Bài học giúp các em học sinh có kĩ năng vận dụng các thao tác phân tích, bình luận, chứng minh, so sánh để làm bài nghị luận văn học. Biết cách làm bài văn nghị luận về một ý kiến bàn về văn học.
Tìm hiểu đề
Tiến hành viết bài
Kiểm tra và chỉnh sửa (nếu có)
Có ý kiến cho rằng: “Hành động cắt dây trói cứu A Phủ của Mị cũng là hành động cắt đứt sợi dây ràng buộc mình với nhà thống lí Pá Tra”.
Ý kiến của anh chị về vấn đề trên.
Có ý kiến cho rằng: "Sự nhẫn nhục của nhân vật Từ (Đời thừa – Nam Cao) không đáng trách, chỉ đáng thương; còn sự nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) thì vừa đáng thương vừa đáng trách".
Từ cảm nhận của mình về hai nhân vật này, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
Để định hướng cách làm và triển khai vấn đề cho các đề văn liên quan đến bài văn nghị luận về một ý kiến bàn về văn học, các em có thể tham khảo bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Hãy bình luận câu nói của nhà văn Nguyễn Khải: "Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ những hi sinh gian khổ, ... điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy".
Câu trả lời của bạn
Nhà văn Nguyễn Khải đã lấy nông trường Điện Biên làm bối cảnh cho truyện ngắn Mùa lạc. Điện Biên - nơi đã ghi dấu bao nhiêu dấu tích của chiến tranh. Nơi đó, xưa kia là một vùng đất chết, sự sống nói chung và sự sống của con người nói riêng bị chiến tranh tàn phá và hủy diệt. Ai có ngờ đâu, sau chiến tranh, cuộc sống nơi đây đã hồi sinh. Điện Biên đã thành một nông trường rộng lớn, tràn đầy sức sống với “màu xanh thẫm của đỗ, của ngô, của lạc, màu xanh non của lá mạ, màu đỏ tươi của ớt chín lấn dần lên các thứ màu nham nhở, man rợ khúc của đất hoang". Đặc biệt là sự hình thành và phát triển ngày càng tốt đẹp, tươi vui, hạnh phúc của cuộc sống con người nơi đây. Dĩ nhiên là cuộc sống tươi vui, đầm ấm, hạnh phúc ấy không phải tự dưng mà những con người nơi đây có được. Muốn có được cuộc sống như thế họ phải lao động cậc lực, họ phải đổ biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và có khi là cả máu của họ. Chính cuộc sống được hình thành như vậy, nên họ yêu thương nhau, gắn bó với nhau và sống với lòng vị tha cao cả. Được sống trong một môi trường mới với những con người lao động mới và sự nỗ lực tự vượt lên chính bản thân mình, Đào đã vượt qua số phận và tìm thấy hạnh phúc. Từ hiện thực sinh động của cuộc sống ở nông trường Điện Biên, nhà văn Nguyễn Khải đã đưa ra một câu nói đầy chất triết lí: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ những hi sinh gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh đế bước qua những ranh giới ấy".
Câu nói của nhà văn Nguyễn Khải đã đưa ra một chân lí của cuộc sống, đề cao sự nỗ lực vươn lên không ngừng của mỗi dân tộc của bản thân của mỗi con người trong việc đi tìm lẽ sống và hạnh phúc cho dân tộc, cho mỗi cá nhân con người.
Thật vậy, trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, ông cha ta đã từng đánh Hán, đuổi quân Nguyên - Mông, diệt Minh, trừ Thanh, đánh Pháp, đuổi Nhật, phá tan bè lũ cướp nước và bán nước Mỹ - ngụy để giành và giữ lấy độc lập tự do cho dân tộc. Nếu không có xương máu của tiền nhân dân đổ xuống trên mảnh đất này trong suốt chiều dài lịch sử thì làm sao ta có được một dải giang sơn Việi Nam gấm vóc chạy suốt từ Bắc đến Nam như ngày hôm nay. Như vậy, không phải là “Sự sống nảy sinh trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ những hi sinh gian khổ" đấy ư?
Trở lại với nông trường Điện Biên, ta cũng thấy rõ điều đó. Cuộc sống nơi đây hồi sinh, con người nơi đây tìm ra cuộc sống tươi vui, hạnh phúc cũng đi từ những hi sinh gian khổ, từ ý chí, niềm tin và nghị lực, không đầu hàng cuộc sống. Đào - nhân vật trung tâm của câu chuyện cũng đi từ những bất hạnh trong cuộc đời, nhưng nhờ có lòng khát khao cuộc sống, có ý thức không đầu hàng số phận, nên Đào mới lưu lạc đến nông trường Điện Biên và ở đây, trong một môi trường mới với những con người lao động mới. Đào đã vượt qua số phận và tìm thấy hạnh phúc. Quả đúng là “ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy". Trong cuộc sống đời thường đã có biết bao tấm gương vượt khó để thành công trong cuộc đời, có biết bao con người “tàn” mà không “phế" làm được biết bao điều để mang lại cuộc sống tốt đẹp cho mình và cho xã hội.
Cùng với quan điểm này của nhà văn Nguyễn Khải. Trước đó, bà Thác-kơ-rê một nữ văn sĩ nổi tiếng của nước Anh trong bộ tiểu thuyết Hội chợ phù hoa đã nói: “Cuộc đời là một tấm gương soi, cau mặt với nó, nó sẽ cau mặt trả lại với chúng ta ngay. Nếu mỉm cười với nó, nó vẽ trở thành người bạn vui tính và tốt bụng". Hoàng đế Na-pô-lê-ông của nước Pháp cũng đã từng nói: "Mất tiền là chẳng mất gì cả, mất danh dự là mất một nửa cuộc đời; mất niềm tin và nghị lực là mất cả cuộc đời".
Câu nói của Nguyễn Khải trong truyện ngắn Mùa lạc: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ những hi sinh gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy" là một chân lí, mãi là bài học cho mỗi chúng ta trong cuộc sống.
Trong bài thơ Một khúc ca xuân - Tố Hữu có câu: "Ôi! sống đẹp là thế nào hỡi bạn? Anh (chị) hãy bày ý kiến của mình về câu thơ trên.
Câu trả lời của bạn
I. Mở bài:
Cuộc sống của con người thật đa dạng và mỗi người đều có một quan điểm riêng của mình về cuộc sống. Có người chỉ biết sống cho riêng mình, cho hiện tại mà chẳng cần biết đến kẻ khác, chẳng biết ngày mai sẽ ra sao. Nhưng cũng có rất nhiều người luôn suy nghĩ, trăn trở về cuộc sống làm thế nào để có một cuộc sống đẹp theo đúng ý nghĩa của nó. Nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ Một khúc ca xuân cũng đã từng bâng khuâng: “Ôi! Sống đẹp đẹp là thế nào hỡi bạn”.
II. Thân bài:
1. Giải thích: Sống như thế nào là sống đẹp?
“Sống đẹp” là cách sống không phải chỉ biết sống cho riêng mình, sống theo lối sống cá nhân, ích kỉ, đi ngược lại đạo lí làm người... mà “sống đẹp” là một cách sống biết hi sinh, vị tha, biết đấu tranh cho hạnh phúc của người khác, tức là phải luôn luôn sống theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
“Sống đẹp ” còn là cách sống luôn hướng về một mục đích, một lí tưởng cao đẹp, luôn gắn bó cuộc đời mình với đất nước với nhân dân. Cách sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một minh chứng hùng hồn cho cách sống đẹp. Vì thiết tha với đất nước, với nhân dân nên cả cuộc đời Bác phải trải qua biết bao nhiêu hi sinh, gian khổ để đấu tranh cho nền độc lập, tự do của đất nước, cho hạnh phúc của nhân dân: “Chỉ biết quên mình cho hết thảy - Như dòng sông chảy nặng phù sa" như nhà thơ Tố Hữu đã nói.
Người có cách sống đẹp là người có tâm hồn, tình cảm lành mạnh, có ước mơ trong sáng, có niềm tin và nghị lực vượt qua bao sóng gió của cuộc đời để vươn đến một tương lai tươi sáng. Qua bao kì thi tuyển sinh vào Đại học ta đã thấy có nhiều học sinh con nhà nghèo thiếu sách vở, thiếu thời gian vì còn phải làm việc để phụ giúp gia đình nhưng nhờ có tinh thần hiếu học, luôn nỗ lực trong cuộc sống và học tập nên đã trở thành thủ khoa trong những kì thi tuyển sinh đại học ấy.
2. Tầm quan trọng của việc sống đẹp.
“Sống đẹp” sẽ đem lại cho chúng ta một cuộc sống thật vô cùng ý nghĩa. “Sống đẹp" sẽ làm cho cuộc sống của chúng ta trong sáng, thanh cao hơn, góp phần làm cho xã hội tốt đẹp hơn, đẩy lùi cái xấu, phát huy cái tốt, làm cho người gần người hơn, đời sống tinh thần ngày càng phong phú văn minh hơn.
Người học sinh sống đẹp là phải biết chăm chỉ học tập, có đạo đức tót, hiếu thảo với cha mẹ, lễ phép với thầy cô, thân ái, hòa nhã với bạn bè, biết nghe theo những lời hay, lẽ phải mà cha mẹ và thầy cô thường dạy bảo. Hơn nữa một người học sinh sống đẹp là người học sinh ấy phải trung thực trong học tập, không quay cóp trong khi làm bài, không xả rác trong lớp học và nơi công cộng, phải biết yêu thương, trân trọng, giúp đỡ những người nghèo khổ, tàn tật, phải biết bênh vực và đấu tranh cho lẽ phải, không tham gia vào các vụ bạo lực học đường.
Hơn nữa, khi chúng ta sống đẹp, được mọi người thương yêu, trân trọng thì khi chúng ta gặp rủi ro, hoạn nạn, chúng ta sẽ được mọi người cứu giúp, cưu mang, đùm bọc để chúng ta vượt qua những rủi ro hoạn nạn ấy.
III. Kết bài:
Tóm lại, “Sống đẹp” là biểu hiện cách sống của một con người có văn hóa. Sống đẹp: làm cho nhân cách của chúng la ngày càng hoàn thiện hơn, góp phần làm cho cuộc sống xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Muốn sống đẹp chúng ta phải luôn đấu tranh với cái ác, cái xấu, tư tưởng cá nhân ích kỉ, tầm thường, nhỏ hẹp; phát huy cái tốt, cái thiện và phải biết trân trọng cái đẹp.
Suy nghĩ khi đọc đoạn thơ sau đây của Tố Hữu: "Nếu là con chim, là chiếc lá/Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh/Lẽ nào vay mà không trả/Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình".
Câu trả lời của bạn
Thơ hay không chỉ giàu cảm xúc mà còn lấp lánh chất trí tuệ, lí trí, mang hàm nghĩa sâu xa. Tôi rất thích khi đọc đoạn thơ sau đây, rút trong bài Một khúc ca xuân của Tố Hữu viết vào tháng 12 năm 1977:
Nếu là con chim, là chiếc lá
Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.
Đoạn thơ đã gợi lên trong tâm trí tôi bao suy nghĩ, bao điều lí thú. Tác giả đã nêu lên một quan niệm sống tích cực, sống đẹp trong mối quan hệ nhân sinh: vay và trả, cho và nhận giữa cộng đồng đối với mọi người, nhất là thế hệ trẻ.
Đoạn thơ đẹp, đẹp giản dị, đẹp hồn nhiên. Con chim và chiếc lá vừa là biểu tượng cho sự sống, vừa là hình tượng của ngôn ngữ thi ca: “Chim phải hót, chiếc lá phải xanh”. Chim hót vì sống theo bản năng, được sống, được bay lượn trong ánh sáng và bầu trời tự do. “Lá phải xanh”, lá được nuôi dưỡng bàng nước, bằng mầu mỡ của đất, bằng khí trời và ánh sáng. Được sống trong tự nhiên nên “chim phải hót, chiếc lá phải xanh”. Đó là quy luật của tự nhiên, quy luật của sự sống muôn đời và vĩnh hằng. Màu xanh của lá, tiếng hót của chim trời còn là vẻ đẹp của thiên nhiên, đem lại vẻ đẹp kì diệu của sự sống.
Từ chim hót, lá xanh, nhà thơ nói đến vay và trả, cho và nhận, đó là quy luật của cuộc sống xã hội, của con người. Nói một cách khác, là quan niệm sống, đạo lí sống.
“Vay mà không trả là vong ân bội nghĩa, đó là cách hành xử của những kẻ “ăn xổi ở thì”, của loại người bất nhân bất nghĩa. Hai tiếng “lẽ nào” là một lời khẽ nhắc: không nên làm như thế, không được ứng xử như thế.
Có vay và có trả là đúng đạo lí. Vay và trả mang hàm nghĩa chịu ơn, mang ơn và đền ơn đáp nghĩa: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguổn", “Ai ơi. bưng bát cơm đầy/ Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng?”, là vay là trả. Trong xà lim máy chém, trên đường bước ra pháp trường của thực dân Pháp, người chiến sĩ cách mạng vẫn ngẩng cao đầu, vẫn hiên ngang, tự hào nhắc nhở mình, động viên mình:
Đã vay dòng máu thơm thiên cổ
Hãy trả ta cho mạch giống nòi.
Qua mấy nghìn năm đằng đẵng, lớp lớp con người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác đã đem mồi hôi và xương máu để xây dựng và bảo vệ nơi chôn nhau cắt rốn của mình, làm nên giang sơn gấm vóc, ngày thêm vẻ vang, ngày thêm giàu đẹp. Ai cũng cảm thấy nghĩa vụ thiêng liêng đối với Tổ quốc đè nặng đôi vai, gắng sức vươn lên đem tài trí góp sức cùng đồng bào “trả” món nợ cùa tổ tiên, ông cha mà mình đã “vay”, đã nhận:
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất, những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngàv giỗ Tổ..
(Đất nước - Nguyễn Khoa Điểm)
Khép lại đoạn thơ là một lời nhắn gửi về đạo lí làm người. “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”. Trong văn cách, “cho” là cống hiến, dâng hiến, là phục vụ. “Nhận” là hưởng thụ. Trong cuộc sống thời bình, đem mồ hôi, đem công sức làm ra nhiều của cải,. góp phần làm cho dân giàu nước mạnh là “cho”. Thời kháng chiến, tất cả mọi miền hậu phương đều hướng về tiền tuyến, thi đua “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”; hàng vạn nam nữ thanh niên ào ào ra trận, quyết tâm “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Hàng ngàn sinh viên Ưu tú “xếp bút nghiên theo việc đao cung’’ để chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Có biết bao chiến sĩ, đồng bào đã “cho ", đã “hiến dâng”, đã “phục vụ”, đã hi sinh đề giành chiến thắng. Nào ai đã đắn đo, là “chỉ nhận riêng mình”.
Một chữ “cho" trong bài thơ Bầm ơi của Tố Hữu ngợi ca tình quân dân cá nước, ngợi ca lòng mẹ Việt Nam chắc nhiều người còn nhớ:
Bao bà cụ từ tâm làm mẹ,
Yêu quí con như đẻ con ra
Cho con nào áo, nào quà,
Cho củi con sưởi, cho nhà con ngơi...
Vì biết “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình", nên ai cũng biết sống đẹp làm tròn nghĩa vụ công dân; sống, lao động, chiến đấu vì sự tồn vong của dân tộc, sự bền vững của đất nước:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vụng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên...
(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)
Những chữ như: “góp nên”, “góp cho”, “góp mình”, “để lại” trong đoạn thơ trên đã làm sáng ngời một quan niệm sống đẹp, “sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”. Đó là tình nhân ái, đức hi sinh của con người Việt Nam trong trường kì lịch sử.
Nhờ có truyền thống cao đẹp đó mà nhân dân ta tự hào về đất nước Việt Nam:
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Bước sang thế kỉ XXI, đất nước ta phát triển một cách kì diệu trên con đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đoạn thơ trên đây của Tố Hữu vẫn còn nhiều ý nghĩa thời sự mới mẻ, nhất là đối với tuổi trẻ Việt Nam.
Học giỏi, lao động tốt vì sự nghiệp đổi mới đất nước, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Học giỏi, lao động giỏi, tiến quân vào mặt trận khoa học kĩ thuật. Sống trong lao động sáng tạo, sống hạnh phúc trong tình nhân ái bao la.
Hơn bao giờ hết, tuổi trẻ chúng ta mới thấy thấm thía về tinh cảm, tư tưởng hàm chứa trong một vần thơ đẹp, giàu ý nghĩa:
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
"thơ là hình thức sáng tác văn học, phản ánh cuộc sống qua nhiều cảm xúc dạt dào những tưởng tượng mạnh mẽ trong một ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu rõ ràng." Bằng hiểu biết của em về thơ mà em đã học, đã đọc hãy làm sáng tỏ.
Câu trả lời của bạn
THƠ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ THƠ
Thơ là một hình thức sáng tác văn học đầu tiên của loài người. Chính vì vậy mà có một thời gian rất, dài thuật ngữ thơ được dùng chỉ chung cho văn học. Thơ có lịch sử lâu đời như thế nhưng để tìm một định nghĩa thể hiện hết đặc trưng bản chất của nó cho việc nghiên cứu thơ ngày nay thì thật không dễ.
Trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa, khái niệm "thơ là gì?" đã được đề cập đến từ rất sớm. Cách đây khoảng 1500 năm, trong cuốn Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp đã đề cập đến ba phương diện cơ bản cấu thành nên một bài thơ là tình cảm, ý nghĩa (tình văn), ngôn ngữ (hình văn) và âm thanh (thanh văn). Kế thừa quan niệm của Lưu Hiệp, đến đời Đường, Bạch Cư Dị đã nêu lên các yếu tố then chốt tạo thành điều kiện tồn tại của thơ: "Cái cảm hoá được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ, gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa". Quan niệm này không chỉ dừng lại ở việc nêu lên các yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa chúng, giống như gốc rễ, mầm lá, hoa, quả gắn liền với nhau trong một thể thống nhất hoàn chỉnh và sống động. Đây có thể coi là quan niệm về thơ toàn diện và sâu sắc nhất trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa.
Các nhà Cấu trúc chủ nghĩa Châu Âu lại thay thế câu hỏi "thơ là gì?" bằng một câu hỏi khác: tính thơ là gì? và nó được thể hiện ra như thế nào? Trong tiểu luận "Thơ là gì", Jacobson viết: "Nhưng tính thơ được biểu hiện ra như thế nào? Theo cái cách từ ngữ được cảm nhận như là từ ngữ chứ không phải như vật thay thế đơn giản của đối tượng được chỉ định, theo cách những từ, những cú pháp, những ngữ nghĩa của chúng, hình thức bên trong và bên ngoài của chúng không phải là các dấu hiệu vô hồn của hiện thực mà còn có trọng lượng riêng, giá trị riêng". Tiếp tục triển khai lý thuyết tự qui chiếu, Jacobson sau khi nhắc lại hai kiểu sắp xếp cơ bản của hoạt động ngôn ngữ là tuyển chọn và kết hợp, đã đi đến kết luận: "Chức năng thi ca đem nguyên lý tương đương của trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp". Mặc dù có lưu ý ít nhiều đến hoạt động nguyên lý tương đương về ý nghĩa nhưng trong tư duy nghiên cứu của Jacobson, cái ý nghĩa ở đây chỉ là ý nghĩa của đối tượng gọi tên và ý nghĩa ngữ pháp nảy sinh từ những mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc có tính chất khép kín của văn bản. Điều đó cũng có nghĩa là khái niệm ý nghĩa được hiểu một cách hạn hẹp. Bởi trong thực tế, như ta thấy, ý nghĩa của thơ nhiều khi đã vượt ra ngoài giới hạn của văn bản.
Ở Việt Nam, khái niệm "thơ là gì?" cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến với nhiều quan niệm, nhiều khuynh hướng khác nhau. Lý giải về bản chất của thơ, các tác giả nhóm Xuân thu nhã tập cho rằng: "Thơ là một cái gì huyền ảo, tinh khiết, thâm thuý, cao siêu". Còn nhà thơ Tố Hữu thì quan niệm: "Thơ là cái nhuỵ của cuộc sống". Dưới cái nhìn cấu trúc, nhà nghiên cứu Phan Ngọc định nghĩa: "Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và suy nghĩ do chính hình thức ngôn ngữ này". Định nghĩa này của giáo sư Phan Ngọc đã kế thừa được những khám phá quan trọng về thơ của nhiều nhà nghiên cứu thuộc các trường phái khác nhau của Tây Âu trong mấy chục năm qua. Đặc biệt, đã gợi ra một trường nghiên cứu thơ hết sức rộng rãi: thơ không chỉ là hiện tượng ngôn ngữ học thuần tuý mà chủ yếu là hiện tượng giao tiếp nghệ thuật, một phát ngôn trong ý nghĩa đầy đủ của từ này.
Lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học đã được chứng kiến rất nhiều định nghĩa về thơ. Theo tôi, cách định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học có thể xem là chung nhất: "Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu". Định nghĩa này đã định danh một cách đầy đủ về thơ ở cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Đặc biệt, đã khu biệt được đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ trong những thể loại văn học khác.
Từ sự nhận diện về thơ như trên, ta có điều kiện để đi vào tìm hiểu những đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ. So với ngôn ngữ văn xuôi, ngôn ngữ thơ trữ tình có những điểm khác biệt như:
1. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính
Thơ trữ tình phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm. Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy. Nếu như trong văn xuôi, các đặc tính thanh học của ngôn ngữ (như cao độ, cường độ, trường độ...) không được tổ chức thì trong thơ, trái lại, những đặc tính ấy lại được tổ chức một cách chặt chẽ, có dụng ý, nhằm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều mà từ ngữ không nói hết. Bởi thế, đặc trưng tính nhạc được coi là đặc trưng chủ yếu mang tính loại biệt rõ nét của ngôn ngữ thơ ca.
Theo các nhà nghiên cứu, nhạc tính trong thơ được thể hiện ra ở ba mặt cơ bản. Đó là: sự cân đối, sự trầm bổng và sự trùng điệp:
- Sự cân đối là sự tương xứng hài hoà giữa các dòng thơ. Sự hài hoà đó có thể là hình ảnh, là âm thanh, chẳng hạn:
"Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi"
(Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Cũng có thể là cách sắp xếp tổ chức mà chúng ta dễ dàng nhận thấy ở cặp câu thực, câu luận trong bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Đối với thơ hiện đại, yêu cầu này không khắt khe. Tuy vậy, nhà thơ vẫn hết sức chú ý đến hiệu quả nghệ thuật của phép đối xứng trong thơ của mình.
- Sự trầm bổng của ngôn ngữ thơ thể hiện ở cách hoà âm, ở sự thay đổi độ cao giữa hai nhóm thanh điệu. Xuân Diệu với hai dòng thơ toàn vận dụng vần bằng đã biểu hiện được cảm xúc lâng lâng, bay bổng theo tiếng đàn du dương, nhẹ êm:
"Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi"
Chính Tố Hữu đã có lần nói đến giá trị ngữ âm của từ "xôn xao" trong câu thơ "Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa" (Mẹ Tơm). Đó đâu chỉ là âm vang của tự nhiên mà là âm vang của tâm hồn. Cái làm nên âm vang đó chính là âm thanh, âm thanh của từ "xôn xao" đã cùng với nghĩa của nó làm nên điều kỳ diệu ấy. Sự trầm bổng của ngôn ngữ còn thể hiện ở nhịp điệu:
"Sen tàn/ cúc lại nở hoa
Sầu dài/ ngày ngắn/ đông đà sang xuân".
Dòng thơ cắt theo nhịp 2/4 và 2/2/4 đều đặn như nhịp chuyển vần đều đặn của tháng năm bốn mùa... Nhịp thơ ở đây là nhịp của cảm xúc, cảm nhận. Như vậy, âm thanh, nhịp điệu trong thơ không đơn thuần là hình thức mà là những yếu tố góp phần biểu hiện những khía cạnh tinh vi của đời sống tình cảm con người.
- Sự trùng điệp của ngôn ngữ thơ thể hiện ở sự dùng vần, điệp từ, ngữ và điệp cú. Chúng có tác dụng như một phương tiện kết dính các dòng thơ lại với nhau thành một đơn vị thống nhất, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho trí nhớ vừa tạo nên vẻ đẹp trùng điệp cho ngôn ngữ thơ:
"Lầu mưa xuống, thềm lan mưa xuống
Mưa xuống lầu, mưa xuống thềm lan
Mưa rơi ngoài nẻo dặm ngàn
Nước non rả rích giọt đàn mưa xuân"
(Tiếng đàn mưa- Bích Khê).
Lối điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc ở đây vừa diễn tả được hình ảnh cơn mưa của đất trời vừa tạo nên một ấn tượng vương vấn không dứt trong lòng người.
Như vậy, nhạc điệu trong thơ là một đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ thơ. Ngày nay, nhu cầu của thơ có phần đổi khác. một số người có xu hướng bỏ vần để tạo cho câu thơ sự tự do hoá triệt để. Nhưng nếu không có một nhạc điệu nội tại nào đó như sự đối xứng giữa các dòng, các đoạn thơ, tiết tấu, nhịp điệu của câu thơ thì không còn là ngôn ngữ thơ nữa.
2. Ngôn ngữ thơ có tính hàm súc
Đây là đặc điểm chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, nhưng do đặc trưng của thể loại mà nó biểu hiện một cách tập trung với yêu cầu cao nhất trong ngôn ngữ thơ. Nếu ngôn ngữ văn xuôi tự sự là ngôn ngữ của cuộc sống đời thường, nó chấp nhận mọi lớp từ, mọi biến thái, mọi chiều kích, thậm chí cả sự xô bồ, phồn tạp đến cực độ để tái hiện bộ mặt cuộc sống, tâm lý con người trong sự sâu rộng, đa chiều vốn có của nó thì ngôn ngữ thơ lại mang nặng tính "đặc tuyển". Là thể loại có một dung lượng ngôn ngữ hạn chế nhất trong các loại tác phẩm văn học, nhưng thơ lại có tham vọng chiếm lĩnh thế giới. Nói như Ôgiêrốp: "Bài thơ là một lượng thông tin lớn nhất trong một diện tích ngôn ngữ nhỏ nhất". Chính sự hạn định số tiếng trong câu thơ, bài thơ buộc người nghệ sỹ phải "thôi xao", nghĩa là phải phát huy sự tư duy ngôn ngữ để lựa chọn từ ngữ cho tác phẩm. Bởi thế, Maiacôpxki gọi lao động nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ là "trả chữ với với giá cắt cổ":
"Nhà thơ trả chữ với giá cắt cổ
Như khai thác chất hiếm radium
Lấy một gam phải mất hàng bao công lực
Lấy một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ."
Như vậy, tính hàm súc được hiểu là khả năng của ngôn ngữ có thể miêu tả mọi hiện tượng của cuộc sống một cách cô đọng, ít lời mà nói được nhiều ý, ý tại ngôn ngoại. Đây chính là cách dùng từ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu hiện cao nhất kiểu như Nguyễn Du đã "giết chết" các nhân vật Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến, mỗi tên chỉ bằng một từ: cái vô học của Mã Giám Sinh: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng; cái gian manh của Sở Khanh: Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào; cái tầm thường ti tiện của Hồ Tôn Hiến: Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.
Do quy mô của tác phẩm, thơ ca thường sử dụng từ ngữ rất "tiết kiệm". Tính hàm súc của ngôn ngữ thơ, vì vậy, chứa đựng các thuộc tính khác. Hàm súc cũng có nghĩa là phải chính xác, giàu hình tượng, có tính truyền cảm và thể hiện cá tính của người nghệ sỹ. Chẳng hạn, từ "khô" trong câu thơ của Tản Đà: "Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày" là một từ có tính hàm súc cao mà những yếu tố tương đương với nó (như "tuôn") không thể thay thế. Nó không chỉ diễn tả được chiều sâu của tình cảm mà còn gợi lên cả chiều dài của những tháng năm chờ đợi. Nó vừa đảm bảo được tính chính xác, tính hình tượng, vừa có tính truyền cảm.
Để đạt được tính hàm súc cao nhất, có thể biểu hiện được cái vô hạn của cuộc sống trong những cái hữu hạn của các đơn vị ngôn ngữ, thơ ca phải tính đến những kiểu tổ chức đặc biệt mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc gọi là "quái đản". Dưới áp lực của cấu trúc ngôn ngữ khác thường này, ngữ nghĩa của từ trong thơ không dừng lại ở nghĩa gốc, nghĩa đen, nghĩa trong từ điển mà phong phú, sâu sắc, tinh tế hơn. Đó là thứ nghĩa được tạo sinh nhờ quan hệ và trong quan hệ. Ví dụ: Khi Hồng Nguyên viết: "Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau" thì chính trong quan hệ với những yếu tố trước và sau nó mà từ "đột kích" được cấp cho một nghĩa mới, gợi lên những rung động thẩm mỹ. Hay trong câu thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ: "Em đã lấy tình yêu của mình thắp lên ngọn lửa" thì sự kết hợp bất thường về nghĩa đã mở ra những liên tưởng hết sức thú vị. Trong đời thường, khi nói đến việc "thắp lửa", người ta một là nghĩ đến phương tiện như: cái bật lửa, que diêm ... hai là nguyên liệu như: dầu hoả, dầu dừa ... Ở đây, nhà thơ lại thay nó bằng một "chất liệu" rất trừu tượng thuộc lĩnh vực tinh thần. Và trong quan hệ với cái chất liệu trừu tượng đó, nghĩa bề mặt của "ngọn lửa" bị mờ đi, mở ra những nghĩa mới. Đó là: chân lý, niềm tin, lý tưởng cuộc đời...
Định lượng số tiếng trong thơ cũng là tiền đề tạo ra sự xuất hiện với một mật độ dày đặc các phương tiện nghệ thuật trong thơ so với văn xuôi. Nhiều lúc, trong một bài thơ, có thể thấy xuất hiện cùng một lúc các phương tiện tu từ khác nhau, như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá, tượng trưng, điệp từ, điệp ngữ. Bài ca dao trữ tình sau đây là một ví dụ:
"Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Đèn thương nhơ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề."
Bài ca dao có số lượng từ không nhiều nhưng bằng các biện pháp tu từ đã thể hiện được tâm trạng khắc khoải nhớ mong của người con gái dường như còn vang mãi, dư âm đến tận bây giờ và cả mai sau, không chỉ của một người mà của nhiều người.
3. Ngôn ngữ thơ có tính truyền cảm
Tính truyền cảm cũng là đặc trưng chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, bởi tác phẩm văn học là sản phẩm của cảm xúc của người nghệ sĩ trước cảnh đời, cảnh người, trước thiên nhiên. Cho nên, ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương phải biểu hiện được cảm xúc của tác giả và phải truyền được cảm xúc của tác giả đến người đọc, khơi dậy trong lòng người đọc những cảm xúc thẩm mĩ. Tuy nhiên, do đặc trưng của thơ là tiếng nói trực tiếp của tình cảm, trái tim nên ngôn ngữ thơ ca có tác dụng gợi cảm đặc biệt.
Ngôn ngữ thơ không bao giờ là ngôn ngữ chú trọng miêu tả cái khách quan như ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự. Nếu nhà văn dùng ngôn ngữ để thuyết minh, miêu tả, nhắn nhủ, giải thích... thì nhà thơ dùng ngôn ngữ để truyền cảm. Khi Quang Dũng viết:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Quang Dũng không có ý hỏi ai lên Châu Mộc trong buổi chiều sương nào đó có nhìn thấy phong cảnh hữu tình không mà tác giả khơi trong ta nỗi nhớ thương mất mát, nuối tiếc ngậm ngùi, những ngày tháng, những kỷ niệm, những ảo ảnh đã tan biến trong đời... Quang Dũng gợi trong ta một trạng thái bằng cách hồi sinh những gì đã mất, đồng thời phản ánh tâm trạng của chính mình.
Lời thơ thường là lời đánh giá trực tiếp thể hiện quan hệ của chủ thể với cuộc đời. Là lời đánh giá trực tiếp, thể hiện tâm trạng cho nên sự lựa chọn từ ngữ, phương thức tu từ trong thơ bao giờ cũng nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự đồng cảm hoặc phê phán, ca ngợi trở nên nổi bật:
"Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều"
(Nguyễn Đình Thi).
Ở đây, mỗi câu thơ đều mang một từ tập trung tất cả sức nặng của tình cảm. Những từ đó như là những tiêu điểm để ta nhìn thấu vào tâm hồn tác giả. Tính truyền cảm của ngôn ngữ thơ không chỉ biểu hiện qua cách lựa chọn từ ngữ, các phương thức tu từ mà còn biểu hiện qua nhạc điệu thơ. Chẳng hạn:
"Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn"
(Tố Hữu).
Sự tập trung dày đặc các nguyên âm có độ mở rộng và phụ âm mũi vang khiến câu thơ nghe giàu tính nhạc, kéo dài như âm vang của sóng biển vỗ bờ. Nhạc tính đó không đơn thuần là sự ngân nga của ngôn ngữ mà còn là khúc nhạc hát lên trong lòng người.
Tóm lại, thơ là một hình thái nghệ thuật cao quí, tinh vi của sáng tạo văn học nghệ thuật. Vì vậy, ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ mang tính nghệ thuật; ngôn ngữ thơ trước hết mang đầy đủ những thuộc tính của ngôn ngữ văn học, đó là: tính chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình, tính biểu cảm... Tuy nhiên, ở mỗi loại tác phẩm khác nhau, những đặc điểm ấy lại biểu hiện dưới những sắc thái và mức độ khác nhau. Đồng thời, mỗi loại tác phẩm lại có những đặc trưng ngôn ngữ riêng....
thơ là hình thức sáng tác văn học:
+/thơ cũng được sáng tác từ cảm xúc của nhà thơ trước một sự việc nào đó trong cuộc sống,...
+/cũng có bố cục và kết cấu của tác phẩm,phân bố các chương đoạn, các bộ phận của tác phẩm theo một trình tự nhất định, thể hiện một nôi dung rộng rãi phức tạp ,không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm.
-phản ánh cuộc sống qua nhiều cảm xúc dạt dào:
+/Thơ thường dùng như một hình thức biểu tả cảm xúc trữ tình, hoặc tình cảm xúc động trước một hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, như khi người ta đứng trước một phong cảnh ngoạn mục, hoặc đứng trước một thảm cảnh.
+/ tình cảm con người và hoàn cảnh tạo nên những cảm nghĩ mà người ta muốn bày tỏ
+/
"Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim"
=>4 câu thơ của phạm tiến duật dạt dào tình cảm,đặc biệt 2 từ "trái tim" khiến người đọc thấy đc một cảm xúc yêu thương miền nam dạt dào,nhiều cảm xúc khó tả.
-những tưởng tượng mạnh mẽ trong một ngôn ngữ giàu hình ảnh
=>phản ánh về đời sống,bàn về ý nghĩa nhân sinh,nhấn mạnh cảm xúc nội tâm của tác giả
+/ ngôn ngữ vốn có khả năng chuyển nghĩa tạo nghĩa mới hay do tu từ nên ngôn từ văn học cũng có tính đa nghĩa. Văn bản văn học, do đó, nó cũng có tính đa nghĩa. Chẳng hạn bài Truyện kiều của Nguyễn du. Một mặt, đó là nói về cuộc đời của nàng kiều. Mặc khác, bài thơ còn là thông điệp tố cáo chế độ phong kiến đang suy thoái , mục nát, vô nhân, và các tầng lớp nhân dân đã bị dồn đến bước đường cùng...
+/"Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh."
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng phận bạc cũng là lời chung."
=>ở đây ta thấy được phép ẩn dụ và nhân hóa,làm người đọc dễ dàng liên tưởng hơn
=>chớp mắt sẽ trở nên đáng sợ hơn,lo sợ hơn,.........
=>gây ra trạng thái tình cảm thực hư,...
=>tạo nên nhiều hình ảnh sống động trong trí tưởng tượng của con người.
-có nhịp điệu rõ ràng:
+có nhiều loại thơ là gieo vần khác nhau và chặt chẽ,nhịp điệu rõ ràng.
thơ lục bát:là thể thơ đặc biệt của Việt Nam ,tiếng thứ 6 của câu lục vần với tiếng thứ 6 của câu bát. Tiếng thứ 8 của câu bát vần với tiếng thứ 6 của câu lục tiếp theo. Trong câu bát, tiếng 6 và 8 tuy cùng vần bình nhưng một tiếng có dấu huyền và một tiếng không có dấu.
thơ.
Thơ Bốn Chữ :Nếu tiếng thứ 2 bằng thì tiếng thứ 4 trắc; ngược lại, tiếng thứ 2 trắc thì tiếng thứ 4 bằng.
Thất ngôn bát cú (7 tiếng 8 câu) là thể cơ bản của thơ Đường luật.
.......................
..............
+/
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Nhà văn Nam Cao quan niệm rằng: “Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình” (Trích Đời thừa). Viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của anh (chị) về câu nói trên.
mn cho mình ý kiến về câu nói trên với, dù ngắn hay dài cũng được ạ.
Câu trả lời của bạn
Trong cuộc sống ai cũng mong muốn mình phải thật mạnh mẽ. Thế nhưng không phải ai cũng biết định nghĩa thế nào là kẻ mạnh. Thường người ta chỉ quan niệm rằng kẻ mạnh là kẻ đánh bại được nhiều người, là kẻ có uy quyền áp đảo được người khác, khiến người khác phải sợ hãi. Song thực tế không phải như vậy. Kẻ mạnh phải là kẻ biết đặt lợi ích của người khác lên trên lợi ích của bản thân. Như nhà văn Nam Cao đã quan niệm: “ Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình”. “Kẻ mạnh” – hai tiếng tưởng chừng rất đơn giản nhưng thực sự không mấy ai hiểu được trọn vẹn ý nghĩa sâu sắc của nó. Vậy thực sự kẻ mạnh là kẻ mang trong mình những phẩm chất gì ? Làm thế nào để có thể trở thành kẻ mạnh trong cuộc sống này? Mạnh ở đây được hiểu theo nghĩa là mạnh mẽ. Kẻ mạnh ở đây chính là con người mạnh mẽ, con người dám sống và sống có bản lĩnh trước sự cám dỗ của cuộc sống và thói ích kỉ của chính bản thân mình. Kẻ mạnh cũng là kẻ dám giữ gìn danh dự, lương tâm của mình, không để nó vấy bẩn hay có chút tì vết nào. Hai tiếng “kẻ mạnh” được Nam Cao đặt trong sự đối lập với quan niệm của nhiều người trong cuộc sống như một tâm sự đau đớn của nhà văn trước thực trạng đạo đức suy thoái, ở đó người ta ghen ghét, cạnh khóe, đố kị nhau, ở đó người ta bán rẻ danh dự, nhân phẩm của mình vì những mục đích tầm thường. Trên hết người ta có thể dùng thủ đoạn để giành lấy quyền lực, tiền bạc, danh vọng – những thứ mà người ta tin rằng sẽ mang lại sức mạnh. Nhưng liệu sức mạnh có thể đến được từ việc đánh bại kẻ khác, chà đạp, hủy diệt kẻ khác vì những mục đích tham vọng tầm thường? Chắc chắn là không. Bởi không ai nhìn nhận một kẻ là chiến thắng khi họ đánh bại đối thủ của mình bằng thủ đoạn xấu. Kẻ chiến thắng chỉ có thể là kẻ vượt lên được chính bản thân mình, vượt lên được những ham muốn nhỏ nhen ích kỉ của bản thân để giữ gìn danh dự, lương tâm làm người của mình. Là con người chắc hẳn ai cũng đã có lúc bị những cám dỗ trong cuộc sống khiến mình phân vân như đứng trước ngã ba đường. Nhưng kẻ mạnh mẽ là kẻ không để những cám dỗ – phần xấu trong con người mình điều khiển, sai khiến để đi vào con đường bất lương, con đường mà một khi đã dấn thân thì không còn có thể quay lại được. Thực tế vẫn có những kẻ luôn tự dối lừa mình để lấp liếm bản chất xấu xa, nhỏ nhen, ích kỉ. Và họ tìm mọi cách để đánh bại kẻ khác dù bằng những thủ đoạn hèn hạ nhất để che đậy bản chất yếu đuối của mình. Những con người như vậy thường dễ ngủ quên trên chiến thắng và bị đánh bại. Một khi đã bị đánh bại họ sẽ lộ rõ bản chất yếu đuối của mình và không có đủ nghị lực để đứng dậy và bước tiếp. Do đó ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng: “Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lòng ích kỉ” Sức mạnh của con người chỉ có thể có được từ lòng nhân ái, đức hi sinh trong cuộc sống. Giống như người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Đó là một con người mạnh mẽ, mạnh mẽ không phải vì có thể chịu đưng được đòn roi của người chồng. Sức mạnh của con người đó thể hiện ở lòng vị tha, sự nhân hậu, sẵn sàng chịu đựng được tất cả vì con cái – những đứa con trên thuyền quanh năm thiếu đói Nam Cao là một nhà văn thích triết lí và những triết lí của ông mang một ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Quan niệm này cũng vậy, một triết lí làm người vô cùng đúng đắn được đưa ra từ một điều tưởng chừng như một nghịch lí của cuộc sống. Nó không chỉ có ý nghĩa trong xã hội cũ mà còn có ý nghĩa cho tới tận hôm nay. Như chúng ta đã biết, trong vòng xoáy của nền kinh tế thị trường, có không ít người vì lợi ích của bản thân mà sẵn sàng chà đạp lên lợi ích của người khác, chiếm đoạt những thứ không phải của mình có khi bằng những thủ đoạn vô cùng xấu xa hèn hạ. Hiểu được quan niệm của Nam Cao cũng đồng nghĩa ta thấy được sức mạnh của lòng nhân ái, từ đó phê phán một cách nghiêm khắc lối sống ích kỉ. Đồng thời cần đề cao chủ nghĩa nhân đạo, nhân cách cao thượng dám hi sinh lợi ích của bản thân cho người khác. Tuy nhiên có một câu hỏi được đặt ra là: Vậy, những biểu hiện nào của lối lống “giẫm lên vai người khác” mà ta cần lên án? Tục ngữ có câu: “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền”, chỉ những kẻ sống coi trọng vật chất, dùng sức mạnh vật chất để áp đảo, lấn lưới công lí. Và thực lế trong cuộc sống hiện nay, có rất nhiều người như vậy – những con người thích dùng tiền để đoạt lấy lợi ích cho mình. Đặc biệt vấn nạn chạy chọt đang trở thành một vấn đề đáng báo động trong đời người xã hội hiện nay. Người ta chạy chọt từ những việc nhỏ như xin biển số xe đẹp, xin không bị giữ xe khi vi phạm luật giao thông cho đến việc xin điểm,xin việc.. Dường như xã hội hiện nay đâu đâu cũng hiện lên chữ “xin”. Xin xỏ, hối lộ đang trở thành một căn bệnh thâm căn cố đế trong con người Việt Nam, gây suy thoái nghiêm trọng đạo đức của con người. Chúng ta ngày càng nhìn thấy nhiều hành động đi ngược lại công lí: những kẻ tham ô hàng nghìn tỉ đồng, những kẻ lén lút xả nước thải xuống sống trong suốt nhiều năm liền… Chúng ta phán những kẻ dùng sức mạnh đồng tiền để lấn át công lí nhưng cũng không thể không lên án những kẻ đang nắm trong tay “sức mạnh” mà phản bội trách nhiệm mà xã hội giao phó cho họ. Không chỉ có vậy, “giẫm đạp trên vai người khác” còn có thể hiểu là một lối sống vụ lợi, tham vọng tầm thường, sẵn sàng chà đạp, hủy diệt đồng loại vì lợi ích nhân như trong câu tục ngữ “cá lớn nuốt cá bé”. Lịch sử đã từng chứng kiến những kẻ “tà đạo”, vì muốn phục vụ cho lợi ích giai cấp của chúng đã thiêu chết thiên văn vĩ đại Brunô – người đã kiên cường bảo vệ thuyết Nhật tâm cho đến cả thân mình đỏ rực trong ngọn lửa bạo tàn. Nhưng lịch sử cũng chứng kiến từ đây một cuộc cách mạng trong nhận thức của loài người. Và lịch sử đã lên án những kẻ vì mục đích hèn hạ của mình mà tiêu diệt đồng loại, thiêu rụi chân lí. Trong xã hội ngày nay, ta vẫn còn phải chứng kiến những hành động dã man mà tưởng chừng như chỉ có trong thời kì hoang dại của loài người. Những kẻ khủng bố đang từng ngày gieo rắc tai họa khắp nơi trên thế giới, đang lên tiếng thách thức tất cả chúng ta. Rồi những vụ giết người vô cùng man rợ xuất hiện khắp nơi cảnh báo về sự suy thoái đến mất hết nhân tính của con người. Chưa thể dừng lại ở đó, chúng ta còn phải lên tiếng để phê phán những con người chỉ biết sống cho bản thân, không quan tâm đến người khác. Bởi chính việc “mạnh ai nấy sống” chính là nguyên nhân dẫn tới lối sống vụ lợi, ích kỉ đặc biệt nhiều trong giới trẻ hiện nay. Một số bạn trẻ dường như đã quên đi trách nhiệm cộng đồng của mình suốt ngày chỉ vùi đầu vào những trò chơi vô bổ, những trang web đen trên mạng internet. Nhưng điều đáng nói là nhân cách một số bạn trẻ đã bị ảnh hưởng bởi những hành vi bạo lực trong các game Online, dẫn tới nhiều vụ cướp của thậm chí là đâm chém của học sinh. Đó là biểu hiện của một lối sống ươn hèn, thiếu bản lĩnh, thiếu ý chí để vươn lên. Thiết nghĩ quan niệm của nhà văn Nam Cao chính là cách sống cần thiết cho mỗi chúng ta hiện nay. Bởi sức mạnh của lòng nhân ái không chỉ đến với những người cần ta giúp đỡ. Nó còn đem đến cho chúng ta nhiều niềm vui hứng khởi để bắt đầu một ngày mới với một sức mạnh mới để vươn lên một tầm vóc mới. Đó là cội nguồn của sức mạnh chân chính.
nhà văn Anatole France từng nói:"Đọc một câu thơ nghĩa là ta gặp gỡ tâm hồn tâm hồn một con người."từ đó,trình bày cảm nhận của mình về tâm hồn Nguyễn Du qua "Chí khí anh hùng","Nỗi thương mình",Nguyễn Trãi qua "Cảnh ngày hè",Nguyễn Bỉnh Khiêm qua "Nhàn'
E cần gắp lắm ạ
Câu trả lời của bạn
Nhà văn Pháp Anna-tôn Prăng-xơ từng nói :"Đọc một câu thơ nghĩa là ta gặp gỡ tâm hồn con người". Đúng vậy,qua hai bài thơ '' Cảnh khuya'' và '' Rằm tháng giêng'' ta càng thấy rõ hơn điều đó.
Cùng viết về ánh trăng nhưng trong hai bài thơ “Cảnh khuya” và bài thơ “Rằm tháng Giêng”, Hồ Chí Minh lại thể hiện một sắc thái, một cảm xúc đặc biệt. Cùng là ánh trăng đấy nhưng hình ảnh trong mỗi bài thơ lại mang một nét đẹp, lại chứa đựng những cảm xúc riêng của nhân vật trữ tình. Nếu trong bài thơ Cảnh khuya, Hồ Chí Minh vẽ ra khung cảnh đêm khuya ánh trăng được đặt trong mối quan hệ với vạn vật nơi rừng sâu và phản chiếu hình ảnh con người đang ôm mối suy tư khi liên quan đến vận nước, thì bài thơ Rằm tháng Giêng lại là bức tranh mùa xuân dưới ánh trăng Rằm, hình ảnh của nhân vật trữ tình đang trong tư thế lạc quan tự tại và niềm tin vào sự chiến thắng của Cách mạng, vào sự trường tồn của vận nước.
Trong bài thơ Cảnh khuya, Hồ Chí Minh đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, nó dường như trở lên sinh động hơn trong đêm trăng nhưng nổi bật lên trong bức tranh ấy là vẻ đẹp của một con người cách mạng đang trăn trở, suy tư về công việc của dân tộc, của đất nước:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Trong không gian tĩnh lặng của đêm khuya, tiếng suối róc rách chảy trong đêm vang vọng trong không gian, đặc biệt trong cảm nhận của Hồ Chí Minh thì tiếng suối này không như những tiếng suối thường nghe thấy mà nó dịu nhẹ hơn, da diết hơn, nó tựa như “tiếng hát xa” như có như không mà vọng lại. làm cho không gian vốn tĩnh lặng của đêm khuya tràn ngập âm thanh, như một khúc giao hưởng giữa rừng già. Không chỉ âm thanh mà ngay hình ảnh cũng kích thích, cũng hấp dẫn thị giác của người nhìn, đó là hình ảnh của bóng trăng lồng vào bóng của cây cổ thụ, bóng của cây cổ thụ lại lồng vào hoa, một sự kết hợp thật độc đáo.
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Trong không gian thanh vắng của đêm khuya, hình ảnh nhân vật trữ tình hiện lên với những nỗi trăn trở, suy tư. Đó là những suy tư về vận nước, về tương lai của một dân tộc, hình ảnh ấy làm cho người chiến sĩ cách mạng hiện lên thật đẹp, thật đáng trân trọng. Trong bài “Rằm tháng Giêng” lại khác, khung cảnh thiên nhiên mà chủ tịch Hồ Chí Minh gợi ra đó chính là khung cảnh của trời đất, sông nước khi có ánh trăng Rằm soi chiếu, cũng là ánh trăng đêm nhưng giữa hai bài thơ lại mang đến những sắc thái khác biệt, máu sắc và cảm xúc hoàn toàn khác biệt
“ Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”
Bài thơ Rằm tháng Giêng là khung cảnh đêm xuân thật rực rõ, đó là cái bát ngát, rợn ngợp mà không kém phần sinh động, thi vị. Chỉ một từ láy “lồng lộng” thôi nhưng Hồ Chí Minh đã gợi ra giới hạn vô tận của không gian. Trong không gian rộng lớn ấy, ánh trăng Rằm không chỉ soi chiếu lên vạn vật làm cho chúng trở lên sáng rõ, tươi sắc hơn. Mà trên dòng sông, ánh trăng dường như đã hòa vào làm một với dòng nước, làm cho dòng nước ấy trở nên lộng lấy bởi sự kết hợp màu sắc giữa bầu trời, ánh trăng và không khí của mùa xuân, làm cho dòng sông mùa xuân vốn tươi đẹp lại tràn ngập sắc “xuân”, làm cho không sáng đêm khuya sáng bừng lên bởi vẻ đẹp của đất trời, của vạn vật.
“Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng không phải bơi thuyền trên sông để ngắm cảnh mà nhằm một mục đích cao cả hơn, to lớn hơn, đó là “bàn việc quân”. Câu thơ gợi hình dung ra hình ảnh của Bác với những người cộng sự của mình đang luận bàn việc nước, những công việc có liên quan trực tiếp đến vận mệnh của một dân tộc. Không khí họp bàn khá nghiêm tức nhưng lại không bị lên gân, cường điệu một cách thái quá, điều này thể hiện được một tâm hồn tư thái, tinh thần bản lĩnh của những người làm chủ. Đặc biệt trong câu thơ này còn có sự kết hợp giữa cảnh vật với lòng người “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”. Hình ảnh ánh trăng ngân như báo hiệu một tương lai tươi sáng, rực rỡ của cách mạng, của đất nước.
Như vậy, ở trong cả hai bài thơ, Hồ Chí Minh đều thể hiện được tình yêu đối với thiên nhiên, vạn vật và phương tiện để truyền tải tình yêu ấy chính là ánh trăng, và trong cả hai bài thơ thì hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng cũng hiện lên thật đẹp, dù có trăn trở suy tư hay thư thái, tự tin thì đều rất đáng trân trọng, vì con người ấy dành trọn vẹn tình cảm, tâm hồn mình cho đất nước, cho quê hương.
Muốn hiểu được đại thi hào của dân tộc, tác giả Nguyễn Trãi – nếu ta chỉ đọc Đại Cáo Bình Ngô, Thư Dụ Vương Thông lần nữa,… Dường như ta chỉ thấy ở tác giả là một bậc quân sự, một nhà chính trị kiệt xuất trên vũ đài chính trị. Còn để có cái nhìn toàn diện về người anh hùng, có lẽ ta phải đặt con người ấy vào nhịp sống,nhịp đập của cuộc sống đời thương, trong tứ thơ muôn hình muôn vẻ của ông. Sau mỗi một tác phẩm,ta đều có thể khám phá được tâm hồn của nhà thơ. Thật vậy, ''Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta đã bắt gặp một tâm hồn con người''. Nguyễn Trãi là vị anh hùng dân tộc '' tấm lòng sáng tựa sao khuê ''. Dù sống ở bất kì hoàn cảnh nào đi chăng nữa ông vẫn luôn hướng về dân, về nước. Tác phẩm ''Cảnh ngày hè'' chính là sự kết tinh của tâm hồn để tạo thành một tác phẩm sâu sắc,lay động lòng người.
Vậy ''đọc'' là gì? Đọc có nghĩa là tìm hiểu, suy ngẫm. ''Câu thơ hay'' là câu thơ có giá trị nội dung mới mẻ mà sâu sắc. ''Bắt gặp'' là phát hiện, có sự đồng cảm, ''tâm hồn'' là tinh thần. Khi tìm hiểu thơ, người đọc sẽ thấy con người bên trong, tinh thần của nhà thơ.
''Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Bài thơ được sáng tác lúc Nguyễn Trãi ở ẩn tại Côn Sơn, tạm xa lánh chốn kinh kì tấp nập ngựa xe để về với thiên nhiên, bầu bạn với chim muông cây cỏ,hoa cỏ trữ tình. Nếu tuân theo nguyên lí ''thi trung hữu họa'' người đọc hoàn toàn có thể cảm nhận thi phảm như một bức tranh. Một bức tranh bằng ngôn từ, nghiêng về gam màu nóng, phân theo lối hội họa.
Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi trước hết là ở tấm lòng yêu thiên nhiên tha thiết, trìu mến.:
''Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương''
Bài thơ mở đầu bằng câu lục ngôn ngắn gọn nhưng khá đầy đủ về thời gian,tâm trạng của tác giả.Lẽ ra câu thơ phải bảy chữmới đúng vì đây là thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Nhưng tác giả đã lược đi một chữ, thể hiện sự phá cách mới mẻ của văn học nước ta thời ấy, góp phần Việt hoa thơ Đường luật.
''Rồi hóng mát thuở ngày trường''
Từ ''rồi'' được đặt ở đầu câu tách ra thành một nhịp thể hiện cảm nhận của tác giả về tình cảnh của mình. ''Rồi'' là từ cổ nghĩa là rỗi rãi, nhàn nhã, không vướng bận điều gì. Cuộc đời của Nguyễn Trãi không mấy lúc được thảnh thơi. Đây chính là lúc ông được sống ung dung,thỏa ước nguyện mà ông hằng mong ước. ''Ngày trường'' là ngày dài, đây là cảm giác tâm lí về thời gian của người đang sống trong cảnh nhàn rỗi, thấy ngày dường như dài ra vô tận. Hai chữ ''Ngày trường'' cho thấy nỗi chán chường vô vị. Với một con người đang nặng trĩu nỗi niềm lo cho dân,cho nước mà phải lui về ở ẩn thì cảm giác ấy rõ hơn bao giờ hết. Ông rơi vào cảnh '' thân nhàn mà tâm không nhàn''. Đằng sau câu thơ như nụ cười chua chát của ông trong hoàn cảnh trớ trêu ấy. Nhịp thơ lạ lùng 1/2/3 chậm rãi kéo dài kết hợp với thanh bằng ở cuối câu gợi tư thế ung dung, tự tại vốn có của tác giả. Hơi thơ như tiếng thở dài của thi nhân trước hoàn cảnh '' ăn không ngồi rồi '', bất đắc dĩ. Có thể nói nhà thơ thể hiện việc hóng mát mà không thấy tâm hồn nhàn tả, cũng chẳng hề thư thái. Phải chăng đó là khởi nguồn của nỗi bực dọc?
Thiên thiên đã trở nên mãnh liệt, đầy sức sông dưới con mắt của nhà thơ. Thế nhưng những tâm tư đã được nén lại khi nhà thơ thả hồn mình vào thiên nhiên:
''Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương''
Nếu như trong thơ văn Trung Đại, cảnh ngày hè thường gây cảm giác khó chịu:
''Nước nồng sùng sục đầu rô trỗi
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè''
Hay:
''Ai xui con cuốc gọi vào hè
Cái nóng nung người nóng nóng ghê ''
Và trong thơ hiện đại,Trần Đăng Khoa cũng đã thể hiện ngày hè thật nóng nực:
''Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy ''
Thì cảnh ngày hè trong thơ Nguyễn Trãi dường như nổi bật hơn nhưng không oi nóng chói chang, khó chịu mà mát dịu tinh tế. Ta có thể thấy, tâm hồn yêu thiên nhiên và chan hòa với thiên nhiên của tác giả. Dưới ngòi bút đầy tài năng của Nguyễn Trãi, cách cảm nhận bằng thị giác đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên sống động đầy màu sắc hiện lên chân thật. Đó là màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của năng chiều. Tất cả đã hòa quyện với nhau tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Ba câu thơ nói đến ba loại cây: hòe, lựu, sen dường như gửi gắm cả hồn người. Các động từ mạnh ''đùn đùn'' dồn dập tuôn ra lớp này đến lớp khác, ''giương'' tỏa rộng ra,không chỉ diễn tả sự sum suê của cảnh vật trong trạng thái tĩnh. Mà còn thể hiện trạng thái động của cảnh vật, của bức tranh ngày hè đầy sống động, căng ứa tràn đầy phải phun ra. Đằng sau bức tranh ngày hè còn là tấm lòng náo nức, tình yêu thiên nhiên của thi nhân:
''Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ ''
Có lẽ ta cần dừng đôi chút về câu chữ ở đâu.Hiện có hai bản ghi khác nhau về câu ''Hồng liên trì đã tiễn mùi hương'' và do đó có hai cách hiểu khác nhau. Một bản chép là ''tịn'' nghĩa là hết mùi hương, diễn tả vẻ suy. Một bản chép là ''tiễn'' nghĩa là đưa tỏa mùi hương, diễn tả vẻ thịnh. Để làm sáng tỏ ngoài những căn cứ về văn tự Nôm, có lẽ cần phải có thêm quy luật về văn bản thơ và quy luật về nghệ thuật nữa. Cảm hứng chung của toàn thi phẩm à sự sung mãn toàn thịnh của ngày hè. Cho nên các hình ảnh thiên nhiên lẫn đời sống tạo nên tổng thể ở đây cũng phải nhất quán,chi tiết đều phải góp phần làm nổi bật cái thịnh. Như vậy,chữ '' tịn'' ít có lí. Bởi vậy nghĩa của hai câu thơ chỉ có thể là '' Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,hồng liên trì đã tiễn mùi hương''. Tất nhiên hiểu theo ý nghĩa nào thì dịch giả cũng sẽ thấy được sự đồng cảm của độc giả đối với mình. Câu thơ ''Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ'' đã có sự đổi nhịp 4/3 ở câu hai thành nhịp 3/4 ở câu ba và bốn gây sự mới mẻ,ấn tượng đối với người đọc. Kết hợp sử dụng động từ mạnh '' tiễn,phun'' gợi tả được sức sống căng tràn ở bên trong, tạo nên hình tượng mới lạ trong cảnh ngày hè. Thi nhân không chỉ cảm nhận cảnh vật bằng thị giác mà còn bằng thính giác và khướu giác. Câu thơ tả cảnh dường như mang tâm trạng của hồn người. Màu đỏ của hoa lựu phải chăng là ẩn dụ cho tấm lòng yêu thiên nhiên,trái tim của thi nhân? Mùi hương thơm ngát của hoa sen phải chăng ẩn dụ cho tấm lòng thanh cao, thanh sạch, lí tưởng chẳng bao giờ phai nhạt, suốt đời vì dân vì nước. Mong cho nhân dân hạnh phúc, đất nước thanh bình? Rõ ràng cảnh và người có nét tương đồng đều đẹp đẽ, hài hòa. Câu thơ của Nguyễn Trãi gợi nhớ đến câu thơ của Nguyễn Du:
''Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông''
Cũng về hoa lựu nhưng mỗi thi hào lại có một cách nhìn riêng, điểm nhấn riêng nhằm tới những mục đích nghệ thuật không giống nhau. Hoa lựu của Nguyễn Du như tín hiệu lập lòe của ngày hạ đang tới,còn hoa lựu của Nguyễn Trãi như phun thức đỏ, khoe một nguồn năng lượng dồi dào có bên trong mình. Hai câu thơ trong bài ''Cảnh ngày hè'' câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy lại chứa chan bao cảm xúc lúc dịu nhẹ lan tỏa, lúc bừng bừng căng trào để rồi đọng lại một nỗi nhớ man mác, gợi sự thanh cao cuối hè. Phải là một người có tâm hồn tinh tế, giàu liên tưởng thì cùng lúc mới có thể diễn tả nhiều cung bậc cảm xúc trong vài ba câu thơ cô đọng như vậy.
Không chỉ cảm nhận bằng thị giác, Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe âm thanh muôn vẻ của thiên nhiên,của cuộc sống:
''Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương''
Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe âm thanh của cuộc sống. Nếu như ở những câu trước,cảnh được cảm nhận theo trình tự từ gần đến xa, thì câu năm và sáu tác giả đã lắng nghe âm thanh từ xa đến gần. Sử dụng từ láy '' lao xao'' kết hợp với đảo ngữ nhằm nhấn mạnh âm thanh mang đặc trưng của làng chài, ồn ào nhộn nhịp và đó cũng là dấu hiệu của cuộc đời đấy muối mặn mồ hôi. Thiên nhiên trong câu thơ không hề tĩnh lặng trầm buồn trong chiều buông mà ồn ào, nhộn nhịp. Từ láy '' dắng dỏi '' được đảo lên đầu câu kết hợp với ẩn dụ '' cầm ve'' gợi âm thanh trầm bổng ngân dài vang xa. Âm thanh tiếng ve không còn đinh tai nhức óc mà du dương như bản hạc. Phải là một tâm hồn mở, một điều hồn náo nức thì mới có thể cảm nhận tiếng ve inh ỏi như bạn cầm ve. Tất cả đã được thu nhỏ lại dưới ngòi bút tài hoa của nhà thơ. Nguyễn Trãi đã mở rộng tấm lòng mình để đón nhận cuộc sống với biết bao niềm vui yêu đời, lạc quan. Tiếng ''lao xao, cầm ve, dắng dỏi'' phải chăng là tiếng lòng của ông? Tiếng lòng của một vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một thời. Tiếng lòng náo nức muốn hòa cùng thiên nhiên,sự sống? Cuộc sống của Nguyễn Trãi không phải là của một ẩn sĩ lánh đời mà đó chính là phản chiếu tâm hồn yêu đời tha thiết của nhà thơ, luôn đón nhận mọi niềm vui cuộc sống để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn.
Tác giả đã gửi gắm trọn vẹn những tâm tư suy nghĩ, khát vọng của mình:
''Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương ''
Tác giả đã dung điển tích để nói lên khát vọng của mình( Đàn của vua ngu Thuấn, Ngu là tên một triều đại huyền thoại do vua Ngu Thuấn lập nên, đất nước thanh bình, nhân dân no đủ. Tương truyền vua Nghiêu có ban cho vua Thuấn một cây đàn, những lúc rỗi rãi vua Thuấn thường gảy đàn ca khúc Nam Phong:
''Gió nam mát mẻ
Làm cho dân ta bớt ưu phiền
Gió nam thổi đúng lúc
Làm cho dân ta ngày thêm nhiều của cải ''
Tác giả mong ước có được cây đàn của vui Thuấn để gảy khúc Nam Phong để cầu cho nhân dân khắp bốn phương trời được ấm no, hạnh phúc. Đó chính là khát khao và sâu kín cháy bỏng suốt một đời của nhà thơ. Câu thơ cuối sáu chữ ngắn gọn nhịp 3/3 thể hiện cảm xúc dồn nén cả bài. Nguyễn Trãi mong cho dân được ấm no hạnh phúc. Câu thơ là điểm hội tụ của Ức trai, với ông vui hay buồn,lo âu hay thanh thản đều xuất phát từ cuộc sống của nhân dân. Tấm lòng luôn đau đáu hướng về dân,về nước.
''Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông''
Quả thật, phải đọc được những câu chữ ta mới có thể cảm nhận được những tâm tư thầm khín của tác. Bức tranh cảnh ngày hè đâu phải chỉ là khung cảnh thiên nhiên? Ẩn sâu trong bức tranh ấy là tấm lòng Ức Trai, tấm lòng sáng soi vào tâm hồn con người. Văn học là nhân học, khoa học về con người. Thơ ca Nguyễn Trãi là nơi người nghệ sĩ giãi bày tâm tư, cảm xúc và rung động suốt cuộc đời. Tác phẩm ''Cảnh ngày hè'' biểu hiện tâm hồn nhà thơ, vẻ đẹp trong tâm hồn ấy là vẻ đẹp cội nguồn tạo nên giá trị của tác phẩm văn học. Bằng những biện pháp nghệ thật: So sánh,ẩn dụ,đối… làm cho sức sống của thiên nhiên sôi động, tươi tắn, hài hòa, gợi ra vẻ tươi mát khoáng đạt của mùa hè. Đọc một câu thơ hay, gặp gỡ tâm hồn con người. Khai ấy, người đọc sẽ được thanh lọc, hoàn thiện tâm hồn mình.
Văn học và tình thương
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát vấn đề nghị luận.
2. Thân bài:
- Mối quan hệ giữa văn học và tình thương.
- Các tác phẩm văn học thường ca ngợi, trân trọng những con người biết “thương người như thể thương thân”, giàu lòng yêu thương và nhân ái:
+ Tình yêu với những người thân.
+ Tình yêu với những gì gần gũi, bình dị xung quanh.
+ Tình yêu quê hương đất nước...
(Mỗi ý đều có dẫn chứng, phân tích, chứng minh.)
- Các tác phẩm văn học cũng luôn lên án, phê phán những kẻ sống thiếu tình thương. (Tương tự như ở phần trên, lấy dần chứng, phân tích, chứng minh.)
3. Kết bài:
- Vai trò của các tác phẩm văn chương trong việc bồi đắp tình yêu thương trong tâm hồn mỗi người.
Từ khi xa xưa con người biết phản ánh tâm tư tình cảm của mình qua văn học truyền miệng hay trên những trang giấy, văn học đã trở thành người bạn thân thiết, gắn bó với con người. Nó là sợi dây liên kết vô hình khiến con người xích lại gần nhau hơn. Văn học giúp cho con người chung sống với nhau bằng tình cảm đẹp đẽ, sự sẻ chia và cảm thông. Vì thế ngay từ khi sinh ra, văn học và tình thương đã có mối quan hệ chặt chẽ: tình thương tạo nên sự hấp dẫn cho văn học và văn học có nhiệm vụ quan trọng là truyền tải tình thương.
Văn học vô cùng quan trọng đối với cuộc sống tinh thần của con người. Nó là một bộ môn nghệ thuật có từ rất lâu đời, là công cụ giúp con người bày tỏ cảm xúc hay tình cảm của mình bằng những từ ngữ, kí hiệu và con dấu. Các tác phẩm văn học được làm nên từ các chất liệu có trong cuộc sống chính vì vậy chúng miêu tả được cuộc sống muôn hình vạn trạng một cách chân thực và chính xác hơn bất cứ ai. Văn học cũng chính là chiếc chìa khoá vàng mở rộng lòng nhân ái trong tâm hồn, phát triển nhân cách tốt đẹp. Văn học gồm nhiều thể loại tác phẩm nghệ thuật như truyện ngắn, tự truyện, hồi kí hay tiểu thuyết,...
Ta có thể nói văn học là nhân học, tức là nó có tính nhân văn. Văn học chứa đựng trong nó muôn vàn những tình cảm tốt đẹp giữa con người. Đó chính là tình thương. Nhưng cụ thể hơn, tình thương được thể hiện trong văn học khá sâu sắc và đa chiều. Chúng thể hiện những cung bậc cảm xúc khác nhau của con người. Đó cũng là khi những nhà văn, thi sĩ bộc lộ sự thương cảm xót xa sâu sắc đối với những mảnh đời, thân phận bất hạnh; phê phán gay gắt những việc làm sai trái và những kẻ chà đạp lên con người; hay là lời ca ngợi vẻ đẹp quê hương, thiên nhiên, đất nước.
Văn học và tình thương gần như là hai khái niệm không thể tách rời, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Văn học thể hiện tình thương trong nhiều mối quan hệ khác nhau. Ấm áp và thiết tha như tình cảm gia đình, cái nôi hình thành nhân phẩm đạo đức của mỗi người. Cũng vì vậy mà người xưa cũng rất coi trọng tình cảm thiêng liêng này và trân trọng đặt nó lên hàng đầu qua câu ca dao:
"Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông"
Công lao cao cả của người bố cùng tình thương vô bờ bến của người mẹ được so sánh với các hình ảnh hùng vĩ của thiên nhiên đã in sâu vào tâm trí những người làm con giúp cho họ làm tròn chữ hiếu, đền đáp lại công ơn trời biển của cha mẹ. Còn trong văn học hiện đại, tác phẩm tiêu biểu mà ta đã được học là "Trong lòng mẹ". Bài văn thể hiện tình cảm trong sáng, sâu sắc của bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh của mình. Bằng cả tâm hồn và tình yêu thương, em đã cố giữ cho hình ảnh người mẹ nhân hậu, hiền dịu không bị vấy bẩn bởi nhũng hủ tục và thành kiến thâm độc. Vì sao mà một cậu bé còn nhỏ đã có thể có tình thương lớn lao và lòng tin tưởng tuyệt đối về người mẹ đến vậy?
Tình cảm gia đình không chỉ có tình mẫu tử mà còn có tình anh em thắm thiết. Sau khi đọc tác phẩm "Bức tranh của em gái tôi" bạn có thể cảm nhận được tấm lòng khoan dung, sẵn sàng tha thứ cho người anh trai để rồi giúp cho người anh thức tỉnh khỏi sự ganh tị và ghen ghét. Cũng là tình cảm anh em nhưng bài "Cuộc chia tay của những con búp bê" lại thấm nặng tình nghĩa và cuộc chia ly đẫm nước mắt, buồn tủi của những đứa trẻ bất hạnh. Yêu thương nhau biết bao thì lúc xa nhau càng đau đớn bấy nhiêu. Nỗi đau đấy đã để lại một ấn tượng sâu nặng trong lòng người đọc, khiến họ càng thêm xót xa và khâm phục tình cảm thiết tha của hai anh em Thành và Thủy.
Không chỉ thế, văn học cũng góp phần khắc họa nên sự gần gũi, thân thiết và vui vẻ của tình bạn - một thứ tình cảm đẹp không hề vụ lợi, toan tính. Và đó chính là những gì mà Nguyễn Khuyến đã miêu tả một cách chân thực trong bài thơ "Bạn đến chơi nhà". Mở đầu bài thơ là một câu chào hỏi vồn vã, thân tình như reo lên khi người bạn tri kỉ đến. Bằng một giọng văn hóm hỉnh, ông đã nêu lên những thiếu thốn về vật chất để khẳng định một tình bạn gắn bó giữa mình và bạn. Phải đó là một tình bạn cao đẹp vượt lên trên tất cả những tầm thường về vật chất và của cải để đến với nhau bằng tấm lòng.
Ngoài tình thương đối với những người mà ta thân quen, văn học cũng ca gợi tình cảm giữa những người cùng chung sống trong một xã hội. Vì vây, "thương người như thể thương thân" từ lâu đã trở thành một truyền thống đạo lý của người Việt Nam.
Văn học ca ngợi tình cảm đẹp và đồng thời cũng phê phán những việc làm, hành động hay những kẻ chà đạp lên con người. Văn học luôn lên án gay gắt những kẻ chỉ biết nghĩ tới bản thân mà thờ ơ với mạng sống của người khác. Nhân vật điển hình mà học sinh đã được học là viên quan phụ mẫu trong bài "Sống chết mắc bay". Hắn là một con người tàn nhẫn đến độ có thể bình thản mà ngồi chơi bài trong khi mưa bão đang cướp đi mạng sống của những người dân đen. Tiếng thét kinh hoàng hòa cùng với tiếng gió giật, mưa rít vẫn không làm bậc "quan cha mẹ" bận lòng. Câu chuyện kết thúc cũng là lúc quan thắng ván bài, tất cả mọi thứ đều chìm trong biển nước. Nụ cười hả hê, phi nhân nghĩa của quan vang lên càng xoáy sâu vào lòng người đọc sự thương cảm, xót xa đến tột độ đến những con người bất hạnh. Câu chuyện "Cô bé bán diêm" đã nhẹ nhàng đi vào lòng người đọc bởi hiện lên từng trang sách là hình ảnh của một em bé mồ côi nghèo khổ không được sống trong vòng tay yêu thương của gia đình. Cảnh ngộ đó còn đáng thương hơn khi con người xung quanh cũng lạnh giá như mùa đông khắc nghiệt. Câu chuyện đã tố cáo một cách kín đáo sự thờ ơ và vô tâm của xã hội lúc bấy giờ đã đẩy những con người nghèo khổ vào bước đường cùng.
Và ngay với những kẻ gian ác xảo quyệt, dối trá cũng vậy văn học quyết không nương tay với chúng. Như trong chuyện Lí Thông cuối cùng cái thiện cũng thắng cái ác, hai mẹ con Lí Thông bị biến thành những con bọ hung suốt ngày chui rúc ở những chốn bẩn thỉu cho đến cuối đời vì những tội ác chúng đã gây ra.
Văn học nước ngoài cũng góp phần làm phong phú thêm kho tàng tình cảm của con người. Đặc biệt nó ca ngợi cả tình cảm đẹp giữa những người không cùng ruột già máu mủ. Và O'henri đã chỉ rõ cho ta thấy điều đó qua tác phẩm "Chiếc lá cuối cùng". Khi Giôn-xi bị ốm, Xiu cùng cụ Bơ-men đã hết lòng chăm sóc mong giành lại cô khỏi cái chết đang đến gần. Cụ Bơ-men tuy chỉ xuất hiện rất ít nhưng lại để lại ấn tượng sâu sắc nhất. Cụ yêu thương Giôn-xi như con gái mình và sẵn sàng hi sinh mạng sống của mình để cứu Giôn-xi khỏi những suy nghĩ tuyệt vọng đang kéo cô xa dần cuộc sống thực tại.
Văn học trau dồi tình thương, gợi cảm xúc cho con người, làm cho họ gắn bó với nhau. Có người đã từng nói "Tình cảm của con người cũng giống một viên kim cương thô mà nhờ có văn chương "mài nhẵn" mới trở thành viên đá quý đẹp gấp vạn lần". Đọc các tác phẩm văn học ta thấy gần hơn với những nhân vật trong chuyện và từ đó biết lắng nghe, rung động, cảm thông, chia sẻ. Đó là bước đi đầu để hình nhân phẩm đạo đức và từ đó có những suy nghĩ, hành động đúng. Quả thật không sai, như M.Gorki đã từng nói "xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hóa con người". Nhờ thế, văn học không chỉ dừng lại ở giá trị văn chương mà còn được mở rộng thành những viên gạch đầu tiên xây đắp ngôi nhà của tình thương giữa con người với con người trong xã hội.
Từ tất cả những dẫn chững trên ta càng thấy văn học và tình thương gắn bó chặt chẽ với nhau đến chừng nào. Bởi lẽ tình thương khởi nguồn cho văn học và làm cơ sở để văn học tiếp tục truyền tải tình thương. Văn học và tình thương hòa quyện vào nhau và tạo nên những điều tốt đẹp nhất cho con người giúp con người phát triển theo một định hướng chung để ngày một hoàn thiện. Có vậy, con người mới có thể cùng nhau chung sống trong tình yêu thương.
"Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy nó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có phong cách riêng, nổi bật. Tức là có nét gì đó của riêng mình, mới lạ, thể hiện trong tác phẩm của mình."
Em hiểu gì về ý kiến trên? Hãy làm sáng tỏ bằng một số tác phẩm văn học mà em yêu thích (truyện, thơ của chương trình lớp 8, lớp 9)
Câu trả lời của bạn
Văn chương phản ánh cái nhìn về cuộc sống, trong cuộc sống lại vô cùng phức tạp, muôn hình, muôn vẻ, vô kể, vô biên, đa dạng sắc màu. Bởi thế, cho nên mỗi nhà văn, nhà thơ lại có một cái nhìn, một cách cảm nhận độc đáo, riêng biệt, cái đó người ta gọi là phong cách văn học. Bàn về vấn đề này có nhận định cho rằng “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người viết phải có phong cách nổi bật, tức là phải có nét gì đó rất riêng, mới lạ, thể hiện trong tác phẩm của mình”. Đây là một ý kiến đúng đắn, và cần thiết trong quá trình sáng tác văn học của mỗi tác giả.
Thật vậy, Nam Cao đã từng viết “văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một kiểu mẫu người ta đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi khơi những nguồn chưa ai khởi và sáng tạo những gì chưa ai có”. Tác là phải luôn luôn sáng tạo để tìm ra giá trị nâng cho tác phẩm của mình, trong đó có sự sáng tạo về mặt phong cách. Vậy Phong Cách văn học là gì? “phong cách chính là người” hay “phong cách nghệ thuật” là cái còn lại hoặc hạt nhân mà sau khi từ nhà văn chúng ta bóc đi những cái không phải của anh ta và tất cả những các cái anh ta giống người khác. Tóm lại phong cách nghệ thuật của Nhà văn là nét riêng biệt, độc đáo của nhà văn ấy trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống thể hiện trong tất cả các yếu tố nội dung và hình thức của từng tác phẩm cụ thể.
Nhận thức trên là một ý kiến đúng đắn, có tính chất định lý, kim chỉ nam trong quá trình sáng tác của các nhà văn, nghệ sĩ. Phong cách, được hình thành trước hết là do nhu cầu của cuộc sống. Dòng chảy của cuộc sống không bao giờ gặp lại, văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống, nên nó không thể không phản chiếu, lý giải, đánh giá, dự báo về những yếu tố mới mẻ đó. Thứ hai phong cách văn học cũng nảy sinh do nhu cầu sáng tạo văn học, bởi bản chất của văn chương là sáng tạo, đó là yếu tố làm nên sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của văn học. Nguyễn Tuân cho rằng “cái bình thường là cái chết của nghệ thuật”. Nhà văn là những nhà thám hiểm luôn sẵn sàng băng qua đường biên để đến với cái mới, nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đối với người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình. Chẳng hạn khi nhắc tới Tố Hữu người ta lại nhớ ngay đến ông là một nhà thơ luôn mang trong mình phong cách chính trị và trữ tình sâu sắc. Không những thế thơ Ông còn đậm đà tính dân tộc, mà biểu hiện những nét rất rõ có lẽ là bài thơ “Việt Bắc”. Để từ nội dung chúng ta thấy “Việt Bắc” là một tác phẩm viết về một sự kiện chính trị trọng đại lịch sử của dân tộc, đó là sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi hiệp định Giơnevơ đã ký kết Đảng và Chính phủ đã rời Việt Bắc về tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Nhân sự kiện chia tay mang tính chất lịch sử này Tố Hữu đã sáng tác ra bài thơ “Việt Bắc” qua hình ảnh thiên nhiên sự tái hiện bức tranh bốn mùa nơi Việt Bắc với đủ màu sắc, âm thanh, đường nét. Tác giả đã ca ngợi tự hào về vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước.
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Rừng thu trăng rọi hòa bình”
Không những thế Tố Hữu còn tập trung thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người dân tộc Việt Nam, như đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, với quá khứ thiết tha với cội nguồn không bao giờ quên. Những tình cảm gắn bó chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ.
“Mình về mình có nhớ ta,
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không,
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”.
Bên cạnh đó còn thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, niềm vui sống, tin tưởng vào ngày mai tươi sáng, tinh thần đoàn kết, đồng lòng, chung sức kháng chiến.
“Điều quân chiến dịch Thu Đông,
Nông thôn phát động, giao thông mở đường,
Giờ đi phòng bạn thu lương,
Gửi giao miền ngược, thêm trường các khu…”
Mật khác Tố Hữu còn đề cập đến đặc trưng trong đời sống của con người Việt Nam như, đời sống sinh hoạt với “bát cơm sẻ nửa”, “lớp học i tờ”, đời sống công tác, lao động “ngày tháng, cơ quan”, “chày đêm nệm cối đều đều suối xa”, cũng như cái dáng tảo tần, lam lũ của người mẹ miền núi “địu con lên rẫy bé từng bắp ngô”.
Tinh thần dân tộc trong thơ Việt Bắc của Tố Hữu còn thể hiện trong phương diện nghệ thuật, đầu tiên phải kể đến là thể thơ lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc dễ thuộc, dễ nhớ, thân thuộc, gần gũi thấm sâu vào tâm hồn người đọc. Ngôn ngữ đơn giản, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân, phát huy cao độ tính nhạc của tiếng Việt bằng cách sử dụng từ láy nghệ thuật tiểu đôi trong từng câu thơ.
“Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”.
Hình thức đối đáp giao duyên với cặp đại từ nhân xưng, “mình, ta”, cách nói ví von, so sánh “nhớ gì như nhớ người yêu”, “đêm đêm rầm rập như là đất rung”… Tóm lại kế thừa xuất sắc truyền thống thơ ca dân tộc, nhất là thơ ca dân gian và thơ cổ điển. Tố Hữu đã mang cho mình phong cách thơ đậm đà tính dân tộc, thể hiện trong cả nội dung và hình thức nghệ thuật.
Ngược lại với Tố Hữu Xuân Diệu lại được mệnh danh là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Bởi lẽ Xuân Diệu không chú ý sử dụng ngôn ngữ cổ điển, bình dị, mà ngôn ngữ của ông mới lạ, táo bạo, ngay cả về cách chuyển đề cảm giác, cấu trúc thơ cũng có nét mới lạ, đậm sắc màu phương Tây.
“Hơn một loài hoa đã rụng cánh
Trong vườn sáng đỏ mà màu xanh”.
Hay.
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người”.
Khác hẳn với những nhà văn nhà thơ khác Nguyễn Tuân lại được mệnh danh là “người thợ kim hoàn của ngôn ngữ tiếng Việt”, điều đó đã được kiểm chứng qua một loạt tác phẩm của Nguyễn Tuân từ truyện đến ký mà tiêu biểu là bài văn, tùy bút “Người Lái Đò Sông Đà”, ông có một khả năng sử dụng ngôn từ vô cùng linh hoạt, không hề lặp lại trong cách diễn đạt mà trước hết được thể hiện trong cách miêu tả giàn thạch trận đá trên sông Đà. “vòng đấu vừa mới, nó mở ra cửa trận có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lấp ló phía tà ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào và cửa tinh lại bố trí lệch qua bờ hữu ngạn…” Sông Đà không còn là một vật vô tri, vô giác nữa, mà hiện lên giống như những tên lính thủy đầy mưu mẹo, nham hiểm, hiếu chiến, mỗi thằng một bộ mặt, một dáng vẻ nhưng đều chung một mục tiêu là ăn chết các thuyền và người lái đò. Trong khi nước sông Đà “ùa vào bẻ gãy cánh chèo” thì sóng sông Đà lại “như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng vào hông thuyền, có lúc đội cả thuyền lên”. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân ông đò đã trở thành một người nghệ sĩ lái đò với những động tác vô cùng điêu luyện, chuẩn xác. Có lúc ông Đò cưỡi thác sông đà mà như là cưỡi hổ, phải cưới đến cùng mà có lúc lại như đang cưỡi một con ngựa bất kham, “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng, Ông đò ghì cương lại bám chắc lấy luồng nước đứng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lại vượt một đường chéo về phía của đá ấy”, có lúc ông đó lại “ma rảo bởi chèo lên”, lúc thì “đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiếp”. Thú vị hơn cả khi nói đến tài năng sử dụng ngôn từ của Nguyễn Tuân chúng ta không thể kể đến các phương pháp nghệ thuật đa dạng, trường liên tưởng phong phú, tài hoa mà tác giả đã sử dụng xuyên suốt tác phẩm. Nhất là nghệ thuật hóa so sánh âm thanh của nước sông Đà được động vật hóa thành tiếng dung của một ngàn con trâu mộng, thậm chí Ông còn lấy cả nước, lửa hai vật vốn tương khắc, hủy diệt nhau nhưng vào trong tác phẩm lại hiệp xúc cho nhau “thế rồi nó râng lên như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vào rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Nếu không có biệt tài sử dụng ngôn ngữ điêu luyện, chuẩn xác, vốn từ ngữ phong phú, uyên bác, kỹ thuật sử dụng ngôn từ mang đậm dấu ấn cá nhân, phong cách của mình Nguyễn Tuân khó có thể đạt được thành công và cho ra đời những tác phẩm hay như thế.
Qua một số ẩn dụ nêu trên ta thấy được từ phong cách văn học mà ta nhận diện được từng gương mặt tác giả và những điều độc đáo không lập lại ở họ, cũng qua phong cách nghệ thuật mà chúng ta nhận thức được sự trưởng thành không chỉ của nhà văn mà còn nhận thức được trình độ phát triển của một trào lưu văn học, gương mặt chung của văn học dân tộc cho từng thời đại phát triển. Để tạo được phong cách và dấu ấn riêng trong từng tác phẩm của mình mỗi nhà văn, nhà thơ phải không ngừng học hỏi, tìm tới cái mới ngay cả khi đã tạo được tìm hiểu chắt lọc. Luôn xem xét kỹ sự việc, vấn đề, lật đi lật lại bởi sáng tạo không phải là khai phá những gì người ta chưa nhìn thấu ở nơi họ đã từng đặt chân lên rồi, mà khéo léo làm nổi bật phong cách riêng của mình thể hiện trong nhiều tác phẩm chứ không chỉ riêng một bài nào hết. Có như thế người đọc mới tìm ra và đúc kết lại được phong cách của từng người và các độc giả cũng phải trau dồi vốn ngôn ngữ của mình để hiểu rõ hơn về tác phẩm, biết cách chọn lọc cái chung, cái riêng của mỗi tác giả để rồi từ đó thấu hiểu dấu ấn của từng người.
Như vậy, nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết phải có những phong cách nổi bật, tức là phải có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình là một nhận định hoàn toàn đúng đắn. Chỉ khi các tác giả tạo được dấu ấn cá nhân của mình trong sáng tác thì tác phẩm của họ mới thực sự có dấu ấn trên văn đàn. Qua đây ta càng hiểu thêm về cách cảm thụ văn chương và tài năng của các tác giả hơn./.
Không phải ai cứ muôn là có thể trở thành nghệ sĩ, dù niềm mong muốn đó có mãnh liệt, thiết tha đến đâu. Để trở thành một nghệ sĩ, điều kiện cần thiết đầu tiên là phải có tài, hay nói cách khác là một cái gì đó thuộc về năng khiếu bẩm sinh. Nhưng tài chưa đủ, người đó cần phải có một cái tâm trong sáng, một nhân cách cao đẹp. Thương đời, lo cho đời, cho con người, từ đó nhà văn mới có những mong ước cao đẹp, ý thức trách nhiệm, ý thức thiên chức của một “kĩ sư tâm hồn” và tài năng của mình được phát huy cao độ. Cái tài chính là khả năng tối ưu của nhà nghệ sĩ thực hiện những dự định cao cả, để đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của nghệ thuật. “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình”.
Nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng là “lĩnh vực của cái độc đáo”. Đó chính là một hoạt động của con người ở lĩnh vực văn hoá tinh thần. Người sáng tạo và hoạt động sáng tạo, sản phẩm sáng tạo phải đáp ứng được những đòi hỏi đặc thù của lĩnh vực nghệ thuật đó: sự “độc đáo”. Đối với lĩnh vực khoa học thực nghiệm điều khác là rõ ràng, nhưng ngay trong từng bộ môn nghệ thuậi cũng phải có những đặc trưng riêng. Trong văn chương cũng phải như thế.
Bán thân nghệ thuật (trong đó có văn chương) là lĩnh vực của cái mới lạ, cái đẹp mà trong cái đẹp đã bao hàm sự độc đáo. Vì thế, nó đòi hỏi rất cao ở người nghệ sĩ năng lực sáng tạo.
Quá trình sáng tạo tác phẩm văn học là một quá trình sản xuất riêng lẻ, cá biệt. Nó không chấp nhận sự sản xuất hàng loạt rập khuôn, máy móc. Người nghệ sĩ phải là người vừa thiết kế vừa thi công công trình của mình chứ không phải là ai khác. Nói như Xuân Diệu “sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm”. Và khi thơ ra đời, nó phải đem lại cho người đọc những điều người ta chưa biết, chưa rõ, những điều mới lạ trong cuộc sống. Mà muốn thực hiện được điều đó thì không dễ dàng một chút nào, “nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật”.
Con người thường có những mơ ước sáng tạo. Và người nghệ sĩ cũng vậy Nói như Xuân Quỳnh, làm thơ viết văn trước hết là “đáp ứng nhu cầu sáng tạo và nhu cầu nối liền mình với thế giới và sự vặt xung quanh”. Bản thân một nhà văn chân chính không thể giẫm chân lên con đường mà người khác đã mở. Họ muốn tìm tòi, khám phá, sáng tạo, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có” (Nam Cao). Nếu không có phong cách thì, trước hết là không khẳng định được mình, bản ngã mình, cái tôi của mình. Phong cách cũng là sức mạnh của người nghệ sĩ trong thiên chức của mình, bởi phong cách “tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình”.
Nếu như khoa học đôi khi loại bỏ cái “tôi” của người sáng tạo thì nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng lại ngược lại. Đến với tác phẩm là ta đến với đứa con tinh thần của người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ muốn thể hiện bản sắc riêng của mình qua tác phẩm. Đó là nét gì đó “rất riêng, mới lạ” mà không ai có được. Có thể là cách cảm, cách nghĩ, cách nhìn và cách viết. Sự độc đáo, mới lạ đó có từ trong tư tưởng của nhà văn và thể hiện qua những biểu hiện riêng. Nói “nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật” tức là đòi hỏi điều đó. Phong cách là yêu cầu của nghệ thuật và cũng là ước muốn chủ quan của người nghệ sĩ. Độc đáo trong nghệ thuật, trước hết là sự độc đáo trong cách nghĩ, cách biểu hiện của nhà vãn.
Nhưng không phải ai cũng tạo được cho mình một phong cách riêng độc đáo. Đối với những tác giả không có tài năng hoặc mới có quá ít tác phẩm thì phong cách chưa thể có một cách trọn vẹn. Chỉ có những nhà văn lớn, thực sự có tài thì mới có phong cách riêng của mình. Nam Cao là một trong số ít tên tuổi đó.
Nam Cao mất khi còn trẻ. Nhưng sự nghiệp văn học của ông để lại khiến bất cứ ai cũng phải kính nể. Mấy chục truyện ngắn về đề tài người nông dân rất xuất sắc trong đó có kiệt tác Chí Phèo, và hàng loạt tác phẩm về đề tài người trí thức trong đó có những tác phẩm được đánh giá cao như Đời thừa, sống mòn,... Trong những đứa con tinh thần đó, Nam Cao đã để lại cái “tôi” sắc nét của mình, cái “tôi” của nhà văn chân chính luôn có những sự “đào sâu suy nghĩ, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng lạo những cái gì chưa có”, tạo nên cái “gì đó rất riêng, mới lạ ” trong tác phẩm của ông.
Cũng là một nhà văn hiện thực phê phán cùng thời với Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng... nhưng Nam Cao lại có những nét rất khác biệt với những tác giả ấy. Nếu họ thường tiếp cận đời sống ở những bình diện xã hội rộng lớn thì Nam Cao lại khám phá ở góc độ đời thường, với những số phận nhỏ bé. Đi vào tác phẩm của Nam Cao, ta toàn gặp những chuyện đời thường nhỏ nhặt như Một bữa no, Một chuyện xúvơnia, Một đám cưới, Nửa đêm, Làm tổ,...; với những số phận rất cụ thể hiện nay ở đầu đề như Lão Hạc, Chí Phèo, Dì Hảo...; với nhữg trạng thái sinh động của con người như Cười, Nước mắt, Đời thừa,… Ngay cả trong tiểu thuyết của ông như Chuyện người hàng xóm, sống mòn cũng vậy. Phạm vi bao quát của các tác phẩm tiểu thuyết có thể có quy mô rộng lớn hơn, nhưng trong văn của ông ta cũng chỉ gặp một xóm. Bài thơ, một ngôi trường ngoại ô. Và trong đó, con người vẫn hiện lên trong cuộc sống đời thường, với những gì thật nhất, quen thuộc nhất. Họ sống với nhau, họ yêu thương nhau, cãi lộn nhau và còn hằm hè, khinh bỉ nhau nữa. Dường như đối với Nam Cao, quan tâm đến số phận con người thì trước hết hãy quan tâm đến con người đời thường, xem họ sống ra sao, trước khi có thể gợi họ là con người giai cấp, con người xã hội.
Nhưng vượt khỏi cái phạm vi đời thường nhỏ hẹp, quanh quẩn bên cuộc sống của người nông dân và người trí thức nghèo, Nam Cao luôn gửi gắm qua tác phẩm một ý nghĩa triết lí nhân sinh, triết lí xã hội sâu sắc và thâm trầm. Chính sự tìm tòi, khám phá, phát hiện từng cảnh đời, mảnh đời nhỏ bé đó mà Nam Cao đã thấy sâu sắc hơn hết chiều sâu tội ác của xã hội. “Ngươi nọ, người kia không đáng để ta khinh ghét. Cái đáng nguyền rủa là cái xã hội kia. Nó đã tạo ra những con người tham lam và ích kỉ” (Sống mòn). Chính xã hội xấu xa là nguyên nhân đẩy con người tới chỗ cùng cực về vật chất, tha hoá vẻ tâm hồn. Tiếng kêu từ tác phẩm của ông là tiếng kêu đòi phá tan cái xã hội vô nhân đạo để trả lại quyền sống cho con người. Nhưng tiếng nói bức thiết hơn trong tác phẩm của ông lại chính là lời cảnh tỉnh con người hãy giữ lấy nhân cách, nhân phẩm của mình trước những lo toan tủn mủn. những tính toán vật chất đời thường, cụ thể hơn là nỗi lo để có được sự sống, có miếng cơm manh áo. Không có nổi đau đời, không có cái tâm với con người, làm sao nhà văn viết được những tác phẩm gây xúc động như sống mòn, Nước mắt hay Quên điều độ..
Nam Cao nhìn nhận con người dưới góc độ nhân cách. Nói như Giáo sư Nguyền Đăng Mạnh, “Nam Cao là người hay bân khoăn về vấn đề nhân phẩm của con người". Ông khám phá ra họ, soi sáng nhân cách của họ bằng những thử thách của miếng cơm manh áo, của vật chất đời thường. Cái đó và miếng ăn là những vấn đề nổi cộm trong sáng tác của Nam Cao. Con naười trí thức hay người nông dân cũng vậy, họ đều trong một cuộc giằng đấu quyết liệt vì cái chuyện cơm áo hằng ngày. Đọc tác phẩm Nam Cao, nhiều khi ta trào nước mắt vì thương cảm. Chao ôi, trong tác phẩm của ông, hầu hết các sương mặt đều nhợt nhạt đi vì đói. Bộ điệu của họ mới thảm hại, xốc xếch làm sao. Họ đang phải đấu tranh cho sự sinh tồn của mình trước cái đói ghê gớm. Họ đang đứng trước bờ vực thẳm, ranh giới giữa nhân phẩm và cái xấu xa, đê tiện của con người. Mà theo Nam Cao, ai vượt qua được thử thách khốc liệt của miếng cơm manh áo này thì mới là con người, còn ai gục ngã trước nó thì là những con người tha hoá về nhân cách, nhân phẩm. Ông đã làm như vậy để cứu con người khỏi sự xấu xa, đê tiện, gọi con người về với cái thiện lương tối đẹp của mình bằng cách làm cho con người tự hổ thẹn vì những chuyện mà ông “không muốn viết” của mình.
Đúng là nhân vật của Nam Cao quằn quại trong miếng cơm manh áo, con người ta xấu đi, ti tiện và bị lăng nhục cũng vì Trẻ con không được ăn thịt chó tham lam và ích kỉ đến độ quên cả những đứa trẻ khốn khổ chờ một chút ăn thừa. Là bà cụ trong Một bữa no chỉ vì đói quá, ăn chực bữa cơm để rồi “chết no” một cách khốn khổ để bia miệng ở đời, bị người ta lôi ra mà xỉ vả, mà làm gương răn dạy kẻ hầu người hạ. Rồi cụ Lộ trong Tư cách mõ từ một con người hiền lành, lương thiện bỗng trở thành "mõ chính tông” cũng đê tiện, lì lợm tham ăn, hễ thấy nhà nào lách cách mâm bát là đến ngay, để rồi bị người đời khinh rẻ. Chí Phèo trong truyện ngắn cùng lên cũng bị người ta xa lánh bởi Chí đã nhận tiền của Bá Kiến rồi đi sây gổ. Đau đớn lắm, thương xót lắm, nhưng ta cũng giận họ biết bao nhiêu. Và xót xa hơn là những con người trí thức cũng bị cắn rút bởi miếng cơm manh áo. Điền khổ, Hộ khổ, Thứ khổ vì không đủ tiền nuôi gia đình; khổ vì cứ muốn bay cao lên với những ước mơ cao đẹp nhưng lại bị miếng cơm manh áo “ghì sát đất”. Hộ đâm ra giận dữ với vợ con, mang tất cả cái khổ nghề nghiệp vì cuộc sống ra mà đổ lên đầu những người thân yêu. Anh đối xử phũ phàng, thậm chí có lúc anh đã nguyền rủa họ. Thứ trong tiểu thuyết sống mòn cũng khổ sở không kém. Cả một nhóm trí thức đến bữa ăn cãi nhau toang toang như họp làng, chi li từng đồng liền bát gạo, nghĩ xấu về nhau, chơi xỏ nhau, xỉ nhục nhau,... Nhìn nhừng con người như thế ta không đớn đau sao được?
Lạnh lùng miêu là họ, nhưng Nam Cao không vùi dập họ, ông chỉ cảnh tỉnh con người hãy giữ vững nhân cách của mình trước hiện thực xấu xa, đầy những độc tố. Ông mô tả những con người tha hoá, lưu manh và ông cũng rất thiết tha ca ngợi những con người đã biết vươn lên hoàn cảnh để giữ vững nhân cách tốt đẹp. Anh ***** chuột (Nghèo) thà thắt cổ tự tử chứ không để vợ con nợ nần thêm những món tiền để phục dịch mình. Lão Hạc dù nghèo dù khổ, dù không muốn động vào món tiền của con lão cũng không làm những việc như xin bả đánh chó. Lão chết bằng nắm bả xin của Binh Tư để giữ phẩm giá của mình. Cách giải quyết như thế là tiêu cực, nhưng biết làm sao được khi lão sống trong một xã hội phi nhân tính. Lão chết nhưng nhân cách trong sáng và cao đẹp của lão còn mãi. Hay những Thứ, những Hộ,... cũng vậy, dù có bị cuộc đời quăng quật, có lúc đã không giữ được tư cách một trí thức chân chính, nhưng rồi rốt cuộc, những con người đó đều biết hổ thẹn, tự vấn lòng và thấy mình như “một thằng khốn nạn” rồi họ khóc vì hối hận, để rồi ngày mai họ có thể sẽ sống đẹp hơn, tốt hơn.
Với Nam Cao, nhân phẩm của con người là nỗi niềm trăn trở day dứt nhất. Ông luôn muốn con người ta phải sống đẹp hơn, thiện hơn trong mỗi giây phút của đời minh và không hao giờ bị sai ngã vì những cái nhỏ mọn. Ông cảnh tỉnh những kẻ đánh mất nhân cách, ông xót xa cho những người bị lăng nhục và ông ca ngợi những tâm hồn cao đẹp. Phải chăng đó là điều tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc trong sáng tác của Nam Cao?
Tôn trọng hiện thực khách quan là đặc điểm của văn học hiện thực phê phán. Nhưng không giống như các nhà văn đương thời, Nam Cao tái lạo hiện thực bằng một bút pháp khách quan, lạnh lùng đến độ tàn nhẫn chứ không đến mức cay chua, phẫn uất như Vũ Trọng Phụng hay yêu thương biểu hiện ngay trên từng câu, từng chữ, dù chỉ đọc được một đoạn cũng có thể cảm nhận được chủ nghĩa nhân đạo thống thiết như các tác phẩm của Nguyên Hồng. Còn nhà văn Nam Cao thì lại tâm niệm: Tôi đóng cũi sắt tình cảm của tôi. Ông viết như để người đọc tưởng không có tình cảm của mình trong đó. Rất hiếm hoi trong tác phẩm ông bộc lộ cảm xúc trực tiếp của mình. Tác phẩm của ông là những trang đời chân thực nghiệt ngã tựa hồ có ý để mặc cho người đọc suy ngẫm và chiêm nghiệm.
Nam Cao chủ trương lách ngòi bút vào đáy sâu của sự thật để phanh phui tất cả hiện thực phũ phàng, tàn nhẫn nhuộm đen tầm hồn con ngưòi, phá vỡ quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Tất cả những cái đẹp tốt hay dở của con người, từ chuyện người ta chết chỉ vì một bữa ăn quá no, chuyện một con người bị lưu manh hoá, đến những chuyện cơm áo thường nhật, những ý nghĩ xấu xa, cả những chuyện ti tiện của con người như cãi nhau, hằm hè nhau,... đều được phơi bày ra một cách không thương tiếc. Có người trách Nam Cao sao tàn nhẫn quá, tàn nhẫn tưởng như bôi xấu con người, hạ thấp con người. Trước những cảnh khổ mà nhà văn phải dửng dưng, phải mổ xẻ mà phân tích. Truyện của Nam Cao nhiều lúc kết thúc không có hậu, con người thì toàn những “cái mặt không chơi được”, có khi xấu xí đến dị hình dị dạng. Nhà văn dám nói những điều người ta không dám nói, lại bằng cái giọng lạnh lùng, tàn nhẫn nên có lúc ai đó đã nghi ngờ giá trị nhân đạo trong tác phẩm Nam Cao. Không, Nam Cao là một con người cao cả, một con người “biết tin ở tài mình, ở thiên chức của mình” (Hà Minh Đức), ẩn sau cái lạnh lùng, tàn nhẫn ấy là một tấm lòng thiết tha, sôi nổi với đời, với người. Ông làm cho người thấy xấu hổ vì cái xấu để mà sống tốt. Nếu không phải là người có một tấm lòng nhân ái cao độ thì ông đã chẳng thấu hiểu được bi kịch trong những nhân vật như Hộ, như Điền, như Thứ. Chính bút pháp khách quan, lạnh lùng này đã khiến ngòi bút Nam Cao lách sâu được vào sự thật, có sự đào sâu, tìm tòi mới mẻ trong cả đề tài người nông dân và đề tài người trí thức - những đề tài đã quá quen thuộc trong văn học; nhưng chưa ai nói được một cách sâu sắc, thâm thía bi kịch tinh thần trong cuộc sống của người trí thức hay thảm hoạ bị lưu manh hoá, bị xã hội làm thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính của người nông dân như nhà văn Nam Cao.
Những nhà văn hiện thực khác thường xây dựng nhân vật qua hành động, bằng cốl truyện. Nam Cao khắc hoạ nhân vật của mình bằng cách đi sâu vào nội tâm nhân vật. Ông có năng lực phân tích tâm lí sắc sảo để làm rõ bản chất nhân vật. Nam Cao sử dụng những dòng độc thoại nội tâm để nhân vật tự thể hiện mình, vì vậy, nhân vật cùa Nam Cao thường hiện lên qua tác phẩm trong những dòng suy tưởng. Chẳng ai có thể tin Hộ là người thương vợ con, có ý thức trách nhiệm với nghề nghiệp nếu chỉ toàn thấy những hành động cục cằn. thô lỗ của anh mà không đọc những suy ngẫm của anh về gia đình, về nghề nghiệp qua những đoạn nhà văn để cho Hộ tự độc thoại. Hộ không thể tàn nhẫn với Từ, và Hộ không cẩu thả trong văn chương, bởi anh nghĩ rằng sự cẩu thả trong văn chương là đê tiện.
Nam Cao rất ít khi miêu tả thiên nhiên, miêu tả ngoại hình nhưng nếu có thì cũng chỉ để khắc hoạ tâm lí nhân vật. Chí Phèo đang trong trạng thái say, chân bước loạng choạng, nên tàu lá chuối cũng được tả như “giẫy đành đạch" Thứ (Sống mòn) đang buồn khổ vì cuộc đời, tâm lí đang có phần suy sụp nền Nam Cao viết: “Mắt y đã nghiêm trang, trán y đã lo âu”... Và có lẽ chính việc để nhân vất, đặc biệt là nhân vật trí thức, suy tưởng nhiều nên trong tác phẩm của Nam Cao luôn có giọng điệu triết lí sâu sắc. Những triết lí về đời, về thái độ của con người như “nước mắt là miếng kính biến hình của vũ trụ”, “con người ta chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh cùa phường ích kỉ” (Nước mắt) hay “văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho...” (Đời thừa). Những triết lí về nghề nghiệp là những điều thường gặp trong tác phẩm của ông. Đó cũng là một nét “rất riêng, mới lạ” của nhà văn này.
Phong cách cùa nam Cao - những cái nét “rất riêng, mới lạ" thể hiện trong sáng tác của ông - chính là hướng tiếp cận cuộc sống rất đặc biệt. Ông có cách nhìn nhận và đánh giá, quan làm đến con người không giống ai. Tất cả những trăn trở, suy tư tưởng hiện thực, cách cảm, cách nghĩ của ông lại được thể hiện trong một lối đặc sắc. Người ta không thể lẫn Nam Cao với một ai khác.
Sau Cách mạng tháng Tám, trong tư tưởng nghệ thuật của Nam Cao có nhiều thay đổi nhưng tài năng, phong cách của ông không vì thế mà phai nhạt đi. Dù cơ bản chỉ để lại truyện Đôi mắt nhưng Nam Cao vẫn chứng tỏ được mình. Đôi mắt vẫn mang những nét cơ bản trong phong cách Nam Cao. Ông viết về những vấn đề rất lớn lao cùa đất nước nhưng lại thể hiện nó trong môi trường nhỏ hẹp: trong gia đình của nhân vật Hoàng. Câu chuyện có ý nghĩa rất lớn lao nhưng lại được thể hiện chủ yếu qua đối thoại của hai văn sĩ lâu ngày gặp nhau nhận xét về người nông dân mình. Ông ít để cho nhân vật hành động mà để cho nhân vật tự nói nhiều, như một thủ pháp độc thoại vậy. Và ông vẫn dùng ngòi bút miêu tả khắc hoạ tâm lí sắc sảo của mình đối với từng nhân vật.
Phong cách cùa Nam Cao được thể hiện khá rõ ràng và nhất quán, chỉ tiếc ông hi sinh quá sớm, khi tài năng đang ở độ chín. Nhưng với những gì còn để lại cho đời, ông đã chứng tỏ được phong cách của mình, cái tài, cái tâm của mình. Nam Cao đúng là một trong số không nhiều nhà vãn đáp ứng được đòi hỏi khắt khe của sự sáng tạo nghệ thuật.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *