong quá trình đấu tranh giải phóng: cần phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Nhà văn Nguyễn Trung Thành như một người con của mảnh đất Tây Nguyên với những cánh rừng đại ngàn. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất phải kể đến là truyện ngắn “Rùng xà nu”, tác phẩm là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ. Nhân vật Tnú hiện lên, đại diện cho lớp người Xô Man kiên cường, bất khuất trước chiến tranh xâm lược.
Tnú từ nhỏ đã mồ côi, thiếu thốn tình cảm của cha mẹ. Nhưng bù lại, Tnú được dân làng bao bọc, chăm sóc. Bởi vậy mà Tnú sớm có lòng yêu thương nhân dân, làng xóm: “có cái bụng thương núi, thương nước”. Từ khi còn là một cậu bé, Tnú được cụ Mết truyền dạy: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn nước non này còn”. Bởi thế, cậu bé con ngày nào luôn ý thức được lí tưởng sống của buôn làng, luôn tin tưởng đi theo con đường Cách mạng. Vì vậy dù còn nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra là một người chiến sĩ nhí gan góc táo bạo, đầy quả cảm. Bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù,, Tnú đã cùng với Mai xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết – một cán bộ trung kiên của Đảng. Tnú có cái đầu sáng lạ lùng trong việc tìm đường rừng để đưa thư cho anh Quyết. Có lần vượt qua thác, chuẩn bị lên bờ thì họng súng đen ngòm đã chĩa vào gáy lạnh ngắt. Tnú kịp nuốt lá thư của anh Quyết vào bụng bảo đảm bí mật. Tnú bị giặc giam cầm ở ngục tù với biết bao đòn roi, thương tích. Địch tra tấn hỏi “Cộng sản ở đâu?” Tnú đã không ngần ngại đặt tay lên bụng và nói: “Cộng Sản ở đây này!”. Và lưng Tnú lại hằn lên những vết dao chém ngang dọc của kẻ thù. Công việc khó khăn và đầy nguy hiểm là vậy nhưng Tnú đã làm rất tốt để dân làng Xô man mãi tự hào ”Năm năm chưa hề có cán bộ bị giặc bắt hoặc bị giết ở trong rừng”. Trong việc học, Tnú còn là một người nghiêm khắc với bản thân, có ý chí, nỗ lực, quyết tâm không ngừng nghỉ. Khi học chữ thua Mai, Tnú đã tự trừng phạt cái tội hay quên của mình: “cầm hòn đá tự đập vào đầu mình máu chảy ròng ròng”. Tnú thực sự đã mang trong mình những tố chất cần có để mai này trở thành một người chiến sĩ Cộng Sản trung kiên, anh dũng.
Ba năm sau, Tnú vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô man đánh giặc. Mai – người bạn từ thuở thiếu thời – nay đã là vợ của Tnú và đứa con là kết quả của mối tình đẹp ấy. Song kẻ thù tàn bạo đã dập tan mái ấm bé nhỏ của Tnú. Chúng đã giết vợ con Tnú. Tnú trước cái chết của vợ con hoàn toàn trở nên bất lực: “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy… bụng anh có lửa đốt. Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Căm thù, Tnú nhảy vào giữa đám lính, hai cánh tay như cánh gỗ lim của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. Nhưng không còn kịp nữa! Tnú bị bắt. Trước cái chết cận kề, Tnú không hề run sợ mà anh cảm thấy mình thật bình thản vì giờ gia đình anh đã không còn. Duy còn một điều làm Tnú day dứt và băn khoăn nhất chính là làng Xô man của mình. Ai sẽ cùng dân làng đánh đuổi quân giặc? Ai sẽ cùng dân làng đi theo lí tưởng của cụ Hồ? Tnú hoàn toàn không nghĩ đến mình nữa. Giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay của Tnú. Đó là bàn tay của trung thực, tình nghĩa, từng cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho; từng đặt lên bụng mình mà nói: “Cộng sản ở đây này”. Bàn tay ấy cũng đã từng được Mai nắm chặt mà khóc bằng những giọt nước mắt nóng bỏng yêu thương đồng cảm, lúc Tnú vượt ngục trở về… Giặc đã đốt mười đầu ngón tay Tnú để thiêu rụi ý chí đấu tranh của dân làng Xô man. Nhưng ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xô man lại bùng cháy. Tnú không kêu van khi bị lửa thiêu ngón tay, mà Tnú đã thét lên một tiếng “Giết”. Người Xô Man nhất nhất đồng loạt vùng dậy giết giặc. Đó là sự nổi dậy đồng khởi làm rung chuyển núi rừng, bàn tay trở thành chứng tích của tội ác và lòng hận thù mà Tnú mang theo suốt cả cuộc đời. Lòng hận thù ấy đã biến bàn tay Tnú thành ngọn đuốc châm bùng lên ngọc lửa nổi dậy của dân làng Xôman. Bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn cầm giáo, cầm súng để Tnú lên đường rửa hận. Và cuối cùng với chính bàn tay ấy, Tnú đã xiết vào cổ họng tất cả những thằng Dục tàn ác hơn cả dã thú. Từ đây, Tnú đã vượt qua mọi đau thương và bi kịch cá nhân, tham gia lực lượng giải phóng quân để quét sạch tất cả những thằng Dục, kẻ thù không đội trời chung với vợ con anh – còn tồn tại trên mảnh đất quê hương. Khi đã trở thành chiến sĩ giải phóng quân, Tnú là một cán bộ có tinh thần kỷ luật cao: tuy nhớ quê hương gia đình, nhưng phải cấp trên cho phép mới về đúng một đêm như quy định trong giấy phép.
Nhân vật Tnú tiêu biểu của người anh hùng đại diện cho số phận và con đường đi của các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại đấu tranh giải phóng. Xây dựng nhân vật Tnú cho thấy được nét tài hoa của nhà văn Nguyễn Trung Thành khi viết về con người Tây Nguyên.
Nguyễn Trung Thành (còn gọi là Nguyên Ngọc) được xem là nhà văn của Tây Nguyên, bởi lẽ, cả cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông đều gắn bó với mảnh đất này. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất của nhà văn mà chúng ta phải để đến là truyện ngắn “Rừng xà nu”. Với tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật Tnú – biểu tượng cho Tây Nguyên hùng hồn, bi tráng.
Có thể nói Tnú là nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm, song song bên cạnh hình tượng rừng xà nu đại ngàn. Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nên hình tượng một người anh hùngcủa mảnh đất Tây Nguyên với màu sắc sử thi rất rõ nét qua câu chuyện của cụ Mết kể trong một đêm nhân khi Tnú về làng.
Tnú là người Strá, anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lớn lên nhờ sự đùm bọc và cưu mang của dân làng Xô Man. Chính vì thế, Tnú luôn gắn bó với buôn làng và sau này còn trở thành người chiến sĩ gan góc bảo vệ quê hương mình. Cụ Mết từng nói: “Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” chính là một lời khen hoàn toàn xứng đáng.
Tnú là một người có bản lĩnh, gan góc và không ngại khó khăn, thử thách. Ngày từ khi còn nhỏ, Tnú đã tỏ ra là một đứa trẻ gan dạ. Ngay cả khi những người như anh Xút, bà Nhan đi liên lạc bị chặt đầu treo cổ thì Tnú không hề sợ hãi mà vẫn dũng cảm xung phong nhận làm liên lạc. Để tránh giặc phát hiện, Tnú “không chọn đường mòn, không chọn quãng nước êm mà chọn con đường gai góc, chọn quãng nước chảy xiết” để đi và vì thế cậu đã nhiều lần “lọt qua hết vòng vây của giặc”. Khi bị giặc bắt, Tnú cũng không hề sợ hãi mà nhanh trí nuốt bức thư mật vào bụng. Đã thế, Tnú còn thách thức lại với bọn giặc khi chỉ tay vào bụng và nói: “Cộng sản ở đây này”. Ngay cả khi bị giặc tró bắt đốt mười đầu ngón tay, Tnú vẫn không kêu lên một tiếng. Tất cả những hành động này đã cho thấy một bản lĩnh kiên cường, gan góc của một thanh niên trẻ tuổi. Trẻ nhưng không bồng bột, ngược lại, anh rất bình tĩnh và thông minh.
Không chỉ gan dạ, Tnú còn là một người có ý chí và quyết tâm cao. Tnú học chữ thua Mai vì hay quên thì lấy đá đập vào đầu, những tưởng nhét được con chữ vào trí nhớ. Nhưng khi được anh Quyết giải thích và động viên thì Tnú đã hiểu ra và học hành chăm chỉ hơn. Tinh thần học hỏi và vượt lên chính mình như vậy không phải ai cũng có và cũng làm được. Chính tính cách ấy của Tnú càng khiến cho chúng ta yêu mến anh hơn.
Mặc dù cuộc đời của Tnú phải chịu quá nhiều nỗi bi kịch nhưng anh vẫn kiên cường vượt lên tất cả, trở thành người anh hùng, trở thành một hình tượng đẹp mà ai cũng phải ngưỡng mộ. Ngay từ nhỏ, anh đã mồ côi cha mẹ nhưng được dân làng nuôi nấng, chính vì thế anh yêu buôn làng của mình, cùng dân làng bảo vệ cán bộ và sẵn sàng hy sinh thân mình để bao vệ quê hương nếu cần. Từ khi còn nhỏ, bị giặc bắt, bị đày đọa: “tấm lưng chằng chịt những vết chém” nhưng Tnú chưa bao giờ nói khai lấy một lời. Khi xông ra cứu mẹ con Mai, Tnú bị giặc bắt đốt mười đầu ngón tay và tận mắt chứng kiến giặc tra tấn vợ con đến chết, trong lòng Tnú thật không còn nỗi đau nào lớn hơn. Lòng căm hận trong anh sôi lên sùng sục, và chính lòng căm thù giặc sâu sắc ấy mà khiến cho anh càng kiên cường, bền gan, ý chí gia nhập quân đội để cầm súng giết giặc trả nợ nước báo thù nhà, bảo vệ dân làng và quê hương.
Lòng căm thù giặc cũng được xuất phát từ tình yêu đối với quê hương và đối với con người của Tnú. Tận mắt chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù đánh đập rất tàn bạo, anh không thể kìm được nỗi đau đang đốt cháy lòng mình: “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy (…) ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Bất chấp cả việc bọn chúng có giáo gươm, còn mình thì tay trắng, anh vẫn xông ra để cứu mẹ con Mai bởi anh không thể đứng nhìn nín nhịn thêm được nữa. Chính tình yêu thương và căm hận đã khiến cho đôi mắt anh “nảy lửa” vừa dữ dội vừa tràn đầy nỗi căm hờn.
Không chỉ dành tình yêu cho vợ con mình, Tnú còn yêu tha thiết quê hương bản làng. Trên đường trở về thăm làng, Tnú nhớ từng kỉ niệm bên gốc cây, nhớ tiếng chày giã gạo của buôn làng đầy thương yêu. Cũng chính vì để bảo vệ quê hương mà Tnú mới chăm chỉ học hành, tham gia cách mạngvà vượt lên trên mọi khó khăn đau khổ. Có thể nói rằng, tình yêu thương với vợ con, với buôn làng quê hương và lòng căm thù giặc sâu sác đã trở thành động lực, biến thành quyết tâm cao độ và hành động cụ thể hơn: dù hai bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng Tnú vẫn đi lực lượng để cầm súng chiến đấu giải phóng quê hương.
Tham gia lực lượng rồi, Tnú còn thể hiện rõ là một người có ý thức và tinh thần trách nhiệm kỷ luật cao. Tuy xa quê hương ba năm, rất nhớ nhà, nhớ buôn làng nhưng chỉ khi được cấp trên cho phép thì anh mới trở về làng và cũng chỉ về đúng một đêm như quy định trong giấy phép. Ta thấy rõ ở đây một người chiến sĩ cách mạng không chỉ gan dạ, dũng cảm mà còn rất nghiêm túc trong tác phong.
Tất cả những tính cách và phẩm chất của Tnú đã làm nên một người anh hùng kiên trung bất khuất. Chính vì thế không chỉ có dân làng Xô Man mà tất cả mọi người đều yêu mến và ngưỡng mộ anh. “Những cặp mắt tròn xoe, rồi những tiếng ré lên và những tiếng reo” của mọi người vừa thể hiện niềm vui mừng khi đón Tnú về làng vừa cho thấy sự quý trọng, yêu mến của tất cả mọi người dành cho anh.
Bằng những hình ảnh chân thực, sinh động và giàu chất sử thi, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã tạc nên bức tượng kì vĩ về con người Tây Nguyên kiên cường bất khuất trong cuộc đấu tranh chống Mĩ đầy gian lao. Qua nhân vật Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu”, tác giả đã gửi gắm những thông điệp mang tính cá nhân và cộng đồng sâu sắc.
hãy chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích sau ?
kiếp người ngắn ngủi , nếu hôm nay con láng phí đời con thì ngày mai con sẽ thấy cuộc đời bỏ con đi xa rồi .vì vậy con càng sớm trâm trọng đời con thì con càng được tận hưởng cuộc sống sớm hãy trâm trọng đời này càng sớm càng tốt chứ đừng mong mình sống thọ
Câu trả lời của bạn
Nghị luận
Nghị luận
Nghị luận
Nghị luận nhé !
Nghị luận
nghi luan
Trong bài thơ Mùa xuân chín, Hàn Mặc Tử viết:
"Trong làn nắng ửng khói mây tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang."
Bằng 1 đoạn văn TỪ 8-10 CÂU, em hãy nêu cảm nhận của mình về đoạn thơ trên. Trong bài có sử dung 1 câu trần thuật đơn có từ 'là'. Gạch chân và chú thích.
Câu trả lời của bạn
"Mùa xuân chín " được rút ra từ trong thơ điên của Hàn Mặc Tử (đề mục Hương Thơm). Trong Thi nhân Việt Nam , Hoài Thanh có nhận xét bao quát về mảng Hương Thơm này như sau: "Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói". Nhưng đã xem Mùa Xuân Chín ta thấy chẳng những thơ không điên, lòng thi nhân thanh tao, cõi hồn siêu thoát, tựa thể ông đang ngồi thụ cảnh thiên thai của bậc khách tiên sa. Mạch thơ cũng tách bạch ra khỏi hẳn cõi sao trăng, ảo tình sương khói ấy:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Đây hẳn là những mái nhà đã được lợp bằng rạ vẫn còn mới ở thôn quê, bởi những sắc màu của rơm rạ còn ánh lên lấm tấm vàng, dưới làn nắng sớm ban mai. Cảnh thơ như bức gấm thêu, đây đó vấn vương vài làn sương mỏng. Toát lên tấm tình của thi nhân với nơi thôn dã rất thân thiết. Đến hai câu sau đó:
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang
"...tà áo biếc" ở đây để chỉ cái dáng xanh mềm mại của giàn thiên lý, khi gió thổi qua giàn mới phát ra tiếng kêu "sột soạt". Nếu gió thổi ngoài trời: nhẹ thì hiu hiu, vi vút... gió to sẽ rít lên ào... ào...
Nhưng cũng chưa hẳn là khi gió thổi qua giàn thiên lý có tiếng kêu "sột soạt" như thế? vì giống lý lá nhỏ, âm điệu chỉ reo... reo... thôi. Hai tiếng "sột soạt" như tiếng của những tấm áo cánh mỏng, mặc hơi căng cọ mài lên da thịt của các nàng thôn nữ mà phát ra vậy. Cảm giác ấy đã dấy lên trong tâm thức của thi nhân để vận vào tả cảnh giàn cây. Chất thơ hơi da thịt này cũng thường có trong Hàn Mặc Tử (HMT)! Các hình tượng thơ miêu tả, nhưng lại đầy cảm giác tình ái. Nào thì "gió trêu"; âm thanh "sột soạt"; còn giàn thiên lý lại được ví như "tà áo biếc"... Thành thử, thơ tả thực mà rất sống động.
Tất cả những hình ảnh: nắng ửng, khói mơ, mái nhà tranh lấm tấm vàng, thiên lý và gió... hòa hợp, được khoác lên chiếc áo tân thanh mùa xuân mà tạo thành "bóng xuân sang". Sang đoạn thơ thứ hai:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
"cỏ" gặp gió lượn thành sóng, nghĩa là cỏ mọc đã hơi cao. Ở đây ta liên tưởng tới một câu thơ của cụ Nguyễn Du: Cỏ non xanh rợn chân trời /- "xanh rợn" là cỏ mới chỉ mọc nhú, lún phún. Nhưng cả một miền cỏ dầy, phẳng, non mướt và xa hút tạo nên một độ sắc gai người, tựa thể sờ vào có thể đứt tay. Còn "sóng cỏ xanh tươi" trong câu thơ HMT : thì màu xanh đã lả lướt để "gợn tới trời " chứ không " rợn" như trong thơ cụ Nguyễn Du. Vậy là, tuy cũng tả về miền cỏ hút đến chân trời... nhưng miền cỏ trong thơ HMT vẫn mang sắc thái riêng.
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy:
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...
Một mảng đời sống dân gian đã tràn vào trong bức tranh cảnh mùa xuân của Ông: rằng, ngày mai trong đám xuân xanh ấy... có kẻ lấy chồng, theo chồng - sẽ không còn sự vô tư, nhàn nhã mà đi dạo mùa xuân như thế nữa! Ý nói: "bỏ cuộc chơi"/- Nhưng câu thơ chưa hẳn đã phải là nuối tiếc cho cô thôn nữ kia, mà chính trong lòng thi nhân đang nuối cảm? Bộc lộ một tâm trạng bâng khuâng, hiu hắt, có phần xa xót. Bệnh tật đã không cho Ông được hưởng cái hạnh phúc đời thường ấy! Cảnh đời thanh thái của mùa xuân ấy... như thể đã cách xa hàng thế giới. Cái ước muốn nho nhỏ: có một tổ ấm gia đình, vợ chồng hạnh phúc... với Ông, cũng không bao giờ có. Tâm khảm thi nhân dồn vào tình thơ đằm thắm, thiết tha. Đến đoạn thơ ba:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Thơ nghe như lời đồng dao chốn dân gian:
Hổn hển như lời của nước mây...
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây...
Trước cảnh xuân đẹp chứa chan, không phải là nước mây "hổn hển" đâu, chính là lòng thi nhân đang hổn hển!...
Đến đây tôi xin nói ít lời về thi pháp tượng trưng trong thơ hiện đại Pháp, mà HMT đã ảnh hưởng khá sâu sắc. Thơ tượng trưng của nền thơ hiện đại Pháp nửa sau thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, ( dựa theo tuyển dịch và giới thiệu của Đông Hoài, NXB Văn học 1992 ) là thứ thơ diễn tả theo phép loại suy -Tức là quan hệ tương đồng giữa hai sự vật, nhìn nhận mọi sự vật bằng biểu tượng. Nhưng trường phái thơ tượng trưng Pháp được hình thành và phát triển theo khuynh hướng của hai thuyết tương ứng: tương ứng cảm quan và tương ứng trí năng!
Về thuyết "Tương ứng cảm quan" do Charles Baudelaire ( 1821-1867) khởi xướng. Ông là tác giả của tập "Những bông hoa ác" nổi tiếng. Ông đã được các nhà thơ sừng sỏ nhất trong văn học hiện đại Pháp coi là bậc thầy mở đường, nhà tiên khu của trường phái thơ tượng trưng! Baudelaire đã từng định nghĩa trong "Tương ứng", một trong sáu bài thơ danh giá nhất của ông như sau:
Thiên nhiên là một ngôi đền mà trong đó
những cột sinh linh
Thỉnh thoảng phát ra những ngôn ngữ mơ hồ,
Con người đi trong thiên nhiên qua những rừng biểu tượng
... Hương thơm, màu sắc và thanh âm tương ứng.
Nghĩa là: giữa vật này với vật khác, giữa con người - cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Để phản ảnh một cách tương ứng, nhưng dựa vào cảm thụ được phát ra từ các giác quan (gọi là cảm quan), hay từ trong tâm linh. Cho nên thỉnh thoảng ngôn ngữ mơ hồ...
Thuyết "Tương ứng trí năng" - Người tiêu biểu là Stéphane Mallarmé (1842-1898), cũng là một nhà thơ Pháp đứng đầu trường phái tượng trưng đã chủ xướng. Quan điểm cơ bản về thuyết "Tương ứng trí năng" của Mallarmé là: Biểu tượng được tượng trưng phải rành mạch, rõ ràng, bằng một sự áp đặt hợp lý của lý trí, chứ không theo khuynh hướng cảm quan như Baudelaire.
Nhớ tới lời của cố Chế Lan Viên đã viết tựa trong Tuyển thơ Hàn Mặc Tử xuất bản 1988 rằng: "Tử trong thời gian chúng tôi gần, chỉ thấy Anh nói về Baudelaire..."! Bởi vì những yếu tố thơ tượng trưng được HMT sử dụng rất nhiều, đã nhuần nhuyễn trong thi pháp thơ Ông, nhưng hầu hết đều theo khuynh hướng "Tương ứng cảm quan" của Baudelaire.
Trở lại với Mùa Xuân Chín - Những câu thơ: "hổn hển như lời của nước mây", "tiếng ca vắt vẻo", "sột soạt gió trêu tà áo biếc", rồi cả đến câu thơ cuối cùng: "sông trắng nắng chang chang"... đều là những hình ảnh của thơ tượng trưng cảm quan, để bộc lộ thay cho tâm trạng, tình cảm con người, hay một hiện thực đời sống. Ngay đến tên đề của bài thơ: Mùa xuân chín, cũng mang tính tượng trưng đó rồi. Trong nhiều bài thơ khác của Hàn Mặc Tử ta cũng hay gặp những yếu tố của loại thơ tượng trưng này. Thí dụ:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi...
Hay là:
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm,
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
Đặc biệt với các giác quan cảm thụ rất nhậy bén của thi nhân: Ngôn ngữ chứa đầy hồn, cảnh trí thiên nhiên rất sống động. Ở trong câu ba của đoạn thơ thứ ba, ta còn thấy một cụm hình ảnh: Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc /- Tiếng "trúc" ở đây, với hình ảnh "lá trúc" trong bài Đây Thôn Vĩ Dạ:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Đều thuộc loại ngôn từ mỹ học, để làm biểu tượng về làng quê! Tôi xin phân tích tiếp đoạn thơ cuối:
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc,
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Sắc điệu "...trắng nắng chang chang?" vẽ ra cảnh trắng toát bên con sông mộng. Cảnh thực trong hồi ức mà như ảo ảnh. Thi nhân đã mô tả những hình ảnh đó bằng ngôn ngữ thông qua cảm xúc nhớ làng da diết, đưa tình cảm bài thơ lên tới tột cùng, không chỉ thuần tuý là bức tranh tả cảnh mùa xuân nữa.
Cũng đã nhiều nhà bình luận đã bàn về hình ảnh "chị ấy" trong bài thơ là ai? Người thì nói: "chị ấy" là người yêu xưa mà thi nhân nhớ lại? Kẻ lại bảo: Đó là chị ruột của thi nhân?...Tôi nghĩ: Xét về đời sống riêng tư của HMT, những người thân thiết nhất của thi nhân không thể không nhắc đến người mẹ, cùng người chị ruột hiền từ vẫn thường chăm bẵm Ông trong cuộc sống. Như ở bài hồi ký "Nhớ Hàn Mặc Tử" của anh Nguyễn Văn Xê, người đã chăm sóc thi nhân trong thời gian bị bệnh, cho đến khi tạ thế tại nhà thương Qui Hòa, kể rằng:
Sau khi Trí (tên thường gọi của nhà thơ) chết chôn được ba ngày, qua ngày hôm sau... mẹ và chị Lễ của Trí tức tốc vào Qui Hòa. Tôi hướng dẫn gia đình Trí đi thăm mộ. Nơi đây tôi không thể cầm được giọt lệ trước một người mẹ khóc đứa con yêu, một người chị khóc em trong buổi chiều mùa đông se se lạnh... Tôi đã chứng kiến có một mẹ tiên và một chị tiên đến khóc nức nở bên mộ Trí.
Phải chăng người "chị ấy" trong thơ của thi nhân chính là chị Lễ! Mùa Xuân Chín chẳng những chỉ là một bức tranh thiên nhiên đẹp, còn trắc ẩn cả tình làng và đây đó quấn quít đôi chút lòng nhi nữ. Một bài thơ chân quê. Từ biểu tượng của ngôn ngữ, nhạc điệu đến cảnh tình qua cảm xúc... đã dan díu quyện lấy nhau mà tạo nên một bản xô-nát về "khối tình đời" độc đáo và hoàn bích.
"Mùa xuân chín " được rút ra từ trong thơ điên của Hàn Mặc Tử (đề mục Hương Thơm). Trong Thi nhân Việt Nam , Hoài Thanh có nhận xét bao quát về mảng Hương Thơm này như sau: "Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói". Nhưng đã xem Mùa Xuân Chín ta thấy chẳng những thơ không điên, lòng thi nhân thanh tao, cõi hồn siêu thoát, tựa thể ông đang ngồi thụ cảnh thiên thai của bậc khách tiên sa. Mạch thơ cũng tách bạch ra khỏi hẳn cõi sao trăng, ảo tình sương khói ấy:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Đây hẳn là những mái nhà đã được lợp bằng rạ vẫn còn mới ở thôn quê, bởi những sắc màu của rơm rạ còn ánh lên lấm tấm vàng, dưới làn nắng sớm ban mai. Cảnh thơ như bức gấm thêu, đây đó vấn vương vài làn sương mỏng. Toát lên tấm tình của thi nhân với nơi thôn dã rất thân thiết. Đến hai câu sau đó:
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang
"...tà áo biếc" ở đây để chỉ cái dáng xanh mềm mại của giàn thiên lý, khi gió thổi qua giàn mới phát ra tiếng kêu "sột soạt". Nếu gió thổi ngoài trời: nhẹ thì hiu hiu, vi vút... gió to sẽ rít lên ào... ào...
Nhưng cũng chưa hẳn là khi gió thổi qua giàn thiên lý có tiếng kêu "sột soạt" như thế? vì giống lý lá nhỏ, âm điệu chỉ reo... reo... thôi. Hai tiếng "sột soạt" như tiếng của những tấm áo cánh mỏng, mặc hơi căng cọ mài lên da thịt của các nàng thôn nữ mà phát ra vậy. Cảm giác ấy đã dấy lên trong tâm thức của thi nhân để vận vào tả cảnh giàn cây. Chất thơ hơi da thịt này cũng thường có trong Hàn Mặc Tử (HMT)! Các hình tượng thơ miêu tả, nhưng lại đầy cảm giác tình ái. Nào thì "gió trêu"; âm thanh "sột soạt"; còn giàn thiên lý lại được ví như "tà áo biếc"... Thành thử, thơ tả thực mà rất sống động.
Tất cả những hình ảnh: nắng ửng, khói mơ, mái nhà tranh lấm tấm vàng, thiên lý và gió... hòa hợp, được khoác lên chiếc áo tân thanh mùa xuân mà tạo thành "bóng xuân sang". Sang đoạn thơ thứ hai:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
"cỏ" gặp gió lượn thành sóng, nghĩa là cỏ mọc đã hơi cao. Ở đây ta liên tưởng tới một câu thơ của cụ Nguyễn Du: Cỏ non xanh rợn chân trời /- "xanh rợn" là cỏ mới chỉ mọc nhú, lún phún. Nhưng cả một miền cỏ dầy, phẳng, non mướt và xa hút tạo nên một độ sắc gai người, tựa thể sờ vào có thể đứt tay. Còn "sóng cỏ xanh tươi" trong câu thơ HMT : thì màu xanh đã lả lướt để "gợn tới trời " chứ không " rợn" như trong thơ cụ Nguyễn Du. Vậy là, tuy cũng tả về miền cỏ hút đến chân trời... nhưng miền cỏ trong thơ HMT vẫn mang sắc thái riêng.
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy:
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...
Một mảng đời sống dân gian đã tràn vào trong bức tranh cảnh mùa xuân của Ông: rằng, ngày mai trong đám xuân xanh ấy... có kẻ lấy chồng, theo chồng - sẽ không còn sự vô tư, nhàn nhã mà đi dạo mùa xuân như thế nữa! Ý nói: "bỏ cuộc chơi"/- Nhưng câu thơ chưa hẳn đã phải là nuối tiếc cho cô thôn nữ kia, mà chính trong lòng thi nhân đang nuối cảm? Bộc lộ một tâm trạng bâng khuâng, hiu hắt, có phần xa xót. Bệnh tật đã không cho Ông được hưởng cái hạnh phúc đời thường ấy! Cảnh đời thanh thái của mùa xuân ấy... như thể đã cách xa hàng thế giới. Cái ước muốn nho nhỏ: có một tổ ấm gia đình, vợ chồng hạnh phúc... với Ông, cũng không bao giờ có. Tâm khảm thi nhân dồn vào tình thơ đằm thắm, thiết tha. Đến đoạn thơ ba:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Thơ nghe như lời đồng dao chốn dân gian:
Hổn hển như lời của nước mây...
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây...
Trước cảnh xuân đẹp chứa chan, không phải là nước mây "hổn hển" đâu, chính là lòng thi nhân đang hổn hển!...
Đến đây tôi xin nói ít lời về thi pháp tượng trưng trong thơ hiện đại Pháp, mà HMT đã ảnh hưởng khá sâu sắc. Thơ tượng trưng của nền thơ hiện đại Pháp nửa sau thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, ( dựa theo tuyển dịch và giới thiệu của Đông Hoài, NXB Văn học 1992 ) là thứ thơ diễn tả theo phép loại suy -Tức là quan hệ tương đồng giữa hai sự vật, nhìn nhận mọi sự vật bằng biểu tượng. Nhưng trường phái thơ tượng trưng Pháp được hình thành và phát triển theo khuynh hướng của hai thuyết tương ứng: tương ứng cảm quan và tương ứng trí năng!
Về thuyết "Tương ứng cảm quan" do Charles Baudelaire ( 1821-1867) khởi xướng. Ông là tác giả của tập "Những bông hoa ác" nổi tiếng. Ông đã được các nhà thơ sừng sỏ nhất trong văn học hiện đại Pháp coi là bậc thầy mở đường, nhà tiên khu của trường phái thơ tượng trưng! Baudelaire đã từng định nghĩa trong "Tương ứng", một trong sáu bài thơ danh giá nhất của ông như sau:
Thiên nhiên là một ngôi đền mà trong đó
những cột sinh linh
Thỉnh thoảng phát ra những ngôn ngữ mơ hồ,
Con người đi trong thiên nhiên qua những rừng biểu tượng
... Hương thơm, màu sắc và thanh âm tương ứng.
Nghĩa là: giữa vật này với vật khác, giữa con người - cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Để phản ảnh một cách tương ứng, nhưng dựa vào cảm thụ được phát ra từ các giác quan (gọi là cảm quan), hay từ trong tâm linh. Cho nên thỉnh thoảng ngôn ngữ mơ hồ...
Thuyết "Tương ứng trí năng" - Người tiêu biểu là Stéphane Mallarmé (1842-1898), cũng là một nhà thơ Pháp đứng đầu trường phái tượng trưng đã chủ xướng. Quan điểm cơ bản về thuyết "Tương ứng trí năng" của Mallarmé là: Biểu tượng được tượng trưng phải rành mạch, rõ ràng, bằng một sự áp đặt hợp lý của lý trí, chứ không theo khuynh hướng cảm quan như Baudelaire.
Nhớ tới lời của cố Chế Lan Viên đã viết tựa trong Tuyển thơ Hàn Mặc Tử xuất bản 1988 rằng: "Tử trong thời gian chúng tôi gần, chỉ thấy Anh nói về Baudelaire..."! Bởi vì những yếu tố thơ tượng trưng được HMT sử dụng rất nhiều, đã nhuần nhuyễn trong thi pháp thơ Ông, nhưng hầu hết đều theo khuynh hướng "Tương ứng cảm quan" của Baudelaire.
Trở lại với Mùa Xuân Chín - Những câu thơ: "hổn hển như lời của nước mây", "tiếng ca vắt vẻo", "sột soạt gió trêu tà áo biếc", rồi cả đến câu thơ cuối cùng: "sông trắng nắng chang chang"... đều là những hình ảnh của thơ tượng trưng cảm quan, để bộc lộ thay cho tâm trạng, tình cảm con người, hay một hiện thực đời sống. Ngay đến tên đề của bài thơ: Mùa xuân chín, cũng mang tính tượng trưng đó rồi. Trong nhiều bài thơ khác của Hàn Mặc Tử ta cũng hay gặp những yếu tố của loại thơ tượng trưng này. Thí dụ:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi...
Hay là:
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm,
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
Đặc biệt với các giác quan cảm thụ rất nhậy bén của thi nhân: Ngôn ngữ chứa đầy hồn, cảnh trí thiên nhiên rất sống động. Ở trong câu ba của đoạn thơ thứ ba, ta còn thấy một cụm hình ảnh: Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc /- Tiếng "trúc" ở đây, với hình ảnh "lá trúc" trong bài Đây Thôn Vĩ Dạ:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Đều thuộc loại ngôn từ mỹ học, để làm biểu tượng về làng quê! Tôi xin phân tích tiếp đoạn thơ cuối:
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc,
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Sắc điệu "...trắng nắng chang chang?" vẽ ra cảnh trắng toát bên con sông mộng. Cảnh thực trong hồi ức mà như ảo ảnh. Thi nhân đã mô tả những hình ảnh đó bằng ngôn ngữ thông qua cảm xúc nhớ làng da diết, đưa tình cảm bài thơ lên tới tột cùng, không chỉ thuần tuý là bức tranh tả cảnh mùa xuân nữa.
Cũng đã nhiều nhà bình luận đã bàn về hình ảnh "chị ấy" trong bài thơ là ai? Người thì nói: "chị ấy" là người yêu xưa mà thi nhân nhớ lại? Kẻ lại bảo: Đó là chị ruột của thi nhân?...Tôi nghĩ: Xét về đời sống riêng tư của HMT, những người thân thiết nhất của thi nhân không thể không nhắc đến người mẹ, cùng người chị ruột hiền từ vẫn thường chăm bẵm Ông trong cuộc sống. Như ở bài hồi ký "Nhớ Hàn Mặc Tử" của anh Nguyễn Văn Xê, người đã chăm sóc thi nhân trong thời gian bị bệnh, cho đến khi tạ thế tại nhà thương Qui Hòa, kể rằng:
Sau khi Trí (tên thường gọi của nhà thơ) chết chôn được ba ngày, qua ngày hôm sau... mẹ và chị Lễ của Trí tức tốc vào Qui Hòa. Tôi hướng dẫn gia đình Trí đi thăm mộ. Nơi đây tôi không thể cầm được giọt lệ trước một người mẹ khóc đứa con yêu, một người chị khóc em trong buổi chiều mùa đông se se lạnh... Tôi đã chứng kiến có một mẹ tiên và một chị tiên đến khóc nức nở bên mộ Trí.
Phải chăng người "chị ấy" trong thơ của thi nhân chính là chị Lễ! Mùa Xuân Chín chẳng những chỉ là một bức tranh thiên nhiên đẹp, còn trắc ẩn cả tình làng và đây đó quấn quít đôi chút lòng nhi nữ. Một bài thơ chân quê. Từ biểu tượng của ngôn ngữ, nhạc điệu đến cảnh tình qua cảm xúc... đã dan díu quyện lấy nhau mà tạo nên một bản xô-nát về "khối tình đời" độc đáo và hoàn bích.
Không biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Hôm qua, hôm nay và ngày mai kia lại có những vần thơ xuân cho con người, cho cuộc sống. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử với "Mùa xuân chín" khi cảm xúc trong con người lữ khách đó đã đến độ tràn đầy.
Nói đến mùa xuân, có ai không hiểu đó là những phút rạo rực nhất của cuộc đời, của cuộc sống. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là "mùa xuân nho nhỏ", lúc là "mùa xuân xanh"... và đây "Mùa xuân chín" nghe vừa mới, vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khao khát trong tâm hồn Hàn Mạc Tử.
Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ cái nắng mới lạ thường:
"Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang".
Đúng là nắng xuân, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, chẳng phải giọt nắng mà là "làn nắng". Chữ "làn" như gợi một hơi thở nhẹ nhàng, nắng như mỏng tang, mềm mại trải đều trong thơ và trong không gian. Làn nắng lại "ửng" lên trong "khói mơ tan". Cảnh sắc nhẹ nhàng, đẹp dân dã mà huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái "ửng" của nắng được tôn lên trong làn khói mơ màng đang "tan" ấy. Ngòi bút thi sĩ vẫn hướng đến một nét thơ truyền thống, cổ điển, cảnh như có hồn, như có tình chan chứa. Trân trọng đón lấy cái nắng mới tinh khiết ấy là "Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng'!. Sự hô ứng trong vần thơ tạo ra một cảm xúc ấm áp, cảnh vật cân xứng hài hòa, đầy thơ mộng. Vài nét chấm phá đơn sơ mà tinh tế gợi cảm, dung dị mà đáng yêu. Chỉ có "đôi mái nhà tranh" hiện lên trong "làn nắng ửng" nhưng vẫn gợi lên một sức sống đang lay động, dân dã bình yên rất thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên "đôi mái nhà tranh" chút sắc xuân và hương xuân: "Sột soạt gió trêu tà áo biếc". Cái âm thanh của gió "trêu" tà áo và cái gam màu "biếc" của, lá ây là cái tình xuân. Một chữ "trêu" đáng yêu quá, thân thương quá, có gì như mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao, hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lòng ta... Gió cũng chọn áo mà "trêu", phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật đẹp. Mùa xuân là như thế, "chín" là như thế!
Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới khái quát: "Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang". Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, vấn vương đón “bóng xuân sang", cảm xúc ngưng tụ như nín thở ấy ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch cảm xúc. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhàng bước... như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta.
Sau dấu châ'm (.), sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn nhà th ơ thì mùa xuân ào đến:
"Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi".
Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong không gian mênh mông, bao la. Hình ảnh ẩn dụ "sóng cỏ" và ba chữ "gợn tới trời" gợi tả làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió xuân nhè nhẹ thổi. Chẳng biết ngoài kia là sóng cỏ thật , hay lòng thi sĩ cỏ xanh tươi mới gợn thành "sóng" như thế? Mùa xuân bao giờ chẳng có màu xanh của cỏ. "Cỏ xanh như khói bến xuân tươi" (Độ đầu xuân thảo lục như yên - Nguyễn Trãi). "Cỏ non xanh tận chân trời" (Nguyễn Du)... Gam màu "xanh tươi" đầy sức sống yên bình ấy trong thơ Hàn Mặc Tử cứ gợn tới trời", trải dài mãi như không dứt, trải mãi, ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân ấy, tình cảm con người cũng đến độ chín. Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen quá, yêu thương quá. Một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này được nói đến qua tiếng hát "vắt vẻo" và "thơ ngây" của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ. Câu thơ gợi lên cái "chín" trong hồn bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo", trong trẻo, tươi mát của câu hát giao duyên, của trai gái nơi đồng quê, mộc mạc mà tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã bắt vào lời hát ấy nhiều xao xuyến. Mùa xuân mới thực sự "chín" khi có con người và có dư âm tiếng hát:
"Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây".
Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, "vắt vẻo" hòa nhịp với âm trầm "hổn hển" thể hiện một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hẳn vào cái thế giới âm thanh mùa xuân ấy.
Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa "lưng chừng núi". Dư âm tiếng hát dường như giăng mắc, rung lên “vắt vẻo" gợi lên nhiều xao xuyến bâng khuâng trong lòng nhà thơ. Tiếng hát "hổn hển" được so sánh "với lời của nước mây", lời của thiên nhiên. Hai tiếng "hổn hển" như nhịp thở gấp gáp, vội vàng đầy hương xuân, tình xuân, cảm xúc vừa thực vừa mơ đến lạ kì. Lời hát của các cô thôn nữ sao mà đáng yêu thế, như hút hồn người, như tràn ngập cả không gian, góp phần làm nên một "mùa xuân chín". Và còn có tiếng thầm thì "thầm thì với ai..." dưới bóng trúc, hẳn là tâm sự, là thân thương rồi. "Vắt vẻo”, "hổn hển", "thầm thì" là ba cung bậc của ba âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người đến nhẹ nhàng lắng dịu, chan chứa thương yêu. Sự phong phú về giai điệu và phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say mê mọi người, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng cảm nhận: "Nghe ra ý vị và thơ ngây...".
Tiếng hát mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu quá, sắc xuân, hương xuân, tình xuân "đang chín" dần trong lòng thôn nữ, bỗng ngập ngừng như có sự hẫng hụt, băn khoăn:
"Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi".
"Đám xuân xanh ấy" là các cô thôn nữ đang hát, đang "thầm thì với ai ngồi dưới trúc" kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ "theo chồng bỏ cuộc chơi... Thiên nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lòng khi mùa xuân đang chín... "Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua - Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già" (Xuân Diệu).
Hàn Mặc Tử chính là người lữ khách đi qua mùa xuân gặp cái ý vị của mùa xuân: "Khách xa gặp lúc mùa xuân chín...". Một nét bút truyền thống cổ điển "xuân hướng lão" xen lẫn cái hiện đại, mới mẻ làm cho ý thơ thêm đậm đà hơn.
Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức:
"Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang".
Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Nhà thơ nhớ đến con người như khao khát một tình người, một tình quê. Mỗi một nổi nhớ đều rất bâng khuâng. Nhớ một công việc cụ thể: "gánh thóc" trong một không gian cụ thể: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". Chỉ có "chị ấy" là người đọc không thể biết mà chỉ có tác giả mới biết để mà "sực nhớ", mà thầm hỏi. Mà man mác sợ "mùa xuân chín" ấy sẽ trôi qua. Hình như đó là néi thơ Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử khao khát giao cảm với đời mà luôn có một nỗi niềm cô đơn, trống vắng, hẫng hụt như thế.
"Mùa xuân chín" là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng. Mùa xuân đẹp. Con người trẻ trung, hồn nhiên, xinh đẹp, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân trên "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.
"Mùa xuân chín" lúc thì dạt dào, lúc thì lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ. Có lúc vồn vã, có lúc mênh mang, như đang lắng hồn mình vào bước đi của mùa xuân rồi bồi hồi, "sực nhớ... " và "bâng khuâng". Cái nhớ bâng khuâng của người lữ khách mãi mãi là tình thương mến, nỗi khát khao giao cảm với hương sắc và khúc nhạc mùa xuân, với làng quê thân thuộc nơi miền Trung "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"...
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *