Bài học Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu giúp các em cảm nhận được suy nghĩ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh khi phát hiện ra mâu thuẫn éo le trong nghề nghiệp của mình; từ đó thấu hiểu mỗi người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Thấy được kết cấu độc đáo, cách triển khai cốt truyện rất sáng tạo. Thông qua video bài giảng kết hợp với soạn bài và phần bài học, DapAnHay chúc các em có thêm nhiều tiết học hấp dẫn và hiệu quả hơn tại lớp.
⇒ Cảm thấy hạnh phúc chất ngất, cảm nhận được cái Thiện, cái Mĩ của cuộc đời, cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, trở nên trong trẻo, tinh khiết.
⇒ Cuộc sống con người không đơn giản, người nghệ sĩ không thể dễ dãi, giản đơn khi nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của đời sống.
⇒ Quan niệm: nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời và phải là cuộc đời, luôn luôn vì cuộc đời.
⇒ Tình huống được đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu để thể hiện tính cách con người và cuộc đời.
Mời các em cùng tổng kết lại nội dung chính của bài học qua sơ đồ sau:
Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
“Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu viết năm 1983. Qua tác phẩm nhà văn xây dựng một tình huống truyện độc đáo. Tình huống nhận thức mang tính khám phá, phát hiện về đời sống. Để nắm được nội dung kiến thức cần đạt về văn bản này, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Chiếc thuyền ngoài xa.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới: Sáng tác của ông viết trong những năm 80 thường hướng đến đời thường, khám phá về số phận và phẩm cách con người trong thực trạng đa đạng và phức tạp cuộc sống. Để hiểu và phân tích được truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Nêu suy nghĩ về hai ý kiến về nhân vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Hóa thân vào nhân vật Phùng để kể lại truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu
- Phân tích những phát hiện của nhân vật Phùng trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa và liên hệ với cái chết của Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
- Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích sự nghịch lí trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích giá trị hiện thực trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích hình tượng Chiếc thuyền ngoài xa trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích đoạn cuối tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- So sánh nhân vật người vợ nhặt (Vợ Nhặt – Kim Lân) và người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu)
- Phân tích nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích nhân vật Đẩu trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Nghị luận về nạn bạo hành gia đình qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Phân tích chi tiết tấm ảnh nghệ thuật trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Cách nhìn hiện thực cuộc sống của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Sự biến đổi nhận thức của nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Hành trình nhận thức của nhân vật Phùng trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Cảm nhận về người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Tình huống nhận thức trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
cảm nhận của em về đoạn trích truyện ''chiếc lược ngà'' của nguyễn quang sáng
Câu trả lời của bạn
1. Đặt vấn đề
Nguyễn Minh Châu được đánh giá là một người mở đường tinh anh và đầy tài năng của nền văn học Việt Nam những năm sau đổi mới. Sáng tác của ông giai đoạn này chủ yếu thường hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết có thể nói không quá dòng tài năng của ông xứng đáng được xếp vào những hàng tài năng xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại bởi trình độ nghệ thuật cũng như chất lượng tư tưởng.
“ Chiếc thuyền ngoài xa” được viết năm 1983 đã thể hiện được những khám phá quan trọng của nhà văn từ cuộc sống nghệ thuật của thời kì mới. Thành công về nghệ thuật nổi bật của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm này có thể kể tới việc ông xây dựng tình huống truyện vô cùng độc đáo.
2. Thân Bài
* Khái niệm tình huống
- Là một sự kiện đặc biệt của đời sống được mô tả trong tác phẩm mà tại sự kiện đó nhà văn đã làm sống dậy một tình thế bất thường có tính chất éo le và gây bất ngờ giữa các nhân vật tại sự kiện đó, tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét, ý tưởng của nhà văn cũng hiện hình khác trọn vẹn. Các nhà văn lý luận vẫn đưa ra ba loại tình huống phổ biến.
Trong truyện ngắn “ chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một hệ thống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống, tình huống nhận thức.
3. Kết bài
Vừa là đồng hương vừa là bạn chiến đấu của nhiếp ảnh Phùng là chánh án Đẩu. Đẩu là người tốt bụng, đầy trách nhiệm, anh luôn đứng về người phụ nữ nạn nhân của sự bảo hành để bênh vực họ. Anh mời người vợ đến tòa án huyện để khuyên bà ta ly hôn với chồng. giải thoát cho người đàn bà khỏi người chồng vũ phu: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với gã đàn ông vũ phu ấy đâu! Chị nghĩ thế nào” Chánh án Đẩu muốn giúp người đàn bà, muốn dùng pháp lý và đạo lý để bảo vệ chị ta như anh quả là xa vời. Thực tế khi chưa hiểu rằng cuộc sống của người phụ nữ làng chài cần có một người đàn ông làm trụ cột.
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu thời kì chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sự bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích trong sách giáo khoa đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng của tình phụ tử.
Truyện ngắn này được viết năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nội dung truyện là tình cha con của cha con ông Sáu và thông qua đó nói lên sự ngặt nghèo, éo le mà chiến tranh đem lại. Tuy đây là một đề tài muôn thuở trong văn chương nhưng chính vìthế giá trị nhân văn của truyện càng trở nên sâu sắc.
Truyện xoay quanh đề tài tình cảm cha con ông Sáu mà tác giả Nguyễn Quang Sáng đã chú trọng đặc biệt đến nhân vật bé Thu - một nhân vật có nội tâm đầy sự mâu thuẫn. Thu là một cô bé phải sống xa cha từ nhỏ. Tuy vậy trong tâm tưởng của Thu, hình ảnh người cha phải xa cách từ lâu luôn luôn tồn tại qua những tấm ảnh. Mặc dù yêu cha là thế nhưng khi gặp cha rồi Thu lại có những hành động mâu thuẫn với suy nghĩ của mình. Khi nghe tiếng ông Sáu gọi con, Thu đã không hề mừng rỡ như ông Sáu vẫn tưởng, nó giật mình, tròn mắt nhìn, ngơ ngác lạ lùng, chớp mắt nhìn như muốn hỏi, thậm chí mặt nó bỗng tái mét rồi vụt chạy và kêu thét lên. Đều là những cử chỉ mà không ai ngời tới - những cử chỉ thể hiện sự sợ hãi khác thường giữa cha và con. Không chỉ có thế, hành động của Thu còn chứa đầy sự lạnh nhạt và lảng tránh. Kịch tính câu chuyện được đẩy lên cao khi bé Thu nấu cơm. Nó góp phần tạo nên độ căng của mạch kể. Cái nồi cơm quá to, con bé cần có sự giúp đỡ của người lớn nhưng nó đã nhất quyết không chịu gọi ba, không chịu nhờ vả. Đỉnh điểm nữa là khi bé Thu hất cái trứng cá mà anh Sáu đã gắp cho. Đây là một hành động rất tự nhiên và hợp lí của Thu để qua đó, cá tính mạnh mẽ của cô bé dần được biểu lộ. Thương con là thế nhưng ông Sáu vẫn không giữ nổi bình tĩnh, ông vung tay đánh vào mông nó và hét lên sao mày cứng đầu quá vậy hả. Bị ba đánh Thu không khóc như ông Ba tưởng, nó chỉ lặng lẽ đứng dậy và sang nhà bà ngoại. Thì ra nguyên nhân là vết sẹo trên mặt ba nó. Nó không chấp nhận bất cứ lời giải thích nào kể cả lời giải thích của mẹ nó. Quả là những suy nghĩ rất trẻ con nhưng chính điều đó đà làm cho câu chuyện trở nên rất thật. Đến khi nghe ngoại kể về vết thẹo của ba, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng thở dài như người lớn, tất cả như giúp Thu giải tỏa nỗi lòng mình nhưng bên cạnh đó, nó cũng rất ân hận và hối tiếc vì những ngày qua đã không chịu nhận ba. Cao trào của câu chuyện lại được đẩy lên khi ông Sáu chia tay vợ con lên đường, bé Thu bỗng thét lên “Ba...a... a... ba!”. Tiếng kêu như xé lòng, xót xa, tiếng kêu bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Cùng với những biểu hiện vội vã, hối hả, tác giả đà để Thu bộc lộ hết những tình cảm, nỗi nhớ thương dành cho ba và trong đó có cả sự hối hận. Đây như một chi tiết biết nói. Không có chi tiết này câu chuyện sẽ mất đi hẳn một phần giá trị và sẽ trở nên nhạt nhẽo. Niềm vui sướng khi vừa tìm thấy cha con tưởng như không bao giờ còn thấy nữa, niềm vui sướng vượt ra ngoài sức tưởng tượng đã vượt qua mọi khoảng cách khiến người đọc không thể cầm lòng, về sau, khi dã trưởng thành Thu nối gót cha làm giao liên phục cho kháng chiến cũng là vì cha, vì trả thù cho cha.
Qua nhân vật ông Ba, Nguyễn Quang Sáng đã dành cho Thu bao tình cảm quý mến và trân trọng, ông cảm thông với cái ương bướng, cứng đầu của một cô bé chỉ vì vết sẹo chiến tranh trên mặt người lính từ mặt trận trở về mà một tiếng ba cũng không chịu gọi. Hình ảnh bé Thu hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba, cùng với cử chỉ giang cả hai chân bấu chặt lấy ba nó mãi mãi là hình ảnh rất cảm động của tình cha con giữa thời máu lửa. Giây phút từ biệt ấy đã trở thành vĩnh biệt. Nỗi buồn từ câu chuyện đã làm ta càng thêm thấm thìa sự ác nghiệt của chiến tranh.
Trong truyện, tác giả không chỉ chú ý tới tình cảm của nhân vật bé Thu mà tình cảm yêu thương con sâu nặng của ông Sáu đã nhắc đến rất nhiều. Ngày ông đi bộ đội, Thu còn rất bé, nhưng tình cha con trong ông luôn tồn tại mãnh liệt. Lần nào vợ ông đến thăm, ông cũng hỏi thăm con. Đây chính là sự yêu thương của người cha làm cách mạng xa nhà, không được gặp con. Khi về thăm nhà, những tưởng mong đợi được gặp con, được nghe con gọi ba từng phút đã được thực hiện nhưng không, bom đạn đã làm thay đổi hình hài ông, vết thẹo dài trên má - vết thương chiến tranh đã làm cho đứa con gái thương yêu bé bỏng không nhận ra người cha nữa. Khi không được đón nhận tình cảm, ông Sáu trở nên suy sụp, đau đớn và đáng thương. Trước sự ứng xử lạnh nhạt của bé Thu, ông vẫn luôn dành mọi hành động thương yêu cho con, trong ánh mắt của ông luôn tràn đầy tình phụ tử không bờ bến. Ông đã tìm mọi cách để sát lại gần con hơn, ông gắp trứng cá cho con nhưng khi cao trào của câu chuyện là Thu hất cái trứng cá đi thì ông đã không kiềm chế nổi, ông đã đánh con. Đánh con để giải tỏa những bức xúc tinh thần, điều đó càng chứng tỏ ông rất yêu con. Với ông cái khao khát được gặp lại vợ con cũng không được trọn vẹn. Đó là kịch của thời chiến tranh. Lúc chia tay vợ con lên đường, ông mới chỉ nhận được một khoảnh khắc hạnh phúc là khi bé Thu nhận ra ba mình và gọi một tiếng ba. Ông ôm con, rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con. Ông đã ra đi với nỗi thương nhớ vợ con không thể nào kể xiết, với lời hứa mang về cho con chiếc lược ngà và nỗi ân hận ray rứt vì sao mình lại đánh con cứ giày vò ông mãi. Lời dặn dò của đứa con gái bé bỏng “Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba” ông luôn cất kín trong lòng. Tất cả tình thương yêu của ông đã được dồn cả vào cây lược ngà tự làm cho con. Có khúc ngà, ông Sáu hớn hở như bắt được quà. Chính qua chi tiết giàu sức gợi cảm này mà ta thấy được phút giây sung sướng đã khiến người cha như một đứa trẻ. Ông làm cho con chiếc lược ngà rất tỉ mỉ và thận trọng. Ông ngồi cưa từng chiếc răng, khổ công như một người thợ bạc. Làm xong lược, ông lại cẩn thận khắc dòng chữ yêu nhớ tặng Thu con của ba. Tất cả những chi tiết trên đều làm ta vô cùng cảm động nhưng cảm động nhất có lẽ phải là chi tiết anh lấy cây lược ngà mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Mỗi lần anh chải tóc, ta lại liên tưởng đến một lần anh gửi gắm yêu thương vào chiếc lược nhỏ xinh. Nhưng không may là ông Sáu đã hi sinh, nhưng tình phụ tử thì không thể chết. Lúc hấp hối, ông đưa tay vào túi, móc cây lược đưa cho ông Ba, nhìn hồi lâu rồi tắt thở. Tuy không một lời nói nhưng cái nhìn của ông Sáu quả thật đã chứa bao nỗi niềm ở bên trong, những nỗi niềm chưa được nói.
Hình ảnh ông Sáu, hình ảnh người cha trong truyện yêu thương con hết mực sẽ mãi còn. Chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của thời chiến tranh. Nó buộc người đọc chúng ta phải suy nghĩ về những đau thương, mất mát mà chiến tranh đã đem đến cho con người đang sống trên mảnh đất này. Qua đó tác giả cũng muốn nêu lên thái độ không đồng tình với chiến tranh của chính mình.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã rất thành công trong việc kết hợp kể với miêu tả nội tâm nhân vật, xây dựng nội tâm mâu thuẫn nhưng rất nhất quán về tính cách. Truyện được kể ở ngôi thứ nhất dưới góc nhìn của ông Ba. Điều đó làm cho sự việc trở nên khách quan, tin cậy và xác thực, tạo điều kiện cho người đọc bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ, thấu hiểuvà xúc động trước tâm trạng của từng nhân vật. Hơn nữa truyện lại có sự sắp xếp rất chặt chẽ với nhiều tình huống bất ngờ làm cho người đọc cảm thấy hứng thú và cuốn hút khi đọc.
Truyện đã làm sống lại quãng thời gian đánh giặc giữ nước và thông qua đó tác giả muốn người đọc phải nghĩ và thấm thìa nỗi đau, sự mất mát mà chiến tranh mang đến. Tình cảm cha con sâu sắc của cha con ông Sáu đã vượt qua bom đạn của chiến tranh
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu thời kì chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sự bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích trong sách giáo khoa đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng của tình phụ tử.
Truyện ngắn này được viết năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nội dung truyện là tình cha con của cha con ông Sáu và thông qua đó nói lên sự ngặt nghèo, éo le mà chiến tranh đem lại. Tuy đây là một đề tài muôn thuở trong văn chương nhưng chính vìthế giá trị nhân văn của truyện càng trở nên sâu sắc.
Truyện xoay quanh đề tài tình cảm cha con ông Sáu mà tác giả Nguyễn Quang Sáng đã chú trọng đặc biệt đến nhân vật bé Thu - một nhân vật có nội tâm đầy sự mâu thuẫn. Thu là một cô bé phải sống xa cha từ nhỏ. Tuy vậy trong tâm tưởng của Thu, hình ảnh người cha phải xa cách từ lâu luôn luôn tồn tại qua những tấm ảnh. Mặc dù yêu cha là thế nhưng khi gặp cha rồi Thu lại có những hành động mâu thuẫn với suy nghĩ của mình. Khi nghe tiếng ông Sáu gọi con, Thu đã không hề mừng rỡ như ông Sáu vẫn tưởng, nó giật mình, tròn mắt nhìn, ngơ ngác lạ lùng, chớp mắt nhìn như muốn hỏi, thậm chí mặt nó bỗng tái mét rồi vụt chạy và kêu thét lên. Đều là những cử chỉ mà không ai ngời tới - những cử chỉ thể hiện sự sợ hãi khác thường giữa cha và con. Không chỉ có thế, hành động của Thu còn chứa đầy sự lạnh nhạt và lảng tránh. Kịch tính câu chuyện được đẩy lên cao khi bé Thu nấu cơm. Nó góp phần tạo nên độ căng của mạch kể. Cái nồi cơm quá to, con bé cần có sự giúp đỡ của người lớn nhưng nó đã nhất quyết không chịu gọi ba, không chịunhờ vả. Đỉnh điểm nữa là khi bé Thu hất cái trứng cá mà anh Sáu đã gắp cho. Đây là một hành động rất tự nhiên và hợp lí của Thu để qua đó, cá tính mạnh mẽ của cô bé dần được biểu lộ. Thương con là thế nhưng ông Sáu vẫn không giữ nổi bình tĩnh, ông vung tay đánh vào mông nó và hét lên sao mày cứng đầu quá vậy hả. Bị ba đánh Thu không khóc như ông Ba tưởng, nó chỉ lặng lẽ đứng dậy và sang nhà bà ngoại. Thì ra nguyên nhân là vết sẹo trên mặt ba nó. Nó không chấp nhận bất cứ lời giải thích nào kể cả lời giải thích của mẹ nó. Quả là những suy nghĩ rất trẻ con nhưng chính điều đó đà làm cho câu chuyện trở nên rất thật. Đến khi nghe ngoại kểvề vết thẹo của ba, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng thở dài như người lớn, tất cả như giúp Thu giải tỏa nỗi lòng mình nhưng bên cạnh đó, nó cũng rất ân hận và hối tiếc vì những ngày qua đã không chịu nhận ba. Cao trào của câu chuyện lại được đẩy lên khi ông Sáu chia tay vợ con lên đường, bé Thu bỗng thét lên “Ba...a... a... ba!”. Tiếng kêu như xé lòng, xót xa, tiếng kêu bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Cùng với những biểu hiện vội vã, hối hả, tác giả đà để Thu bộc lộ hết những tình cảm, nỗi nhớ thương dành cho ba và trong đó có cả sự hối hận. Đây như một chi tiết biết nói. Không có chi tiết nàycâu chuyện sẽ mất đi hẳn một phần giá trị và sẽ trở nên nhạt nhẽo. Niềm vui sướng khi vừa tìm thấy cha con tưởng như không bao giờ còn thấy nữa, niềm vui sướng vượt ra ngoài sức tưởng tượng đã vượt qua mọi khoảng cách khiến người đọc không thể cầm lòng, về sau, khi dã trưởng thành Thu nối gót cha làm giao liên phục cho kháng chiến cũng là vì cha, vì trả thù cho cha.
Qua nhân vật ông Ba, Nguyễn Quang Sáng đã dành cho Thu bao tình cảm quý mến và trân trọng, ông cảm thông với cái ương bướng, cứng đầu của một cô bé chỉ vì vết sẹo chiến tranh trên mặt người lính từ mặt trận trở về mà một tiếng ba cũng không chịu gọi. Hình ảnh bé Thu hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba, cùng với cử chỉ giang cả hai chân bấu chặt lấy ba nó mãi mãi là hình ảnh rất cảm động của tình cha con giữa thời máu lửa. Giây phút từ biệt ấy đã trở thành vĩnh biệt. Nỗi buồn từ câu chuyện đã làm ta càng thêm thấm thìa sự ác nghiệt của chiến tranh.
Trong truyện, tác giả không chỉ chú ý tới tình cảm của nhân vật bé Thu mà tình cảm yêu thương con sâu nặng của ông Sáu đã nhắc đến rất nhiều. Ngày ông đi bộ đội, Thu còn rất bé, nhưng tình cha con trong ông luôn tồn tại mãnh liệt. Lần nào vợ ông đến thăm, ông cũng hỏi thăm con. Đây chính là sự yêu thương của người cha làm cách mạng xa nhà, không được gặp con. Khi về thăm nhà, những tưởng mong đợi được gặp con, được nghe con gọi ba từng phút đã được thực hiện nhưng không, bom đạn đã làm thay đổi hình hài ông, vết thẹo dài trên má - vết thương chiến tranh đã làm cho đứa con gái thương yêu bé bỏng không nhận ra ngườicha nữa. Khi không được đón nhận tình cảm, ông Sáu trở nên suy sụp, đau đớn và đáng thương. Trước sự ứng xử lạnh nhạt của bé Thu, ông vẫn luôn dành mọi hành động thương yêu cho con, trong ánh mắt của ông luôn tràn đầy tình phụ tử không bờ bến. Ông đã tìm mọi cách để sát lại gần con hơn, ông gắp trứng cá cho con nhưng khi cao trào của câu chuyện là Thu hất cái trứng cá đi thì ông đã không kiềm chế nổi, ông đã đánh con. Đánh con để giải tỏa những bức xúc tinh thần, điều đó càng chứng tỏ ông rất yêu con. Với ông cái khao khát được gặp lại vợ con cũng không được trọn vẹn. Đó là kịch của thời chiến tranh. Lúc chia tay vợ con lên đường, ông mới chỉ nhận được một khoảnh khắc hạnh phúc là khi bé Thu nhận ra ba mình và gọi một tiếng ba. Ông ôm con, rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con. Ông đã ra đi với nỗi thương nhớ vợ con không thể nào kể xiết, với lời hứa mang về cho con chiếc lược ngà và nỗi ân hận ray rứt vì sao mình lại đánh con cứ giày vò ông mãi. Lời dặn dò của đứa con gái bé bỏng “Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba” ông luôn cất kín trong lòng. Tất cả tình thương yêu của ông đã được dồn cả vào cây lược ngà tự làm cho con. Có khúc ngà, ông Sáu hớn hở như bắt được quà. Chính qua chi tiết giàu sức gợi cảm này mà ta thấy được phút giây sung sướng đã khiến người cha như một đứa trẻ. Ông làm cho con chiếc lược ngà rất tỉ mỉ và thận trọng. Ông ngồi cưa từng chiếc răng, khổ công như một người thợ bạc. Làm xong lược, ông lại cẩn thận khắc dòng chữ yêu nhớ tặng Thu con của ba. Tất cả những chi tiết trên đều làm ta vô cùng cảm động nhưng cảm động nhất có lẽ phải là chi tiết anh lấy cây lược ngà mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Mỗi lần anh chải tóc, ta lại liên tưởng đến một lần anh gửi gắm yêu thương vào chiếc lược nhỏ xinh. Nhưng không may là ông Sáu đã hi sinh, nhưng tình phụ tử thì không thể chết. Lúc hấp hối, ông đưa tay vào túi, móc cây lược đưa cho ông Ba, nhìn hồi lâu rồi tắt thở. Tuy không một lời nói nhưng cái nhìn của ông Sáu quả thật đã chứa bao nỗi niềm ở bên trong, những nỗi niềm chưa được nói.
Hình ảnh ông Sáu, hình ảnh người cha trong truyện yêu thương con hết mực sẽ mãi còn. Chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của thời chiến tranh. Nó buộc người đọc chúng ta phải suy nghĩ về những đau thương, mất mát mà chiến tranh đã đem đến cho con người đang sống trên mảnh đất này. Qua đó tác giả cũng muốn nêu lên thái độ không đồng tình với chiến tranh của chính mình.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã rất thành công trong việc kết hợp kể với miêu tả nội tâm nhân vật, xây dựng nội tâm mâu thuẫn nhưng rất nhất quán về tính cách. Truyện được kể ở ngôi thứ nhất dưới góc nhìn của ông Ba. Điều đó làm cho sự việc trở nên khách quan, tin cậy và xác thực, tạo điều kiện cho người đọc bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ, thấu hiểuvà xúc động trước tâm trạng của từng nhân vật. Hơn nữa truyện lại có sự sắp xếp rất chặt chẽ với nhiều tình huống bất ngờ làm cho người đọc cảm thấy hứng thú và cuốn hút khi đọc.
Truyện đã làm sống lại quãng thời gian đánh giặc giữ nước và thông qua đó tác giả muốn người đọc phải nghĩ và thấm thìa nỗi đau, sự mất mát mà chiến tranh mang đến. Tình cảm cha con sâu sắc của cha con ông Sáu đã vượt qua bom đạn của chiến tranh để ngày càng thiêng liêng, ngời sáng và gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương, đất nước.
Ý nghĩa nhan đề tác phẩm: Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu ?
Câu trả lời của bạn
chiếc thuyền là biểu tượng của bức tranh thiên nhiên đẹp và cuộc sống sinh hoạt của người dân làng chài “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum,đang hướng mặt vào bờ.”
b. Nghĩa biểu tượng:
- Là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật.Đó là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời,là không gian sinh sống của gia đình người hàng chài.Cuộc sống gia đình;đông con,khó kiếm ăn,cuộc sống túng quẫn là nguyên nhân làm cho người chồng trở nên cục cằn,thô lỗ và biến vợ thành đối tượng của những trận đòn.Những cảnh tượng đó,những thân phận đó nếu nhìn từ xa,ở ngoài xa thì sẽ không thấy được.
- Vì ngoài xa nên con thuyền mới cô đơn.Đó là sự đơn độc của con thuyền nghệ thuật trên đại dương cuộc sống,đơn độc của con người trong cuộc đời.Chính sự thiếu gần gũi,sẻ chia ấy là nguyên nhân của sự bế tắc và lầm lạc.Phùng đã chụp được chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm – một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích,một chân lí của sự toàn diện. Nhưng khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ,chứng kiến cảnh đánh đập vợ của người đàn ông kia,anh đã kinh ngạc và vứt chiếc máy ảnh xuống đất.Anh nhận ra rằng,vẻ đẹp ở ngoài xa kia cũng ẩn chứa nhiều oái oăm,ngang trái và nghịch lí. Nếu không đến gần thì chẳng bao giờ anh nhận ra.Xa và gần,bên ngoài và sâu thẳm…đó cũng là cách nhìn,cách tiếp cận của nghệ thuật chân chính.
những đổi mới trong cách nhìn hiện thực cuộc sống của Nguyễn Minh Châu trong bài Chiếc Thuyền Ngoài Xa
Câu trả lời của bạn
1. Là cái nhìn mang tính chất khám phá sự thật:
Đằng sau bức ảnh chụp con thuyền rất dẹp. cái đẹp ngoại cảnh tuyệt đỉnh mà người phóng viên thu được ẩn chứa một cuộc sống vật lộn với những luồng tư tưởng khác nhau mà không gì thỏa hiệp hay giải quyết một cách giải quyết được một dễ dàng.
Nhân vật trung tâm trong tác phẩm là người phụ nữ. Trong con người xấu xí, lầm lụi cam chịu ấy còn có một con người khác mà ta không hay biết. Chị có cái nhìn mà chỉ người trong cuộc mới thấy, cái nhìn đó gắn với thực tế: lo lắng cho số phận của đứa con cho cuộc lênh đênh trên biển.
Như vậy, sau chiến tranh trở về, quan tâm hơn đến đời sống cá nhân của con người, Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những bão tố của cuộc sống gia đình. Nhưng sự giải quyết những mâu thuẫn của cuộc sống thực tại (gia đình người dân chài) không hề dễ dàng. Bởi vì sự việc, con người tôn trọng những mối quan hệ đa chiều, hết sức phức tạp.
3. Cái mới trong cách nhìn của Nguyễn Minh Châu:
Ông đã thu nhỏ ống kính quay của mình trong phạm vi cuộc sống gia đình, một nội diện hẹp hơn nhưng lại mở ra nhiều điều lớn lao, sâu sắc. Trong bức tranh nhỏ, chứa đựng tất cả các vấn đề xã hội. So sánh với Mảnh trăng cuối rừng - truyện ngắn viết trong thời kì đấu tranh chống Mĩ ở miền Bắc 1970, lúc này con người cuộc sống mang vẻ đẹp lí tưởng vì yêu cầu của thời đại. Nhà văn cần khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, cái cao cả với cái sâu xa, thấp hèn... Trước sau, Nguyễn Minh Châu vẫn là một con người suốt đời đi săn tìm cái đẹp, tìm cái “hạt ngọc” ẩn sâu trong tâm hồn con người đó là “mảnh trăng cuối rừng”, là “chiếc thuyền ở ngoài xa”, song đã có sự đổi thay trong cách nhìn về hiện thực vì cuộc sống và tâm thế sáng tạo.
4. Về nghệ thuật:
Sự sáng tạo tình huống để nhân vật va chạm với suy nghĩ của các nhân vật khác, cũng giống như Bức tranh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa tiếp tục sự khám phá cuộc sống ở cách nhìn đa diện, phức tạp về con người. Về những số phận, những cảnh đời.
tóm tắt chiếc thuyền ngoài xa chỉ với 5 dòng
Câu trả lời của bạn
Phong ngạc nhiên và sững sờ, anh không chịu được cảnh đó, anh tiến đến và ngăn cản người đàn ông thì bị người đó đánh bị thương. Người vợ được chánh án Đẩu (Đẩu là bạn cũ của Phùng) mời đến tại tòa án Huyện. Tại đây, Phùng khuyên người đàn bà nên bỏ người chồng vũ phu đi nhưng lại bị từ chối. Chị bắt đầu kể cho họ nghe về cuộc đời của mình và giải thích lý do vì sao không thể bỏ người chồng vũ phu đó. Phùng và Đẩu hiểu ra được nhiều điều từ cuộc đời của chị.
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã đi về một vùng biển miền Trung nơi mà ngày xưa anh từng chiến đấu để có thể chụp được một tấm ảnh nghệ thuật về thuyền và biển cho bộ lịch cho năm mới theo yêu cầu của Trưởng phòng. Anh như cắm trại trên biển nhiều ngày, nhiếp ảnh Phùng đã có được một cảnh đắt giá, đó là cảnh một chiếc thuyền ở ngoài xa đang ẩn hiện trong màn sương biển mờ ảo. Đó là một cảnh đẹp như một bức tranh mực tàu. Tưởng chừng như đang trọn vẹn niềm vui, nhưng khi con thuyền cập bờ thì trước mặt Phùng lại hiện ra cảnh người chồng vũ phu đang đánh đạp vợ một cách dã man, đứa con muốn bảo vệ mẹ nó, nên đã đánh lại cha nó
Phong ngạc nhiên và sững sờ, anh không chịu được cảnh đó, anh tiến đến và ngăn cản người đàn ông thì bị người đó đánh bị thương. Người vợ được chánh án Đẩu (Đẩu là bạn cũ của Phùng) mời đến tại tòa án Huyện. Tại đây, Phùng khuyên người đàn bà nên bỏ người chồng vũ phu đi nhưng lại bị từ chối. Chị bắt đầu kể cho họ nghe về cuộc đời của mình và giải thích lý do vì sao không thể bỏ người chồng vũ phu đó. Phùng và Đẩu hiểu ra được nhiều điều từ cuộc đời của chị.
Phùng rời vùng biển và có số vốn là những bức ảnh cũng khá nhiều, anh đã chọn được một tấm ảnh ưng ý cho bộ lịch của mình - một tấm ảnh về thuyền và biển. Nhưng mỗi lần nhìn thấy tấm ảnh đó, người nghệ sĩ như đang cảm thấy mình đang đững trước cái màu hồng hồng của sương mai, nhìn lâu hơn anh thấy hình ảnh người đàn bà thô kệch nghèo khổ, vất vả, chịu nhiều đau thương đang bước ra từ tấm ảnh.
Nghệ sĩ Phùng đến ven biển miền Trung chụp những tấm ảnh đẹp cho cuốn lịch năm sau, anh thấy cảnh đẹp như tranh vẽ. Đó là bức tranh chiếc thuyền ngoài xa ẩn hiện trong bầu sương sớm. Cảnh đẹp đã làm anh ngây ngất, thăng hoa. Thấy “bối rối”, thấy “trái tim mình như có gì đó bóp thắt vào”. Nhưng khi chiếc thuyền lại gần bờ, anh lại chứng kiến đằng sau chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy là cảnh một người đàn ông đánh đập vợ, người vợ cam chịu, nhẫn nhục.
cảm nhận người đàn bà trong chiếc thuyền ngoài xa liên hệ với nhân vật thị trong vợ nhặt của kim lâm.
Ai biết làm bài này k?
Câu trả lời của bạn
Trong cuộc sống phức tạp này, sự thật đội khi không phải là điều ngay trước mắt mà sự thật là cái ẩn giấu bên trọng. Vì vậy muốn nhìn nhận đúng về cuộc sống về con người, chúng ta phải nhìn vào cái bên trong, bản chất thật, nhìn cuộc sống một cách đa diện. Giống như nhân vật người đàn bà làng chài của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn chiếc thuyền ngoài xa. Mang vẻ bề ngoài xấu xí, nhưng phẩm chất bên trong lại vô cùng tốt đẹp.
Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được viết vào năm 1983 và đến 1985 trong tập " Bến Quê" tác phẩm là sản phẩm con người đời thương. Truyện kể về việc nghệ sĩ nhiếp ảnh phùng đi tới vùng biên này mong tìm được một bức ảnh cho bộ lịch. Sau gần một tuần tìm kiếm, cuối cùng anh cũng tìm thấy một cảnh đắt trời cho " Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ". Nhưng vừa như phát hiện một chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy khoản khắc trong ngần của tâm hồn thì bất ngờ anh phát hiện ra cảnh bao lực gia đình. Với sự xuất hiện người đàn bà làng chài gây ấn tượng lớn cho người độc và người nghe.
Người đàn bà làng chài, không được gọi tên. Chỉ được gọi bằng những đại từ "Người đàn bà, bà…" Người đàn bà chạc 40 tuổi, mang thân hình quen thuộc của người vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Người đàn bà có ngoại hình thật xấu xí và phi thẩm mĩ. Trước kia, người đàn bà này sống ở phố. Con một gia đình khá, nhưng không ai lấy vì xấu. Chị đã có mang với anh làng chài và đã có cuộc sống hôn nhân với anh. Người khác nhìn vào cho rằng đây là địa ngục vì ba ngày chị bị một trận nhỏ, năm ngày chị bị một trận lớn. Đúng vậy cuộc sống của chị thật đáng thương và khổ cực. Chị khổ cả về thể xác và tinh thần, giống bao gia đình làng chài khác, gia đình chị đông con. Nhà thì nghèo khó. Thuyền thì bé, có những lần da đình chị phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Một cuộc sống không thể nào khổ hơn. Người ta nhiều khi khổ về vật chất, nhưng tinh thần đầy đủ cũng là hạnh phúc "một túp lều tranh hai trai tim vàng". Nhưng chị đâu được thế cuộc sống tinh thần của chị còn khổ hơn. Người đàn ông xấu xí- chồng chị, một phần vì cuốc sống làm cho tính cách hắn hung bạ. Hắn dùng cách giải thoát sự bức xúc bằng cách đánh đập chị, chửa rửa chị và các con chị "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ" Bị những trận đòn roi những cái quất mạnh của chông tàn bạo, nhưng chị vẫn "Với vẻ mặt cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không tìm cách chống trả, không tìm cách chạy trốn. Trận đòn roi chỉ dừng lại khi thằng phác lao tới cứu mẹ và đánh lại bố" Cả hai mẹ con chỉ biết khóc. Người đàn bà kể trước kia khi con còn nhỏ, hắn đánh chị trên thuyền. Sau khi con lớn, chị xin hắn đưa lên bờ rồi đánh. Chúng ta thấy rằng cuộc sống của chị thật khó khăn, chị chỉ biết cam chịu và đôi khi chính là sự ngu dốt.
Nhưng thực chất bên trong còn nhiều điều mà mọi người chưa rõ. Khi chánh án đầu gợi ý li hôn, chị nhất định không chịu, van nài xin không li hôn, nhận hết trách nhiệm , tội nỗi lên đầu mình. Vì sao ư? Vì chị là một người am hiểu lẽ đời, cho dù thất học. Chị hiểu rằng tên con thuyền này cần một người đàn ông chèo chống vượt qua. Phong ba và nuôi cho sấp con của chị cũng rất cảm thông cho chồng chị, xưa là một con người cực tình nhưng không bao giờ đánh vợ. Nhưng cũng vì cuộc sống khó khăn, làm cho người đàn ông đâm ra đánh vợ con , chị nhẫn nhục cam chịu, nhận hết trách nhiệm về bản thân mình. Nhận vì mình đẻ nhiều con mà cuộc sống khổ cực. Ngoài cam chịu, chấp nhận hi sinh, cuộc sống của chị còn có niềm vui đó là khi các con chị được ăn no, mặc ấm.
Người mẹ nào cũng vậy, thấy các con mình hạnh phúc, thì bản thân hạnh phúc gấp một trăm lần rồi. Và đôi khi gia đình chị cũng hòa thuận, đầm ấm, vui vẻ chị còn có lòng tự trọng cao. Chị biết xấu hổ khi có người khác biết truyện mình bị đánh, đặc biệt là thằng phác. Người chị yêu thương nhất " Cái thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột từ cái lão đàn ông đã hành hạ mụ" Chị đã khóc khi phùng nhắc tới thằng phát. Chị thương con vô cùng, Chị cũng đem đến cho đẩu và phùng những bài học quý giá.
Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc xử dụng nghệ thuật đối lập. Một bên là người đàn bà xấu xí, phi thẩm mĩ, một bên là vẻ đáng thương, phẩm chất bên trong của con người đáng trân trọng. Người đàn bà trong truyện là người có cốt cách bên trong, biết nhìn xa, thương đàn con nhỏ, giàu đức hi sinh, lòng vị tha, thương chông, thương con am hiểu lẽ đời, sẵn sàng hi sinh bản thân về hạnh phúc, no ấm cho chồng, cho con. Đây chính là những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.
Qua hình ảnh người đàn bà trong truyện chúng ta thấy người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được những nhét đẹp truyền thống của người phụ nữ Á Đông. Dù vẻ ngoài không đẹp nhưng bên trong luôn có phẩm chất cao quý. Luôn nghĩ tới gia đình, hạnh phúc nhỏ của mình, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để giữ gìn, chăm sóc gia đình, hạnh phúc đó chính là con cái của mẹ. Người phụ nữ mang một lòng vị tha cao cả, Những khác biệt của người phụ nữ làng chìa, phụ nữ ngày nay năng động hơn, làm chủ cuộc sống hơn, làm chủ được kinh tế.
Họ không còn phải nhẫn nhục chịu trận đòn roi của chồng. Họ yêu thương chồng con, họ cần một người đàn ông chèo kéo mái ấm gia đình, là người yêu thương gia đình, yêu thương vợ con. Nhưng nếu là người đàn ông vũ phu đánh đạp vợ con, họ sẵn sàng báo cơ quan chức năng để bảo vệ quyền lợi hạnh phúc của gia đình mình. Bên cạnh đó vẫn còn những người phụ nữ nhu mì, hèn nhắc, nhẫn nhục sẵn sàng chịu đựng đòn roi của chồng. Cố bấu víu lấy cái hạnh phúc chỉ có trong ảo tưởng, sống không có lập trường. Họ cần phải thay đổi cách sống, cách suy nghĩ tới giải pháp cuối cùng để giải thoát tìm hạnh phúc , cho mình cơ hội để đến với hạnh phúc đích thực.
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho ta thấy sự đối lập, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ. Chúng ta cần phải nhìn cuộc sống và tâm hồn đa diện, phải tìm kiếm, khám phá cái bản chất bên trong, từ vẻ bề ngoài của người đàn bà trong truyện yêu thương chồng con hi sinh cao cả.
Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
Giới thiệu khái quát về hai nhân vật trong hai tác phẩm
– Kim Lân là nhà văn chuyên viết về nông thôn và cuộc sống người dân quê, có sở trường về truyện ngắn. Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc, viết về tình huống “nhặt vợ” độc đáo, qua đó thể hiện niềm tin mãnh liệt vào phẩm chất tốt đẹp của những con người bình dị trong nạn đói thê thảm.
– Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mĩ, cũng là cây bút tiên phong thời đổi mới. Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc ở thời kì sau, viết về lần giáp mặt của một nghệ sĩ với cuộc sống đầy nghịch lí của một gia đình hàng chài, qua đó thể hiện lòng xót thương, nỗi lo âu đối với con người và những trăn trở về trách nhiệm của người nghệ sĩ.
Làm rõ đối tượng thứ nhất (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
* Nhân vật người vợ nhặt
– Giới thiệu chung: Tuy không được miêu tả thật nhiều nhưng người vợ nhặt vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc hoạ sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên trong, ban đầu và về sau.
– Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:
+ Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, là một lòng ham sống mãnh liệt.
+ Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người biết điều, ý tứ
+ Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan: dậy sớm, quyét dọn nhà cửa, chuẩn bị bữa cơm …
Làm rõ đối tượng thứ 2 (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
* Nhân vật người đàn bà hàng chài
– Giới thiệu chung: Là nhân vật chính, có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc hoạ sắc nét, theo lối tương phản giữa bề ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất.
– Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:
+ Ngoại hình xấu xí, thô kệch nhưng ẩn chứa bên trong là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh.
+ Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có khát vọng hạnh phúc, can đảm, cứng cỏi
+ Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời.
So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích, so sánh)
* So sánh nét tương đồng, khác biệt
– Tương đồng: Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của hoàn cảnh. Những vẻ đẹp đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực lam lũ làm khuất lấp. Cả hai đều được khắc hoạ bằng những chi tiết chân thực…
– Khác biệt: Vẻ đẹp được thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh, trong nạn đói thê thảm. Vẻ đẹp được khắc sâu ở người đàn bà hàng chài là những phẩm chất của một người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính, trong tình trạng bạo lực gia đình…
Lí giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học…(bước này vận nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
+ Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến đổi từ thấp đến cao(cảm hứng lãng mạn), trong khi đó người đàn bà chài lưới lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại (cảm hứng thế sự – đời tư trong khuynh hướng nhận thức lại).
+ Sự khác biệt giữa quan niệm con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con người đa dạng, phức tạp( Chiếc thuyền ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này.
– Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.
– Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu). Từ đó, anh/chị hãy liên hệ với sự đối lập giữa cảnh phố huyện lúc đêm khuya và hình ảnh đoàn tàu (Hai đứa trẻ - Thạch lam) để nhận xét về cách nhìn hiện thực của hai tác giả.
(Đề thi môn Văn - Thi THPT Quốc gia 2018)
Câu trả lời của bạn
1. Đặt vấn đề
Nguyễn Minh Châu được đánh giá là một người mở đường tinh anh và đầy tài năng của nền văn học Việt Nam những năm sau đổi mới. Sáng tác của ông giai đoạn này chủ yếu thường hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết có thể nói không quá dòng tài năng của ông xứng đáng được xếp vào những hàng tài năng xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại bởi trình độ nghệ thuật cũng như chất lượng tư tưởng.
“ Chiếc thuyền ngoài xa” được viết năm 1983 đã thể hiện được những khám phá quan trọng của nhà văn từ cuộc sống nghệ thuật của thời kì mới. Thành công về nghệ thuật nổi bật của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm này có thể kể tới việc ông xây dựng tình huống truyện vô cùng độc đáo.
2. Thân Bài
* Khái niệm tình huống
- Là một sự kiện đặc biệt của đời sống được mô tả trong tác phẩm mà tại sự kiện đó nhà văn đã làm sống dậy một tình thế bất thường có tính chất éo le và gây bất ngờ giữa các nhân vật tại sự kiện đó, tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét, ý tưởng của nhà văn cũng hiện hình khác trọn vẹn. Các nhà văn lý luận vẫn đưa ra ba loại tình huống phổ biến.
Trong truyện ngắn “ chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một hệ thống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống, tình huống nhận thức.
3. Kết bài
Vừa là đồng hương vừa là bạn chiến đấu của nhiếp ảnh Phùng là chánh án Đẩu. Đẩu là người tốt bụng, đầy trách nhiệm, anh luôn đứng về người phụ nữ nạn nhân của sự bảo hành để bênh vực họ. Anh mời người vợ đến tòa án huyện để khuyên bà ta ly hôn với chồng. giải thoát cho người đàn bà khỏi người chồng vũ phu: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với gã đàn ông vũ phu ấy đâu! Chị nghĩ thế nào” Chánh án Đẩu muốn giúp người đàn bà, muốn dùng pháp lý và đạo lý để bảo vệ chị ta như anh quả là xa vời. Thực tế khi chưa hiểu rằng cuộc sống của người phụ nữ làng chài cần có một người đàn ông làm trụ cột.
Giới thiệu tác giả - tác phẩm:
- Giới thiệu Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn đi đầu trong đổi mới văn học sau 1975.
- Tác phẩm ra đời thời hậu chiến xoay quanh vấn đề thế sự.
- Dẫn đề : Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bảo lực ở gia đình hàng chài (chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu)1. Liên hệ với sự đối lập giữa cảnh phố huyện lúc đêm khuya và hình ảnh đoàn tàu (Hai đứa trẻ - Thạch Lam)2, nhận xét về cách nhìn hiện thực của tác giả.
Thân bài:
1. Phân tích sự đối lập qua phát hiện 1 và 2
a) Cảnh đắt trời cho chỉ có người nghệ sĩ với tất cả cảm nhận sâu lắng, có tầm nhìn biết chọn và lựa chi tiết độc đáo.
- Chiếc thuyền ngoài xa mang vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền lưới vó tiến vào bờ, trên mui thuyền có những người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng giống bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ.
- Đó còn là ánh sáng của bầu trời trên biển vào buổi sáng sớm, làn sương trắng đục như sữa pha chút hồng hồng của ánh mặt trời chiếu vào. Diễn tả tài năng đan cài giữa bề rộng của bầu trời và ánh mặt trời chiếu vào từ tầm nhìn biết chọn và lựa của người nghệ sĩ.
- Phát hiện ra chiếc thuyền ngoài xa theo quan điểm “Nghệ thuật vị nghệ thuật” mang lại cho người đọc cảm nhận “Phát hiện ra chính bản thân cái đẹp là đạo đức” đòi hỏi người làm nghệ thuật không được sao chép mà phải sáng tạo (như: “Thuyền và biển” của Xuân Quỳnh là tình yêu đôi lứa còn của Nguyễn Minh Châu là bức tranh ngoài đời được đưa vào trong sách).
- Vì vậy, “Tuy là bức ảnh đen trắng, mỗi lần ngắm kỹ, tôi thấy cái màu hồng hồng của ánh sương mai” nhấn mạnh quan điểm sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu là “Nghệ thuật vị nghệ thuật” nhưng vẫn gắn liền với cuộc sống hiện thực.
b) Đối lập lại là khi chiếc thuyền đến gần, nhà văn đã gởi vào Phùng, người nghệ sĩ báo ảnh phát hiện nạn bạo lực gia đình.
- Một là, cảnh chồng đánh vợ nhưng theo thỏa thuận đưa nhau lên bãi đất trống vẫn còn xe tăng hỏng, người chồng rút cái thắt lưng xin của lính ngụy quật tới tấp vào lưng của vợ “tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá” để trút cơn giận như lửa cháy do oán hờn, nghèo đói là do vợ sinh quá nhiều con, thuyền lại chật…
- Hai là, sự cam chịu, nhịn nhục của người vợ “không hề kêu một tiếng” như sợ con cái hay biết làm hoen ố tâm hồn trong sáng của trẻ thơ. Lại thêm, thái độ “không chống trả” vì hiểu chồng đánh mình không phải ghét bỏ mà vì cơm áo gạo tiền đè nặng. Nhất là “không tìm cách chạy trốn” do sợ chồng trút cơn giận vào con. Tất cả vì lòng thương con của mẹ.
- Vì sự cam chịu, nhịn nhục này đã làm cái ác chuyển sang con trai. Do bênh mẹ, Phác – đứa con trai – xông ra giật dây thắt lưng đánh thẳng vào ngực bố để tiêu trừ cái ác. Lúc bấy giờ, người đàn bà chỉ có một hành động “chắp tay vái lấy vái để” như xin con, vừa xấu hổ, nhục nhã, cay đắng vì đã để đứa con mình vi phạm vào chữ hiếu.
à Phát hiện ra nạn bạo lực gia đình hàng chài, Nguyễn Minh Châu gởi vào bức ảnh của Phùng theo quan điểm “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Nên vẫn là bức ảnh đen trắng ấy “nhưng nhìn lâu, tôi thấy người đàn bà ấy bước ra từ tấm ảnh… tấm lưng áo bạc phếch miếng vá… giậm từng bước chân chắc chắn trên mặt đất, hòa lẫn vào đám đông” mang thông tin đối tượng chủ yếu của nghệ thuật là người lao động nghèo khó và niềm tin của người làm nghệ thuật gửi đến những người lao động nhất định hòa vào cuộc sống trong hành trình đi lên.
- Như vậy, vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa theo quan điểm “Nghệ thuật vị nhân sinh” thể hiện niềm tin của người làm nghệ thuật hướng về những người sống trên thuyền ở biển nhất định đẩy lùi sóng gió, vững bước trên hành trình tìm hạnh phúc gia đình.
2. Từ sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài, chúng ta liên hệ với sự đối lập giữa cảnh phố huyện lúc đêm khuya và hình ảnh chuyến tàu đêm trong “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam).
- Thạch Lam là nhà văn thành công với cách viết truyện ngắn không có cốt truyện được khai thác ở chiều sâu trong “Hai đứa trẻ” qua nét đối lập: bóng tối – ánh sáng.
+ Đó là một phố huyện nghèo vẫn còn bóng dáng của nông thôn với bóng tối bao trùm từ các ngõ con, các con đường, nhà cửa… Tất cả được nhà văn xây dựng qua thời gian của ngày tàn từ chiều đến tối và khuya. Trên nền của cảnh là những mảnh đời bóng tối như hai mẹ con chị Tí với gánh hàng nước “Sớm muộn gì cũng thế thôi” hay gia đình bác Xấm ăn xin trên chiếc chiếu mang ý nghĩa sẽ lẫn vào đất lúc nào không hay. Hoặc bác Siêu với gánh phở dạo như món hàng xa xỉ ở nông thôn.
+ Đó còn là ánh sáng của chuyến tàu đêm xuất phát từ Hà Nội qua phố huyện như mang lại “Hà Nội rực rỡ, huyên náo với các toa tàu sáng, đèn sáng trưng, toa hạng trên lố nhố người và vật đồng kền lấp lánh ánh sáng”… nhưng chỉ đến rồi đi làm bóng tối càng tịch mịch hơn.
à Như vậy, cách nhìn của Thạch Lam về cảnh và người đều mờ nhạt vẫn mang thông tin: “Phải biết vươn lên sự tẻ nhạt vô vị để hy vọng mới gọi là sống”
3. So sánh, đối chiếu nét giống và nét khác giữa Thạch Lam, Nguyễn Minh Châu:
- Cả hai nhà văn Thạch Lam, Nguyễn Minh Châu dù sáng tác ở hai giai đoạn khác nhau đều gặp nhau ở đề tài nghệ thuật gắn liền với cuộc sống hiện thực
- Nhưng theo yêu cầu “Văn chương tối kị nhất là sự trùng lắp”, để Thạch Lam, tuy chưa phải là nhà văn của người cùng khổ nhưng vẫn để lại cho người đọc suy nghĩ “Hãy bằng lòng với những gì nhà văn cho chúng ta. Đừng bắt ông cho những gì mà ông không có để tác phẩm là sự ngân rung về tình đời phải được bổ sung bằng hành động”. Còn Nguyễn Minh Châu, nhà văn của sự cách tân gởi vào Phùng qua hai bức ảnh của chiếc thuyền ngoài xa và chiếc thuyền đến gần gắn nạn bạo lực gia đình theo quan điểm “Nghệ thuật vị nghệ thuật” và “Nghệ thuật vị nhân sinh”.
Kết bài : Việc khắc họa thành công hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và hình ảnh chuyến tàu đêm là do Nguyễn Minh Châu, Thạch Lam và những người làm nghệ thuật khác đều có lòng yêu đời, yêu người. Tình yêu đó đã chắp cánh cho tài năng sáng tác để lại cho đời tác phẩm hay, hình ảnh đẹp của bóng tối - ánh sáng từ cuộc đời nghèo khó và chân thật.
Phân tích hình ảnh chiếc thuyền trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
Câu trả lời của bạn
Nam Cao có một quan điểm nghệ thuật rất hay: “Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than và nhà văn không được trốn tránh nghệ thuật mà phải đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời”, thấy được những quan niệm rất sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xaNguyễn Minh Châu đã nắm bắt trọn vẹn được quan điểm ấy thông qua hình tượng chiếc thuyền với vẻ đẹp nghệ thuật tinh tế vừa phản ánh cuộc sống đời thường nơi làng chài ven biển.
Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, là một trong những cây bút tiên phong của thời kỳ văn học đổi mới. Ông có phong cách viết truyện mang đậm tính tự sự và triết lý sâu sắc. Một số tác phẩm tiêu biểu như: Dấu chân người lính, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa được nhà văn Nguyễn Minh Châu viết trong thời kỳ đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, đang trong thời kỳ đổi mới
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa hình ảnh chiếc thuyền đi xuyên suốt trong tác phẩm, chiếc thuyền có ý nghĩa biểu tượng to lớn, tượng trưng cho vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên đầy thi vị, lãng mạn, gắn với cuộc sống sinh hoạt thường ngày của người dân làng chài. Chiếc thuyền ngoài xa là hình ảnh ẩn dụ đầy nghệ thuật về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, chiếc thuyền ấy chính là ngôi nhà, là nơi ăn chốn ở của một gia đình người dân chài, với một cuộc sống đầy cơ cực, vất vả, gia đình thì lại đông con, ăn không đủ no mặc không đủ ấm. Cuộc sống túng quẫn, vì đồng tiền bát gạo chính là nguyên nhân khiến người chồng trở nên cục súc, vũ phu và người vợ trở thành nạn nhân của những trận đòn long trời lở đất. Những cảnh tượng, thân phận con người cùng khổ ấy nếu ta chỉ đứng phía xa mà trông vào thì sẽ chẳng bao giờ thấy được, bởi tất cả đã bị che lấp bằng vẻ đẹp thơ mộng của con thuyền đánh cá nằm xa xa giữa biển khơi trong nắng mai hồng và lòe nhòe sương sớm.
Chiếc thuyền ngoài xa hiện lên trước mắt người nghệ sĩ với một vẻ đẹp cô đơn, tịch mịch, đó là sự đơn độc của một con thuyền đẹp đẽ đầy tính nghệ thuật trên đại dương mênh mông. Đó cũng chính là hình ảnh biểu hiện cho sự đơn độc của mỗi con người trong cuộc đời, những thân phận trôi nổi, lênh đênh như con thuyền kia, những nỗi đau họ phải cam chịu mà chẳng ai hay biết. Sự xa cách, cô đơn, không có sự chia sẻ lẫn nhau là nguyên nhân đưa tới sự lẩn quẩn, bế tắc trong cuộc sống của những con người khốn khổ. Phùng cho rằng anh đã chụp được cảnh “đắt” trời cho – chiếc thuyền đang tiến vào bờ trong sương sớm, một vẻ đẹp tuy đơn giản nhưng toàn bích, là chân lý của sự toàn diện. Nhưng khi chiếc thuyền tiến thẳng vào bờ, những con người trên thuyền bước xuống, một cặp vợ chồng mang vẻ lam lũ, thô kệch, xấu xí trái ngược hẳn với vẻ đẹp tuyệt diệu của con thuyền ban nãy, lại chứng kiến cảnh người đàn ông giở thói vũ phu với vợ, anh đã hết sức kinh ngạc vứt chiếc máy ảnh xuống đất, toan lao vào ngăn cản. Lúc này Phùng mới giật mình, vỡ mộng nhận ra rằng vẻ đẹp ngoài xa kia cũng ẩn trong trong mình nhiều sự thật oái oăm, ngang trái, bất công, nếu không thực sự đến gần thì chẳng bao giờ anh ngộ ra được. Khoảng cách xa và gần là hai thái cực hoàn toàn khác nhau, là sự đối lập gay gắt giữa sâu thẳm bên trong và vẻ bề ngoài đẹp đẽ, đây chính là cách nhìn nhận đầy sâu sắc và nhân văn về cuộc đời, về con người của nhiếp ảnh gia Phùng, cũng như của tác giả Nguyễn Minh Châu. Nghệ thuật cũng vậy, nó phải được nhìn nhận một cách sâu sắc, đa chiều, nghệ thuật bước ra từ những chất liệu giản đơn trong cuộc sống, chứ không phải những thứ sáo rỗng, chủ quan, nghệ thuật không chỉ đơn giản là đẹp mà còn phải mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, gắn liền với cuộc sống, đấy mới là thứ nghệ thuật chân chính.
Hình tượng chiếc thuyền ngoài xa là một hình ảnh giàu sức gợi cảm có ý nghĩa biểu trưng sâu sắc, từ đây Phùng có một cách nhìn nhận nghệ thuật và cuộc sống khác đầy mới lạ, cuộc đời không bao giờ là đơn giản, xuôi chèo mát mái, mà cuộc đời phức tạp lắm, con người cũng vậy có biết bao mảnh đời đa đoan trong cuộc sống trăm sự, nhiều bề, ngổn ngang này. Đồng thời cũng phản ánh những tiêu cực, hậu quả của chiến tranh trong những năm đầu đất nước giành được độc lập, trên đà đổi mới, đầy rẫy những bất công, những mảnh tối đè nặng trên lớp người dân cùng khổ, chưa tìm được hướng mới cho cuộc đời, cứ mải quẩn quanh trong bế tắc. Thể hiện tính nhân văn, lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm, luôn quan tâm, dõi theo những số phận cùng khổ trong bối cảnh đất nước thuở đầu độc lập.
Tác phẩm cho chúng ta một bài học về cách nhìn nhận cuộc sống, nhìn nhận con người, cùng với quan điểm mới về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nhà viết kịch Nguyễn Huy Tưởng đã viết trong tác phẩm Vũ Như Tô rằng: “Nghệ thuật mà không gắn liền với đời sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác mà thôi”, chúng ta cần phải có cái nhìn đa chiều, toàn diện sâu sắc, đồng thời phải chấp nhận cả những nghịch lý tàn nhẫn của cuộc sống nằm ẩn mình trong vẻ đẹp bề ngoài, bởi nghệ thuật là để phục vụ cuộc sống, vẻ đẹp của nghệ thuật đi ra từ những giá trị đạo đức, nhân văn chứ không phải từ cái đẹp hào nhoáng mà trống rỗng.
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
Không phải ngẫu nhiên mà có người cho rằng Nguyễn Minh Châu là nhà văn của những biểu tượng. Bởi lẽ, trong tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu thường không trực tiếp phát biểu ra những suy nghĩ, quan điểm mà chỉ bộc lộ những suy nghĩ, cách nhìn về cuộc đời qua những biểu tượng, những hình tượng đa nghĩa. Và có lẽ, hình tượng “chiếc thuyền ngoài xa” trong truyện ngắn cùng tên của ông cũng như vậy.
II. Thân bài
– Tên truyện ngắn là “Chiếc thuyền ngoài xa”, và quả thật, hình ảnh chiếc thuyền gần như xuất hiện xuyên suốt trong câu chuyện mà nhà văn mang đến cho người đọc. Bắt đầu từ yêu cầu của người trưởng phòng “lắm sáng kiến” đối với nhân vật xưng “tôi” – người nghệ sỹ nhiếp ảnh: “…Chúng ta sẽ mang đến cho mỗi gia đình một bộ sưu tập về thuyền và biển, không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật”. Tiếp đó là hình ảnh chiếc thuyền “mới đóng xong vẫn còn thơm mùi gỗ lẫn mùi dầu rái”, rồi tiếp theo nữa là “một nhóm chừng dăm bảy chiếc thuyền vó vừa tắt đèn” và cuối cùng tập trung vào “một chiếc thuyền lướt vó …đang chèo thẳng vào trước mặt tôi”. Đây chính là “Chiếc thuyền ngoài xa”.
– Hình ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” được nhà văn khắc hoạ rất ấn tượng: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Hình ảnh đó mang một “vẻ đẹp thực sự đơn giản và toàn bích” – vẻ đẹp của “một bức tranh bằng mực Tàu của một danh hoạ thời cổ”, và tất cả vẻ đẹp đó đã được nhà nghệ sỹ nhiếp ảnh của chúng ta thu vào một tấm ảnh mà nó “được treo ở rất nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”.
– Hình ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” giờ đã hoá thân thành một tác phẩm nghệ thuật để mọi người nhìn ngắm, chiêm ngưỡng với tất cả những vẻ đẹp về màu sắc, đường nét, bố cục…và khi thưởng thức bức ảnh đó, những người sành nghệ thuật thể có cái cảm giác “trở nên bối rối”, cảm thấy “trái tim như có cái gì bóp thắt vào” và “khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”…như cái cảm giác mà “tôi” đã từng có.
– Song, dù có là người sành nghệ thuật đến đâu, cũng không ai khám phá ra được:Đó là những con nguời, những cuộc đời, những số phận đầy trớ trêu, nghịch lý đã, đang và sẽ còn tiếp tục sống quay quắt bên trong chiếc thuyền ấy. Một người vợ nhẫn nhục cam chịu một cách tự nguyện những trận đòn thịnh nộ của anh chồng với “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” chỉ vì chiếc thuyền ấy, gia đình ấy (với trên dưới mười con người) cần có ông ta chèo chống lúc phong ba; Một đứa con trai yêu mẹ đến nỗi định giết cả bố mình… Cái sự thật bên trong ấy chỉ được người thợ chụp ảnh nhận ra khi “chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ tôi đứng”, tức là ở một khoảng cách gần, rất gần!
– Với chi tiết này, câu chuyện dường như đã mở ra hai hình ảnh, hai thế giới khác hẳn: Chiếc – thuyền – ngoài – xa mang lại vẻ đẹp hoàn mỹ cho một tấm ảnh, còn chiếc thuyền khi đến gần lại làm vỡ ra một hiện thực nghiệt ngã đến xót xa của số phận con người.
Vậy nên, có thể nói hình tượng “Chiếc thuyền ngoài xa” đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.
– Chính vì thế, cho dù chỉ là một bức ảnh “hoàn toàn thế giới tĩnh vật”(hay nói đúng hơn là vẫn có con người nhưng đó chỉ là “những bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng”) nhưng nhà nghệ sỹ nhiếp ảnh của chúng ta – cũng là người đã trực tiếp nhận ra những số phận ẩn tàng bên trong nó – bao giờ cũng như thấy “một người đàn bà bước ra ” sau mỗi lần suy tư, ngắm nhìn thành quả nghệ thuật mà mình tạo ra nhờ cái giây phút “trời cho” ấy.
III. Kết bài
– Trước Nguyễn Minh Châu, nhà văn Nam Cao từng quan niệm “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối… Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than” (Trăng sáng). Là người đi sau, Nguyễn Minh Châu không lặp lại quan niệm đó, vì hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” mang vẻ đẹp nghệ thuật thực sự chứ không hề là “ánh trăng lừa dối”. Điều mà nhà văn muốn người đọc lưu tâm là cần phải có cái nhìn đa chiều, phổ quát mới có thể cảm nhận hết cái gai góc, phức tạp của cuộc đời này, bởi như ông đã nói “con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự”.
– Nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng từng phát biểu “Sáng tác văn học là quá trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu bên trong tâm hồn con người”. Thông điệp phát đi từ hình tượng “chiếc thuyền ngoài xa” trong truyên ngắn cùng tên của ông chính là sự bổ sung hết sức thuyết phục cho quan niệm đó.
Bài tham khảo
Một tác phẩm hay hấp dẫn và thành công không chỉ ở nội dung và hình thức mà còn là ở hình tượng của tác phẩm đó. Hình tượng có thể là con người và cũng có thể là vật, miễn sao sự vật con người ấy nói lên được ý nghĩa mà nhà văn muốn truyền tải tới bạn đọc. Nếu như Nguyễn Tuân lấy hình tượng con sông Đà để giới thiệu vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của nó thì Nguyễn Minh Châu lấy hình tượng chiếc thuyền ngoài xa để nói lên những dụng ý nghệ thuật của mình. Vậy dụng ý nghệ thuật của nhà văn qua hình tượng ấy là gì?
Chiếc thuyền ngoài xa được Nguyễn Minh Châu sáng tác trong thời kì đổi mới của đất nước. Khi ấy xã hội đang trên đà phát triển, kinh tế phát triển theo xu hướng hàng hóa nhiều thành phần và hàn gắn vết thương chiến tranh đi lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước có nhiều cái mới tốt đẹp văn minh hơn nhưng đồng thời vẫn có những mảng tối mà nhà nước không thể đi sâu hết được. Cho nên với ý thức của một người nghệ sĩ Nguyễn Minh Châu không hổ danh là người mở đường tinh anh khi sáng tác thành công truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Trong truyện ngắn ấy ngoài những hình tượng người đàn bà hay người nghệ sĩ Phùng thì chúng ta đặc biệt ấn tượng với hình tượng chiếc thuyền ngoài xa.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm đã là một ẩn ý nghệ thuật về hình tượng này. Chiếc thuyền ngoài xa theo nghĩa tả thực thì nó chính là không gian sinh sống của những cặp vợ chồng làng chài. Nó là những chiếc thuyền mưu sinh của con người đánh cá. Nói một cách khác đi thì đó chính là nhà của họ. Thế nhưng nếu như chỉ hiểu theo nghĩa tả thực kia thì chẳng có gì gọi là ẩn ý ở đây cả.
Chẳng là nghệ sĩ Phùng là một nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp trong một chuyến công tác chụp cảnh thuyền và biển cho bô lịch năm ấy nghệ sĩ Phùng đã đến vùng biển để chụp bức ảnh chiếc thuyền và biển trong buổi sớm tinh sương. Và đúng như mong muốn Phùng bắt gặp cảnh tượng chiếc thuyền in những nét lòa nhòa trong làn sương. Đó thực sự là một cảnh đắt trời cho. Có thể nói hình tượng chiếc thuyền này chính là một hình ảnh nghệ thuật. Một chiếc thuyền với mũi thuyền in những nét lòa nhòa trong làn sương sớm. Đây quả thật là một bức tranh mực tàu của họa sĩ thời cổ để lại. Trước mắt chúng ta hiện lên một bức tranh đen trắng, chiếc thuyền nhỏ kia mang màu đen in hình mình lên màu trắng là làn sương sớm của buổi sáng trên biển. Sự kết hợp sáng tối giữa hai hình ảnh, hai màu sắc khiến cho thi nhãn của ta như được đắm chìm, bị thu hút bởi sự hài hòa dịu mắt ấy. Những mắt lưới đánh cá cũng được xuất hiện, với cuộc sống thường nhật thì nó chỉ để bắt cá mà đến với nghệ thuật nó lại trở thành một hình ảnh thật đẹp. Hình ảnh những con người ngồi trên thuyền thì im phăng phắc. Cảnh đẹp đó khiến cho người nghệ sĩ như bót thắp tim lại vì sung sướng. Nó chỉ là một cảnh tượng đời thường thế khám phá nghệ thuật của nó lại trở nên đẹp đến vậy. Người nghệ sĩ nhận ra nghệ thuật chính là đạo đức.
Như vậy hình tượng chiếc thuyền ngoài xa là một hình tượng nghệ thuật giàu sức gợi. Nhà văn như khẳng định nguồn gốc của nghệ thuật chính là sinh ra từ cuộc sống này. Những điều bình dị hay những điều lớn lao của cuộc sống đều có thể trở thành nghệ thuật. Hình tượng chiếc thuyền ngoài xa mang nét nghệ thuật đẹp đến nổi người nghệ sĩ không thể thốt nên thành lời mà như có ai bóp thắt tim mình lại.
Đó là một nét của hình tượng chiếc thuyền ngoài xa, nếu chỉ dừng lại ở đó thì cũng chẳng có ý nghĩa gì. Nhà văn Nguyễn Minh Châu tiếp tục cho chúng ta khám phá nghịch lý của cuộc đời qua hình tượng chiếc thuyền ấy.
Sau một bức tranh tuyệt mĩ ấy nơi có những con người chỉ ngòi im phăng phăc êm đềm hiền lành thế. Vậy mà khi chiếc thuyền ấy lại mang cả một sự thật ẩn dấu đằng sau. Đó là người chồng đánh người vợ của mình thậm tệ. Anh ta lấy một chiếc thắt lưng mỹ ngụy của mình để dáng đòn liên tục vào người vợ không hề thương tiếc hay đau xót gì. Bất chợt thằng con trai ở đâu lao tới, nó cầm một con dao và bất chấp chạy tới chỗ ông bố để đâm ông ta. Mũi dao ấy có thể lấy mạng ông bố. Người chồng ấy phũ phàng tát cho thằng con một cái ngã lộn nhào và sau đó trở về thuyền để mặc cho hai mẹ con ở lại trên bờ. Vậy là hình tượng chiếc thuyền kia đâu còn là hình ảnh nghệ thuật nữa nó lại quay trở lại là hình ảnh của cuộc sống hiện thực của những người dân chài nơi đây. Vẫn là con thuyền mưu sinh ngày đêm lênh đênh trên biển, vẫn là con thuyền với những con người ngồi im phắc thế nhưng đến khi vào bờ lại là một trận đánh tơi bời. Đến đây thì ai nghĩ rằng chiếc thuyền kia chỉ đẹp như thế.
Hình tượng của chiếc thuyền ngoài xa là như thế và cho đến bây giờ hễ cứ nói đến hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa là nói đến sự hàm ẩn giữa nghệ thuật và cuộc đời. nghê thuật được sinh ra từ cuộc đời nhưng đồng thời nghệ thuật phải gắn liền với cuộc đời. Con người chúng ta khi nhìn bất cứ một sự việc nào là nghệ thuật hay không nghệ thuật thì cũng nên nhìn nhận một cách đa chiều. Bởi vì cuộc đời này không bằng phẳng một màu, trong một sự vật có thể chứa đựng nhiều mặt khác nhau. Dòng đời thì đa đoan phức tạp. Vì thế chúng ta nên nhìn nhận một cách thấu hiểu nhất chứ không nên phiếm diện.
Có thể nói nhà văn Nguyễn Minh Châu đã kế thừa quan niệm của nhà văn Nam cao “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối… Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than”. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu vẫn có cái mới lạ ở chỗ hình tượng chiếc thuyền kia quả thật là một nghê thuật đó chứ đâu có phải lừa dối đâu. Cái mà nhà văn muốn thể hiện đó chính là mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, cái nhìn đa chiều vào sự vật hiện tượng. Ngay chính bản thân hiện tượng cũng có những nghịch lý mà ta phải nhìn nhận.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *