Bài học giúp các em học sinh có kĩ năng vận dụng các thao tác phân tích, bình luận, chứng minh, so sánh để làm bài nghị luận văn học. Biết cách làm bài văn nghị luận về một ý kiến bàn về văn học.
Tìm hiểu đề
Tiến hành viết bài
Kiểm tra và chỉnh sửa (nếu có)
Có ý kiến cho rằng: “Hành động cắt dây trói cứu A Phủ của Mị cũng là hành động cắt đứt sợi dây ràng buộc mình với nhà thống lí Pá Tra”.
Ý kiến của anh chị về vấn đề trên.
Có ý kiến cho rằng: "Sự nhẫn nhục của nhân vật Từ (Đời thừa – Nam Cao) không đáng trách, chỉ đáng thương; còn sự nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) thì vừa đáng thương vừa đáng trách".
Từ cảm nhận của mình về hai nhân vật này, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
Để định hướng cách làm và triển khai vấn đề cho các đề văn liên quan đến bài văn nghị luận về một ý kiến bàn về văn học, các em có thể tham khảo bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Từ Truyện cổ tích Tấm Cám, em hãy trình bày suy nghĩ của bản thân về sự tranh đấu giữa cái thiện vá cái ac trong cuộc sống.
Câu trả lời của bạn
Tấm Cám là một câu truyện cổ tích kinh điển của dân tộc Việt Nam. Nó mang đậm tính chất giáo dục con người. Thông qua câu chuyện cuộc đời của Tấm, câu chuyện đã đánh bật lên mâu thuẫn giữa thiện và ác trong xã hội. Tôi đã nghe bà kể từ lâu nhưng giờ đây khi có cơ hội ngồi suy nghĩ và phân tích tôi mới có thể cảm nhận được bài học đạo lý mà câu chuyện này muốn truyền đạt. Sớm mồ côi cha mẹ, cô Tấm sống trong sự ghẻ lạnh của dì ghẻ và Cám. Hằng ngày cô phải làm mọi công việc chỉ để đổi lấy đòn roi của dì và những câu mắng chửi của em. Cuộc sống cứ như thế trôi qua để lại cho cô gái hiền lành những vết thương khó có thể lành. Không ai biết về cô, không ai làm bạn cùng cô trong những đêm buồn tủi cô Tấm chỉ biết khóc. Dù nỗi đau nối tiếp nỗi đau, vết thương in thêm nhưng vết thương nhưng cô vẫn giữ trọn chữ hiếu cùng dì và nghĩa với đứa em cay ác. Nếu tôi được nói một câu cùng cô, tôi sẽ nói rằng cô yêu đuối quá cô Tấm à! Hạnh phúc thật sự chỉ do bản thân mình tự mang lại mà thôi, vậy tại sao cô không thử đừng dậy đấu tranh cho bản thân mình?
Từ xưa đến nay, hình ảnh cô Tấm đã trở thành một khuôn mẫu để đánh giá nét đẹp của người phụ nữ. Cô Tấm xinh đẹp, nhân hậu, chăm chỉ và cô rất hiếu thảo. Nhưng cô không được sống trong hạnh phúc thứ mà đáng lẽ cô phải có được nhận để xứng đáng với nhân cách tốt đẹp của mình.
Việc hằng ngày dì ghé và Cám luôn ngược đãi cô Tấm đã thể hiện rõ cho chúng ta thấy được mâu thuẫn xã hội đã hình thành từ rất lâu. Từ khi con người hình thành tri thức, cái thiện và cái ác đã cùng song hành trong xã hội. Không nơi nào tổn tại toàn những người tốt, và cũng sẽ chẳng thể có một xã hội với tất cả nhưng công dân xấu cả. Cái tốt, cái xấu đã và đang hiện hữu trong mỗi chúng ta, thật sai lầm khi chúng ta sống mà chỉ cố gắng làm điều tốt! Người tốt thật sự là người biết tự nhìn nhận ra những sai lầm của bản thân và tránh lập lại chúng.
Trở lại cùng câu chuyện của cô Tấm, ở đoạn kết chúng ta thấy được một kết thúc đẹp cho nhân vật chính của chúng ta nhưng ít ai nhận ra rằng để đạt được hạnh phúc đó thì cô Tấm đã phải đứng đấu tranh vô cùng vất vả. Cô chết đi và sống lại bao nhiêu lần để có được cái hạnh phúc ấy? Giả sử câu chuyện ấy kết thúc tại thời điểm cô Tấm chết, Cám làm hoàng hậu và hạnh phúc sống cùng vua và người mẹ độc ác của mình đến cuối đời thì sao? Lúc đó bạn sẽ không thể 1 lần nhìn thấy 2 tiếng "hòa bình" trong xã hội này đâu. Khi ấy những gì mà trẻ con đến trường nhận được là lòng thù hận, sự ích kỷ và đố kỵ. Hãy tưởng tượng một buối sáng bạn bước ra đường, vô tình bạn thấy một bà cụ vấp ngã và tất cả mọi người chung quanh bạn vẫn dửng dưng bước đi? Tưởng tượng rằng bạn phải đến viện bảo tàng để đọc được cuốn tiểu thuyết "Những người khốn khổ" của H.Way mà lúc này nó bị xem là tư tưởng phát-xít ???
Và thử tường tượng rằng một ngày nọ... Đèn đỏ, xe cộ đậu chỉnh tề ngay sau vạch trắng. Một va chạm xảy ra và hai thanh niên rối rít xin lỗi nhau. Anh cảnh sát giao thông nhìn cả hai trìu mến rồi tặng mỗi người một cái nón bảo hiểm.
Sếp đứng ở cổng, dịu dàng bắt tay từng người và hỏi lương có đủ sống không làm chị lao công xúc động nấc lên từng chập. Bản tin trên đài truyền hình cho biết giá cả đang giảm trong khi mỗi người ai cũng được tăng hai bậc lương khiến mấy chị nhà bếp vui mừng khôn xiết.
Ở các khu phố, người ta gõ cửa từng nhà để tặng sách giáo khoa cho trẻ. Chỉ cần một tiếng ho là xe cấp cứu chạy đến tức thời. Mưa, người dân mở cửa cho khách bộ hành trú nhờ. Tụi nhỏ thích nghịch nước khóc râm rứt vì không tìm đâu ra một đoạn đường ngập nước. Ông giám đốc công ty giải trí tức thức lên ti vi hứa sẽ xây thật nhiều công viên nước miễn phí cho bọn trẻ...
Cái ác có thể mạnh nhưng không thể tồn tại vĩnh viễn, cái thiện có thể yếu nhưng sẽ vẫn luôn tồn tại để đấu tranh chống lại cái ác. Và như thế là một chân lý, người ở hiền thì sẽ gặp lành và kẻ gieo gió ắt cũng có ngày gặp bão.
Câu trả lời của bạn
Vẻ đẹp của con người Việt Nam qua ca dao, dân ca?
Câu trả lời của bạn
Ca dao không những là tiếng nói chứa đựng tâm tư, tình cảm của người lao động mà còn là những kho tàng kinh nghiệm sống quý giá của muôn đời. Đọc từng trang ca dao, chúng ta thấy hiện lên cuộc sống của người xưa trong sương mờ quá khứ. Trong đó, lời ăn tiếng nói của con người trong giao tiếp được người xưa coi trọng và hiển nhiên đó là một trong những chuẩn mực đức của con người.
Một trong những "tiêu chuẩn" hàng đầu của vẻ đẹp con người là "ăn nói” phải mặn mà, phải có nét duyên: "Một thương tóc bỏ đuôi gà. Hai thương nói mặn mà, có duyên". Quan niệm xưa cho rằng "tóc bỏ đuôi gà, má lúm đồng tiền" là vẻ đẹp hình thể, vẻ đẹp bề ngoài; còn "ăn nói mặn mà có duuyên” là vẻ đẹp của tâm hồn bên trong, luôn bền vững với năm tháng, với thời gian. Song song đó, hình ảnh "người khôn" được nhắc đi nhắc lại với tần suất cao trong ca dao cũng là một điều cần lưu ý. "Người khôn" ở đây không phải hạng người "khôn lỏi, khôn vặt"; sống ích kỷ, nhỏ nhen mà là những người sống có nhân nghĩa, biết đối nhân xử thế đúng mực, đúng chuẩn ở đời.
Người xưa từng nói "lạt mềm buộc chặt" – lời nói ngọt ngào, dịu dàng giờ cũng mang ấn tượng tốt, mang lại cảm tình, niềm vui giao tiếp cho người được tiếp xúc: "Chim khôn kêu tiếng rảnh rang. Người khôn nói tiếng dịu dàng, dễ nghe". Ca dao còn nhắc nhở, khuyên nhau khi nói phải lựa lời, chọn lời, cân nhắc ý tứ. Lời nói luôn có sẵn, đối với từng trường hợp cụ thể chúng ta dành những "lời hay ý đẹp" cho nhau.
Có niềm vui nào hơn khi trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta luôn được nghe những lời nói đẹp, những lời nói hay, sâu sắc, để cho con người thương nhau hơn, gần gũi nhau hơn: "Lời nói chẳng mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Có môi trường sống tốt ắt có nhiều lời nói hay, nói đẹp.
Bởi môi trường sống ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách con người: "Đất tốt trồng cây rườm rà. Những người thanh lịch nói ra dịu dàng". Người thanh tiếng nói cũng thanh. Chuông kêu chuông đánh bên thành cũng kêu”. Mỗi cử chỉ, mỗi hành vi, mỗi việc làm, lời nói đều bộc lộ phần nào phẩm đạo đức, nhân cách của con người. Một khi lời nói đã thốt ra thì không giờ lấy lại được nữa! Câu "nhất ngôn hạ xuất, tứ mã nan truy" đủ để biết trọng đến nhường nào trong lời ăn tiếng nói! Vì vậy, phải giữ đúng lời không vì lý do gì mà thay đổi. Bởi giữ lời hứa là giữ uy tín, danh dự, thể diện của bản thân: "Nói lời phải giữ lấy lời. Đừng như con bướm đậu rồi lại bay”. Có khi người xưa khuyên răn nên "nói ít làm nhiều", đừng "nói nhiều ít" kẻo mang tiếng cười, tiếng chê bai: "Nói chín thì phải làm mười. Nói mười làm chín kẻ cười người chê".
Mặt khác, cũng cần tránh lối nói lấp lửng, nửa úp nửa mở; khiến cho người áy náy, phân vân, không rõ thực hư thế nào, gây phiền muộn cho nhau: Người khôn ăn nói nửa chừng. Để cho người dại nửa mừng nửa lo. "Bên cạnh người xưa dạy những điều thật thấm thìa: đó là khi nói, cần biết dừng lại khi cần; đừng nói dông dài "con cà, con kê" ắt sẽ làm cho người nghe nhàm chán, mất hứng thú: "Rượu lạt uống lắm cũng say. Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm "Trong gia đình, trong làng xóm, trong quan hệ cộng đồng - sự hài hòa, nhường nhịn là cái gốc của cuộc sống yên vui. Xưa có đôi câu đối rằng: “Nhất cần thiên hạ vô nan sự. Bách nhẫn đường trung hữu thái hòa" (Chăm thiên hạ không việc khó. Tốt nhịn, gia đình lắm vẻ vui). Bài học mà ca dao chúng ta thật nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc: "im vàng ai nỡ uốn câu. Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời". Đúng vậy, nói nhau làm chi nặng lời bởi trong tình huống nào cũng rất cần chữ "nhẫn" như người xưa khuyên nhủ “một câu nhịn, chín câu lành".
Trong cuộc sống, biết bao điều phức tạp nảy sinh và lời ăn tiếng nói có tầm quan trọng hàng đầu. Tìm hiểu ca dao, chúng ta càng cảm phục cha ông, càng thấm thía những lời dạy được truyền từ đời này qua đời khác mà luôn luôn nguyên giá trị của nó trong sự nghiệp xây dựng con người mới hiện nay.
Văn học có khả năng nhân đạo hóa con người?
Câu trả lời của bạn
Văn học là trong những loại hình nghệ thuật có từ rất sớm, gắn bó thiết thực với đời sống tinh thần của con người ngay từ thuở xa xưa. Dù dưới hình thức nào thì nó vẫn là sự phản ánh thế giới khách quan qua thế giới chủ thể của nghệ sĩ…
Tác phẩm nghệ thuật chân chính là sự giãi bày những tình cảm, những khát vọng sâu xa của nhà văn trước cuộc đời, trước những vấn đề có ý nghĩa thân thiết đối với con người. Dù văn học viết về những sự cố lớn lao: bão táp cách mạng, chiến tranh, hay chỉ diễn tả một tiếng chuông chùa, một bờ tre, ruộng lúa... bao giờ ta cũng tìm thấy hình bóng, tâm sự của con người gửi gắm ở bên trong.
Với tư cách là cụ thể của hoàn cảnh, là động lực của sự phát triển xã hội, là gốc của mọi sáng kiến, phát minh. Con người với tất cả niềm vui, nỗi buồn, tâm tư khát vọng, thành đạt hay khổ đau luôn luôn là đối tượng trung thực của văn học, là mối quan tâm hàng đầu của nghệ sĩ chân chính. Tình yêu thương đối với con người là nguồn động lực căn bản nhất thúc đẩy ngòi bút của mọi nhà văn chân chính.
Nhà văn Nga Tolstoi đã từng viết: "Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu". Còn Goethe thi nói: "Những điều đầu tiên mà thiên nhiên cần là tình yêu nồng nàn đối với cuộc sống". Nữ văn sĩ Pháp Elsa Trisolet thì diễn tả tình yêu ấy bằng hình ảnh thật cụ thể: "Nhà văn là người cho máu". Đó là một tình yêu bao gồm cả sự hi sinh to lớn. Tác phẩm chân chính đúng là sản phẩm trí tuệ, trái tim, mồ hôi và cả nước mắt nữa của người nghệ sĩ, là kết quả của quá trình nếm trải, nung nấu, cảm xúc dào dạt - cái mà người ta gọi là cảm tưởng trong sáng tạo nghệ thuật, không ai làm thơ làm văn trong trạng thái khô cằn, chai sạn xúc cảm. Cảm tưởng ấy có thế bắt đầu từ niềm vui sưóng, tự hào hay tin tưởng, phân khởi, nhưng với nghệ sĩ chân chính thì chăng bao giờ có niềm vui hời hạt, giản đơn. Bởi vi cuộc sống con người, trong tính hiện thực của nó, niềm vui luôn luôn đi đôi với nỗi buồn, ánh sáng luôn tồn tại bên cạnh bóng tốì, cái xấu luôn xen lẫn bên cạnh cái tốt, hạnh phúc thường đi liền với khổ đau, bất hạnh ….Và những khổ đau của con người xưa nay vốn là nỗi nhức nhối, bức xúc nhất hối thúc người nghệ sĩ cầm bút.
Chính nhà văn Xô viết V.Raxpuchin đã diễn đạt tình cảm ấy một cách giản dị chân thành: "Nếu tôi viết, ấy là vì tôi cảm thấy đau ở đâu đây trong người với Huygo thì bể khổ của nhân loại là hầm mỏ khai thác không vơi cạn cuả cha ông. Truyện kiều là tiếng khóc đứt ruột. Chí Phèo là tiếng thét phẫn uất đòi quyền làm người... Những tác phẩm chân chính, bất tử với thời gian thường là những tác phẩm diễn tả những xung đột có khi đầy bi kịch giữa cái thật và cái giả, giữa cái thiện và cái ác, giữa bóng tối và ánh sáng, giữa cái cao thượng với cái thấp hèn, ghê tởm... Tuy nhiên "thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung". Đó chính là khả năng nhân đạo mà văn học chân chính có thể mang lại cho con người.
Ở đây có mấy vấn đề cần lưu ý: Sở dĩ nói văn học chân chính chứ không phải văn học nói chung vì trong sự tồn tại của văn học nhân loại quả là những tác phẩm vì con người, nâng cao phẩm giá con người nhưng cũng có thứ văn chương làm hạ thấp phẩm giá con người. Có những tác phẩm là kết quả của thao thức khổ đau, hi sinh, trăn trở nhưng cũng không thiếu thứ văn chương làm thuê, làm công cụ, bồi bút tô son trát phấn cho giai cấp thống trị trong những xã hội đã suy tàn, mục ruỗng
Có thứ văn chương bất tử, sống mãi với muôn đời, có thứ văn chương rẻ tiền sẽ bị quên lẵng với thời gian. Chủ nghĩa nhân đạo, lòng yêu thương tôn trọng con người là thước đo căn bản nhất để đánh giá mọi giá trị văn học chính. "Những người khốn khổ" của Hugo, “ Sống lại" của L.Tolstoi, Thúy Kiều của Nguyễn Du... là những tác phẩm trong đó tác giả còn bộc lộ quan điểm sai lầm về tư tưởng và những giải pháp cải tạo xã hội, nhiều nhân vật cũng đã trải qua bao nhiêu vấp ngã, giằng xé, lầm lẫn... nhưng đó là những tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ sống mãi với thời gian; bởi sức mạnh cảm hóa sâu xa, bởi lòng yêu thương con người mênh mông, sâu thẳm bởi thái độ căm ghét, phẫn uất trước những thế lực xâu xa, tàn ác đã giày xéo chà đạp lên con người.
Đó chính là lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn có khả năng nhân đạo hoa con người, làm cho con người tin hơn ở những điều thiện, ở khả năng vươn tơi điều cao cả, cao thượng, kể cả những con người đã trải qua và chịu đựng nhiều điều ác khủng khiếp do xã hội và có khi do chính mình gây ra.
Mặt khác, nói tới quá trình nhân đạo hóa của văn học không phải chỉ là khả năng gợi lòng trắc ẩn, động tâm, thương cảm đối với những cảnh ngộ bất hạnh đói nghèo diễn ra trong xã hội, dù điều đó cũng là một phương tiện đáng quí. Chức năng nhân đạo hóa còn bộc lộ ở sự tự ý thức vè bản thân, tự nhận diện bản thân trước những điều xấu, tốt, thiện, ác... mà tác phẩm gọi lên. Người ta nói đến sự "thanh lọc" tâm hồn của văn học, hay hình thức "sám hối" của bản thân trước lương tâm của quá trình tiếp nhận tác phẩm là như thế.
Nam Cao không phải chi là để cảm thông với Điền, với Thứ, với Hộ... có một cuộc sống bị "cơm áo ghì sát đất", nó đang có nguy cơ giết chết những ước mơ và những tình cảm nhân ái, cao thượng. Những tác phẩm của Nam Cao như một tâm gương soi để độc giả hôm nay tự nhận diện chính mình, không ngừng vượt lên hoàn cảnh bản thân để sống một cách xứng đáng hơn, toota đep hơn.
Nếu trong tác phẩm "Đời thừa", nhân vật Hộ là một trí thức hoàn toàn tốt tác phẩm có thể không làm ta xúc động đến thế. Sự giằng xé giữa nhân cách cao thượng, hành vi đẹp đẽ, hoài bão to lớn, tấm lòng vị tha của một "chàng trai trẻ vốn say mê lí tưởng" với những bận rộn tẹp nhẹp vô nghĩa lí, với sự hối thúc của đời sống tầm thường hàng ngày, cả những cẩu thả, bất lương trong nghề cầm bút và những hành vi "tàn nhẫn của hắn" đối với Từ - người rất đỗi đáng thương của y và những giằng xé nội tâm không nguôi trong lòng Hộ, lại làm người đọc xót xa thương cảm đến tận đáy lòng. Chính điều đó đã làm nên giá trị nhân văn rất lớn của tác phẩm.
Chính bản thân tác phẩm "Đời thừa" đã tạo được giá trị đích thực mà tác giả của nó hằng mong mói. "Nó chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng… Nó làm cho con người gần người hơn". Những giá trị nhân văn to lớn như thế lại được hình thành từ những mẫu chuyện nhỏ nhặt, vặt vãnh nhưng được viết bằng một ngòi bút chân thực, tài hoa và nhất là bằng một cuộc sống cũng đầy mâu thuẫn, đau xót, trăn trở của chính nhà văn Nam Cao.
Ở đây có vấn đề viết cái gì và viết như thế nào. Không nên đồng nhất nội dung phản ánh và sự phản ánh. Nói cho rõ hơn, ở đây tình cảm, lương tri, thái độ trân trọng đối với giá trị tinh thần của con người đã rọi sáng vào từng cảnh ngộ trong câu văn, làm dậy lên ở người đọc một mối liên tưởng đồng cảm, đau xót. Đó mới là những yếu tố tạo nên sức thuyết phục sâu xa đối với người đọc.
Đọc "Đời thừa" ta có cảm giác như nhà văn đã rọi vào chỗ sâu kín nhất của Quá trinh nhân đạo hóa sẽ hình thành từ sự đồng cảm ấy. Ở "Lão Hạc" không vậy. Tác phẩm gợi lên lòng thương cảm nơi người đọc từ cái chết thê thảm của lão vì lòng thương con và vì tình trạng khốn quẫn của lão. Nhưng giá trị nhân đạo của tác phẩm chủ yếu lại không chỉ nằm ở đây. Tác phẩm là những tình cảm vị tha, cao thượng đầy tự trọng của một lão già nông dân chất phác, hiền lành: biết đâu lão tự tử còn vì lòng tự trọng bị tổn thương, lương tâm cắn rứt vì nỡ lừa dối một con chó! (trong khi còn biết bao con người nhưng mặt người nhưng lòng lang dạ thú "người với người là chó sói"). Phát hiện chỗ sâu xa nhất những nét đẹp lương tri con người, tác phẩm đóng vai rò tích cực trong việc làm cho con người trở nên tốt đẹp, nhân ái hơn.
Chao ôi, nếu ai cũng nghĩ được như thế thì quan hệ giữa con người với con người sẽ tốt đẹp biết bao nhiêu. Những câu văn xót xa mà đẹp đẽ như vượt ra khỏi khuôn khổ của tác phẩm, nó nói về cái tình người muôn thủa nên có, nó có khả năng nhân đạo hóa con người, làm cho con người trở nên cao thượng và nhân ái hơn.
Ở đây nói nhân đạo hóa để nhân mạnh sức cảm hóa mạnh mẽ của nghệ thuật. Con người là sản phẩm của tạo hóa, nó vốn đẹp đẽ "nhân chi sơ tính bản thiện". Nhưng xã hội có thể làm tha hóa con người thì văn chương chính lại có khả năng tác động ngược lại. Tình thương, lòng nhân đạo sẽ cảm hóa, thức tỉnh lương tri vốn luôn ấn chứa trong chiều sâu nội tâm con người có khả năng "nhân đạo hóa" con người. Nói "khả năng" vì không nhất thiết bao giờ cũng có thể đạt được như vậy. Nó còn tuỳ thuộc vào sự tiếp nhận riêng biệt của chủ thể cảm thụ. Nhưng một nhà văn chân chính bao giờ cũng nung nấu, khát vọng tác phẩm của mình sẽ đem lại một giá trị tinh thần nào đó nhằm cứu vãn con người. Ngay cả Truyện Kiều, dù Nguyễn Du có viết:
"Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh"
Thì ta cũng hiểu đó chỉ là một cách nói khiêm nhường. Khi trút lên ngòi bút bao nỗi đớn đau về cuộc đời, đương nhiên nhà văn khao khát những tấm lòng những giọt nước mắt đồng cảm:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?
Mấy thế kỉ trôi qua, Truyện Kiều và những tác phẩm đầy nhân đạo của Nguyễn Du mãi mãi là người bạn tâm tình, là nguồn sức mạnh của biết bao thế hệ độc giả, kể cả những độc giả trẻ tuổi hiện nay:
Dẫu súng đạn nặng lòng ra hỏa tuyến
Đi đường đài, em giữ “Truyện Kiểu" theo.
(Chế Lan Viên – Gửi Kiều cho em Năm đi đánh Mỹ)
Không thể nào có thế nói hết khả năng nhân đạo hóa của văn học đối với con người. Nhưng quả thật, đọc một tác phẩm văn học chân chính, ta có cảm thấy thật hạnh phúc và sung sướng như đang được đối diện, tâm tình trò chuyện với một người bạn thông minh, nhân ái, từng trải, như đang được chia sẻ nỗi buồn, niềm vui, tâm tư, ước vọng; như đang được đón nhận ý chí, niềm nghị lực trong cuộc hành trình đầy thử thách cùa cuộc sống. Biết bao nhiêu tác phẩm văn chương đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ. Nói như Gorki :"sách vở đã chỉ cho tôi chỗ đứng của mình trong đời sống, nói cho tôi biết rằng con người thật là vĩ đại và đẹp đẽ, rằng con người luôn luôn hướng về cái tốt đẹp hơn, rằng con người đã làm nên nhiều thứ trên trái đất và vì thế mà họ đã chịu biết bao đau khổ". Và cũng chính Gorki đã tuyên ngôn: "Con người - cái tên mới đẹp làm sao, mới vinh quang làm sao. Con người phai tôn trọng con người".
Hiểu biết con người, hiểu chính mình, cảm thông chia sẻ với nỗi khổ đau con người, của mình trong đời sống, nói cho tôi biết rằng con người thật là vĩ đại. Và nỗi buổn, niềm vui, tâm tư, ước vọng; như đang được đón nhận ý niềm tin, nghị lực trong cuộc hành trình đầy tà truyện với mọi con người, căm ghét cái giả dối, ti tiện, tàn ác, biết hướng tới cái chân, thiện, mĩ; biết một cách chân thật, nhân ái, cao thượng... đó là những dấu hiệu của quá “nhân đạo hóa" mà văn học chân chính đã và mãi mãi sẽ đem lại cho con người vì hạnh phúc của con người.
Quê hương nếu ai không nhớ. Sẽ không lớn nổi thành người (Đỗ Trung Quân). Hai câu thơ trên gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về tinh cảm quê hương?
Câu trả lời của bạn
Trời chiều, nếu để ý những chú chim, ta sẽ thấy những chùm khế ngọt ngào, đã nối những đường làng khúc khuỷu, đã níu sợi dây diều biếc xanh, chiếc nón mẹ trắng nghiêng che thành một quê hương trong tiềm thức đủ sức lay động những tâm hồn nhạy cảm hay khiến cảm giác bùi ngùi ùa về. Con người là một trong những tâm sinh thể bí ẩn bậc nhất của tự nhiên và của cuộc đời. Đời sống tinh thần phong phú là một trong những điều khẳng định sự phức tạp đó. Con người có mối ràng buộc mật thiết với cuộc sống đang diễn ra xung quanh, với những gì đã từng gắn bó, từ đó tạo nên tính cách, thói quen, bổn phận của mỗi con người. Tôi chợt nhớ mây câu thơ Chế Lan Viên:
Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay...
(Con cò)
Có con cò rập rờn bay trong câu ca của mẹ, có quê hương xanh biếc trong từng lời ru hời thuở bé, mẹ đưa nôi và bé ngủ rất sâu, trong giấc mơ bé lại gặp quê hương của mình... Một ngày kia, bé lớn lên trong vòng tay chở che của và của quê hương ngọt ngào. Không chỉ những yếu tố vật chất, mà cả những yếu tố tinh thần dìu dắt con người trưởng thành. Trong những tình cảm ấy, giống như gia đình cho ta nơi trở về sau hành trình dài, cho ta một nơi luôn là ấm áp, chở che, nếu như bạn bè cùng ta bước đi trong cuộc sống với những : thấu hiểu, sẻ chia, cùng ta san bớt gánh nặng mỗi khi cuộc đời trút xuống hay mỗi khi bạn mình cười thì tình quê hương, tuy khó khăn hơn để cảm nhận nhưng lại là một tình cảm hết sức thiêng liêng và khó thể thay thế.
Có người từng nói về một số nhà thơ trong phong trào Thơ mới: "Nêu như Anh Thơ thạo về cảnh quê, Đoàn Văn Cừ giỏi vế nếp quê, Bàng Bá Lân nghiêng về đời quê thì Nguyễn Bính lại đậm hồn quê". Thì ra, quê hương vừa bao hàm những yếu tố cụ thể là cây đa, bến nước, mái đình, là con đò, làng xóm, bờ tre, gốc rạ... Tức là quê hương vừa có cảnh quê, vừa có hồn quê. Mỗi đều được sinh ra, lớn lên từ những điều kiện vật chất, tinh thần ấy.
Vậy "Quê hương là gì hở mẹ - Mà cô giáo dạy phải yêu"? Mỗi con người được sinh ra từ một vùng quê cụ thể đều có một quê hương. Mỗi người muốn hay không đều thừa hưởng những giá trị vật chất, tình thần của quê mình. Nói dù muốn hay không là bởi lẽ, có những con người vì thiển cận chối bỏ điều không thể chối bỏ - quê hương. Những nét đẹp văn hoá, những thuần phong mĩ tục của quê hương góp phần hình thành nhân cách, lối sống của mỗi người. Chính vì thế mỗi người đều ít nhiều mang dấu ấn của vùng quê nơi mình sinh ra. Nhắc đến Chủ tịch Hổ Chí Minh, không thể không nói đến quê hương xứ Nghệ nơi hội tụ những truyền thống bất khuất đã hun nên phẩm chất người con ưu tú của dân tộc. Với các nhà văn, quê hương và ảnh hưởng lớn đến phong cách sáng tạo của họ, làm nên những dâu ấn rõ trong tác phẩm của mỗi người. Đó là một Xuân Diệu với hồn thơ dạt dào, nồng nàn như sóng biển Quy Nhơn; đó là một Hoàng Cẩm đa tài, đa tình với lá diêu bông mơ ảo của quê hương Kinh Bắc; đó là một Thạch Lam trầm tĩnh, tâm với hoàng lan Hà Nội và đó là một Nam Cao luôn day dứt, ăn năn bên những mành đời đang bị tha hoá, bần cùng hoá vùng chiêm trũng Hà Nam Cách mạng tháng Tám...
Chắc hẳn chừng nào Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm còn được yêu thích thì chừng đó hoàn cảnh ra đời cùa bài thơ còn được nhắc đến. Ấy là khi giả cùa nó đối mặt với một bối cảnh đặc biệt cho phép bộc lộ rõ ràng tình với quê hương. Sự liên tưởng ấy cũng cho phép người đọc nghĩ đến một điều : Ngày nay, chúng ta làm gì để thê hiện tình cảm với quê hương? Ớ đây, muốn nói đêh những hành động cụ thê’ đế góp phần xây dựng, làm giàu quê hương. Bạn có thể làm giàu cho quê hương trên chính mảnh đất mình ra, bạn cũng có thể đang sinh sống, học tập và lao động ở một vùng trời a nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, nếu bạn luôn phấn đấu để làm rạng danh cho quê hương, luôn hướng về quê hương bằng nhũng hành động cụ thể khi ấy bạn hoàn toàn có thể tự hào rằng, bạn chính là một phần máu thịt quê hương rồi đây!
"Anh đi anh nhớ quê nhà - Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương…” Quê hương trong nỗi nhớ của những kẻ xa quê thật sâu sắc, thấm thía, ngọt ngào. Đó có thể là một câu hò, mùi hương lúa chín, một áng mây, một vạt nắng, khi chi là một cảm giác vu vơ mơ hồ nhưng đủ sức gợi và đưa ta đi miền trong kí ức, xuôi ngược giữa quá khứ với hiện tại trong êm đềm. Quê hương góp phần tạo nên những tiền đề đầu tiên để ta vững bước vào đời. Quê hương cùng là điểm tựa tinh thần khi ta gặp những khó khăn, trở ngại trên đường đời. Hạnh phúc biết mấy sau bao tháng ngày rong ruổi nơi đất khách quê người được nghe một giọng nói quê hương. Thi vị biết mấy khi chợt bắt gặp một tà áo dài Việt bay giữa kinh đô Pa-ri hoa lệ. Cảm nhận được những giá trị to lớn của quê hương, sống xứng đáng với quê hương, khi đó, mỗi người sự trưởng thành, trở thành những nhân cách cao đẹp.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, quê hương là một khái niệm rộng. Đó còn là một ngôi làng cụ thể, cũng có thể là một vùng miền rộng lớn hơn, và khi quê hương chính là đất nước, là Tổ quốc. Tình yêu quê hương cũng vì thế mà gắn liền với tình yêu gia đình, yêu giang sơn, yêu đất nuớc: "Lòng nước ban đầu là lòng yêu nhũng vật tầm thường nhất [...]. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc" (I-lia Ê-ren-bua).
Hai tiếng Tổ quốc rung lên trong tim chúng ta thật thiêng liêng và rất tự hào. Tổ quốc chính là đất nước mình được gọi lên một cách trân trọng, thân thương. Những tiếng "Tổ quốc tôi" vang lên trìu mến và gần gũi như "mẹ của tôi" hay "cha của tôi", "quê hương của tôi"... Quê hương vang vọng trong thơ của Đỗ Trung Quân, quê hương nằm trong trái tim mỗi con người.
Suy nghĩ về trí và nhân - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc, người được tôn làm ông tổ đạo Nho - hệ thống lí luận về chính trị, văn hoá, xã hội đã làm chỗ dựa tinh thần của chế độ phong kiến trong hàng nghìn năm. Sau khi nhà Tần "đốt sách đạo Nho", việc tìm hiểu tư tưởng của ông gặp nhiều khó khăn, phần lớn là thông qua những mẩu chuyện, những câu nói của ông mà học trò đã ghi chép lại. Câu chuyện Trí và nhân chúng ta bàn luận dưới đây là một trong những mẩu chuyện như thế. Truyện rất ngắn mà hàm chứa bao triết lí sống của cổ nhân, cho ta thấy rõ nền cựu học của cha ông xưa sâu sắc đên nhường nào.
Trí và nhân là hai khái niệm thuộc ngũ thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) của Nho giáo trong đó trí và nhân được đề cao, coi là thước đo cái đức của người quân tử. Chữ trí chiết tự ra gổm chữ tri (biết) và chữ nhật (ngày), như vậy hiểu nôm na là biết rõ trắng đen phải trái. Còn chữ nhân - phạm trù cao nhất của lí luận đạo đức - nghĩa là lòng thương với muôn loài, vạn vật. Không Tử nói: “Người không có nhân thì lễ để mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (Luận ngữ).
Những khái niệm cơ bản là như thế nhưng đường lối thực hiện hai chữ ấy thì là một vấn đề cần phải suy nghĩ cho thấu đáo. Nó phức tạp đến mức Khổng Tử hỏi: "Thế nào là người trí, thế nào là người nhân?" thì ba học trò giỏi nhất của Ngài đã đưa ra ba câu trả lời khác nhau. Từ Lộ, Tử Công, Nhan Hồi những người cùng thời, đều là học trò của Khổng Tử vậy mà lại quan niệm cùng một vấn để rất khác nhau, điều này cho thấy sự khác biệt trong nhận thức và thiên hướng tính cách của mỗi người. Sau đây chúng ta sẽ cùng bàn về quan niệm của từng người.
Trước tiên là câu trả lời của thầy Tử Lộ: "Người trí là người làm cho người ta biết đến mình, người nhân là người làm người ta yêu mình".
Có thế nói chữ trí của Tử Lộ được xây dựng trên cơ sở vốn kiến thức sâu của một người tài giỏi mong muốn được công nhận, được người đời biết đến. Nghĩa là nó nặng về mặt trí tuệ, học vấn - một thứ trí tuệ phải thật xuất chúng, nổi bật. Cũng như một bông hoa đẹp có thể thu hút bướm ong cả trăm dặm, cho đến khi cánh tàn nhụy rữa hương thơm vẫn còn đọng lại trong mật vàng, người có trí tuệ mẫn tiếp sẽ được muôn người biết đến, tiếng vang cả nghìn dặm, đến khi khuất núi, sử sách vẫn còn lưu tên. Qua đây có thì quan niệm của thầy Tử Lộ thâm nhuần thuyết chính danh của Nho gia. Nghĩa là trang nam tử phải chính danh, thành danh, nhưng không dừng lại ở đó phải hiến danh, thậm chí lưu danh thiên cổ. Thế nên Tử Lộ xứng với lời khen của thầy: "Ngươi nói như vậy chứng tỏ là người có học vấn".
Quan niệm về chữ nhân cũng thống nhất với cách quan niệm về chữ trí của Tử Lộ đã lấy bản thân mình làm trung tâm cho các mối quan hệ xã hội: "làm thế nào để người ta yêu mình". Nghe qua thì thấy suy nghĩ này có vẻ ích kỉ, giống như quan niệm của một người vô cùng khéo léo trong ứng xử nhưng không thật tâm. Nhưng xét cho cùng thì đây là một suy nghĩ đúng và không dễ thực hiện. Trong cuộc sống, ta phải tiếp xúc với biết bao người, tốt có, xấu có, không làm mất lòng ai đã là khó, có thể hướng thiện cho người ta lại càng khó. Chỉ có bậc thánh nhân mới có thể làm được bởi lẽ để người ta yêu thật lòng tận tâm, tận lực với mình thì mình cũng phải chân thật xứng với lòng yêu quý người, có thế thì tình của đôi bên mới bền lâu. Quan niệm này chứng tỏ Tử Lộ là người "vụ ngoại". Thực tế cuộc đời ông đã minh chứng cho quan điểm ông là người nổi tiêng về chính sự, từng làm quan to, giàu có và được nhiều người yêu mến, kính nể.
So với Tử Lộ, ý kiến của Tử Cống sâu xa hơn một bậc. Khi được hỏi Tử Cống đáp: "Người trí là người biết người; người nhân là người yêu người”
Về trí, Từ Lộ và Tử Cống gặp nhau ở chỗ đều cho rằng gốc của trí là trí tuệ, nghĩa là khả năng phân biệt thiện - ác, đúng - sai. Nhìn người, hiểu người vốn là cái sự rất khó ở đời, nhất là khi thật giả trắng đen lẫn lộn. Phải là người trải nghiệm nhiều, có con mắt tinh đời mới có thể nhìn ra cái ranh giới mong manh ấy. Làm được điều ấy thực đã tài giỏi lắm thay! Không ai có thể phủ nhận Gia Cát Lượng là một bậc tài trí hiếm có không chỉ bởi tài năng quân sự xuất chúng mà còn bởi khả năng nhìn thấu gan ruột người khác. Chẳng phải ông đã mắng đúng và trúng đến nỗi Chu Du uất ức hổ thẹn mà phải tự vẫn đó sao? Trong quân sự, "biết người" là điều quan trọng, không thể thiếu. Truyện xưa kể rằng: Vua Trang Vương nước Kinh muốn đánh Trần mới cử người đi thăm dò, khảo sát Người ấy về tâu: Không nên đánh vì nước Trấn "thành cao, hào sâu, kho tàng nhiều" chỉ riêng Ninh Quốc là khuyên đánh vì cái lẽ: nước Trần nhỏ mà được như vậy chắc là thuế má, lao dịch nặng nề, như thế thì dân kiệt sức, oán hận. Quả nhiên sau đó nước Kinh đã lấy được Trần. Thế nên bậc tài trí khác người thường ở chỗ không chỉ thấy bề nổi mà còn rõ cái sâu xa, gốc rễ của vấn đề. Còn trong quan hệ xã hội, "biết người" là một ưu điểm, lợi thế lớn giúp ta sống hoà thuận, hạnh phúc. Xin trích dẫn lời của Quản Trọng khóc bạn là Bão Thúc mất là đủ rõ: "Sinh ta ra là cha mẹ, biết ta là Bão Thúc. Mà đối với người biết mình, mình đem cả tính mệnh ra hiến còn chưa cho là quá, huông chi đang khóc thế này đã thấm vào đâu". Chao ôi! Các tình tri kỉ ở đời thật không gì sánh được!
Quan niệm chữ nhân của Tử Cống có vẻ sâu sắc hơn vì chữ nhân ấy vì người nhiều hơn vì mình. Người ta có thế dễ dàng yêu cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái... chứ thường khó mở lòng với những người xa lạ. Người thương yêu tất thảy chúng sinh, đau nỗi đau của thiên hạ, người quảng đại, nhân ái như vậy thực không nhiều. Giống như quy luật tiếng vang, cho đi cái gì sẽ nhận lại cái đó, nếu ta thương yêu người thực lòng, người cũng sẽ thương yêu ta. Khổng Từ nói: "Người nhân không sợ". Trong trường hợp này thực đúng như thế. Niềm vui lớn nhất của đời người gắn với hai chữ yêu thương. Biết yêu và được yêu, đó là điều kì diệu của cuộc sống, có thể xoa dịu nỗi đau và chỉ cho ta vẻ đẹp của cuộc đời. Sống như vậy thiết nghĩ không phải lo lắng, âu sầu gì cả. Nghĩ được như thế này, thầy Tử Cống ắt hăn là người nhân ái, độ lượng, có thể quên mình vì người. Câu nói của Anh-xtanh sau này có thế coi là sự tiếp nối tư tưởng của Tử Cống: "Một cuộc sống vì một cuộc sống khác mới là cuộc sống xứng đáng".
Điểm chung trong quan niệm của Tử Lộ và Tử Cống là đặt trí và nhân trong môi quan hệ giữa mình và người khác. Khổng Tử khen hai người là có học vấn. Từ "khen" thường dùng theo nghĩa người trên nói với người dưới, nó hàm chứa sự khích lệ nhưng dường như Khổng Tử vẫn còn có điều gì chưa thật sự hài lòng, vừa ý với hai học trò của mình, bởi vì nếu bằng lòng rồi thì Ngài sẽ không hỏi ngưòi khác nữa. Nhưng khi đánh giá Nhan Hồi, Ngài lại "nói" chứ không phải "khen" với một thái độ công nhận nghiêm túc: "Người nói như vậy mới đáng gọi là bậc sĩ quân tử". Khoảng cách giữa hai người đối thoại đã được rút ngắn. Qua đây, Khổng Tử cũng biểu lộ sự đồng ý, tán thành với Nhan Hồi. Đó là vì Nhan Hồi đã tới được tận gốc của vấn đề. Nêu tư tưởng của Tử Lộ hiện ra như lá cành xanh tốt, tư tưởng của Tử Cống là rễ nuôi cây, Nhan Hồi đích thực là mầm sống đầu tiên của cái cây đó.
Câu trả lời của thầy Nhan Hồi - một người nổi tiếng về đức hạnh, rất đáng để ta ghi nhớ: "Người trí là người tự biết mình, người nhân là người yêu mình".
Chữ trí này được xét trong mối quan hệ giữa mình với bản thân mình chiếu hướng tiếp cận này gây cho ta ít nhiều bất ngờ. "Biết mình" - đó là cái ít nghĩ đến nhất, nhưng cũng gần gũi nhất. Người ta hay tự cho rằng đã hiểu mình rõ lắm rồi, nhưng thực tế lại rất hay mâu thuẫn với mình, không rõ mình thực sự là ai, mình như thế nào, mình muốn gì,... Mà không biết mình thì tai hại biết chừng nào! Như Đông Thi bắt chước Tây Thi nhăn mặt mà khiến cho người ta sợ hãi, như vậy phẳng phải là tự hại mình hay sao? "Biết mình" còn khó hơn "biết ngưòi", phải trải qua quá trình luyện rèn mới làm được. Phàm khi tâm trí mình đã đinh ninh thế nào thì cảnh sắc bên ngoài lại hiện lên thec chiếu hướng đó. Cái tôi cá nhân thường che lấp mất sự minh mẫn của trí óc mà ta lại hay lấy mình ra làm thước đo cuộc sống xung quanh. Nếu nhận thấy không đầy đủ, tâm mình không trong sáng thì thế giới bên ngoài ắt sẽ bị bóp méo theo cái nhìn lệch lạc ấy. Khó ở chỗ người ta thường hay ảo tưởng về mình. Nếu tự đánh giá thấp bản thân thì thành tự ti mà nêu đánh giá cao thì lạ thành kiêu ngạo. Con người chuẩn mực thì phải tự tin, có chí cầu tiến gặp người giỏi hơn thì không ghen ghét, gặp người kém hơn thì không khinh ngạo Một khía cạnh khác của việc "biết mình", đó là biết rõ ưu khuyết điểm của mình đế ngày càng hoàn thiện hơn như Tuân Tử nói: "Thấy người hay thì phai cố mà bắt chước. Thấy người dở thì phải tự xem xét mình có dở như thế không để mà sửa đổi". Nêu làm được những điều ấy chắc chắn phải là người biết quy trọng phẩm giá của mình, không ai có thể khinh lờn được. "Biết mình" thì ắt "biết người" bởi vì những bản tính của con người chẳng phải đều có trong ta hay sao? Những người "biết mình" mới tu tỉnh được tâm thân, cải quá thiên nhiên mà nên người với những phẩm chất như thế, "Hữu xạ tự nhiên hương", chắc chắn sẽ được người ta biết đến, yêu mến, nể phục.Ouan niệm của Tử Cống về chữ nhân tuy sâu sắc hơn Tử Lộ nhưng vẫn chưa đạt đến sự uyên thâm như Nhan Hồi. Nhan Hồi học cách yêu thương mình trước khi yêu thương vạn vật, đây không phải là sự vị kỉ hẹp hòi như có người từng đánh giá bởi bốn lí do. Thứ nhất, bản thân mình là đáng quý nhất, trung thành, không bao giờ phản bội. Sách Hàn thi ngoại truyện có ghi câu chuyện vị quan Công Nghi Hưu vốn thích ăn cá nhưng lại không nhận cá biếu. Ông đã giải thích một cách dí dỏm: nếu bây giờ tôi nhận cá sẽ tiếng thanh liêm trong dân, quan trên không tin dùng, có thế bị giáng chức lúc ấy thì chẳng có tiền để mua cá nữa. Chao ôi! Người ta chiều mình vì muốn nhờ cậy mình thì chỉ được một thời, sao bằng chính mình trọng lấy mình là kế lâu dài mãi mãi. Thứ hai, yêu mình thì mới biết yêu người. Nếu ta biết sức khoẻ cùa mình là quan trọng thì tất sẽ không làm hại đến sức khoẻ của khác. Đó là cách yêu người nhân đạo nhất. Thứ ba là: yêu mình là một yêu người. Nếu con người còn không biết quý trọng bản thân mình, phung phí thời gian, sức khoẻ, tuy không phương hại trực tiếp đến cha mẹ nhưng làm mẹ cha lo lắng, ưu phiền, vậy có thể coi là người yêu kính cha mẹ không? Đối với những người yêu ta, chỉ cần họ sống vui vẻ thì ta cũng vui vẻ, họ thất bại ta cũng thầy đau buồn, vì thế phải biết quý bản thân mình. Làm vui, yên lòng những người thân yêu. Cuối cùng, tự yêu mình, tự biết sẽ làm người ta thanh thản không lo âu vì biết hài lòng với những gì đang có, không phải miệt mài tìm kiếm hạnh phúc ở một nơi xa vời để cùng mãi không được hạnh phúc. Tóm lại, đây là một quan điểm vượt ra ngoài khuôn khổ sách vở, ý tứ sâu xa đáng để người đời học tập. Thầy Nhan không những tinh thông sách vở mà còn là người rất đạo đức, thật xứng là bậc "sĩ quân tử" như Không Tử ngợi khen.
Trong thòi đại ngày nay, khi nền cựu học đã lùi xa vào quá khứ, cuộc sống hiện đại hối hả cuốn chúng ta đi, đôi khi dừng lại đọc và suy ngẫm câu chuyện này vào một buổi chiều yên tĩnh, bỗng dưng thấy mình sâu sắc hơn thật nhiều, nhận ra mình còn quá vô tình với bản thân, với mọi người. Rõ ràng những tinh hoa triết lí như vậy không hề bị mai một với thời gian. Câu hỏi của đức Khổng Tử đến nay vẫn chờ đợi câu trả lời của tất cả những ai có khát khao tự hoàn thiện mình.
Suy nghĩ của anh (chị) về việc giữ gìn bản sắc văn hoá qua truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải.
Câu trả lời của bạn
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dầu không thanh lịch cũng người Tràng An
(Ca dao)
Vâng, câu ca dao ấy đã khái quát những nét thanh lịch của con người mảnh đất ngàn năm văn hiến. Có lẽ, chính những nét đẹp đó đã để lại trong lòng mỗi người con của mảnh đất này thật nhiều hoài niệm. Là nhà văn sinh ra ở đất kinh kì, Nguyễn Khải đã thể hiện sự tinh tế nhạy cảm của mình trước những nét văn hoá rất riêng của Hà Nội qua truyện ngắn "Một người Hà Nội được rút từ tập “Hà Nội trong mắt tôi". Tác phẩm không chỉ thể hiện sự nâng niu, trân trọng những vẻ đẹp vãn hoá của miền đất này, không chỉ là sự xót xa cho sự mai một của những giá trị văn hoá, mà quan trọng hơn là cả tác phẩm đã để lại cho mỗi chúng ta thật nhiều suy ngẫm về việc giữ gìn bản sắc văn hoá trong cuộc sống hôm nay.
Có thể nói, “Một người Hà Nội" là một truyện ngắn thành công của Nguyễn Khải. Tác phẩm xoay quanh nhân vật chính là bà Hiền trong mối quan hệ với sự biến đối của thời cuộc. Những nét đẹp tính tuý nhất của người Tràng An dường như đã được hội tụ ở nhân vật này. Một trong những nét đặc sắc của tác phẩm là ở chỗ tác giả không đi sâu vào những sự kiện lớn, ngược lại ông dùng ngòi bút của mình vào những điều hết sức bình thường, giản dị hằng ngày của cuộc sống nhưng qua đó vẫn làm nổi bật được những nét tính cách độc đáo của nhân vật. Những nét đẹp trong suy nghĩ của bà Hiền được thể hiện trước tiên qua cái cách mà bà chọn chồng là một ông giáo tiểu học hết sức bình thường "khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc", cái quyết định dừng sinh con ở tuổi bốn mươi, trái hoàn toàn với quan niệm "Trời sinh voi, trời sinh cỏ" của xã hội ta lúc bây giờ,... Là một người phụ nữ nhưng bà luôn chủ động, tự tin việc quản lí gia đình bởi bà ý thức rất rõ vai trò quan trọng của một người vợ, người mẹ: "người đàn bà mà không là nội tướng thì cái gia đình ấy chả ra sao". Không những thế, là một người mẹ, bà uốn nắn con từ cái nhỏ nhất như ngồi ăn, chuyện cầm bát, cầm đũa, múc canh,... Rồi khi hai đứa con trai lần lượt xin ra chiến trường, người mẹ ấy "cũng đau đớn mà bằng lòng" vì không muốn con sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Ở bà người ta vẫn thấy sáng lên một niềm tin mãnh liệt vào vẻ đẹp trường tồn vĩnh cửu của Hà Nội: "Mỗi thế hệ đều có một thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mỗi lứa tuổi". Có thể nói cái cốt cách của Hà Nội còn được thể hiện rất rõ trong cách ứng xử nhân vật này. Đó là sự linh hoạt đầy bản lĩnh trước những đổi thay của cuộc sống, trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn luôn dám sống là mình, thẳng thắn, chân thành, giàu lòng tự trọng nhưng cũng hết sức khéo léo, thông minh. Con người ấy vẫn luôn giữ gìn những nét đặc trưng trong lối sông của người Hà Nội lộ cái quý phái, sang trọng, lịch lãm của ngưòi Hà Thành từ cách ăn mặc bài trí nhà cửa, từ cái cảm nhận hết sức tinh tế "trời rét, mưa rây lả lướt dù đủ làm ẩm áo chứ không làm ướt" đến cái cách lau chùi bát hoa thuỳ rong ngày giáp Tết một cách hết sức tỉ mi,... đã cho thấy nét đẹp văn hoá trường tồn vĩnh cửu ở một người Hà Nội hết sức bình dị nơi mảnh đất văn hiến này. Trong nhân vật bà Hiền vừa có một Hà Nội trí tuệ, hiện đại, thức thời lại vừa tồn tại một Hà Nội đài các kiêu sa, cổ kính, với chiều sâu văn hoá. Dù đã có tuổi, bà Hiền vẫn là "hạt bụi vàng của Hà Nội".
Thế nhưng câu chuyện của Nguyễn Khải đâu chỉ dành cho con người của Hà Nội mà còn hướng đến tất cả những người Việt Nam nói chung để gửi đến thông điệp về ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá của dân tộc. Văn hoá có thể một cách đơn giản là tất cr những giá trị, những nét đẹp về vật chất và tinh thần của xã hội, chừng nào con người còn tổn tại thi văn hoá cũng sẽ vẫn còn. Dù ở bất kì thời đại nào thì văn hoá cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Bản sắc văn hoá là những đặc điểm riêng của mỗi dân tộc, góp phần không vào việc hình thành nên một quốc gia độc lập. Và có lẽ cũng không phải vô cớ mà Nguyễn Trãi khi xưa đã nhắc đến truyền thống văn hoá của dân tộc ngay sau khi tư tưởng nhân nghĩa ở phần mở đầu của "áng thiên cổ hùng văn Đại cáo bình Ngô:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt tnrớc lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Mỗi dân tộc cần phải có một nền văn hoá riêng cũng giông như mỗi ca nhân trong cuộc đời phải có cá tính riêng để làm nên cái "tôi" của chính mình phân biệt mình với người khác. Một đất nước làm sao có thể tồn tại bền vững khi mà nhắc đến nó, người ta chăng có cớ gì để nhớ, chẳng có gì để nói Văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nên truyền thông của một dân tộc. Những giá trị văn hoá phi vật thể cũng phần nào phản ánh tâm tư, tình cảm, suy nghĩ, tâm hồn con người. Văn hoá Việt giản dị nhung có chiều sâu và có bản sắc riêng, con người Việt Nam bình dị, hết sức tinh tế nhưng cũng vô cùng anh dũng, kiên cường. Chính truyền thống văn hoá tạo nên cội nguồn, gốc rễ cho dân tộc, từ đó hình thành nên ở con người Việt Nam lòng tự hào, tự tôn dân tộc, một niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Tôi chợt nghĩ đến hình ảnh cây si ở đền Ngọc Sơn mà Nguyễn Khải đã từng nhắc đến trong "Một người Hà Nội". Gió bão có thể thế làm nghiêng cả tán, bật cả rễ nhưng qua bao phong ba bão táp, bao biến cố thăng trầm của lịch sử, nó lại hồi sinh, trổ lộc non. Văn hoá góp phần làm nên cái "vàng son" cho quá khứ, còn quá khứ góp phần hun đúc nên những phẩm chất tốt đẹp của con người bởi văn hoá thường hướng con người ta đến những giá trị đẹp đẽ của cuộc sống, hướng con người ta đến cái chân, thiện, mĩ, làm cho con người sống tốt hơn. Bên cạnh đó, những công trình kiến trúc, những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử,... không chỉ cho thấy những nét văn hoá rất riêng của đất nước Việt Nam mà còn đóng góp không nhỏ vào việc quảng bá hình ảnh của Việt Nam đến bạn bè thế giới. Chưa kể đến doanh thu không nhỏ cho ngành dịch vụ từ du lịch nội địa và quốc tế từ việc quảng bá hình ảnh đó, vị thế của Việt Nam chắc chắn sẽ được cải thiện, được nâng cao trên trường quốc tế, rất nhiều cơ hội mở ra cho việc giao lưu cả về mặt kinh tế, chính trị phục vụ cho sự phát triển của đất nước, vì thế nếu chúng ta không có ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá của chính dân tộc mình thì tự chúng ta sẽ làm mất đi vị thế riêng của mình, sẽ bị hoà tan trong những nền văn hoá khác trên thế giới. Có những thứ khi đã mất đi ta vẫn có thể lầy lại được nhưng có những điều nêu không níu giữ thì nó sẽ tuột khỏi tay ta mãi mãi.
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, có rất nhiều thuận lợi khi chúng ta mở cửa, giao lưu với các nước trên thế giới, mở ra nhiều cơ hội để quáng bá cho văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế nhưng nếu như chúng ta không có ý thức giữ bản sắc văn hoá dân tộc thì sẽ làm mất dần đi những giá trị văn hoá độc đáo. Làm sao để hoà nhập mà không hoà tan là một vấn để không đơn giản không phải là không thể làm được nếu như mỗi người chúng ta đều có ý thức giữ gìn những nét đẹp văn hoá của dân tộc mình, đặc biệt là thế hệ trẻ nay. Mỗi người hãy tự trau dồi cho mình vốn hiểu biết về văn hoá dân tộc làm sao để bạn bè quốc tế hiểu và yêu thích văn hóa của đất nước chúng ta cũng là một cách để giữ gìn bản sắc văn hoá bởi ai đó đã từng nói rằng: cho đi cũng là cái còn lại mãi mãi". Việc giữ gìn truyền thông văn hoá phải bắt đầu từ việc giữ gìn truyền thống của mỗi gia đình, mỗi địa phương, vùng miền cụ thể. Và mỗi nét đặc sắc trong văn hoá của hơn năm mươi dân tộc sẽ làm nên một nền văn hoá Việt Nam đa dạng, đậm đà bản sắc. Mỗi người dân phải tự có ý thức bảo vệ những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của vùng miền mình, của đất nước mình. Nhà nước cần có những biện pháp thích đáng đối với những hành vi gây tác động xấu đến văn hoá, song song với những chính sách hợp lí để trùng tu, bảo tổn những di tích, danh lam và giữ gìn những giá trị văn hoá phi vật thể. Có thể nói, việc giữ gìn những giá trị văn hoá không phải là trách nhiệm của riêng ai mà cần có sự tham gia của tất cả mọi người, không phải bằng khẩu hiệu, bằng lời nói mà những việc làm hết sức cụ thể.
Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể giữ gìn được những giá trị văn hóa của mình bởi lẽ cuộc sống cũng có những biến cố (chiến tranh, thiên tai,...) có thể làm cho những công trình văn hoá bị xuống cấp nghiêm trọng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang hằng ngày cố gắng tìm mọi cách để có thể giữ gìn được phố cổ Hà Nội, chùa Một Cột,... Việt Nam vinh dự được UNESCO công nhận một số công trình văn hoá vật thể và phi vật thể là di sản văn hoá thế giới chứng tỏ sự cố gắng, nỗ lực không ngừng của chúng ta trong việc phát huy những giá trị văn hoá dân tộc. Cuộc sống hiện đại hối hả hơn, con ngươi ta bận rộn hơn, điểu kiện giao lưu quốc tế mở rộng hơn bao giờ hết nhưng sâu thẳm trong mỗi chúng ta là một tâm hồn Việt, một cốt cách Việt.Tuy nhiên, giữ gìn bản sắc văn hoá không có nghĩa là không có sự giao lưu, học hỏi. Mỗi nên văn hoá đều có những thế mạnh riêng của nó. Tiếp thu một cách hợp lí có chọn lọc sẽ là điều kiện để làm giàu có thêm vốn văn hoá của dân tộc. Ngoài ra, cũng chính từ sự giao lưu ấy mà ta có thế biết được điểm mạnh điểm yêu trong nền văn hoá của mình, từ đó có thể phát huy những điểm mạnh đồng thời học hỏi những kinh nghiệm để có thê khắc phục những chỗ còn khiếm khuyết.
Có thể nói giữ gìn bản sắc văn hoá không chỉ có ý nghĩa với cộng đồng dân nhân loại mà còn rất ý nghĩa đối với mỗi con người vì những giá trị văn hóa được thể hiện trong nếp sống, nếp nghĩ hằng ngày của mỗi con người.
Cảm ơn Nguyễn Khải với "Một người Hà Nội" bởi lẽ, với truyện ngắn ta nhận ra rằng văn hoá là một nét đẹp của cuộc sống và dù có những đổi thay thì "nếp sống tốt đẹp của cha ông vẫn lặng lẽ chảy trong cuộc sống ồ ạt hôm nay".
Đọc Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh, anh (chị) suy nghĩ gì về nghị lực của con người - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Ở Bác, ta thấy có sự hội tụ nhiều phẩm chất tiêu biểu của con người trong thời đại. Vừa rất truyền thống lại rất hiện đại. Vừa rất phương Đông nhưng cũng rất mới. Một trong những phẩm chất tiêu biểu là ý chí, nghị lực phi thường trong cuộc sống
Giới thiệu sơ lược về hoàn cảnh thời đại Bác sinh ra và lớn lên, ý chí cứu nước ở Bác.
Đất nước bị đô hộ, lầm than dưới thời thực dân, nhiều nhà yêu nước, phong trào yêu nước xuất hiện, nhưng chưa thành công.
Những khó khăn, thử thách mà Người phải trải qua và ý chí, nghị lực đã bằng mọi gian khổ để đạt được lí tưởng cứu nước.
Nhật ký trong tù - bức chân dung tinh thần tự họa, một quan niệm về nghị lực của con người.
Hoàn cảnh ra đời tập thơ: Những năm 1942 - 1943, khi Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam tại Quảng Châu (Trung Quốc), thời kì chịu nhiều cực khổ, đày đọa nhất.
Ý chí, nghị lực của Người thể hiện trong một số bài thơ tiêu biểu:
Bản thân việc Người làm thơ trong hoàn cảnh tù đày khắc nghiệt đã thể một bản lĩnh phi thường, hơn nữa lại không phải là làm thơ ca đơn thuần mà nhằm mục đích chính trị: tự động viên mình "đợi đến ngày tự do" khai quyển).
Chế độ nhà tù có thể giam cầm được thân xác của Bác, còn tinh thần của vẫn “ ở ngoài lao", vẫn tự do (bốn câu đề từ): có thể làm cho ngoại hình Bác thay đổi nhưng ý chí của Bác thì không hề suy chuyển (Bốn tháng rồi).
Người coi khó khăn là môi trường để rèn luyện ý chí, tinh thần của mình khuyên mình, Nghe tiếng giã gạo; lấy tiếng cười để đánh bật đi mọi đau thương…
Dù trong những hoàn cảnh đầy ải khắc nghiệt nhất vẫn luôn hướng đến bình minh và mặt trời hồng, hướng tới tương lai bằng một tinh thần lạc quan cách mạng và một ý chí, nghị lực phi thương (Giải đi sớm).
Liên hệ đến việc vận dụng và học tập tấm gương ý chí, nghị lực của Hồ Chí Minh vào đời sống của giới trẻ hiện nay và của bản thân anh (chị):
Có thể trích dẫn những câu thơ, câu văn nổi tiếng nói về ảnh hưởng của Bác đối với mỗi chúng ta, từ đó định hướng hành động theo gương Bác Hồ vĩ đại.
Bày tỏ quan niệm của mình về vấn đề mà tác giá Thần Nhân Trung nêu trong Bài kí để danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại thứ ba - 1442: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và ngày càng lớn, nguyên khí suy thì nước yếu và ngày càng xuống thấp".
Câu trả lời của bạn
Thế hệ ngày nay, chắc nhiều người biết Thân Nhân Trung viết bài văn cho tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu, ông ghi nhận về trí thức "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nưóc mạnh và ngày càng lớn, nguyên khí suy thì nước yếu và ngày càng xuống thấp." Đây là tư tưởng quan trọng nhất về văn hoá, giáo dục của Thân Nhân Trung đuợc trình bày tập trung, rõ ràng trong bài ký đề tên bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3(1442). Còn chính là khát vọng của cả dân tộc. Tư tưởng trên, trước hết khẳng định tầm quan trọng của hiền tài đối với quốc gia, là việc đem lại hưng thịnh cho đất nước.
Trong bài kí, Thân Nhân Trung không nói nhân tài mà nói "hiền tài", Hiền tài theo quan niệm người xưa, cũng như của tác giả là người có cả tài năng không những học rộng hiểu nhiều, có đủ tài giúp vua trị nước, đem lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân; có cả đức hạnh, là người gương mẫu về đạo đức, suốt đời chăm lo tu dưỡng phẩm hạnh cho bản thân, đem hết tài năng và đức hạnh phục vụ cho đất nước. Đó là người “lấy trung nghĩa mà rèn cho danh thực hợp nhau, thực hành điều sở học, làm nên sự nghiệp vĩ đại sáng ngời, khiến cho mọi người đời sau kính trọng thành danh, mến mộ khí tiết...”. Về khái niệm “nguyên khí", trong kho tàng thư tịch cổ Trung Hoa đã có nhiều sách đề cập. Sách “Bạch hổ Thông" viết: “Địa giả, nguyên khí sơ sinh, vạn vật chi tổ" (Đất là nơi sản sinh ra nguyên khí, tổ của muôn loài), xem nguyên khí là khí đại hoá lớn lao. Còn sách "Đường thư" viết: Liễu Công Độ thiệp nhiếp sinh. Thường viết: “ Ngô sở vô thuật, bất dĩ nguyên khí tả hi nộ nhĩ" (Liễu Công Độ giỏi việc dưỡng sinh. Ông thường nói: Ta vốn không có thuật gì, chẳng qua biết dựa vào tinh khí mà điều hoà sự yêu ghét, mừng, giận mà thôi), xem nguyên khí là để chi tính khi con người ta. Thần Nhân Trung đã mượn nghĩa từ sách Đường thư: nguyên khí chính là tình khí và vận dụng một cách sáng tạo.
Có thể nói, trong lịch sử văn hoá, giáo dục trước đời Lê Thánh Tông, chưa có ai đặt vấn đề như ông. Người ta không ai là không biết mốì quan hệ giữa hiền tài và sự thịnh suy của một triều đại, một quốc gia. Nhưng còn coi người “hiền tài là nguyên khí quốc gia" thì phải ghi nhận bắt đầu từ Thân Nhân Trung một câu tổng kết chính xác cho cả một đường lối chiến lược về văn hoá, giáo dục của bất cứ một thời đại nào, một chính thể nào.
Tư tưởng ấy, một lẩn nữa được nhắc lại trong bài kí để tên bia Tiến sĩ khoa Đính Mùi, niên hiệu Hồng Đức 18 (1487): "Nếu không có người tài đông đảo thì làm sao có được sự thịnh trị thanh bình" và "muốn có nền giáo hoá, đất nước thịnh trị đó là cái gốc của nó là phải có hiền tài".
Quan niệm "Hiền tài là nguyên khí quốc gia" do Thân Nhân Trung đưa được ra các vương triều phong kiến Việt Nam từ triều vua Lê Thánh Tông trở đi coi như một tư tưởng quan trọng trong quốc sách văn hoá, giáo dục.
“Nhân tài thịnh, chính trị lên cao, vận nước nhà rực rỡ vô cùng, càng sâu xa càng lâu dài, mà càng sáng sủa lớn lao thêm” (Bia số 4, khoa Bính Tuất, niên hiệu Quang thuận 7, 1467).
“Quốc gia có người tài cũng như thân thể con người có nguyên khí. Nguyên khí cường thịnh thì con người được hưởng thọ lâu dài, người tài đông đảo thì quốc gia được thái bình vững chãi “(Bia số 29, khoa Bính Thìn, niên hiệu Hoằng Định 20, 1616).
Quan niệm như thế là khẳng định hiền tài định đoạt vận mệnh đất nước, dân tộc. Tư tưởng này dẫn đến sự cầu hiền. Đồng thời nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong việc "chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo hiền tài bồi đắp thêm nguyên khí".
Có thể nói, ở Việt Nam thời phong kiến, chưa bao giờ nền giáo dục, thi cử lại thịnh đạt cũng như vai trò người trí thức lại được đề cao, đãi ngộ như đời Lê Thánh Tông. Chính vì thế, trong gần 40 năm làm vua, Lê Thánh Tông đã đưa nhà Lê phát triển tới đỉnh cao về mọi mặt đạt tới vinh quang trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hồi thế kỷ XV. Sử gia Ngô Sĩ Liên khen Lê Thánh Tông là vua “anh hùng, tài lược”.Vai trò của nhà nước, người đứng đầu chế độ phong kiên là nhà vua. Muốn bồi dưỡng được hiền tài, theo Thân Nhân Trung người trên (nhà vua) phải biết chăm lo cho dân, lo việc nước khiến cho nước mạnh dân giàu. "Hiền tài phồn thịnh có quan hệ đến khí hóa của trời đất và cốt ở cái gốc giáo hoá của thánh nhân". Nói sự giáo hoá của thánh nhân là nói về sự quan tâm đặc biệt của nhà vua đối với việc giáo dưỡng tuyển chọn và đãi ngộ nhân tài. Thời đại của Thân Nhân Trung sống, Lê Thánh Tông là một minh quân có tầm nhìn chính trị, có trình độ văn hoá, có tinh thần yêu nước thương dân, chú trọng đến đào tạo và sử dụng hiền tài trong xây dựng đất nước đưa quốc gia Đại Việt trở thành thịnh trị. Việc đào tạo người hiền tài, sử dụng người tài của vua Lê Thánh Tông được phản ánh rõ nét ở 12 khoa thi Tiến sĩ lấy đỗ 502 người, trong đó có 10 người đỗ đệ nhất giáp, đệ nhất danh, và huy động các hiền tài tham gia công cuộc chấn hưng mạnh mẽ nước nhà. Nhà vua còn cho dựng bia khắc tên những người thi đỗ và đặt ở Quốc Tử Giám.
Tiếp thu tinh hoa văn hoá truyền thống dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhà văn hoá, giáo dục lớn, Người suốt đời chăm lo cho độc lập của đất nước, hạnh phúc của nhân dân, “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Cho nên, đất nước vừa giành độc lập, Người đặt giáo dục là một trong nhiệm vụ hàng đầu để chấn hưng đất nước. Người chỉ ra rằng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người kêu gọi mọi người Việt Nam có quyền lợi và bổn phận học kiến thức mới để xây dựng nước nhà; nhất là các cháu thiếu niên phải ra sức học tập để cho non sông Việt Nam, dân tộc Việt Nam được vẻ vang sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Bên cạnh việc chăm lo giáo dục đào tạo Người còn sử dụng chính sách chiêu hiền tài. Người đưa vào chính phủ lâm thời, các bộ, một số trí thức là những bậc nhân sĩ yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, các luật sư, bác sĩ, kỹ sư Tây học như Phan Anh, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Minh Giám, Tôn Thất Tùng…Vận động một số trí thức yêu nước đang nghiên cứu, làm việc ở Châu Âu như Trần Đại Nghĩa, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Thọ, Đặng Văn Ngữ…về nước tham gia kháng chiến. Rồi các văn nghệ sĩ nổi tiếng thời ấy cũng đứng vào hàng ngũ dưới lá cờ của Bác như Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Đình Thi…Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đội ngũ trí thức ấy đã đóng góp xứng đáng vào thắng lợi của dân tộc. Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc đào tạo và sử dụng hiền tài. Người đặt nhiệm vụ phải đào tạo con người Việt Nam mới vừa hồng vừa chuyên (có đủ đức tài) đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người coi văn hoá giáo dục là một mặt trận quan trọng của sự nghiệp cách mạng trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể và có tác dụng to lớn đối với sự phát triển của một đất nước, một dân tộc. Trên tinh thần ấy, từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn khẳng định: “Cùng với khoa học và công nghệ , giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, “khoa học công nghệ là động lực, giáo dục và đào tạo là nhân tố cơ bản để tạo ra động lực” (Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành T.Ư khoá IX) cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giáo dục, đào tạo và sử dụng hiền tài đã chấn hưng nền giáo dục nước nhà, phát huy bản lĩnh và tài năng, nhận đúng vai trò của người hiền tài trong tiến trình giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước độc lập, phồn vinh là truyền thống quí báu của cha ông ta được Thân Nhân Trung nêu lên cách đây hơn 500 năm.
Ngày hôm nay, đất nước đang chuyển mình trong hoàn cảnh mới của dân tộc và thời đại, đang hội nhập kinh tế, chuẩn bị nội lực, thực lực cho kinh tế Việt Nam khi nước ta hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế thế giới và lĩnh vực giáo dục, đào tạo, làm sao để Việt Nam có một nền giáo dục chất lượng cao, chính sách sử dụng nhân tài như thế nào để người tài có điều kiện phát huy hết khả năng của mình, phục vụ đắc lực và có hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là những vấn đề nóng nhất mà chúng ta cần quan tâm để xây dựng và phát triển đất nước. Giáo dục đang trở thành quốc sách hàng đầu, chấn hưng giáo dục là chìa khoá mở cửa vào tương lai dân tộc. Văn hoá, khoa học và đội ngũ trí thức đang giữ vai trò quan trọng đối với sự nghiệp chung của đất nước. Tư tưởng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” của Trần Nhân Trung thường xuyên nhắc nhở các triều đại về chính sách đối với kẻ sĩ, và luôn luôn minh chứng lời nói bất hủ của ông về sự thịnh suy của đất nước gắn liền với sự thịnh suy của hiền tài.
Nhà văn M.Goóc-ki cho rằng: "Văn học là nhân học". Hãy trình bày ý kiến của anh (chị) về quan niệm trên - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Trên đời này, ngoài con người ra, còn có hai điều rất khó hiểu và khó hiểu đúng. Đó là tình yêu và văn chương. Có ai dám nói rằng mình hiểu tình yêu và cũng có ai dám nói rằng mình định nghĩa được văn chương? Văn chương cũng như tình yêu vậy, có rất nhiều màu sắc. Chính vì thế nó không phải là những vật thể bất dịch có thể nắm bắt bằng tay, ngửi bằng mũi hay nhìn bằng mắt được. Người ta nói về văn chương nhiều lắm, đẹp lắm! Còn Goóc-ki, với ông: văn học là nhân học - súc tích như bản chất của văn chương.
Cái định nghĩa văn học gồm năm chữ ấy ngắn gọn về số lượng ngôn từ nhưng các mặt ý nghĩa lại chẳng ngắn gọn chút nào. Văn học là nhân học, văn học là bộ môn học về con người, không phải chỉ là cái con người sinh học với đầy đủ chân, tay, mắt, mũi, tim, gan... mà đó là những con người với cuộc sống tinh thần phong phú và đa dạng của họ. Học văn là để hiểu sâu hơn tâm hồn con người, và đồng thời cũng là để học cách làm người. Phải chăng đó chính là điều Goóc-ki muốn nói với chúng ta - những người đã phần nào đặt chân vào ngưỡng cửa văn chương?
Câu nói của Goóc-ki dường như đã được hun đúc lại từ chính cuộc đời cầm bút của ông. Đó là một phát hiện mới mà lại không mới; là câu nói ngắn gọn mà lại không ngắn gọn. Đối với những người chỉ coi văn chương là một thứ phù phiếm thì câu nói ấy của ông cũng sớm héo úa như những bông hoa chưa kịp nở đã tàn.
Với văn chương, chất liệu đầu liên để cấu thành tác phẩm là ngôn từ nhưng yếu tố cuối cùng quyết định sự sống còn của tác phẩm lại không phải là ngôn từ. Đó chính là hình tượng nhân vật. Nhân vật văn chương không ai khác chính là những con người của cuộc sống. Đọc tác phẩm ta nhận ra mình qua mỗi nhân vật ở từng ngõ ngách nội tâm hiểu đúng hơn và hiểu nhiều hơn về cái thế giới tinh thần phong phú bí ẩn bị bề ngoài bao phủ.
Học văn hay làm văn, viết văn cũng vậy thôi. Cũng là để nhận thức đúng đắn hơn về cuộc sống và con người. Bản chất của cuộc sống cũng là bản chất của con người. Mỗi người khi chấp nhận con đường về nghiệp văn tức là đã chấp nhận đương đầu với thử thách. khó khăn để sống đúng và hiểu đúng hơn về con người, về cuộc đời. Chính vì thế mà văn học đã lựa chọn cuộc đời làm người bạn đồng hành tri âm của mình. Và cũng chính vì lẽ đó mà văn học phài là nhân học, chứ không nào khác được.
Nhưng nếu chỉ như vậy thôi thì đã đủ chưa? Văn học cung cấp bấy nhiêu mảnh đời, bấy nhiêu số phận không đơn giản chỉ để mỗi độc giả nhận ra mình qua từng mảnh đời, số phận đó. Văn học là nhân học và vì thế văn học không chỉ thực hiện chức năng nhận thức, còn phải làm tốt cả chức năng giáo dục. Học văn là học cách làm người. Và học cách làm người tức là học về cái tốt, cái đẹp và cái thật không phải lúc nào văn học cũng đề cao cái tốt đẹp. Cũng có lúc trong văn học xuất hiện những thằng cơ hội như Xuân tóc đỏ (Sốđỏ - Vũ Trọng Phụng), lưu manh như Chí Phèo (Chí Phèo - Nam cao), nham hiểm như Bá Kiến (Chí Phèo) và thậm chí dâm ô, trụy lạc như Nghị Hách (Giông tố - Vũ Trọng Phụng). Nhưng điều tác phẩm văn học muốn đề cập đến qua những nhân vật ác là con người phải biết loại bỏ, căm ghét và chống lại cái xấu, đừng để những cái xấu, cái ác như thế tồn tại trong cuộc đời. Điều đó cũng có nghĩa là văn học giúp người đọc hướng thiện và đi tới sự hoàn thiện mình.
Có thể nói Gorki đã đúng đắn khi đưa ra một định nghĩa về văn chương như vậy. Trở lại với ý kiến ban đầu của bài viết rằng đây là một phát hiện mới mà không mới của Goóc-ki. Nói không mới vì câu nói của ông đề cập đến bản chất của văn học - một vân đề mà nhiều người đã nêu lên và sau này Thạch Lam, Nam Cao hay Nguyễn Khải cũng từng đề cập. Xét theo một khía cạnh nào đó, M. Goóc-ki đã đề cập tới nhân vật trong phát biểu của mình. Văn học giúp con người tốt hơn thông qua nghệ thuật thể hiện nhân vật chứ không phải là ở những khái niệm lí lẽ thuần giáo huấn. Như vậy, giữa con người trong tác phẩm và con người trong cuộc đời có gì giống và khác nhau? Và sức sống của nhân vật điển hình mạnh như thế nào?
Tác phẩm là sự thể hiện cuộc đời vì thế con người của tác phẩm cũng là sự thể hiện của con người trong cuộc đời. Cũng yêu thương, cũng hờn ghét, cũng hình hài xấu đẹp. Nhưng sự phản ánh đó không phải là cái sao chép nguyên xi. Nhà văn mượn nguyên màu trong cuộc sống rồi sáng tạo tưởng tượng thêm để tạo ra nhân vật của mình. Chị Ràng - rmười nữ liệt sĩ trung kiên ở vùng đất Ràng không đẹp bằng chị Sứ và cũng không có tình mẫu tử xúc động như chị Sứ. Mối quan hệ giữa chị Ràng và chị Sứ cũng là mối quan hệ giữa cuộc đời và văn học. Cuộc đời là nơi khởi đầu cũng là hướng đi tới của văn học. Văn học viết về cuộc đời và đồng thời cũng là tập hợp từ cuộc đời. Chính vì thế nhân vật mà mỗi tác giả nhào nặn hư cấu nên thường có giá trị điển hình cho con người của một xã hội, một thời đại. Đó chính là nét khác biệt giữa con người trong tác phẩm và trong cuộc đời. Sức sống của nhân vật điển hình - một con người này mà cũng nhiều người kia - chính là sức sống của một tác phẩm văn học. Và nhiều lúc nó còn thật hơn cả người thật nữa nó quyết định sự trường tồn của tác phẩm truyện và của tên tuổi tác giả. Mỗi nhà văn chỉ mong muốn để lại cho đời một, hai nhân vật điển hình mức độ cao nhằm làm trong sạch hơn tâm hồn con người theo đúng bản chất và chức năng của văn học: "văn học là nhân học".
Cái điều tưởng là dễ hiểu ấy cứ sống mãi trong mỗi người như sự trường tồn của cuộc đời, của văn học. Mỗi trang văn là mỗi trang đời. Và mỗi trang đời ấy, được viết từ những mẫu, những mảnh con người. Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vãi (Chế Lan Viên) cũng như mãi mãi không có thứ văn chương nào nằm ngoài qui luật của sự sáng tạo: nghệ thuật vị nhân sinh và văn học là nhân học.
Ý nghĩa câu nói: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia" - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp”. Rõ ràng từ xưa ông cha ta đã từng quan niệm nguyên khí của quốc gia vừa là khát vọng, vừa là sức sống của dân tộc.
Ngay từ khi còn nhỏ, mới cắp sách đến trường, tôi đã được các thầy cô dạy về lòng tự hào quê hương.
Lịch sử nhân loại, việc dùng người mỗi thời khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử, thời thế và vai trò, nhiệm vụ. Người chân chính có thực tài thật là hiếm hoi, cần phải biết tìm, biết trân trọng.
Đất nước ta, từ xưa đến nay lúc nào cũng nhiều người hiền tài, tuy nhiên từng thời kỳ, từng lúc mà người hiền tài đó được khơi ra như thế nào. Có nghĩa là khi được quan tâm, trọng dụng thì hiền tài sẽ có nhiều. Người có học vấn thường có khả năng phán đoán và nhận định tình hình sáng suốt hơn người thường. Thời phong kiến, ở nước ta đã có biết bao bài học khi biết trọng dụng trí thức thì công cuộc bảo vệ tổ quốc, chống ngoại xâm và xây dựng đất nước phát triển rất hiệu quả nhờ tầng lớp trí thức khơi dậy, hoà đồng với nhân dân xã thân vì nghiệp lớn. “Hịch tướng sĩ “ của Trần Quốc Tuấn, “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” là một bài thơ bất hủ của Lý Thường Kiệt khẳng định chủ quyền của đất nước, Nguyễn Trãi với bảng hùng văn lịch sử “Bình Ngô đại cáo” là minh chứng cho sự sáng suốt của các bậc tiền nhân biết quý trọng, coi trọng và sử dụng tri thức trong các cuộc chiến tranh trên mật trận trí tuệ.
Thời kỳ cách mạng còn trong “trứng nước” Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh với tư duy, tầm nhìn sáng suốt và uy tín to lớn đã cảm hóa, thuyết phục được nhiều nhân sĩ, trí thức tiêu biểu tham gia khối đại đoàn kết dân tộc bất chấp hiểm nguy đi theo cách mạng, hy sinh cho nghiệp lớn.
Cổ nhân đã dạy :”Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” có nghĩa là ngay cả người tầm thường cũng phải chịu trách nhiệm trước sự hưng vong của đất nước. Trí thức lại càng phải có trách nhiệm hơn thế!. Ngày nay, tiếp tục truyền thống của cha ông, trí thức cần được rèn luyện để trở thành hiền tài có vai trò và trách nhiệm cống hiến tài năng vào tiến trình phát triển đất nước. Tri thức thời nay là tầng lớp tinh hoa của xã hội, sáng tạo ra các giá trị tinh thần, tôn trọng chân lý nhưng được nâng lên tầm cao mới theo tư duy của xã hội dân chủ và phù hợp với thời đại toàn cầu hóa của nền kinh tế tri thức.
Chúng ta tin vào sức năng động tự thân của dân tộc, sự sáng tạo và bền bỉ của giới trí thức như ngọn lửa bùng lên để những người có trọng trách biết suy nghĩ, trọng dụng, quy tụ, sử dụng đội ngũ trí thức, nhất là các bậc trí thức lão thành, tâm huyết có kinh nghiệm, bản lãnh hiến kế cho tiến trình xây dựng đất nước. Các bậc trí thức hàng đầu của đất nước, theo quy luật của tạo hóa sẽ có lúc phải ngừng nghỉ, đó là khoảng trống mênh mông để lại.
Nhìn xa hơn, hiền tài phải được hướng tới lớp người trẻ tuổi bởi vì họ mới là lớp người có khả năng tiếp thu cái mới, sáng tạo, phụng sự đất nước khi còn sung sức. Khơi nguồn hiền tài từ lớp trẻ, đặc biệt là tuổi trẻ trí thức là con đường lâu dài và đúng đắn nhất. Cần tạo môi trường cho trí thức làm việc, phát huy năng lực, đãi ngộ xứng đáng công sức, thành quả họ mang lại. Tuy nhiên, vẫn có luồng ý kiến, trí thức chân chính không cần đãi ngộ, họ sẽ tự biết tìm cách để sáng tạo và tự sử dụng mình vào những công việc hữu ích cho tổ quốc.
Nếu chúng ta hiểu một cách sâu sa chân lý “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” không cần phải đốt đuốc lên mới thấy được người có thực tài mà chỉ cần có kế sách cụ thể, thực sự trân trọng tài năng, khiêm nhường mời gọi người tâm huyết để khơi nguồn hiền tài còn rất nhiều tiềm năng của đất nước để làm cho đất nước hưng thịnh và hiền tài ngày một nhiều thêm.
Trước kia, bây giờ và mãi mãi sau này “hiền tài” luôn là “nguyên khí” của quốc gia, là nguồn tài nguyên và động lực to lớn để đất nước đi lên.
Ngày nay có thể hiểu hiền tài không chỉ là trí thức, mà là tất cả những ai có năng lực, có tâm huyết và khát vọng cống hiến cho đất nước, cho dân tộc.
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia” và vì sao hiền tài lại là nguyên khí quốc gia, hôm nay chúng ta hãy thử tìm hiểu về chân lý này và mối quan hệ của nó với vận mệnh nước nhà.
Trước tiên, ta sẽ tìm hiểu nghĩa của câu “ Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. “Hiền tài” là người tài cao, học rộng và có đạo đức. “Nguyên khí” là chất làm nên sự sống còn và phát triển của đất nước, xã hội. Vậy “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” có nghĩa là: Hiền tài, chính là phần cốt lõi, chất ban đầu để làm nên sự sống còn và phát triển của đất nước. Quốc gia có nhiều hiền tài và biết sử dụng hiền tài thì sẽ phát triển vững mạnh.
Vậy thì tại sao hiền tài lại là nguyên khí của quốc gia? Trong mỗi quốc gia nhất thiết phải có một bộ phận lãnh đạo, điều hành đất nước, nếu như đất nước mà những người điều hành toàn là những kẻ ngu dốt, không học thức, không đạo đức thì có phải chăng là đã huỷ diệt đất nước hay không, dẫn chứng cụ thể cho điều này ta có thể lấy về chính quyền Khơ-me đỏ từ năm 1975 đến năm 1979 chúng lãnh đạo vương quốc Campuchia và đã đưa đất nước đến thảm hoạ diệt chủng, gây nên bao nỗi đau và sự căm hờn cho đất nước ta và người dân Campuchia, từ đấy ta thấy nếu quốc gia mà thiếu một hiền tài mà trụ cột thì chắc chắn đất nước sẽ diệt vong, xã hội ắt sẽ loạn.
Vậy trong quốc gia đã có người lãnh đạo thì họ sẽ phải lãnh đạo ai, họ sẽ phải lãnh đạo những hiền tài khác, nếu như người mà họ lãnh đạo là những con người ngu muội, đầu óc không sáng suốt, không biết sáng tạo thì chẳng phải là “ đổ nước vào cái xô thủng “ sao, vậy nên trong mỗi quốc gia cần có những hiền tài để xây dựng và phát triển đất nước theo đúng đường lối của người lãnh đạo, họ phải biết tự sáng tạo ra những ý kiến mới, tạo ra những phát minh mới, ví như những quốc gia như Mỹ, Nga, Anh, Pháp vì sao họ có thể phát triển đi trước các quốc gia khác, chính là nhờ họ có những nhà khoa học, bác học lỗi lạc đã tạo ra những kì tích trong khoa học kĩ thuật, đưa quốc gia phát triển lên một tầm cao mới. Hay ngay ở nước ta, đại tướng Võ Nguyên Giáp theo đường lối chỉ đạo của Bác Hồ vĩ đại đã tạo nên một trận Điện Biên Phủ làm trấn động năm châu, khiến cho người Pháp phải khăn gói về nước. Từ đó mới thấy tầm quan trọng của hiền tài trong công cuộc đổi mới đất nước.
Không những thế, chúng ta còn phải làm cho những người nông dân bình thường cũng có thể trở thành hiền tài, quốc gia nào cũng cần có những người dân thông minh và biết sáng tạo, đổi mới để đem lại lợi ích cho chính mình. Nhà nước ta đang chủ trương giáo dục, chính là để nâng cao dân trí, nuôi dưỡng phát triển những hiền tài trong tương lai. Ở các quốc gia phát triển, khi muốn ban hành những điều luật quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân thì họ đều phải đưa ra để trưng cầu dân ý để xem xét ý kiến của những người dân. Hay là các nhà khoa học khi đưa ra bất kì phát minh hay sáng kiến nào thì điều phải nghĩ đến có thể ứng dụng được cho người dân của họ hay không. Đất nước có nền dân trí cao, thì sẽ là động lực để thúc đẩy để phát triển các ngành kinh tế, vì công nghệ ngày càng đổi mới mà người dân không đi theo kịp thì sẽ bị tuột hậu và thua thiệt. Có những người nông dân Việt Nam, họ không cần chờ đến người khác mà họ đã tự phát minh những công cụ của riêng mình để phục vụ cho lao động, đó cũng chính là những hiền tài cho đất nước.
Hay trong giáo dục, những nhân tài trẻ tuổi đã làm rạng danh Việt Nam trong những cuộc thi lớn, thì đó cũng chính là hiền tài cuộc đất nước. Vận mệnh đất nước sao này sẽ phải giao cho những con người trẻ tuổi và tài năng như thế để đưa dân tộc hồi sinh và phát triển.
Qua các ý trên ta có thể thấy, hiền tài chính là nguyên khí của quốc gia, đất nước mà mỗi người dân là một hiền tài thì đất nước sẽ không ngừng phát triển, đất nước mà mỗi nhà lãnh đạo là một hiền tài thì vận mệnh nước nhà sẽ vững trải, xã hội sẽ ổn định. Bởi thế nên chúng ta phải hết sức phát huy khả năng và nuôi dưỡng các hiền tài, phải tạo điều kiện để họ thể hiện chính mình phục vụ cho đất nước.
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia” là chân lý khả định vai trò quan trọng của hiền tài đối với vận mệnh dân tộc. Và mỗi chúng ta, những con dân đất việt phải có nhiệm vụ cống hiến sức lực của mình để phục vụ đất nước, dân tộc, nhân dân vì chúng ta chính là nguồn nguyên khí của đất nước.
"Luôn luôn hi vọng, không bao giờ được tuyệt vọng. Đó là bản chất của người có tâm hồn lớn" - G.FIobe. Anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn bình luận về ý kiến trên.
Câu trả lời của bạn
Trong cuộc đời, không phải ai trong chúng ta cũng gặp toàn những may mắn, những niềm vui, hạnh phúc mà ngược lại có khi ta gặp những điều cay đắng, đầy bất hạnh, khổ đau, đi từ thất bại này tới thất bại khác. Vậy điều gì có thể nuôi dưỡng cuộc sống chúng ta trong những thời điểm bi đát ấy? Đó là hi vọng. Chính vì vậy mà văn hào G.Flobe có một câu nói rất hay: "Luôn luôn hi vọng, không bao giờ được tuyệt vọng. Đó là bản chất của người có tâm hồn lớn”.
Quả đúng như điều mà G.Flobe đã nói ở trên. Hi vọng, lạc quan, tin tưởng vào ngày mai là một chất liệu không thể thiếu được trong cuộc sống của chúng ta. “Luôn luôn hi vọng , không bao giờ được tuyệt vọng” chính là chất men kích thích cho chúng ta vượt qua mọi trở ngại để tìm ra một cuộc sống tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn, đầy ý nghĩa hơn.
Chúng ta còn nhớ trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có bài ca dao “Mười quả trứng”. Bài ca dao này nói về một người phụ nữ nông dân quá nghèo khổ, cơ cực, chẳng có tài sản gì, đã “đi vay, đi dạm được một quan tiền ” rồi "Ra chợ Kẻ Diên - mua con gà mái” với hi vọng là từ con gà mái ấy sẽ sinh sôi nảy nở thành một đàn gà con sau này. Hi vọng của người phụ nữ nông dân ấy cứ lớn dần lên theo từng quả trứng mà con gà mái đẻ ra. Mười quả trứng là mười niềm hi vọng nhưng rồi oái ăm thay niềm hi vọng ấy lại tắt dần theo từng quả trứng ung: “Một trứng ung, hai trứng ung, ba trứng ung, bốn trứng ung, năm trứng ung, sáu trứng ung, bảy trứng ung”. Thế là còn ba trứng, ba trứng nở thành ba con gà con. Tưởng đâu ba con gà con ấy sẽ mang đến một chút gì ấm áp, hi vọng vào ngày mai của người phụ nữ nông dân ấy. Nào ngờ ba con gà con ấy, con thì bị diều tha, con thì bị quạ bắt, con thì bị cắt xơi. Thế là người nông dân ấy tay trắng lại hoàn trắng tay. Tưởng đâu điều ấy sẽ dẫn đến sự tuyệt vọng nhưng nào ngờ người nông dân này vẫn còn giữ được một niềm hi vọng vào cuộc sống:
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây.
Quả đó là “bản chất của người có tâm hồn lớn”. Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong bài hái Tôi ơi đừng tuyệt vọng cũng đã từng khẳng định điều này: “Đừng tuyệt vọng - Tôi ơi đừng tuyệt vọng - Nắng vàng phai như một nỗi đời riêng - Đừng tuyệt vọng em ơi, đừng tuyệt vọng - Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh”. Lời bài hát vừa là lời tự động viên nhắc nhở mình, vừa là lời động viên nhắc nhở chúng la hãy luôn lạc quan, hi vọng vào cuộc sống, đừng có bao giờ tuyệt vọng, bởi tuyệt vọng sẽ thiêu rụi những ước mơ của ta, đẩy ta rơi vào hố thẳm của cuộc đời, là rào cản ngăn bước ta đi về tương lai, chẳng có lợi ích gì cho đời ta.
Tóm lại, câu nói “Luôn luôn hi vọng, không bao giờ được tuyệt vọng. Đó là bản chất của người có tâm hồn lớn” là một chân lí, là một bài học sâu sắc và rất cần thiết cho chúng ta trong cuộc sống. Bản chất của cuộc sống luôn là một cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ. Niềm hi vọng sẽ giúp ta vững bước trên con đường đi đến tương lai, vững bước đấu tranh để tìm ra sự sống đích thực.
"Đất nước càng có nhiều nhân tài, đất nước càng hưng thịnh" - Mặc Tử. Anh (chị) hãy bình luận về ý kiến trên - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Sự tồn tại và phát triển của một đất nước từ xưa đến nay đều do những nhân tài mà có được. Một đất nước hưng thịnh là do những nhân tài tạo nên. Chính vì vậy mà Mặc Tử (một nhà triết học xưa của Trung Quốc) đã nói: “Đất nước càng có nhiều nhân tài, đất nước càng hưng thịnh”.
Lời nói trên của Mặc Tử là một chân lý hiển nhiên, không thể chối cãi được, bởi không có người tài thì làm sao ta có thể dựng nước và giữ nước được. Điều này đã được chứng minh một cách hùng hồn trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc ta. Thời nhà Lí, đất nước đứng trước nạn bị giặc Tống xâm chiếm, người tài Lí Thường Kiệt đã xuất hiện đánh tan quân Tống, giữ vững quyền độc lập, tự chủ của dân tộc. Đến thời Trần, quân Nguyên Mông lại ào ạt kéo sang nước ta, muốn biến đất nước ta thành châu, thành quận, thành huyện của bọn chúng thì đất nước ta lúc bấy giờ lại xuất hiện Trần Hưng Đạo - một nhân tài quân sự - đã lãnh đạo quân và dân ta đánh tan quân Nguyên Mông, giữ yên bờ cõi. Đến thời nhà Hồ, nhân việc “chính sự phiền hà” quân Minh thừa cơ gây họa, chúng ồ ạt mang quân sang xâm lược nước ta, vơ vét tài nguyên của đất nước ta, áp ức, bóc lột đồng bào ta tận xương tủy:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
Người bị ép xuổng biển còng lưng mò ngọc
Ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kè bị đem vào núi đãi cắt tìm vàng
Khốn nỗi rừng sâu nước độc...
(Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)
Giữa lúc dầu sôi lửa bỏng của đất nước lúc bấy giờ thì lại xuất hiện người anh hùng áo vải Lam Sơn Lê Lợi đã lãnh đạo quân và dân ta chống quân Minh và đã đưa cuộc kháng chiến ấy đến thắng lợi hoàn toàn. Đất nước sạch bóng quân thù, nền độc lập tự chủ của đất nước lại một lần nữa được khẳng định.
Bọn phong kiến phương Bắc đã bao lần xâm chiếm đất nước ta và đã bị quân dân ta nhiều lần đánh cho tơi bời xiêm giáp, nhưng chúng vẫn không bỏ mộng bành trướng về phương Nam. Đến cuối triều đại nhà Lê, Lê Chiêu Thống vì chiếc ngai vàng mục nát đã hèn nhát cõng rắn cắn gà nhà để đất nước ta rơi vào tay quân Thanh xâm lược. Trước hoàn cảnh tăm tối của đất nước lúc bây giờ thì người anh hùng áo vải Tây Sơn Nauyễn Huệ lại xuất hiện. Với thiên tài quân sự kiệt xuất, điều binh khiển tướng như thần, Nguyễn Huệ đã có một cuộc tiến binh thần tốc ra Bắc để tiêu diệt hơn hai mươi vạn quân Thanh giành độc lập về cho đất nước.
Rồi chiến tranh lại nổ ra, kẻ thù từ phương Tây đến, với vũ khí hiện đại, có tiềm năng kinh tế chúng muốn cướp đất nước ta, đặt ách cai trị lâu dài lên đất nước ta thì thiên tài Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lại xuất hiện. Người đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua bao hy sinh gian khổ để đưa sự nghiệp cách mạng đến ngày toàn thắng, đất nước được thống nhất và đang vươn mình lên một cách mạnh mẽ với bè bạn khắp năm châu.
Như vậy, không có người tài thì làm sao giữ được đất nước. Hơn nữa không có người tài thì làm sao làm cho đất nước hưng thịnh được. Người tài càng nhiều thì đất nước càng hưng thịnh. Trong một đất nước mà có nhiều thầy, cô giáo giỏi thì mới đào đưực những người học trò giỏi, nhiều kỹ sư giỏi, nhiều bác sĩ giỏi, nhiều nhà khoa học giỏi... Những con người tài giỏi này sẽ đem những kiến thức của mình để phục vụ đất nước thì đất nước sẽ ngày càng hưng thịnh. Những nước ngày nay trở thành cường quốc trên thế giới là những nước ấy có người lãnh đạo tài ba, có những nhà khoa học lớn, đem những kiến thức khoa học vào đời sống để phục vụ đời sống làm cho cuộc sống của con người nhẹ nhàng hơn, sung sướng hơn, của cải vật chất dồi dào hơn. Cuộc sống của người dân trong một đất nước có giàu sang sung sướng thì đất nước đó ngày càng mạnh và càng hưng thịnh hơn. Ngược lại, trong một đất nước mà những người lãnh đạo không có tài năng, không biết quý trọng chất xám, lãng phí chất xám thì đất nước ấy sẽ trì tuệ, chậm tiến và lạc hậu.
Tóm lại, nhân tài là yếu tố chính để làm đất nước hưng thịnh. Câu nói của Mặc Tử mãi mãi là lời nhắc nhở cho những người lãnh đạo, quản lí và xây dựng đất nước. Muốn làm cho đất nước ngày càng hưng thịnh, những nhà lãnh đạo phải biết trân trọng, quan tâm đặc biệt đến đời sống tinh thần và vật chất của những con người có tài năng, đức độ; phải có chính sách đãi ngộ xứng đáng và tạo mọi điều kiện để nhân tài ấy phát triển, cống hiến chất xám của mình cho đất nước thì đất nước sẽ hưng thịnh. Nhân tài càng nhiều, đất nước càng hưng thịnh.
Anh (chị) hãy trình bày quan điểm của mình về giá trị nội dung tư tưởng của câu ca dao: "Ta về ta tắm ao ta / Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn".
Câu trả lời của bạn
Tinh thần tự chủ, thái độ tự trọng và niềm tin yêu gắn bó với cội nguồn là những yếu tố rất cần thiết cho mỗi con người trong cuộc sống. Đất nước Việt Nam suốt mấy ngàn năm lịch sử đã phải trải qua bao nhiêu thăng trầm, thử thách nghiệt ngã mà vẫn tồn lại và phát triển là bởi dân ta có lòng tự hào, tự tin, tình cảm gắn bó sâu nặng với quê hương xứ sở. Ông bà ta xưa thường khuyên con cháu :
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn.
Ý nghĩa của câu tục ngữ trên như thế nào? Chúng ta hãy cùng nhau bàn luận.
Trước đây nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Hình ảnh nông thôn với những mái rạ nghèo, chiếc sân đất nện, mảnh vườn nhỏ và ao thả bèo, thả muống... rất quen thuộc trong đời thường cũng như trong ca dao, tục ngữ. Cầu ao là nơi người nông dân rửa rau, vo gạo, tắm táp, giặt giũ... ao là nơi gặp gỡ, trao đổi, tâm tình làng xóm và nó trở thành người bạn âm thầm chứng kiến bao nỗi buồn vui của con người:
Đêm qua ra đứng bờ ao.
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ...;
Giã ơn cái cọc cầu ao.
Đêm đêm khuya sớm có tao có mày...
Cái ao gắn bó với người nông dân đến thế nên nó đã trở thành một trong những biểu tượng của hình ảnh quê hương; giống như mái đình, lũy tre, con đò, cây đa, giếng nước... Ta thử hình dung người nông dân sau một ngày làm việc vất vả trên đồng ruộng, được ngồi trên chiếc cầu ao nhà mình, thong thả múc từng gáo nước dội lên thân thể cho trôi đi bao giọt mồ hôi nhọc nhằn. Cái mát mẻ thấm vào da thịt khiến cho đầu óc thoải mái, thảnh thơi. Thế là sung sướng, là thú vị bởi mình được tự do, tự chủ, chẳng phải phiền lụy đến ai, giữ kẽ với ai.
Một tình huống khác: người nông dân vào tiết nông nhàn thường rời quê đi làm ăn xa. Cuộc sống tha phương ít ngọt bùi mà nhiều cay đắng nên nỗi nhớ xa nhà, nhớ quê càng day dứt khôn nguôi. Họ phải chịu đựng tất cả vì miếng cơm manh áo, vì sự mưu sinh. Lăn lóc kiếm sống nhưng lòng chỉ mong đến thời vụ để trở về quê hương, sum họp với gia đình, tiếp tục cái cảnh chồng cấy, vợ cầy, con trâu đi bừa tuy cực nhọc mà đầm ấm. Và được tắm ở cái ao nhà mình, cái ao cho dù chưa rộng, chưa trong như nhiều ao khác ta đã gặp trong đời nhưng nó gần gũi, thân quen, nông sâu đã từng, nên ta thỏa chí vẫy vùng mà không phải e ngại, đề phòng bất trắc.
Nghĩa hiển ngôn của câu tục ngữ: Ta về ta tắm ao ta... có thể hiểu như vậy nhưng người xưa đâu chỉ dừng ở đó. Họ muốn mượn cái hình thức đơn giản để gửi gắm tình yêu quê hương sâu nặng và một triết lí sống: tự do, tự chủ và tự tin vào chính bản thân mình. Tất cả những gì là của mình dù còn chưa hoàn hảo, đều đáng quý, đáng trân trọng.
Nên mình dù sang, dù hèn vẫn mang đến cho mình tâm thế của người làm chủ. Tâm thế này tạo nên sự tự do, thoải mái tinh thần mà ở những nơi khác, nhà khác ta không sao có được. Ao ta, dù trong, dù đục vẫn hơn ao người là vậy. Ở thời điểm xuất hiện câu tục ngữ này, ý nghĩa trên của nó là đúng, là tích cực vì tinh thần tự chủ. tự tin, tự hào là cần thiết và quan trọng đối với mỗi người, mỗi cộng đồng dân tộc trong quá trình tồn tại và phát triển.
Còn ở thời đại ngày nay, câu tục ngữ trên có còn giữ nguyên giá trị?
Có người cho ra nêu quan điểm sống ta về ta tắm ao ta ... là quan điểm bảo thủ, tiêu cực, là thái độ an phận và tự mãn cần phải phê phán. Nhận xét như vậy là bỏ qua yếu tố lịch sử và có phần khắt khe.
Hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, sự giao lưu giữa các nước, giữa các dân lộc trên thế giới ngày càng được nâng cao, mở rộng. Để hội nhập với xu thế chung của toàn cầu, chúng ta không phải cứ khư khư giữ mãi quan niệm đóng cửa, tự mãn, tự hào về những gì mình đã có mà phải mở cửa, học hỏi cái hay, cái đẹp, cái mới, cái tiến bộ. Trên cơ sở tiếp thu những thành quả khoa học của bạn hè các nước một cách có chọn lọc, sáng tạo, phù hợp với bản thân và đất nước, chúng ta sẽ thực hiện mục đích cao cả là xây dựng một xã hội giàu mạnh và văn minh Lúc đó, đất nước Việt Nam sẽ tự hào sánh với các cường quốc năm châu như ý muốn của Bác Hồ kính yêu. Học hỏi nước ngoài không có nghĩa là vọng ngoại, sùng ngoại để rồi đánh mất lòng tin, mất ý thức tự cường của mình. Bởi mất những yếu tố quan trọng đó, chúng ta sẽ mất tất cả.
Một chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn đổi mới hiện nay là: dân tộc và hiện đại. Giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc vẫn là mục liêu hàng đầu. Dù hiện đại đến đâu chăng nữa, ta vẫn là ta, không để bị biến thành cáibhóng mờ của người khác. Thực tế ở một số nước cho thấy yếu tố dân tộc và yếu tô hiện đại vẫn có thể song song tồn tại, phát triển.
Câu tục ngữ:" Ta về ta tắm ao ta / Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn" có mặt tích cực là đã phản ánh cái tâm rất đáng quý của con người Việt Nam: yêu mến, gắn bó, tự hào về quê hương xứ sở, đề cao ý thức tự chủ. Song, trong thời đại mới, chúng ta phải biết vận dụng linh hoạt ý nghĩa của nó để tránh bảo thủ, tự mãn, hẹp hòi và nâng cao ý thức học hỏi, tiếp thu cái hay, cái mới của nhân loại để xây dựng một đất nước văn minh, tiến bộ mà vẫn mang đậm bản sắc dân tộc độc đáo. Đó là ước nguyện, là mục đích của tất cả chúng ta.
Anh (chị) hãy vận dụng kiến thức trong lịch sử, trong cuộc sống hàng ngày để khẳng định chân lí của câu tục ngữ: "Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết".
Câu trả lời của bạn
Một bề dày lịch sử với những cuộc chiến tranh khốc liệt, với những khó khăn không tránh được khi dựng nước, với những con người chân chất luôn có nhau đã làm cho Việt Nam tuy nhỏ bé vẫn tồn tại, vẫn phát triển. Dải đất mang dáng hình tia chớp (ý thơ Trần Mạnh Hảo) thân thương của chúng ta đã tích lũy cho mình biết bao kinh nghiệm xương máu trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quôc. Và đặc biệt trong những kinh nghiệm đó tinh thần đoàn kết đã nổi lên trên tất cả. Nó đã được thể hiện qua câu tục ngữ rất hàm súc:
“Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”
Thực tế, lịch sử và ngay cả văn học đã cùng quyện chặt vào nhau để chứng minh, để chứng tỏ các kinh nghiệm kia rất thực, rất đúng, rất cần thiết cho con người hôm nay và mãi mãi. Trở về với lịch sử, hòa mình vào xã hội hôm nay, lắng lòng trong những tác phẩm, ta sẽ thâý, ta sẽ tỏ.
Kinh nghiệm “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết” đã được thể hiện rất súc tích. Nói đến đoàn kết, ai trong chúng ta cũng hình dung ra được một sự lớn mạnh, đông đảo, một sự đồng lòng, đồng chí của một tập thể, của một cộng đồng. Nhưng khi nói đến chia rẽ, sẽ thấy ngay sự rời rạc, thiếu hẳn đi mối dây liên lạc, thiếu mất đi sức mạnh hùng hậu và sẽ không có sự vượt qua tất cả để sống.
Và rất gần đây, với sự quyết tâm thắt chặt sợi dây đoàn kết, thêm một lần nữa đã đưa ta thoát khỏi nanh vuốt của thực dân Pháp, của đế quốc Mỹ. Nhân dân dù trên núi cao hay miền xuôi, từ nơi thôn quê hẻo lánh cho đến thành thị, bằng cách thức của mình đã hòa hợp với nhau, cùng chung một ý chí “không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã cùng nhau đánh đuổi quân xâm lược. Chúng ta làm sao quên được những điều đó. Tiếng hát hôm nao: “Dậy mà đi, dậy mà đi’’ với sự quyết tâm vùng lên, quyết thắng và nỗi thông cảm sâu sắc “bao nhiêu năm qua dân ta sống không nhà, bao nhiêu năm qua dân ta chết xa nhà...” đã liên kết dân tộc ta lại. Thế cũng quá đủ để minh chứng “Đoàn kết là sống".
Không chỉ trong quá khứ oai hùng, đẫm máu, ngày nay giá trị của đoàn kết vẫn còn tồn tại, giữ nguyên vai trò trong lòng đất nước. Khó khăn dày đặc bao phủ la, với hết sức mình, Đảng và nhàn dân đã ra sức quyết vượt lên và hiện nay Việt Nam đổi mới đã có một chỗ đứng vững chãi trong thế giới này. Giả sử nêu không có sự tâm đầu ý hợp thì làm sao có thể tồn lại một Việt Nam, mộtViệt Nam lẫy lừng được chứ? Nếu không có sự hòa hợp thì chia rẽ sẽ xuất hiện và nhanh chóng nó sẽ đánh gục tất cả. Thế đó, đoàn kết luôn là một vũ khí sắt thép nhất mà không có gì địch lại được.
Văn học đã tái hiện lại sức mạnh kì diệu của:
“...Gươm mài đá. đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông cũng cạn... ”
(Cáo Bình Ngô - Nguyễn Trãi)
Một sức mạnh do đoàn kết mà ra. Một sức mạnh vô cùng to lớn như đá, núi phải mòn, nước sông không bao giờ hết cũng phải cạn đi. Sức mạnh của quân dân được ví, đươc so sánh thật lớn lao biết chừng nào.
Truyện Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, truyện "’Tuổi thơ dữ dội” của Phùng Quân, và biết bao nhiêu câu chuyện khác đã giúp cho ta thấy sự thông cảm, sự giúp đỡ, hi sinh xuất phát từ tinh thần đoàn kết có một chỗ đứng vững chắc như thế nào. Từ người già đã kiệt sức, từ những em bé vẫn còn rất nhỏ lẫn thanh niên nam nữ, tất cả đều tham gia kháng chiến, đều chia ngọt sẽ bùi, cùng yêu thương nhau thật nhiều. Ôi! Thật đẹp biết bao trong bất kì trang nào của hai câu chuyện cũng đều mang dáng dấp của tình quân dân, của tinh thần đoàn kết. Chính nó đã đi xuyên suốt tác phẩm làm nền tảng cho sự thành công tốt đẹp. Chín mươi người làng Kông Hoa lần quyết tâm đi theo anh Núp đánh Pháp và phải đói muối, đói cơm. “Em sẽ đi kháng chiến để đánh đuổi giặc ra khỏi đất nước”. Đó là lời nói của cậu bé Mừng - nhân vật chính của "Tuổi thơ dữ dội”. Cậu bé biết căm, biết tức đã hòa mình vào vòng suy nghĩ chung để cùng góp phần hình thành sợi dây liên kết giữa người và người. Thật hay, thật đẹp làm sao!
Trong chúng ta nào ai có thể quên đi câu chuyện bó đũa năm nào ê a đọc trên môi. Với một bó đũa gồm nhiều cây đũa hợp lại, khó có thể bẻ gãy được. Ngược lại, với từng cây đũa, chúng la sẽ rất dễ dàng bẻ gãy được tất cả. Lực liên kết mất đi, thì trước sau từng cá thể sẽ dần không còn tồn tại, tất cả cũng theo đó mà biến mất. Người cha trong câu chuyện đã dùng lí lẽ này để nói với những người con trai của mình, mong họ hãy gắn bó, hãy yêu thương nhau nhiều hơn, nhiều hơn nữa. Với câu chuyện này chúng ta có thể hiểu thêm “Đoàn kết thì sống,chia rẽ thì chết”. Không chỉ trong chiến đấu trong công cuộc bảo vệ đất nước mới có sự hiện diện của đoàn kết mà ngay trong cuộc sống hàng ngày, ngay trong gia đình, xã hội, nhà trường. Anh em đoàn kết sẽ giúp cho gia đình hòa thuận, bạn bè đoàn kết sẽ giúp cho lớp học thêm sinh động, thêm đẹp tình bạn hơn, sẽ đưa lớp học tiến bộ hơn, con người trong xã hội đoàn kết, hợp ý sẽ giúp xã hội lớn hớn, con người đẹp hơn về mọi mặt. Có thế, cuộc sống mới muôn màu, muôn vẻ và phát triển hơn. Tinh thần đoàn kết được ứng dụng trong mọi mặt. Trong mọi hoàn cảnh không gian và thời gian, không có sức mạnh tổng hợp nhiều người, nhiều vùng thì làm sao có thể tạo dựng những công trình lớn như hủy diện Sông Đà, dầu khí Vũng Tàu để đất nước ta tồn tại trong thời hiện đại gắn bó của tập thể, của cộng đồng. Ông cha ta chỉ với cặp từ đối lập đó đã khéo léo dẫn ta đi đến kết luận có đoàn kết thì sẽ dẫn đến tồn lại, sự phát triển, và ngược lại không tồn tại tính tập thể thì cũng sẽ không phát triển, từ không phát triển sẽ dẫn đến cái chết, sẽ tự đánh mất, tự hủy hoại mình. Cũng chính từ đó. một lời khẳng định mạnh mẽ vang lên đoàn kết thì sống vì đoàn kết tạo sức mạnh không gì có thể cản trở được, có đoàn kết thì ta sẽ vượt mọi trở ngại thử thách. Đoàn kết là tất cả, tất cả và nào có ai biết bao con người đã ngã xuống.
Quay lại với quá khứ, với buổi đầu dựng nước, một cổ Loa Thành với những thiết kế độc đáo, một An Dương Vương đã lãnh đạo Âu lạc đánh tan quân của một Triệu Đà hung hăng đầy mưu đồ. Thế đó. thành cổ Loa vẫn chưa đủ kiên cố vô địch, một Âu Lạc so ra vẫn còn yếu nhưng vẫn tạo ra đưực một bản sắc riêng, vẫn tạo cho mình chiến thắng nhờ sự đồng lòng, nhờ sự liên kết bền bỉ, nhờ lực lượng quần chúng đông đảo quyết cùng nhau xây thành, giữ nước. Khi không đồng lòng nữa thì nhà tan, nước mất. Tiến bước thêm, ta sẽ thấy Hai Bà Trưng, Bà Triệu cùng toàn dân, thanh niên trai tráng cùng phụ nữ yếu mềm sánh bước chống trả lại những áp bức của phong kiến phương Bắc thống trị. Đâu đâu ta cũng thấy tập thể cũng thấy tinh thần đoàn kết hiện diện cả. Cũng chính thế nền độc lập nước Việt ta một lần nữa được xác lập bởi Ngô Quyền và chiến công lẫy lừng trên sông Bạch Đằng in bóng hàng trăm cột gỗ vót nhọn đầu cắm đầy sông. Hàng trăm cọc gỗ không tài nào một người có thể làm được, đóng đựơc mà phải có nhiều người hợp nhau lại để làm. Như vậy. chiến tích mới được thành lập, đất nước mới thoát nạn xâm lăng.
Không chỉ có thế, mội đội quân Mông Nguyên hùng mạnh, vó ngựa đã in đậm cả một châu Âu, hùng vĩ, đã đặt ách thống trị lên nhiều vùng đất châu Á nhưng lại khuất phục trước sức mạnh đoàn kết của nước Nam nhỏ bé. Một ngày mới đã bắt đầu với biết bao điều mới lạ. Thêm một lần nữa, giá trị, ý nghĩa của câu tục ngữ "Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết" luôn được xác nhận. Nó sẽ mãi là một kinh nghiệm quý báu không chỉ cho công cuộc đấu tranh, bảo vệ đất nước mà còn là kinh nghiệm sống vô cùng hữu ích đối với mỗi con người chúng ta. Riêng em, em nghĩ rằng mình sẽ gắng hòa hợp, đoàn kết hơn với bạn bè, với cuộc sống để có thể “sống”, sống vững vàng, sống đúng nghĩa là một con người. Không những như vậy, với tinh thần đoàn kết, em sẽ cùng mọi người tạo nên sự sống, tạo nên sự thành công không chỉ cho riêng mình mà cho xã hội. Em tin tưởng hoàn toàn vào:
Thành công, thành công, đại thành công ”
Lập luận và giải thích 2 câu thơ: “Mùa xuân là Tết trồng cây / Làm cho đất nước càng ngày càng xuân” của Bác Hồ.
Câu trả lời của bạn
Đầu năm 1960, Người đã phát động Tết trồng cây trong toàn dân với lời dạy: “Việc này ít tốn kém mà lợi ích nhiều”. Bác nói: “Trong 10 năm nữa phong cảnh nước ta sẽ ngày càng tươi đẹp, khí hậu sẽ hiền hoà hơn, cây gỗ sẽ đầy đủ hơn. Điều đó sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống của nhân dân ta”. Ngày 5/01/1961 (ngày 9 tháng Chạp năm Canh Tý), Bác Hồ về thăm Hợp tác xã Lạc Trung của tỉnh Vĩnh Phúc – nơi có phong trào trồng cây hai bên đường và trên các bãi đất trống, Bác ôm ghì 2 đồng chí lãnh đạo của xã thật chặt và hỏi: “Các chú có thấy khó chịu không?”. Rồi Bác ôn tồn bảo: “Cây cũng như người, nó phải có khoảng cách để sống và phát triển, các chú cần hướng dẫn nhân dân trồng cây theo kỹ thuật, trồng cây nào tốt cây đó”.
Trong những năm chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc, Bác Hồ vẫn kêu gọi nhân dân trồng cây, giữ lấy màu xanh của đất nước. Bác viết: “Mùa xuân là Tết trồng cây, làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Bác thường xuyên theo dõi, động viên, cổ vũ phong trào Tết trồng cây. Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về, Bác vừa viết báo nhắc nhở nhân dân thực hiện Tết trồng cây, vừa đi thăm và tham gia trồng cây cùng với nhân dân. Trong bài viết cuối cùng của mình về Tết trồng cây ngày 5/2/1969, Bác nhắc tới “ích lợi to lớn cho kinh tế quốc phòng” của việc trồng cây gây rừng, “đồng bào các địa phương phải biến đồi trọc thành vườn cây”. Tự tay Bác đã trồng nhiều cây đa mà nhân dân ta thường gọi bằng cái tên trìu mến “Cây đa Bác Hồ”. Trong khu nhà đơn sơ của mình, Bác đã tạo ra một môi trường thiên nhiên tuyệt đẹp, Bác trồng cây trong vườn, chăm cây như chăm người. Bác thả cá dưới hồ và không cho phép ai được câu, xua đuổi và săn bắt chim trong vườn. Bác nói: “Chim là của quý của thiên nhiên ta phải bảo vệ chúng”.
Trong những lần thăm nước bạn hoặc tiếp đón các vị nguyên thủ quốc gia đến thăm Việt Nam, Bác đều tổ chức trồng cây lưu niệm. Người đã trồng cây đại ở ấn Độ, trồng cây sồi ở Nga và còn gọi đó là “những cây hữu nghị”. Cây lớn lên theo thời gian, không chỉ thể hiện của tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và bạn bè thế giới mà còn thể hiện ý thức bảo vệ môi trường.
Ngay cả đến giờ phút Bác sắp đi xa, trong Di chúc Bác cũng không quên nhắc nhở nhân dân ta ta phải tiếp tục trồng cây gây rừng: “Nếu có kế hoạch trồng cây trên đồi, ai đến thăm thì trồng 1 cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào phải tốt cây ấy. Lâu ngày cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho công nghiệp”.
Từ lời dạy, việc làm của Bác Hồ, chúng ta nhận thấy rằng, con người sống không thể tách rời khỏi thiên nhiên, không thể thiếu trời mây, cây cỏ, phải biết giá trị to lớn mà thiên nhiên ban tặng. Người kêu gọi nhân dân ta phải bảo vệ rừng như bảo vệ ngôi nhà của chính mình vậy.
Ngày nay, khi “ngôi nhà chung” của chúng ta vang lên tiếng kêu cứu, khi con người nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của việc trồng và bảo vệ rừng có thể chống nguy cơ thay đổi khí hậu thì lời dạy của Người càng có ý nghĩa biết bao.
Ngoài ra:
Một vấn đề được Bác Hồ quan tâm đặc biệt lŕ sự nghiệp trồng cây, trồng người: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Rięng về việc trồng cây, vào khoảng giữa năm 1959, Bác viết bài thơ kêu gọi nông dân trồng cây.
“Muốn làm nhà cửa tốt
Phải ra sức trồng cây
Chúng ta chuẩn bị từ nay
Dăm năm sau sẽ bắt tay dựng nha”
Sau đó, nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng và đón Tết âm lịch, Bác Hồ chính thức phát động phong trŕo Tết trồng cây trong cả nước. Phong trào diễn ra trong vòng 1 tháng từ 6/1 đến 6/2/1960.
“Mùa xuân là Tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”
Kể từ khi phát động phong trào cho đến khi Bác qua đời, mỗi năm cứ khi tết đến, xuân về Bác đều tự měnh trồng cây trong Phủ chủ tịch để lŕm gương. Trực tiếp kêu gọi, theo dõi, nhắc nhở, động viên, vận động phong trào. Và không biết tự khi nào, Tết trồng cây đã trở thành một nếp sống đẹp, một truyền thống gắn bó không thể thiếu trong mỗi người dân khi xuân về.
Xã hội hiện đại là xã hội điện tử, tin học và công nghệ. Nhưng phía sau nó, xã hội hiện đại lại thải ra một lượng chất thải khổng lồ dẫn đến ô nhiễm môi trường, nguồn nước, thức ăn… ảnh hưởng đến đời sống, sức khỏe con người, thě việc trồng cây là một việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. Mỗi nhà, mỗi khu phố, mỗi ban ngành… đều phải có trách nhiệm trồng cây xanh ở khu vực mình hay ở, những nơi công cộng để bảo vệ môi trường. Đúng như những điều Bác đă dạy trong lời phát động Tết trồng cây khi xưa: “Miền Bắc có độ 14 triệu người, trong số đó độ 3 triệu trẻ em thơ ấu, 1 triệu người từ 8 tuổi trở lęn đều có thể trồng cây… Như vậy, mỗi tết trồng được độ 15 triệu cây” thì chẳng mấy chốc đất nước ta sẽ phủ xanh.
Truyện cổ tích là những giấc mơ đẹp, những khát vọng tự do, hạnh phúc và công bằng xã hội.
Câu trả lời của bạn
Đọc truyện cổ tích, ta bắt gặp những giấc mơ đẹp của người bình dân xưa. Song có khi nào ta tự hỏi tại sao họ phải mơ ước không? Con người ta mơ khi hiện thực không đáp ứng được sự mong mỏi, cho nên phải hướng về một thế giới khác, tươi đẹp hơn, đúng như mong muốn của mình. Người xưa cũng vậy, cuộc sống của họ là một bể khổ tưởng như khó lòng thoát ra khỏi được. Một cuộc sống luôn bị thiên tai, áp bức chiến tranh…Một cuộc sống bị đè nén bóc lột cả về vật chất lẫn tinh thần. Họ phải làm việc cực nhọc ngày qua ngày, năm qua năm nhưng luôn phải chịu đói khổ cực nhọc như anh nông dân nghèo Thạch Sanh… Họ luôn bị khinh thường, rẻ rúng, bị tước đoạt quyền được yêu thương, quyền làm người như cô Tấm, Sọ Dừa…Vì thế mà họ phải mơ. Mơ cũng là một cách phủ nhận, phản kháng thực tại để hướng về chân, thiện, mỹ, hướng về thế giới khác đẹp đẽ, ở họ có được sự bình đẳng trong cuộc sống, trong hôn nhân, được sống tự do, nhân nghĩa…
Khát vọng công bằng trong xã hội, một khát vọng thường trực mà ta luôn gặp trong truyện cổ tích. Dễ dàng thấy nhân vật chính nằm trong chuyện là những con người riêng, những người dị tạng xấu xí, những kẻ làm thuê, những người nghèo khó…Họ bị ngược đãi. Cô Tấm bị dì ghẻ hắt hủi, bắt làm việc tối ngày, anh nông dân bị phú ông lừa bóc lột sức lao động một cách thậm tệ. Sọ Dừa bị mọi người con thường, không được coi như con người…Họ bị đối xử bất công vậy đó! Nhưng họ có thể làm gì được nay khi chỉ là thân phận thấp cổ bé họng, thân phận con sâu cái kiến? Bởi thế họ luôn mong ước có những thế lực siêu nhiên như thần, Phật, bụt, tiên để giúp đỡ họ, làm cho họ đổi đời. Nhưng thế lực này tất nhiên không xuất hiện để thuyết minh cho một tôn giáo nào mà họ chính là đại diện cho cái thiện, cho lẽ phải, cho khát vọng của người dân về sự công bằng. Sự công bằng ở đây tức là sự chiến thắng của cái thiện trước những thế lực đen tối, độc ác. Chính vì thế, trong truyện ta mới bắt gặp những kết thúc có hậu. Thạch Sanh nghèo lấy được công chúa, cô Tấm đáng thương trở thành hoàng hậu, Chử Đồng Tử – chàng trai nghèo đánh cá – kết duyên với công chúa con vua. Rõ ràng ở đây là khát vọng phản kháng của họ. Cố nhiên chỉ là mơ ước.
Không chỉ dừng lại ở đó, người xưa còn ao ước được tự do hôn nhân, tự mình quyết định lấy hạnh phúc của đời mình. Ước mơ này là chính đáng, bởi xã hội phong kiến đã trói buộc con người đặt biệt là người phụ nữ trong các luật lệ hà khắc như ” cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, nam nữ thụ thụ bất thân, tam tòng tứ đức. Vì thế mà tự do hôn nhân có thể coi như mơ ước rất thường trực quan trọng đối với người xưa. Đó là sự giải phóng về tinh thần với họ. Nói về vấn đề này. Chử Đồng Tử hay cụ thể hơn là cuộc hôn nhân Chử Đồng Tử – Tiên Dung là một minh chứng hùng hồn. Nếu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người con gái lý tưởng phải là.
Êm đềm trướng rủ màn che.
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Con trai lý tưởng phải là:
Phong thư tài mạo tót vời.
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa.
Cuộc hôn nhân đẹp phải là giữa kẻ quốc sắc với kẻ thiên tài, gắn liền với đàn, thơ, lầu sách. Thì cách đó rất lâu, nhân dân đã có quan niệm tiến bộ: hôn nhân đẹp là giữa hai con người mang trong mình phẩm chất chứ không cần bất cứ điều kiện gì khác. Thế cho nên, Đồng Tử, Tiên Dung mới lấy nhau. Hai con người, một hiếu thảo, một tự do, phóng khoáng. Hai con người một chỉ là chàng trai đánh cá cực nghèo ở dưới đáy cùng của xã hội với một là công chúa lá ngọc cành vàng sống vương giả nơi đỉnh cao của giàu sang. Họ đã vượt qua bức tường giai cấp dày đặc ngăn cách, đã bỏ qua ràng buộc, mọi luật lệ hà khắc. Họ đã đến với nhau bằng sự cảm thông về cuộc đời nhau, bằng tiếng gọi trái tim, tiếng nói của tình yêu nguyên thủy sơ khai. Và hơn thế nữa. Tiên Dung lại là người đề nghị cưới Đồng Tử. Điều đó vừa cho thấy sự táo bạo ở nàng, vừa khẳng định vai trò của người phụ nữ trong hôn nhân. Tư tưởng này thật tiến bộ, nó vượt xa quan niệm đạo đức lạc hậu của phong kiến. Nếu như mãi đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, ta mới gặp một nàng Kiều ” xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để đến với người yêu, thì cách đó bao nhiêu thế kỷ – cha ông ta đã tưởng tượng ra một Tiên Dung còn táo bạo hơn thế. Tại sao vậy? Theo em đây là một vấn đề rất con người. Một vấn đề mà từ ngày xưa, thậm chí là đến thế kỷ XX vẫn tồn tại nóng bỏng, khiến cho bao nhà thơ, nhà văn phải nhiều lần lên tiếng.
Và như chúng ta đã biết, người Việt Nam xưa và nay đều sống rất đậm tình, nặng nghĩa, chung thủy sắt son. Bởi thế mà họ còn gửi gắm niềm tin mong mỏi của mình được chung sống hạnh phúc nhân nghĩa,vẹn toàn trước sau với mọi người trong truyện cổ tích. Trầu cau là một trong những câu chuyện rất tiêu biểu làm sáng rõ ước mơ này. Trầu cau kết thúc bằng cái chết vĩnh viễn của ba nhân vật chính. Người em, người anh và người vợ. Cái chết của họ là một bài học luôn nhắc nhở mọi người phải sống bằng chính mình, phải biết yêu thương, độ lượng, tránh sự nghi kị, ghen tuông vu vơ. Bởi tất cả đều có thể phải trả giá rất đất. Một gia đình đang sống yên vui, hòa thuận là thế mà chỉ vì một phút nhận nhầm của người vợ, ôm chầm lấy người em mà khiến người anh sinh ra ghét bỏ, hắt hủi em. Người vợ không có lỗi, chỉ vì quá nhớ thương, mong mỏi gặp chồng nên sinh ra nhầm lẫn. Người anh mới có lỗi, đã ghen tuông vu vơ, hiểm nhầm vợ và em… Cuối cùng, họ chết đi, hóa thành tảng đá, dây trầu, cây cau đứng bên nhau. Và khi ăn lá trầu với quả cau và một tí vôi thì làm môi đỏ miệng thơm. Điều đó nói lên rằng nếu vợ chồng yêu thương nhau thông cảm cho nhau. Anh em hòa thuận đoàn kết thì gia đình sẽ êm ấm.
Không chỉ mong muốn được sống hết mình mà người xưa còn muốn được sống tự do, phóng khoáng, lánh đục tìm trong giữa thiên nhiên, đất trời. Việc Chử Đồng Tử và Tiên Dung sau khi lấy nhau đã ở lại trong nhân dân để tìm kế sinh nhai chứng tỏ rằng họ muốn sống gần gũi với mọi người, muốn tự lao động bằng sức mạnh để tạo lập cuộc sống. Họ sống thanh cao không ham tiền tài, không màng danh lợi. Vì thế khi Đồng Tử gặp nhà sư Phật Quang thì cũng không còn nghĩ gì đến chuyện buôn bán, đến làm giàu mà quyết chí học đạo tu tiên. Phải chăng họ muốn thoát tục, muốn tìm về, muốn hướng tới cái đẹp thanh cao như cõi tiên, cõi bồng lai. Đặc biệt, với chi tiết chỉ trong một đêm mà nơi Đồng Tử và Tiên Dung ở bay cả lên trời thì khát vọng của họ đã được đẩy lên đỉnh cao. Họ muốn sống với cả vũ trụ bao la, với cả đất trời vĩnh cửu, họ không hề có sự trốn đời, bế tắc vì họ hoàn toàn có thể chống lại quân triều đình với thành cao, hào sâu và hàng trăm quân lính…Quả thật, tâm hồn của người xưa đã vượt ra ngoài khuôn khổ của xã hội.
Khép lại những câu truyện cổ tích thần kỳ, ta lại trở về hiện thực đương thời với biết bao chuyển động như nó vốn có. Song, âm hưởng của những câu chuyện xa xưa sẽ còn vang mãi trong ta, dấu ấn của nó sẽ đậm nét mãi trong tiềm thức và tâm tưởng của mọi người, Bởi đến với cổ tích là ta tìm đến với những giá trị nhân bản, với những triết lý sống lành mạnh chính đáng của người Việt Nam. Biết ơn những tác giả dân gian xưa đã tạo nên những câu chuyện cổ tích để giúp chúng ta hiểu hơn người xưa đã sống, muốn sống như thế nào và ngày nay còn học ở đó những gì.
Phân tích một tác phẩm văn học đã gợi cho anh (chị) những cảm nghĩ sâu sắc nhất, trước những vấn đề tu dưỡng và rèn luyện của tuổi trẻ hiện nay.
Câu trả lời của bạn
Không hiểu sao tôi yêu cái “màu đỏ" ấy đến thế, cái màu đỏ chói chang, rực rỡ, cái màu đỏ đằm thắm, dịu dàng, cái màu đỏ “như cái màu đỏ ấy" trong Cuộc chia ly màu đỏ của Nguyễn Mỹ - nhà thơ quá cố.
Trong cuộc sống có biết bao điều ta nâng niu, quý trọng, yêu mến. Bạn rất yêu bức phù điêu tạc chân đung một vị thần công lý, còn người khác lại rung động bởi nét nhạc dịu dàng, thiết tha của Chopin, và người thứ ba lại yêu bức họa cánh rừng xào xạc của Levita. Nhưng có lẽ riêng tôi, cái mà tôi yêu nhất đó là những vần thơ tươi xanh, những vần thơ lửa cháy, trong những vần thơ ấy có cái “cái màu đỏ ấy". Có thể lúc đầu đó chỉ là một tình yêu đầy cảm tính. Nhưng dần dần, cái cảm tính ấy mất đi, và nhường chỗ cho một cái gì đó cao quý lắm... mà chúng tôi không định nghĩa nổi. Tôi muốn các bạn cùng tôi yêu bài thơ ấy và màu đỏ ấy:
CUỘC CHIA LY MÀU ĐỎ
Ðó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
Trưa một ngày sắp ngả sang đông
Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa
Chồng của cô sắp sửa đi xa
Cùng đi với nhiều đồng chí nữa
Chiếc áo đỏ rực như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia ly
Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia
Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy.
Không che được nước mắt cô đã chảy
Những giọt lonh lanh nóng bỏng sáng ngời
Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi
Và rạng đông đang bừng trên nét mặt
Một rạng đông với màu hồng ngọc
Cây si xanh gọi họ đến ngồi
Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai
Ngày mai sẽ là ngày sum họp
Ðã toả sáng những tâm hồn cao đẹp!
Nắng vẫn còn ngời trên những lá cây si
Và người chồng ấy đã ra đi...
Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế
Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ
Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào
"Khi Tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau..."
Tôi biết cái màu đỏ ấy
Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người
Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp
Một làng xa giữa đêm gió rét...
Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi
Như không hề có cuộc chia ly...
Trong cuộc sống, chia ly là chuyện tất nhiên. Mỗi con người đã chứng kiến biết bao cuộc ra đi, và có người không trở về... Tôi cũng vậy, từ nhỏ tôi đã phải tiếp tục với những cuộc chia ly. Đầu tiên là trong lời ru của bà ôm tôi vào lòng, bà tôi nhẹ nhàng hát ru: “À ơi, cháu ngoan cháu ngủ với bà. Bố mày đi đánh giặc xa chưa về" - giọng ngâm trầm của hà nghe sao mà buồn, mà nhớ. Lên ba tuổi, tôi được chứng kiến một cuộc ra đi thực sự, không phải trong giấc ngủ chập chờn nữa: bà và mẹ tôi, nước mắt lưng tròng, tiễn đưa cha và các anh tôi lên đường ra mặt trận. Nhìn những giọt nước mắt long lanh trên mí mắt mẹ, tôi cảm thấy sợ, một nỗi sợ mơ hồ. Vì sao phải có những cuộc ra đi ấy? Nỗi sợ ấy lớn dần theo năm tháng.
Thế rồi một hôm, tôi cũng không còn nhớ rõ, khi chị phát thanh viên vừa đọc xong bản tin chiến thắng trên chiến trường diệt Mỹ, tôi bỗng nghe ấm áp một giọng ngâm, một người nào đó đang ngâm bài thơ Cuộc chia ly màu đỏ của nhà thơ Nguyễn Mỹ. Tôi lặng nghe và có một cái gì rất lạ đang xáo trộn trong tôi:
Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
Trưa một ngậy sắp ngả sang đông
Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ.
Cũng vẫn là khung cảnh của một cuộc chia ly, nhưng đâu còn cái màu ảm đạm, cái buồn tê tái của nỗi chia xa mà thỉnh thoảng ta vẫn gặp. Một cuộc chia ly mà lại có cánh nhạn bay, cánh nhạn “lai hồng”, và cái màu đỏ “chói ngời"trong nắng thu "vàng rực rỡ”, cả không gian như chói lên, những giọt nước mắt chia ly và giữa khung cảnh ấy con người hiện ra cũng tươi tắn, rực rỡ không kém gì cảnh vật:
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa
Chồng của cô sắp sửa đi xa,
Cùng đi với nhiều đồng chí nữa,
Chiếc áo đỏ rực như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia ly
Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia
Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy,
Không che được nước mắt cô đã chảy,
Những giọt long lanh, nóng bỏng, sáng ngời Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi
Và rạng đông đã bừng trên nét mặt ...
Một rạng đông với màu hồng ngọc
Những câu thơ vang dội vào lòng ta, dồn dập, hình ảnh nọ nổi sắc màu kia, và tất cả ngời lên trong một hòa sắc tuyệt vời: sắc đỏ chói chang, màu xanh dịu dàng và chiếc nón trắng giản dị, rất Việt Nam. Đã có cuộc chia ly nặng nề, bàng bạc một nỗi buồn, day dứt nỗi đau khiến cho người thiếu phụ “bịn rịn vào chàng" và rồi những con người ấy “bước đi một bước thây thây lại dừng". Một cuộc chia ly như thế đọng lại trong lòng người ra đi và người ở lại những nỗi buồn tê tái, nó chỉ giục người đi hãy mau mau quay về, cho dù cái đích mà mình phải tới còn rất xa, cho dù nhiệm vụ được giao rất quan ưọng, có ý nghĩa.
Đó là cảnh đi lính ngày xưa: vướng víu, buồn tủi, nặng trĩu lo âu trong lòng người đi, kẻ ở.
Tế Hanh, khi còn là một chàng thanh niên tiểu tư sản trong xã hội cũ những năm trước Cách mạng, cũng đã viết về tâm trạng của một cuộc chia ly, mặc dù tác giả không phải là người trong cuộc:
Tôi thấy tôi thương những chuyến tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vướng víu trong hơi máy
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau
(Những ngày nghỉ học - Tế Hanh)
Đó là tâm trạng thường gặp trong những cuộc chia ly trước kia, nó nặng nề như những toa tàu “'nặng khổ đau", nó nghẹn ngào bịn rịn, cái tình quyến luyến đó dĩ nhiên phải có, nhưng đến mức như vậy, nó sẽ thành một nỗi đau canh cánh trong lòng người ra đi. Sự “lưu luyến" ấy có ích gì? Cái buồn ấy tê tái quá, bi sầu quá... khiến ta tưởng như đằng sau cái ngày hôm nay xa cách, tiễn biệt là chuỗi ngày vô vọng, bặt tin xa. Cái “ngày mai" tiếp nối cái “ngày hôm nay" của họ dường như bị đóng kín.
Nhưng rồi đã đến lúc cuộc chia ly đã mang sắc màu lạc quan, đẹp đẽ, đã ánh lên sức mạnh của niềm tin. Đó là khung cảnh:
Một buổi sáng mai
Anh bước chân ra đi
... Và người vợ, chị nông dân tiễn chồng đi tòng quân, đã hứa với chồng “Giải thi đua em giật".
... Và người chồng ra đi dặn vợ:
Ruộng mình quên cày xáo
Nên lúa chín không đều
Nhớ lấy để mùa sau
Nhà cố làm cho tốt
Khác với người chinh phụ xưa kia, chị nông dân trong Thăm lúa của Trần Hữu Thung đã biến những giọt nước mắt đau đớn thành nụ cười tin tưởng. Đôi lứa ấy nghĩ đến một ngày mai hạnh phúc, sum họp. Ngày mai ấy sẽ đến khi cái ngày mai của dân tộc đến với mỗi con người.
Tình cảm của chị nông dân có cái gì đó ấm áp lắm, chưa nói ra thành lời, nhưng tất cả sự nồng cháy, thương yêu, tất cả tình yêu, nỗi nhớ hy vọng và tất cả những giọt nước mắt trong sáng lại được thể hiện một cách cao đẹp, mạnh mẽ hơn qua sắc đỏ của màu áo, trong cái yêu thương của vườn cây xanh, của Cuộc chia ly màu đỏ.
Cũng vẫn là giọt nước mắt, nhưng nét mới về chất so với những giọt nước mắt của người chinh phụ xưa kia. Cũng vẫn là những giọt nước mắt, nhưng nó “long lanh nóng bỏng sáng ngời", nó lấp lánh ánh sáng của tình yêu cao thượng và một lẽ sống đẹp đẽ. Và rồi cái chất của nhà thơ, đồng nhất với nhân vật trữ tình, đã cất lên tiếng nói, tiếng nói tin yêu về một ngày mai:
Ngày mai sẽ là ngày sum họp
Đã kia sáng những tâm hồn cao đẹp!
Nắng vẫn còn ngời trên những mắt lá
Và người chồng ấy đã ra đi...
Một tình yêu được nói đến với vườn hoa, với gốc cây si thì còn gì đẹp hơn. hợp lý hơn. Nhưng một cuộc chia ly lại được nói lên bằng tiếng nói về một ngày mai ấy, thì chỉ bây giờ đây ta mới gặp, mới cảm, mới hiểu. Tứ thơ như đọng lại với cái màu đỏ chói chang, cái màu đỏ của niềm tin và hy vọng, cái màu đỏ ấy cứ cháy lên trong lòng bạn, lòng những lứa đôi. Có những lứa đôi còn đang sống bình thản trong những vườn hoa, dưới những căn nhà khi họ đọc bài thơ này họ sẽ suy nghĩ, phải suy nghĩ, và có thể hạ sẽ tiến đến "cuộc chia ly màu đỏ" ấy. Có những lứa đôi đã xa nhau, khi đọc bài thơ này sẽ thêm tin và yêu "cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy", cái màu đỏ của chính họ, cái màu đỏ của những người khác.
Bài thơ mở đầu với cái màu đỏ chói chang, rực rỡ, tiếp diễn với cái màu đỏ ấy, và cuối cùng cái màu đỏ ấy cắt nghĩa tất cả:
Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy
Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người
Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp
Một làng xa giữa đêm gió rét...
Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi
Như khônq hề có cuộc chia ly...
Điều kỳ diệu và sâu sắc biết bao nhiêu “cáimàu đỏ ấy", nó như một vị thần hiển hiện, nói như một cái gì đó vĩnh cửu. Có lúc cái màu đỏ ấy hiện lên bằng sự gợi nhớ, gợi thương của bông hoa chuối, có lúc nó hiện lên lung linh trong ánh lửa hồng ấm áp, tỏa sáng trong đêm gió rét. Thế nghĩa là cái màu đỏ ấy luôn ở trong tim, luôn ngời trên khóe mắt, nó thúc giục, động viên, nó hiện lên trên “đầu súng trăng treo” mội đêm diệt địch. Cao quý biết bao cái màu đỏ ấy. Nó cắt nghĩa cả, đơn giản, logic, dễ hiểu. Làm sao có được khái niệm “chia ly” khi giữa hai đầu không gian phải là khoảng trống mà nóng bỏng, ấm áp sức nóng của ngọn lửa sum hợp. Cái khái niệm ấy tan biến đi “như không hề có cuộc chia ly".
Yêu sao cái màu đỏ ấy và những con người ấy. Tôi biết trong cuộc chiến tranh thần thánh của chúng ta chống lên ác thù xâm lược đế quốc Mỹ, đã không trở về. Nhưng cái màu đỏ chói chang sắc nấng mà niềm tin ấy, mỗi con người đã giữ trong mình trọn vẹn.
Tôi nhớ lại một câu thơ nói: “Anh đã cùng em yêu “cuộc chia ly màu đỏ" mà trong lòng trào lên một niềm xúc động, xen lẫn sự hổ thẹn”. Có những người đã dám xa nhau và đã yêu “cuộc chia ly màu đỏ”, có những người đã ngã xuống để bảo vệ sự thiêng liêng của sắc đỏ ấy, họ biết yêu thương nhau và yêu đất nước, vậy mà tôi, tôi lại sợ những cuộc chia ly như thế hoặc tương tự như thế?.
Từ kỉ niệm của bản thân, tôi hiểu rằng cũng có bao người như tôi, cũns đã nghĩ và hiểu không đúng về những gì đang diễn ra xung quanh ta., và rồi hôm nào đó, cũng sẽ được một bài thơ tuyệt diệu như vậy cảm hóa, tôi không còn thấy sợ chia ly nữa. Tiếng còi tàu vang lên trong đêm khuya tĩnh mịch không còn gợi cho tôi một nỗi sợ, một nỗi buồn, tôi nghe trong đó tiếng reo vui của những trái tim đang về với trái tim, sự sống đang được trả về với sự sống, và tôi hiểu rằng sự ra đi của cha và các anh tôi có một ý nghĩa đặc biệt: nó làm nên con tàu trở về.
Tôi tự hỏi: không biết đôi cánh nào của thơ ca đã bay đến cùng tôi, cùng các bạn, để đốt lên trong chúng ta ngọn lửa tôi yêu và gột rửa trong ta những vết hằn của thời gian?
Tôi nhớ lại câu hỏi của Maiakovski: "Trên đời, có những vấn đề chỉ có thể giải quyết được bằng thơ". Phải chăng đôi cánh của thơ ca chính là dòng tình cảm chân thật, đằm thắm?
Thơ ca mang những tâm trạng đến với những tâm trạng, thơ ca có khả năng bao quát sâu rộng không gian và thời gian, từ đó gợi mở trong lòng người những gì chưa có. Những cái đó sẽ rất lâu trong lòng ta, có những lúc nó sẽ bùng lên dữ dội, nó sẽ giúp cho ta hiểu và đánh giá chính ta và những con người xung quanh ta, từ đó sẽ tự ta cải tạo, sẽ nâng con người ta lên.
Tôi nhớ mãi những lời thơ ấm áp, tin yêu, những lời thơ với những hình tượng thơ độc đáo, giàu tính thẩm mỹ này. “Cái màu đỏ” mà tác giả mượn trong bài thơ của mình là một trong số vô vàng hình tượng mà tác giả có thể mượn để nói lên một niềm tin, một tình yổu và sự sum họp. Nhưng đó là cái độc đáo nhất để diễn tả một cái gì đó ấm cúng, gợi lên niềm tin và một ngày mai: một ánh lửa hồng trên bếp, màu đỏ của sắc hoa trong vườn xuân. Và Nguyễn Mỹ đã chọn “Cúi màu đỏ ấy" - hình tượng thơ ấy là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ của mình. Cũng như một lần Nguyễn Duy đã lấy “hơi ấm ổ rơm" để viết về tình người nồng thắm, một Hoàng Nhuận Cầm đã mượn tiếng kêu của chú ve kim để viết cái lạc quan, yêu đời của những người lính. Và tất cả, tất cả những hình tượng thơ đẹp đẽ, giàu tính điển hình ấy đi vào trong lòng người đọc một cách nhẹ nhàng, tinh tế mà thấm sâu hơn nhiều tiếng nói khác.
Nói chung, khoa học là tiếng nói của lý trí, văn học là tiếng nói của tình cảm. Tinh cảm và lý trí phải kết hợp với nhau, gắn bó hữu cơ với nhau. Trái tim có rung động, khối óc mới được trong suốt nhuần nhuyễn. Ta hiểu vì sao mà bài thơ Cuộc chia ly màu để lại có tác dụng sâu sắc đến thế trong lòng người đọc. Ta cũng hiểu vì sao văn học nghệ thuật nói chung lại trở thành một “Cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống " (Secnusepxki), trở thành nguồn suối tắm mát tâm hồn quần chúng. Văn học có phải là một cái gì cao siêu, thần thánh đâu, văn học là hơi thở của biển, là làn gió thơm hương lúa, là gương mặt những người chung quanh ta và chính ta... Chúng ta đến với văn học từ khi chập chững biết đi, và văn học đã giúp ta đốt cháy thời gian để “khôn” là "lớn”. Đọc thơ, ta hiểu được cái đẹp của “cuộc chia ly màu đỏ”, đọc sách ta hiểu được một trái tim nhiệt thành và nghị lực sắt đá của Paven Corsaghin. Hiểu rồi, ta sẽ yêu, yêu cái đẹp của tự nhiên, xã hội, yêu tiếng cười trẻ thơ, yêu nhịp sống chảy cuồn cuộn trong lòng thời đại.
“Hãy yêu! Hãy yêu! Và bảo vệ...” (Chế Lan Viên). Đó là tiếng nói và mệnh lệnh của mỗi trái tim con người.
Tôi suy nghĩ nhiều về nhiệm vụ của những người cầm bút và nhiệm vụ của những người đọc những dòng chữ quý giá đó. Thay mặt cho hàng vạn, hàng triệu trái tim, người nghệ sĩ (và có thể là chiến sĩ) nhà thơ đã viết lên tâm sự của họ, nói tiếng nói của tâm hồn họ. Tôi suy nghĩ nhiều về tác động của bài thơ Cuộc chia ly màu đỏ đối với các thời đại - các thế hệ thanh niên. Nhà thơ Nguyễn Mỹ - tác giả của bài thơ - đã ngã xuống, nhưng biết bao thế hệ thanh niên đã đọc và yêu thơ của anh. Và đến hôm nay, vân đề mà Nguyễn Mỹ đã đặt ra vẫn mang tính thời đại sâu sắc. Sự ra đi. Chiến tranh đã kết thúc nhưng đâu phải là những chuyến tàu ngược xuôi đã ngừng chuyển bánh. Đâu phải sự sum họp là vĩnh viễn. Không! Sông Đà “tóc dài tuôn như một áng tóc trữ tình" (Nguyễn Tuân) đang gọi ta, những miền quê ta chưa tới, ta chưa biết đang chờ ta. Tạm biệt mảnh đất quê hương, ta ra đi và tin lưởng: đâu cũng là nhà.
Nghe Đảng gọi ra đi
Mở những vùng quê mới
Nhớ buổi ấy chia ly
Quê cũ mà đi tới Có nỗi nhớ hàng tre
Con sông đào trước ngõ
Có nỗi nhớ xóm nhỏ
Con đường nắng lim dim
(Quê mới - Thanh Hải)
Nhưng không phải bao giờ và ở đâu, sự ra đi cũng dễ dàng, thanh thản. Có những người không bứt mình ra khỏi hiện tại, có những người còn luyến tiếc một cái gì đó. Không, chúng ta không thể là những con người như thế. Hãy nhớ về “Cuộc chia ly màu đỏ" để mà yêu thêm, tin thêm vào con người và bản thân mình. Giữa những năm tháng khói lửa, "Khi Tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau”, thì chúng ta, giữa những năm tháng đẹp đẽ này, cũng sẽ biết sống xa nhau, sống vì nhau, sống cho nhau.
Sống trên những mảnh đất của những con người biết yêu thương nhau và yêu đất nước, tôi cảm thấy có một cái gì đó lớn dần lên trong tôi, cái đó là gì, thật khó định nghĩa, nhưng tôi luôn luôn ước mơ về một ngày mai ấy, cái ngày mai mà có thể tôi sẽ ra đi, ra đi để làm người lao động chân chính, người kế tục xứng đáng, người chủ của những di sản lớn lao mà cha ông ta đã dành lại trong máu và nước mắt.
Và có một lúc nào đó, khi tiếng còi rúc lên trong đêm khuya yên ả của một ngày lao động, một ngày sống có ý nghĩa trong cuộc sống có ý nghĩa của chúng ta, khi tiếng còi tàu báo hiệu một sự ra đi hay trở về vang lên, và trong tôi không còn cái sợ hãi, đau buồn rồi chia xa, thì tôi còn nhớ lại hôm nào xa, rất xa, tôi được đọc bài thơ ấy và đến bây giờ mới có được tâm trạng ấy. Hơn bao giờ hết tôi cảm thấy tha thiết cái hôm nay, rộn rã tiếng cười ấm áp những niềm vui và âm vang tiếng còi tàu rộn rã ngược xuôi, đưa trái tim về với trái tim, đưa sự sống trả về sự sống.
Nghị luận xã hội: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia.
Câu trả lời của bạn
Theo tôi hiểu, hiền tài là nguyên khí của quốc gia, đấy chính là khát vọng của cả dân tộc. Nếu nói theo nghĩa đen của Đông y, “nguyên khí” không mùi, không màu, không vị nhưng con người không có nguyên khí là con người chết. Nguyên khí chính là sức sống của mỗi quốc gia. Ngay từ khi còn nhỏ, mới cắp sách đến trường, tôi đã được các thày cô dậy về lòng tự hào quê hương Thái Bình đã sản sinh ra nhà bác học, nhà giáo Lê Quý Đôn, ông đã có những nhận định trở thành chân lý cho mọi thời đại “Phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng” có nghĩa là đất nước muốn hưng vượng phải nhờ vào trí thức.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trí thức cho đến nay vẫn chưa định hình. Hiền tài đương nhiên là trí thức. Người xưa, quan niệm trí thức là người được học rộng, biết nhiều, có trình độ đào tạo cao hơn mặt bằng chung của xã hội. Theo từ điển :”Trí thức là người sử dụng trí tuệ làm việc, nghiên cứu, phản ánh, dự đoán hoặc để hỏi và trả lời các các câu hỏi liên quan hàng loạt những ý tưởng khác nhau”. C.Mac định nghĩa :” Trí thức là người nói sự thật, phê bình không nhân nhượng về những gì hiện hữu. Không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không lùi bước trước kết luận của chính mình, hoặc xung đột với quyền lực, bất cứ quyền lực nào”.
Ngày nay, theo quan điểm chính thống, trí thức là những người lao động trí óc. Thái độ của trí thức là thước đo sự tiến triển của chế độ. Gs Cao Huy Thuần đại học Picardie (Pháp) định nghĩa :“Ai đánh thức không cho xã hội ngủ, người ấy là trí thức bất kỳ họ là ai”. J.P.Sartre, triết gia lừng danh người Pháp đã nói “Nếu ai đó chế tạo ra quả bom nguyên tử, thì người đó là bác học, chỉ khi nào ông bác học ý thức được cái khí giới giết ngươi ghê gớm ấy, đứng lên hô hào chống bom nguyên tử, lúc đó ông ta là trí thức”.
Lịch sử nhân loại, việc dùng người mỗi thời khác nhau tùy theo hoàn cảnh lịch sử, thời thế và vai trò, nhiệm vụ. Đông-Tây, kim-cổ người có thực tài và là người trí thức chân chính đều có “mẫu số chung” trong cách ứng xử với xã hội và tầng lớp cầm quyền. Người chân chính có thực tài thật là hiếm hoi, cần phải biết tìm, biết trân trọng. Thời Tam quốc chí, Lưu Bị được lên làm vua cai trị nước Thục nhờ sáng suốt biết thu phục nhân tâm và trọng dụng người tài. Điển hình là ông đã 3 lần thực tâm cầu hiền, không quản đường xa, khẩn cầu Khổng Minh một nhân tài đa mưu, túc kế ra phò tá làm quân sư. Tần Thủy Hoàng vị Hoàng đế Trung Hoa đầu tiên có công thống nhất đất nước nhưng cai trị đất nước bằng bạo quyền, đốt sách, không coi trọng trí thức chỉ được thời gian ngắn đất nước lại hỗn loạn, phân ly.
Đất nước ta, từ xưa đến nay lúc nào cũng nhiều người hiền tài, tuy nhiên từng thời kỳ, từng lúc mà nguồn hiền tài đó được khơi ra như thế nào. Có nghĩa là khi được quan tâm, trọng dụng thì hiền tài sẽ có, tri thức sẽ nhiều. Người có học vấn thường có khả năng phán đoán và nhận định tình hình sáng suốt hơn người thường. Thời phong kiến, ở nước ta đã có biết bao bài học khi biết trọng dụng trí thức thì công cuộc bảo vệ tổ quốc, chống ngoại xâm và xây dựng đất nước phát triển rất hiệu quả nhờ tầng lớp trí thức lãnh đạo biết khơi dạy, hòa đồng cùng với nhân dân xả thân vì nghiệp lớn. Bài “Hịch tướng sĩ” của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, bài thơ bất hủ của Lý Thường Kiệt xác định chủ quyền của đất nước “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” hay bản hùng văn lịch sử của Nguyễn Trãi :”Bình Ngô đại cáo” là minh chứng cho sự sáng suốt của các tiền nhân biết coi trọng và sử dụng trí thức là các nhà quân sự, nhà tư tưởng chiến lược của thời đại.
Mặc dù, chế độ phong kiến chỉ cho phép sĩ phu tiến thân trong chốn quan trường nhưng các bậc trí thức hiền tài khi thấy ý kiến của mình không được Vua tôn trọng, đã sẵn sàng rũ áo, từ quan về ở ẩn. Ông Chu Văn An nổi tiếng là bậc Thánh hiền, ngay khi đỗ Thái học sinh, ông từ chối làm quan, không màng danh lợi về quê mở trường dạy học có nhiều môn sinh. Vua Trần Minh Tông biết tài của Chu Văn An mời ông vào triều dạy học cho thái tử và các con đại thần. Đến đời vua Trần Dụ Tông thấy nhiều đại thần xung quanh Vua là nịnh thần, tham quan, nhà giáo Chu Văn An đã dũng cảm dâng sớ, hạch tội và xin chém 7 kẻ tội thần. Vua không nghe, ông liền treo ấn, từ quan về ở ẩn. “Thất trảm sớ” nổi tiếng của nhà giáo Chu Văn An vẫn còn được truyền tụng mãi đến muôn đời sau. Thời Vua Quang Trung, biết rõ Ngô Thời Nhậm có tật nhưng vẫn sử dụng vì biết ông ta có tài. Tiếc thay, bậc minh quân tài giỏi như vua Quang Trung lại đoản thọ nên nghiệp lớn vẫn còn dở dang.
Năm 1930, thời kỳ đầu của cách mạng, tư tưởng của một số người có thẩm quyền xuất phát từ nền kinh tế “tiểu nông” lạc hậu, nên đã ấu trĩ đề ra chính sách sai lầm coi trí thức như kẻ thù cần đả phá với khẩu hiệu “ Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Thời thế tạo ra anh hùng. May mắn cho dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh xuất hiện với tư duy, tầm nhìn sáng suốt, khôn ngoan nhờ tích lũy và sàng lọc theo thời gian trong những năm tháng lăn lộn ở xứ người đã cảm hóa, thuyết phục được nhiều nhân sĩ, trí thức tiêu biểu, một nhân tố cực kỳ quan trọng để gọi dạy sức mạnh đoàn kết dân tộc, từ bỏ cuộc sống “nhung lụa”, bất chấp hiểm nguy, vào bưng, ra chiến khu đi theo kháng chiến tiêu biểu như Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng, Nguyễn Hữu Thọ,...
Khi thành lập Chính phủ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có công thư “Tìm người tài đức” đăng báo để công khai, minh bạch vì Bác sợ rằng “không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những người tài đức không thể xuất thân”. Bác Hồ đã làm công tác cán bộ trên cơ sở dựa vào thành ý và minh tâm của dân để tuyển chọn và sử dụng người tài, chứ không cho rằng công tác tổ chức là chỉ thuộc về Đảng, làm trong nội bộ Đảng rồi đưa ra thuyết phục, thường là áp đặt, để dân chấp nhận.
Sau này, một số người có thẩm quyền với cách nhìn hẹp hòi, thiển cận về lý lịch, thành phần đã chuyên quyền, bỏ qua không đào tạo và sử dụng nhiều người có năng lực, và chí khí cần thiết cho công cuộc tái thiết đất nước. Họ chưa thấm nhuần lời dậy của Hồ Chủ Tịch: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý”. Ngày nay, cơ chế và tuyển chọn cán bộ vẫn còn “chuyên quyền”, dễ thấy nhất là sự hẹp hòi, thiển cận không dám dùng và không biết dùng những người có thực tài ngoài Đảng. Thời đại ngày nay, do nền kinh tế thị trường, những trí thức có năng lực thực sự và tự trọng cao, không còn chí thú theo đuổi, cố bám vào cái ghế quyền lực để tiến thân. Có những lúc các cụ ta phải kêu lên:
“Nhân tài như lá mùa thu
Tuấn kiệt như sao biển sớm”
Đó là lúc báo hiệu đất nước sẽ suy vong, lòng người ly tán. Bởi vậy, nhiều người cho rằng, nếu Đảng và Nhà nước không có cơ chế tuyển chọn công khai, minh bạch (trí thức thích thi thố tài năng) và chính sách đãi ngộ, môi trường làm việc thích hợp thì rất khó tuyển chọn được những người hiền tài cho đất nước. Người được tuyển chọn trong vòng luẩn quẩn “chuyên quyền” đó, dễ dẫn đến một số người lọt vào “mắt xanh” của Đảng nhưng lại không đủ tâm và tầm để sử dụng nguồn nhân lực có trí tuệ, người giúp việc tài giỏi hơn mình.
Cổ nhân đã dạy :”Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” có nghĩa là ngay cả người tầm thường cũng phải chịu trách nhiệm trước sự hưng vong của đất nước. Trí thức lại càng phải có trách nhiệm hơn thế!. Ngày nay, tiếp tục truyền thống của cha ông, trí thức cần được rèn luyện để trở thành hiền tài có vai trò và trách nhiệm cống hiến tài năng vào tiến trình phát triển đất nước. Người khôn học kinh nghiệm lịch sử, kẻ dại học kinh nghiệm bản thân. Thời xưa, có những nhà vua anh minh đề ra chức “Gián quan” được miễn tội chém đầu để can ngăn những việc không đúng, không nên làm của Vua. Tri thức thời nay là tầng lớp tinh hoa của xã hội, sáng tạo ra các giá trị tinh thần, tôn trọng chân lý phải biết làm phản biện chính là hình ảnh của “gián quan” thời xưa nhưng được nâng lên tầm cao mới theo tư duy của xã hội dân chủ và phù hợp với thời đại toàn cầu hóa của nền kinh tế tri thức.
Chúng ta tin vào sức năng động tự thân của dân tộc, sự sáng tạo và bền bỉ của giới trí thức như ngọn lửa bùng lên để những người có trọng trách biết suy nghĩ, trọng dụng, quy tụ, sử dụng đội ngũ trí thức, nhất là các bậc trí thức lão thành, tâm huyết có kinh nghiệm, bản lãnh hiến kế cho tiến trình xây dựng đất nước. Các bậc trí thức hàng đầu của đất nước, theo quy luật của tạo hóa sẽ có lúc phải ngừng nghỉ, đó là khoảng trống mênh mông để lại.
Tôi được nghe kể, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mới đến thăm chúc sức khỏe Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhân kỷ niệm 55 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ. Câu đầu tiên Đại tướng hỏi Thủ tướng là về dự án bauxite Tây Nguyên. Thủ tướng chân tình, giải đáp ý kiến của Đại tướng đã được Chính phủ nghiêm túc tiếp thu, nghiên cứu, Bộ Chính trị cũng rất quan tâm đến vấn đề này. Có thể nói người phản biện dự án bauxite Tây Nguyên, nhà trí thức lão thành cách mạng nổi tiếng Võ Nguyên Giáp luôn trăn trở, suy nghĩ về đất nước đã được Thủ tướng chân thành, cầu thị, tiếp thu tuy hơi muộn nhưng đó là bài học vô giá về sử dụng hiền tài của quốc gia trong thời đại ngày nay.
Nhìn xa, hiền tài phải được hướng tới lớp người trẻ tuổi bởi vì họ mới là lớp người có khả năng tiếp thu cái mới, sáng tạo, phụng sự đất nước khi còn sung sức. Khơi nguồn hiền tài từ lớp trẻ, đặc biệt là tuổi trẻ trí thức là con đường lâu dài và đúng đắn nhất. Cần tạo môi trường cho trí thức làm việc, phát huy năng lực, đãi ngộ xứng đáng công sức, thành quả họ mang lại. Tuy nhiên, vẫn có luồng ý kiến, trí thức chân chính không cần đãi ngộ, họ sẽ tự biết tìm cách để sáng tạo và tự sử dụng mình vào những công việc hữu ích cho tổ quốc. Có thực tế, “luật bất thành văn”, trong hệ thống xét duyệt, bổ nhiệm cán bộ cao cấp của Nhà nước không có chỗ dung thân cho những trí thức tài giỏi ngoài Đảng. Có nghịch lý, khá nhiều trí thức tiêu biểu cũng lại không thiết tha vào Đảng để làm con đường tiến thân.
Nếu chúng ta hiểu một cách sâu sa chân lý “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” không cần phải đốt đuốc lên mới thấy được người có thực tài mà chỉ cần có kế sách cụ thể, thực sự trân trọng tài năng, khiêm nhường mời gọi người tâm huyết để khơi nguồn hiền tài còn rất nhiều tiềm năng của đất nước để làm cho đất nước hưng thịnh và hiền tài ngày một nhiều thêm. Trong công tác cán bộ Hồ Chí Minh luôn coi trọng dân, phải theo ý dân :” “Dựa theo ý kiến của họ mà cất nhắc cán bộ, nhất định không xảy ra việc thiên tư thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng”. Không hiểu vì sao lúc này, tôi lại tự vấn và ước ao nếu những người làm công tác cán bộ không buôn bán quyền lực, thực sự thấu hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh thì giới tinh hoa của trí thức kể cả trong và ngoài Đảng lại đồng nghĩa với giới lãnh đạo thì chắc chắn đất nước sẽ hưng thịnh, hội nhập và xã hội sẽ ổn định, phát triển vững bền.
Bình luận về câu nói: "Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả, Anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường" - Điđơro.
Câu trả lời của bạn
Trong xã hội, có người công thành danh toại, cũng có kẻ suốt đời lao đao, lận đận chẳng làm nên chuyện gì đáng kể. Có người sống không hề băn khoăn về mục đích sống, tựa như con tàu ra biển không xác định hướng đi, sống không ai biết, chết chẳng ai hay. Lại có người ý đồ thì rất lớn mà sự nghiệp rất nhỏ. Chuyện thành công hay thất bại do rất nhiều nguyên nhân tạo nên, trong đó chủ yếu là mục đích. Nhà văn Pháp nổi tiếng Điđơro đã nhận xét: “Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả, anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường”.
Câu nói của ông muốn đề cập đến tính mục đích của mọi công việc, mọi hoạt động của con người. Con người phải có mục đích sống. Mục đích sống tốt đẹp là nguồn động viên con người phấn đấu để đạt được kết quả tốt đẹp hơn, sống hữu ích hơn trong xã hội.
Nhận xét trên của Điđơro hoàn toàn chính xác. Trong đời sống hàng ngày, thường khi bắt tay vào làm một việc gì, người ta đều đặt ra mục đích của công việc đó. Vậy mục đích là gì? Mục đích là yêu cầu đặt ra trước khi thực hiện một công việc. Chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản rằng mục đích chính là cái mà ta cần phải phấn đấu để đạt được trong quá trình thực hiện công việc, là kết quả cuối cùng phải đạt được mà con người xác định trước khi hành động. Nó sẽ hướng mọi suy nghĩ, hành động, tập trung ý chí, nghị lực của con người để đạt được yêu cầu đã đặt ra.
Mục đích là kim chỉ nam của con người cho nên con người không thể sống, làm việc mà không có mục đích nào cả.
Khác với mọi loài thú khác sống theo bản năng tự nhiên, con người có trí tuệ , soi sáng nên thường đặt ra yêu cầu cụ thể trước mỗi việc làm hay còn gọi là mục tiêu hành động và trí tuệ chi phối mọi suy nghĩ. Loài người thường dùng lí trí để phân biệt đúng sai, nên hay không nên khi hành động. Hành động thiếu mục đích thường không có hiệu quả. Trước khi làm một việc gì, con người thường đặt ra mục đích cần phải đạt đưực rồi tìm mọi cách để thực hiện mục đích ấy. Từ trước tới nay, đã có biết bao nhà bác học nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo trên mọi lĩnh vực để đem lại những kết quả tốt đẹp nhất, nhằm mục đích giúp ích cho đời sống con người.
Mục đích sẽ mở ra phương hướng, dẫn dẵn mọi hoạt động của con người.
Có mục đích, con người mới có động lực thúc đẩy trong công việc, có niềm vui và niềm tin vào việc mình làm. Ngược lại, nếu sống không có mục đích, con người sẽ trở nên thụ động, bạc nhược và vô dụng, cuộc đời mất hết ý nghĩa.
Trăm ngàn công việc với trăm ngàn mục đích khác nhau; mục đích có lớn, nhỏ, xấu, tốt, tầm thường. Mỗi người đều có một mục đích sống riêng của mình. Tầm quan trọng của mục đích là điều ai cũng phải công nhận nhưng mục đích như thế nào là chuyện cần bàn. Điđơro rất có lí khi nói: Anh cũng sẽ không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường.
Thế nào là mục đích tầm thường? Một kẻ chỉ nghĩ đến quyền lợi của cá nhân, làm gì cũng chỉ nhằm đạt kết quả cho cá nhân mình, cho gia đình mình mà không nghĩ đến quyền lợi của những người xung quanh thì mục đích ấy là mục đích tầm thường, ích kỉ. Cách sống của người đó không có ích cho toàn thể cộng đồng. Bên cạnh đó, không ít người sống có mục đích cao thượng tốt đẹp. Họ là những con người có ích cho xã hội, gia đình và suốt đời cống hiến cho dân, cho đất nước, không màng gì đến bản thân. Họ sẵn sàng hi sinh tất cả để đất nước ngày càng giàu đẹp, nhân dân ngày càng sung sướng.
Động cơ nào thúc đẩy họ làm việc quên mình nếu không phải là mục đích đẹp đẽ và cao thượng? Như vậy, mục đích cao thượng chính là ngọn đuốc chỉ đường, là nguồn sức mạnh động viên con người tập trung ý chí, nghị lực và trí tuệ để thực hiện mọi công việc. Nhờ có mục đích lớn và tinh thần làm việc không mệt mỏi mà các nhà khoa học đã sáng tạo ra bao công trình vĩ đại cho nhân loại.
Thực tế lịch sử cho thấy những tên tuổi lưu danh muôn đời đều là những người có mục đích sống lớn lao, cao cả. Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Hồ Chí Minh... cùng chung một khát vọng: bảo vệ Tổ quốc, đánh đuổi ngoại xâm, giành chủ quyền độc lập, tự do, thiêng liêng cho dân lộc. Công lao to lớn của các vị anh hùng đó đời đời được nhân dân ca tụng và ghi nhớ.
Trong hoàn cảnh đổi mới hiện nay, các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta ngày đêm trăn trở, tìm hướng đi đúng đắn nhất để khôi phục và phát triển kinh tế, nâng cao mức sống cho nhân dân, xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh như Bác Hồ hằng mong muốn. Đó là mục đích tốt đẹp. Mục đích đó đã tạo ra sức bật mới cho toàn dân tộc. Nhân dân ta bước đầu đã gặt hái được những thành công đáng kể.
Trong thời đại mới, sức mạnh của mỗi dân tộc không chỉ ở lòng dũng cảm và số lượng đông đảo quân đội như trước đây. Ngày nay, sức mạnh của mỗi dân tộc là sức mạnh của trí tuệ, của khoa học kĩ thuật và kinh tế phồn vinh. Các cường quốc trên thế giới đều là những nước kinh tế phát triển cao. Đối với nước ta, điều đó chỉ thực hiện được khi chủ nhân của đất nước là những người có trình độ văn hóa khoa học kĩ thuật cao, có khả năng hòa nhập với trình độ của thế giới. Muốn vậy, không có cách nào khác là chúng ta ra sức học tập thật tốt, học hỏi không ngừng.
Mục đích học tập tốt sẽ có tác dụng rất lớn đến việc hình thành và phát triển nhân cách. Nó làm cho con người ngày càng trở nên hoàn thiện hơn, hữu ích hơn cho gia đình, xã hội.
Là thành viên còn nhỏ tuổi trong gia đình và xã hội, được cha mẹ cho cắp sách đến trường, liệu có ai đặt câu hỏi: Học để làm gì hay không? Nếu chúng ta xác định không đúng thì dễ nản lòng khi gặp khó khăn trong học tập. Quá trình học tập từ lớp 1 đến lớp 12 phải là quá trình rèn luyện phấn đấu không mệt mỏi của người học sinh.
Nhưng mục đích tốt đẹp của mỗi người không phải tự nhiên mà có. Nó là kết quả của một quá trình rèn luyện và phấn đấu lâu dài của mỗi cá nhân. Ớ lứa tuổi học sinh chúng ta, mục đích cao đẹp không phải là cái gì xa xôi, khó đạt tới. Chúng ta cần có nhận thức đúng đắn: Học tập là để nâng cao trình độ hiểu biết, nắm vững khoa học kĩ thuật, sau này dùng những tri thức đã học được để phục vụ đồng bào, Tổ quốc. Việc học tập của chúng ta hôm nay sẽ quyết định tương lai đất nước ngày mai. Như vậy là chúng ta đã có được mục đích tốt đẹp. Câu nói của nhà văn Pháp Điđơro thật thấu tình đạt lí.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *