Bài học Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu giúp các em cảm nhận được suy nghĩ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh khi phát hiện ra mâu thuẫn éo le trong nghề nghiệp của mình; từ đó thấu hiểu mỗi người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Thấy được kết cấu độc đáo, cách triển khai cốt truyện rất sáng tạo. Thông qua video bài giảng kết hợp với soạn bài và phần bài học, DapAnHay chúc các em có thêm nhiều tiết học hấp dẫn và hiệu quả hơn tại lớp.
⇒ Cảm thấy hạnh phúc chất ngất, cảm nhận được cái Thiện, cái Mĩ của cuộc đời, cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, trở nên trong trẻo, tinh khiết.
⇒ Cuộc sống con người không đơn giản, người nghệ sĩ không thể dễ dãi, giản đơn khi nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của đời sống.
⇒ Quan niệm: nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời và phải là cuộc đời, luôn luôn vì cuộc đời.
⇒ Tình huống được đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu để thể hiện tính cách con người và cuộc đời.
Mời các em cùng tổng kết lại nội dung chính của bài học qua sơ đồ sau:
Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
“Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu viết năm 1983. Qua tác phẩm nhà văn xây dựng một tình huống truyện độc đáo. Tình huống nhận thức mang tính khám phá, phát hiện về đời sống. Để nắm được nội dung kiến thức cần đạt về văn bản này, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Chiếc thuyền ngoài xa.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới: Sáng tác của ông viết trong những năm 80 thường hướng đến đời thường, khám phá về số phận và phẩm cách con người trong thực trạng đa đạng và phức tạp cuộc sống. Để hiểu và phân tích được truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Nêu suy nghĩ về hai ý kiến về nhân vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Hóa thân vào nhân vật Phùng để kể lại truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu
- Phân tích những phát hiện của nhân vật Phùng trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa và liên hệ với cái chết của Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
- Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích sự nghịch lí trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích giá trị hiện thực trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích hình tượng Chiếc thuyền ngoài xa trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích đoạn cuối tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- So sánh nhân vật người vợ nhặt (Vợ Nhặt – Kim Lân) và người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu)
- Phân tích nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích nhân vật Đẩu trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Nghị luận về nạn bạo hành gia đình qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Phân tích chi tiết tấm ảnh nghệ thuật trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Cách nhìn hiện thực cuộc sống của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Sự biến đổi nhận thức của nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Hành trình nhận thức của nhân vật Phùng trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Cảm nhận về người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Tình huống nhận thức trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Phân tích hình ảnh chiếc thuyền trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
Câu trả lời của bạn
Một tác phẩm hay hấp dẫn và thành công không chỉ ở nội dung và hình thức mà còn là ở hình tượng của tác phẩm đó. Hình tượng có thể là con người và cũng có thể là vật, miễn sao sự vật con người ấy nói lên được ý nghĩa mà nhà văn muốn truyền tải tới bạn đọc. Nếu như Nguyễn Tuân lấy hình tượng con sông Đà để giới thiệu vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của nó thì Nguyễn Minh Châu lấy hình tượng chiếc thuyền ngoài xa để nói lên những dụng ý nghệ thuật của mình. Vậy dụng ý nghệ thuật của nhà văn qua hình tượng ấy là gì?
Chiếc thuyền ngoài xa được Nguyễn Minh Châu sáng tác trong thời kì đổi mới của đất nước. Khi ấy xã hội đang trên đà phát triển, kinh tế phát triển theo xu hướng hàng hóa nhiều thành phần và hàn gắn vết thương chiến tranh đi lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước có nhiều cái mới tốt đẹp văn minh hơn nhưng đồng thời vẫn có những mảng tối mà nhà nước không thể đi sâu hết được. Cho nên với ý thức của một người nghệ sĩ Nguyễn Minh Châu không hổ danh là người mở đường tinh anh khi sáng tác thành công truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Trong truyện ngắn ấy ngoài những hình tượng người đàn bà hay người nghệ sĩ Phùng thì chúng ta đặc biệt ấn tượng với hình tượng chiếc thuyền ngoài xa.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm đã là một ẩn ý nghệ thuật về hình tượng này. Chiếc thuyền ngoài xa theo nghĩa tả thực thì nó chính là không gian sinh sống của những cặp vợ chồng làng chài. Nó là những chiếc thuyền mưu sinh của con người đánh cá. Nói một cách khác đi thì đó chính là nhà của họ. Thế nhưng nếu như chỉ hiểu theo nghĩa tả thực kia thì chẳng có gì gọi là ẩn ý ở đây cả.
Chẳng là nghệ sĩ Phùng là một nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp trong một chuyến công tác chụp cảnh thuyền và biển cho bô lịch năm ấy nghệ sĩ Phùng đã đến vùng biển để chụp bức ảnh chiếc thuyền và biển trong buổi sớm tinh sương. Và đúng như mong muốn Phùng bắt gặp cảnh tượng chiếc thuyền in những nét lòa nhòa trong làn sương. Đó thực sự là một cảnh đắt trời cho. Có thể nói hình tượng chiếc thuyền này chính là một hình ảnh nghệ thuật. Một chiếc thuyền với mũi thuyền in những nét lòa nhòa trong làn sương sớm. Đây quả thật là một bức tranh mực tàu của họa sĩ thời cổ để lại. Trước mắt chúng ta hiện lên một bức tranh đen trắng, chiếc thuyền nhỏ kia mang màu đen in hình mình lên màu trắng là làn sương sớm của buổi sáng trên biển. Sự kết hợp sáng tối giữa hai hình ảnh, hai màu sắc khiến cho thi nhãn của ta như được đắm chìm, bị thu hút bởi sự hài hòa dịu mắt ấy. Những mắt lưới đánh cá cũng được xuất hiện, với cuộc sống thường nhật thì nó chỉ để bắt cá mà đến với nghệ thuật nó lại trở thành một hình ảnh thật đẹp. Hình ảnh những con người ngồi trên thuyền thì im phăng phắc. Cảnh đẹp đó khiến cho người nghệ sĩ như bót thắp tim lại vì sung sướng. Nó chỉ là một cảnh tượng đời thường thế khám phá nghệ thuật của nó lại trở nên đẹp đến vậy. Người nghệ sĩ nhận ra nghệ thuật chính là đạo đức.
Như vậy hình tượng chiếc thuyền ngoài xa là một hình tượng nghệ thuật giàu sức gợi. Nhà văn như khẳng định nguồn gốc của nghệ thuật chính là sinh ra từ cuộc sống này. Những điều bình dị hay những điều lớn lao của cuộc sống đều có thể trở thành nghệ thuật. Hình tượng chiếc thuyền ngoài xa mang nét nghệ thuật đẹp đến nổi người nghệ sĩ không thể thốt nên thành lời mà như có ai bóp thắt tim mình lại.
Đó là một nét của hình tượng chiếc thuyền ngoài xa, nếu chỉ dừng lại ở đó thì cũng chẳng có ý nghĩa gì. Nhà văn Nguyễn Minh Châu tiếp tục cho chúng ta khám phá nghịch lý của cuộc đời qua hình tượng chiếc thuyền ấy.
Sau một bức tranh tuyệt mĩ ấy nơi có những con người chỉ ngòi im phăng phăc êm đềm hiền lành thế. Vậy mà khi chiếc thuyền ấy lại mang cả một sự thật ẩn dấu đằng sau. Đó là người chồng đánh người vợ của mình thậm tệ. Anh ta lấy một chiếc thắt lưng mỹ ngụy của mình để dáng đòn liên tục vào người vợ không hề thương tiếc hay đau xót gì. Bất chợt thằng con trai ở đâu lao tới, nó cầm một con dao và bất chấp chạy tới chỗ ông bố để đâm ông ta. Mũi dao ấy có thể lấy mạng ông bố. Người chồng ấy phũ phàng tát cho thằng con một cái ngã lộn nhào và sau đó trở về thuyền để mặc cho hai mẹ con ở lại trên bờ. Vậy là hình tượng chiếc thuyền kia đâu còn là hình ảnh nghệ thuật nữa nó lại quay trở lại là hình ảnh của cuộc sống hiện thực của những người dân chài nơi đây. Vẫn là con thuyền mưu sinh ngày đêm lênh đênh trên biển, vẫn là con thuyền với những con người ngồi im phắc thế nhưng đến khi vào bờ lại là một trận đánh tơi bời. Đến đây thì ai nghĩ rằng chiếc thuyền kia chỉ đẹp như thế.
Hình tượng của chiếc thuyền ngoài xa là như thế và cho đến bây giờ hễ cứ nói đến hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa là nói đến sự hàm ẩn giữa nghệ thuật và cuộc đời. nghê thuật được sinh ra từ cuộc đời nhưng đồng thời nghệ thuật phải gắn liền với cuộc đời. Con người chúng ta khi nhìn bất cứ một sự việc nào là nghệ thuật hay không nghệ thuật thì cũng nên nhìn nhận một cách đa chiều. Bởi vì cuộc đời này không bằng phẳng một màu, trong một sự vật có thể chứa đựng nhiều mặt khác nhau. Dòng đời thì đa đoan phức tạp. Vì thế chúng ta nên nhìn nhận một cách thấu hiểu nhất chứ không nên phiếm diện.
Có thể nói nhà văn Nguyễn Minh Châu đã kế thừa quan niệm của nhà văn Nam cao “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối… Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than”. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu vẫn có cái mới lạ ở chỗ hình tượng chiếc thuyền kia quả thật là một nghê thuật đó chứ đâu có phải lừa dối đâu. Cái mà nhà văn muốn thể hiện đó chính là mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, cái nhìn đa chiều vào sự vật hiện tượng. Ngay chính bản thân hiện tượng cũng có những nghịch lý mà ta phải nhìn nhận.
Phân tích nhân vật Nguyệt trong truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu để làm sáng tỏ cảm nhận của Lãm: “Trong tâm hồn người con gái nhỏ bé ấy, tình yêu và niền tin mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy , bao nhiêu bom đạn dội xuống cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá nổi ư ?”
Câu trả lời của bạn
Câu chuyện tình giữa Lãm và Nguyệt được coi là trung tâm của mọi khám phá khi phân tích Mảnh Trăng Cuối Rừng ( MTCR ) của Nguyễn Minh Châu . Trong nhà trường , khi giảng MTCR nhiều thầy cô đã say sưa về một tình yêu thuỷ chung giữa Lãm và Nguyệt . Quả vậy , đề tài tình yêu lãng mạn hiếm có trong chương trình ; và mỗi người đều có trong lòng một mối tình nên có thể tiếp cận tác phẩm bằng chính cảm nghiệm của mình , hơn nữa đối tượng là học sinh 12 , độ tuổi nhạy cảm về đề tài tình yêu . Ba mối đồng cảm ấy tạo nên dòng chảy cảm xúc bất tuyệt khiến cho tác phẩm trở nên thật hấp dẫn
Nhưng hãy giả định điều này : Nếu cô gái đi nhờ xe không phải là cô Nguyệt của chị Tính , thì câu chuyện sẽ phát triển thế nào ? cứ theo logic của truyện thì Lãm sẽ yêu cái cô Nguyệt đi nhờ xe ấy mà không còn nghĩ gì đến cô Nguyệt của chị Tính nữa ; Hoặc giả anh lính lái xe không phải là Lãm, mà là một anh lính lái xe khác , liệu cô Nguyệt đi nhờ xe ấy , khi đã ngầm có những ước hẹn với anh lái xe , có còn “ thuỷ chung với người tình không chân dung “ là Lãm hay không ?
Nếu chỉ đề cao tình yêu ” thuỷ chung “ ở Nguyệt , vì Nguyệt đã chờ đơi Lãm nhiều năm ,thì thật khó thuyết phục thế hệ học trò hôm nay. Chẳng thể nào có một mối tình chỉ có trong tưởng tượng .Tình yêu luôn là những rung động cụ thể của hai thân xác , hai trái tim. Chẳng thể nào yêu được một người không chân dung , trừ tình yêu của những tu sĩ với thượng đế của mình . Tình yêu chỉ có giữa hai con người bằng xương bằng thịt , gần gũi gắn bó .Chẳng thể nào Nguyệt lại cứ chờ đợi vô vọng một người , mà trong chiến tranh sự sống chết của người ấy có thể xảy ra trong giây phút . Trong thực tế ,không thể có một cô Nguyệt xinh đẹp lại từ chối yêu thương của “ khối anh cán bộ khá hẳn hoi “ , để chỉ hướng về một khoảng không vô vọng . Nguyệt đã nhìn thấy ở Lãm điều gì cho tương lai , hạnh phúc của mình ? Nguyễn Minh Châu cũng không miêu tả điều gì về tương lai của Lãm . Ông bỏ lửng phần kết thúc, để cho người đọc tự liên tưởng .Câu chuyện trở nên có dư vị.
Như vậy câu chuyện tình của Lãm và Nguyệt không phải là cái đích mà Nguyễn Minh Châu muốn hướng đến , đó chỉ là cái vỏ được dùng để chuyển tải một cái gì khác .Ta hãy nghe Nguyễn Minh Châu nói về ý thức sáng tạo của ông : “… người cầm bút … chọn trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất , một khoảnh khắc cuộc sống với một vài sự việc diễn biến sơ sài và cũng bình thường thôi ( hoặc có thể dồn dập và không bình thường ) nhưng bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất , cái phần ẩn náu và sâu kín nhất , thậm chí có khi đó là cái khoảnh khắc chứa cả một đời ngưởi , một đời nhân loại “ ( Đôi điều về truyện ngắn. Văn Nghệ Quân đội 8.1981 )
Vậy trong Mảnh Trăng Cuối Rừng những ý nghĩa của cái khoảnh khắc cuộc sống được miêu tả là gì ? , cái phần tâm can nhất , sâu kín nhất của con người là gì ? Đặt vấn đề như vậy cũng là tìm hiểu cái mục đích mà Nguyên Minh Châu muốn đạt đến ; NMC viết : “ muốn truyền đến cho người đọc cái điều mà anh vừa khám phá thấy trong đời sống thường nhật của những người xung quanh …cái điều mới mẻ , độc đáo và thực là thân thiết đối với đông đảo mọi người “ ( Nghĩ về truyện ngắn . Văn Nghệ số 20, 14.5.1983 )
Ngày thường Lãm là một anh bộ đội lái xe có vẻ ngang tàng , chẳng bận tâm điều gì . Lãm trốn nhà đi bộ đội , xuất ngũ rồi tái ngũ . Đời lái xe như con vạc , làm bạn với đường với trăng , thậm chí dù đã nhiều lần viết thư cho chị Tính , trong thư có viết thêm đôi câu thăm hỏi Nguyệt và ngầm ý hứa hẹn , vậy mà “ câu chuyện cô Nguyệt và những bức thư của chị Tính tôi cũng đã quên từ lâu “ . Lãm thú nhận như vậy . Có nghĩa là Lãm chẳng vướng bận điều gì riêng tư .Vậy thì cái phần tâm can nhất , sâu kín nhất ở Lãm lộ ra trong hoàn cảnh này là gì ?
Đó là những phẩm chất chiến sĩ. Anh rất bực mình vì đồng chí lái phụ lên trễ , điều ấy là thiếu tính kỷ luật, điều ấy là “ tai hại” trong chiến tranh , bởi vì “ giữa thời chiến xe mình chỉ cần vượt lên thiên hạ nửa vành bánh , khi qua phà qua ngầm là đủ nhàn ‘ . Hơn nữa trong xe lại có phụ nữ quá giang , Lãm rất khó nghĩ “ xe chạy qua bao chặng nguy hiểm mà trong xe lại có người đi nhờ ? chẳng lẽ bây giờ bảo người ta xuống “ . Lúc anh dừng xe chờ đoàn xe xích đi qua, cô gái xuống xe .Lãm thực sự khó chịu. Anh bảo “ lần sau nếu xe dừng , cô đừng nhảy xuống như thế này nhé “ . Với Lãm , tính kỷ luật , việc hoàn thành nhiệm vụ được đat lên hàng đầu , ngoài ra tất cả đều là thứ yếu . Việc anh trễ hẹn với chị Tính chẳng có gì quan trọng . Hôm sau anh lên thăm chị cũng chẳng sao . Trễ hẹn với cái cô Nguyệt ấy , chẳng hề gì .Vì với anh , Nguyệt của chị Tính mới chỉ là một ấn tượng đáng ngạc nhiên, chưa có gì là gắn bó , hơn nữa lại là chuyện mai mối , không phải là đối tượng Lãm tự tìm kiếm . Lãm thăm chị Tính là chính vì chị biên thư cứ phàn nàn “Đã hơn ba năm chưa được gặp cậu Lãm đấy “.
Trong đời thường , Lãm là một anh lính “ già đời trong nghề lái xe “ , lại nhanh nhạy, tinh tế và sâu sắc , và cũng thật lãng mạn những lúc “ đứng chéo chân tựa bên gốc cây bên đường , thở khói thuốc vòng tròn và ngắm vầng trăng khuyết mỏng manh bằng con mắt mơ mộng “, Những người như thế , đúng như Nguyệt nhận xét “ … các anh lái xe đi nhiều nơi , chắc hẳn quen biết nhiều người lắm “ . Trước một người đẹp như Nguyệt , Lãm đã đủ tỉnh táo và thừa thông minh để che dấu những gì cần che dấu . Hiển nhiên sự che dấu ấy là để chinh phục Nguyệt . Nếu không có cái khoảnh khắc đậm đặc của đời sống , khoảnh khắc Lãm gặp gỡ Nguyệt trong hoàn cảnh xe bị máy bay Mỹ ném bom , thì chắc chắn anh lính lái xe Lãm sẽ chỉ là anh lính lái xe đời thường , đa mang trước các cô gái đẹp , mà chẳng tỏ lộ ra “những gì là tâm can , là cái phần sâu kín nhất “của tâm hồn và tính cách mình .
Con người ngang tàng và có vẻ coi thường phụ nữ ấy , trong khoảng khắc lại bộc lộ cái phần chân thành sâu kín nhất của tâm hồn. Lương tâm anh bị cắn rứt nếu cô Nguyệt hy sinh lại chính là cô Nguyệt đã “ mang canh cánh trong trái tim tuổi trẻ mối tình đầu với tôi suốt mấy năm mà tôi lại hững hờ “ “ nếu Nguyệt đã hy sinh thực thì tôi sẽ mang mối hận mãi mãi". Hoá ra Lãm là một chiến sĩ nặng lòng tình nghĩa , không hề là con người hời hợt . Anh đang đi tìm những giá trị quý giá của đời sống , không phải là những giá trị như người thường vẫn tìm kiếm. Nhìn Nguyệt bị thương ,anh thổ lộ tâm can.: “ lúc ấy trong lòng tôi dậy lên một tình yêu Nguyệt gần như mê muội lẫn cảm phục “ . Có thể đó là tiếng sét ái tình như người ta vẫn nói . Nhưng ở đây , phải chăng Nguyệt là người hội đủ những giá trị cao đẹp của một mẫu người trong tâm tưởng của Lãm , bỗng chốc gặp được , thì tình cảm trong lòng anh cũng bùng phát . Nguyệt xinh đẹp , một cô công nhân đầy trách nhiệm, một chiến sĩ , một đồng đội can trường giúp Lãm vượt qua lửa đạn , hoàn thành được nhiệm vụ . Cũng như Lãm, Nguyệt không hề nghĩ gì đến thân mình . Hai con người , một phẩm chất , một tính cách , một lý tưởng sống , một hoàn cảnh sống chết gắn bó .
Lãm tìm thấy chính mình trong Nguyệt , cái phần sâu kín nhất của tâm hồn mình . Ở Nguyệt , “ cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy , bao nhiêu bom đạn giội xuống cũng không hề đứt , không thể nào tàn phá nổi “ cũng là cái sợi chỉ xanh những phẩm chất tâm hồn và nhân cách của Lãm . Đây là “ điều mới mẻ , độc đáo và thực là thân thiết “ mà Nguyễn Minh Châu khám phá được ở Lãm .
Thường thì nhân vật Lãm rất ít được chú ý đến . Nguyễn Minh Châu cùng với người đọc tập trung sự chú ý vào nhân vật nguyệt . Vậy Nguyệt tỏ lộ ra những gì là tâm can nhất ? đâu là phần tâm hồn sâu kín của Nguyệt ?
Trước mắt Lãm , Nguyệt là cô gái hoàn toàn xa lạ và bí mật . Anh ra sưc khám phá và chinh phục , đó cũng là điều tự nhiên trong tâm lý đàn ông con trai. Sự hấp dẫn của câu truyện một phần là ở cái quá trình Lãm khám phá và chinh phục Nguyệt . Anh quan sát rất kỹ vẻ bên ngoài của Nguyệt . Anh nhận định ngay :“ ra vẻ cô này không phải là người lao động rồi “ . Anh cũng nhận ra ngay cái dụng ý trong câu hỏi thăm dò của Nguyệt và thận trọng đề phòng bằng những câu đối thoại theo kiểu “ làm trai phân hai mà nói “ . Khi bị Nguyệt hỏi vặn lại “ Sao anh hỏi tỉ mỉ vậy “ Lãm đã phải nói đùa một câu nhạt thếch . Nguyệt cũng kín đáo và thận trọng , thông minh rất mực khiến cho Lãm không tìm hiểu được gì ngoài một vài thông tin về chỗ làm của Nguyệt . Theo phép loại suy , Lãm “ có một niềm tin vô cớ ..Tôi tin chắc người con gái đang ngồi cạnh mình chính là Nguyệt “ . Cho đến lúc này Nguyệt vẫn chưa tỏ lộ ra điều gì ngoài cái dáng vẻ bên ngoài xinh đẹp . Tất nhiên là Lãm có phần nào bị “ choáng ngợp “ vì vẻ đẹp ấy , nhưng chỉ là choáng ngợp bên ngoài , chưa phải là sự choáng ngợp trong tâm hồn . Quả vậy , nếu Lãm thích vẻ đẹp bên ngoài thì chắc chắn anh đã lên chỗ chị Tính để gặp Nguyệt ngay từ những lá thư đầu tiên chị Tính giới thiệu , không đến nỗi anh quên bẵng Nguyệt đi mấy năm.
Nguyệt đã toả sáng những phẩm chất của mình , toả sáng một cách tự nhiên ,không che dấu , không e dè trong cái khoảnh khắc đậm đặc của đời sống . Trước kia và cả khi Nguyệt đi nhờ xè Lãm , cô rất kín đáo , e dè , cẩn trọng trong thái độ giao tiếp . Trong ca bin , “ cô gái ngồi sát mé cửa , chiếc làn cói ôm gọn trong lòng “ thế ngồi hết sức giữ gìn . Cô đỏ mặt khi nghe chị Tính ngỏ ý . Vậy mà cô gái ấy lai hết sức chủ động vào cuộc , hướng dẫn xe Lãm vượt qua ngầm trong cơn bom lửa của máy bay Mỹ . Cô áy náy khi xe Lãm phải đi qua đoạn đường xấu do Cô đảm trách . Cô dấn thân trong bom đạn , gian khổ để hướng dẫn cho Lãm . Cô rất tinh anh nhận diện kẻ thù và cách “ đánh bom toạ độ “ của chúng . Cô có cách giúp Lãm đối phó hữu hiệu với sự tàn bạo cuả kẻ thù. Cô lấy thân mình che chắn cho Lãm khỏi bom đạn , bảo vệ bằng được chuyến hàng , bảo vệ mặt trận tiếp liệu. Trong cơn bão bom đạn sống chết ấy , Nguyệt không hề nghĩ đến mình , cũng không hề nghĩ gì đến tình yêu hay quan hệ tình cam. Cô hành xử với tư thế người chiến sĩ đương đầu với kẻ thù tàn bạo . Cô mưu trí , can trường và chỉ có một quyết tâm đánh thắng chúng . Cô hành xử với tinh thần trách nhiệm cao nhất công việc của mình . Cô thể hiện chân thật nhất tình đồng đội . Sức mạnh tinh thần của cô trở thành sức mạnh vật chất đến nỗi Lãm cũng không ngờ . Trong khoảnh khắc , sức mạnh ấy trở nên dũng mãnh hơn tất cả đạn bom kẻ thù , lướt qua mọi khó khăn , chiến thắng cái chết và sự tàn bạo .Cô ngời lên trong lửa đạn kẻ thù . Lúc này không còn ánh trăng, “ chưa bao giờ trời tối như thế ‘. Lãm vượt xe lên theo sự hướng dẫn của Nguyệt , Nguyệt trở thành một thứ ánh sáng kỳ diệu mà Lãm cứ nhắm theo đó mà đi . Lãm kể , “ qua một quãng khó đi và tối quá . Nguyệt nhảy xuống đi dò trước . Tôi cứ nhằm theo cái bóng trắng nhờ nhờ của Nguyệt trước mặt mà lái theo “ . Cả khi Nguyệt đã xuống xe , trên đường phóng như bay ra tiền tiêu Lãm lúc nào cũng thấy bóng nguyệt trước mặt.
Nguyệt sáng ngời ý thức trách nhiệm trong công việc, trách nhiệm công dân . Nguyệt là hiện thân của con người chiến sĩ : dũng cảm , mưu trí ,dấn thân, sẵn sàng hy sinh . Nguyệt con là thực thể sinh động của tính cách anh hùng .Con người của hành động , chiến đấu và chiến thắng. Nguyệt đẹp nhửng vẻ đẹp rất truyền thống và thời đại . Những phẩm chất ấy , trong nhiều năm thư từ qua lại với chị Tính , Lãm không hề phát hiện ra được ở Nguyệt . Lãm thực sự bị thuyết phục khi chính mắt anh chứng kiến và chính bản thân anh đã trải qua những giây phút bên Nguyệt . “ sự cảm phục mê muội” của Lãm với Nguyệt là có thể hiểu được. Bởi vì , ở những phút đầu tiên , Lãm cho rằng Nguyệt không phải là người lao động , đừng nói là chiến sĩ , nghĩa là Nguyệt không phải là người có thể thích hợp với môi trường chiến đấu hay lao động gian khổ. Vậy mà kinh nghiệm chiến trường dày dạn của anh lại khiến anh nhìn lầm trăng ra pháo sáng , và ngược lại , khi anh không nghe tiếng máy bay địch thì nguyệt đã nhận ra kẻ thù . Ngay khi anh còn lúng túng chưa nhận ra điều gì vừa xảy ra thì Nguyệt đã hành động “ nhanh và khoẻ hết sức “ để ứng phó với chiến trường . Dù bị thong, máu chảy đỏ cả cánh tay áo , Nguyệt cũng không để Lãm lo lắng về mình , cô động viên Lãm “ anh cứ yên tâm , vết thương chỉ sướt da thôi ‘ .
Nguyễn Minh Châu đã phát hiện ra được những phần tâm can nhất , những vẻ đẹp ẩn dấu sâu kín nhất ở Nguyệt trong cái khoảnh khắc “ chứa cả một đời người , một đời nhân loại “ở Nguyệt . Những phần khác của câu chuyện sẽ chỉ còn là những sắc màu tô điểm thêm ý vị và tô đậm cái ấn tượng của nhân vật đối với người đọc.
Trong cái khoảnh khắc gặp gỡ Lãm – Nguyệt ngắn ngủi ấy , cuộc sống chứa đựng những ý nghĩa gì ? Nguyễn Minh Châu yêu cầu cả người viết và người đọc “ nhìn lại , xem lại bằng con mắt khách quan hơn ..từ cái môi trường mới nhìn mọi người mọi vật ở nơi cũ sáng tỏ và bao quát hơn gợi cho ta nhiều điều suy nghĩ sâu xa và rộng lớn hơn “( Chiến trường sống và viết 1982 ) . Ở thời điểm hôm nay , chúng ta đã có đủ độ lùi thời gian và không gian để cùng với Nguyễn Minh Châu suy gẫm về ý nghĩa cuộc sống thời chống Mỹ.
Thế hệ trẻ đánh Mỹ như Lãm và Nguyệt sáng ngời lý tưởng phục vụ tổ quốc ở bất cứ nơi đâu , làm bất cứ việc gì khi tổ quốc cần , ý thức dấn thân vì nghĩa lớn . Nguyệt ra trường là tình nguyện đi công trường, còn Lãm đã trốn nhà đi bộ đội. Hạnh phúc của họ là ở chính công việc phục vụ tổ quốc , lẽ sống của họ là được phục vụ tổ quốc. Họ không hề nghĩ đến lợi ích riêng của cá nhân . Điều này thật khó tìm thấy trong cuộc sống hôm nay .
Trong công việc , cả Lãm và Nguyệt đều đặt ý thức trách nhiệm lên hàng đầu. Cả hai nỗ lực hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ . Dù đã đến đoạn xuống xe, nhưng Nguyệt vẫn theo Lãm , hướng dẫn Lãm vượt qua ngầm vì đây là đoạn đường cô đảm trách , rồi chẳng nề quản hiểm nguy cô quyết bảo vệ Lãm và chiếc xe . Tất cả xuất phát từ ý thức trách nhiệm cao nhất trong công việc. Còn Lãm , nhiệm vụ của anh là chở hàng lên tiền tiêu , anh đã hoàn thành nhiệm vụ ấy dù anh có bị trễ ngày hẹn . Cuộc sống hôm nay không dễ tìm thấy những con người có trách nhiệm sống chết với công việc như vậy. Những người thiếu trách nhiệm đã không ngừng tàn phá đất nước này , họ làm gì có lý tưởng.
Thế hệ trẻ như Nguyệt , Lãm còn sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu . Họ vào cuộc chiến đấu rất tự nhiên , tự tin , mưu trí , dũng cảm . Họ không hề nao núng trước bom đạn kẻ thù . Họ nhận diện được thủ đoạn kẻ thù và biết cách đánh thắng chúng . Họ mạnh hơn kẻ thù không chỉ ở chính nghĩa , lý tưởng mà còn mạnh hơn cả sức mạnh vật chất . Một cô gái “ không phải là người lao động “ như Nguyệt vậy mà trong khoảnh khắc lại trở nên “ nhanh và khoẻ hết sức “ , chủ động , thông minh , tung hoành trong chiến trận .Điều ấy giúp người đọc hieu được tại sao dân tộc này lai có thể chiến thắng nhiều kẻ thù lớn mạnh hơn mình gấp bội .
Một vẻ đẹp khác của thế hệ trẻ đánh Mỹ là vẻ đẹp của tình yêu lứa đôi đậm chất lý tưởng.. Có thể là trong thực tế là cả Lãm và Nguyệt đều chưa yêu, vì họ chưa hề gặp mặt nhau lần nào . Họ chưa có thời gian bên nhau để hiểu nhau , nhưng trong tâm tưởng của họ, Lãm là người Nguyệt lựa chọn và ngược lại Nguyệt là người lý tưởng Lãm tìm thấy . Cơ sở của sự lựa chọn ấy là họ cùng chung lý tưởng phục vụ tổ quốc , cùng có ý thức trách nhiệm cao , cùng biết quên mình cho đại nghĩa và cho mọi người và cả hai đều toả rạng những phẩm chất anh hùng cách mạng . Nếu chỉ dựa trên lợi ích cá nhân , chắc chắn Nguyệt đã chọn một anh cán bộ nào đó và chọn sống ở thành phố, chẳng dại gì lại sống gian khổ ở công trường và chiến trường. Và nếu Nguyệt cũng như nhiều cô gái khác , chỉ lo chăm chút cho hạnh phúc cá nhân , đòi hỏi cho riêng mình thì chẳng thể nào giành được tình yêu mê muội lẫn cảm phục của Lãm . Những tình yêu như thế ngày nay chỉ còn trong huyền thoại . Quả thực Nguyễn Minh Châu đã miêu tả được cái khoảnh khắc đời sống đậm đặc nhất , chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất . Nguyễn Minh Châu cũng “ xem xét con người Việt nam một cách sáng tỏ và đào bới vào nó sâu hơn … cho thấu cốt cách dân tộc “( Văn Nghệ số 39 , 24/9/83 )
Nhưng nhà văn không chỉ làm công việc phản ánh hiện thực , ghi nhận hiện thực , đi tìm và nắm bắt lấy những khoảnh khắc đậm đặc của đời sống. Nguyễn Minh Châu nói mỗi sáng tác văn học là một “ hành trình tư tuởng “ , ông bày tỏ “ Tôi thích những người viết truyện ngắn có tư tưởng cao sâu mà câu chuyện vẫn dung dị thoải mái , nội dung chi tiết vẫn là nội dung chi tiết của đời sống bình thường hằng ngày “ và ông nhấn mạnh : “ Tác phẩm văn học sống bằng tư tưởng “ . Đây là một yêu cầu cao đối với văn học . Ta thử xem trong hành trình tư tưởng của Nguyễn Minh Châu , Mảnh Trăng Cuối Rừng sống với người đọc bằng tư tưởng gì ? .
Người ta thường nói Nguyễn Minh Châu là nhà văn đi tìm “ cái hạt ngọc ẩn dấu trong sâu tâm hồn con người “ . Và đã khám phá ra hạt ngọc ở nhân vật Nguyệt . Điều này tưởng chừng như là hiển nhiên , vì Nguyệt có những vẻ đẹp quý giá như ngọc. Vẻ đẹp ấy bị che lấp đi trong ngày thường nơi rừng sâu khuất lấp , trong lửa đạn huỷ diệt tơi bời của kẻ thù. Nguyệt là hiện thân củavẻ đẹp con người Việt Nam mà “ tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống ..bao nhiêu bom đạn không thể tàn phá nổi “ .
Tôi không nghĩ Nguyễn Minh Châu chỉ hướng về tư tưởng ấy, bởi vì ở Lãm ta cung đã thấy cái phần tâm can sâu sắc nhất của một chiến sĩ. Cả cô Nguyệt đã hy sinh và chị Nguyệt lão cũng có những vẻ đẹp như vậy . Nhìn tổng thể , vấn đề mà nhà văn suy tư và thể hiện là khám phá và lý giải vẻ đẹp tâm hồn con người Việt nam trong chống Mỹ “ con người đã được nhào nặn từ hàng nghìn năm với biết bao quan hệ , thói quen làm ăn , tập tục và truyền thống văn hoá …Chính họ là hình ảnh trung thực của đất nước này, vì chính họ sinh ra từ lịch sử ngàn năm của đất nước . Những con người Việt Nam sinh ra để chống chọi quần quật với giặc giã và đói khát “ ( Văn Nghệ số 39.24/9/83 ) .
Qua nhân vật Lãm , Nguyễn Minh Châu bày tỏ trực tiếp suy tư của mình , nhà văn hai lần suy tư về “ sợi chỉ xanh “ : “Tôi đứng bên sông , giữa cảnh một chiếc cầu đổ nát và tự hỏi “ qua bay nhiêu năm tháng sống giữa cảnh bom đạn tàn phá những cái quý giá nhất do bàn tay mình xây dựng nên , vậy mà Nguyệt vẫn không quên tôi sao ? trong tâm hồn người con gái nhỏ bé , tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống , cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy , bao nhiêu bom đạn giội xuống cũng không hề đứt , không thể tàn phá nổi ư ? ‘. Nguyễn Minh Châu cho rằng cốt lõi của vấn đề sức mạnh Việt nam là “ tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống “ đã giúp dân tộc này chống chọi được với giặc giã và đói khát .
Người đọc hôm nay ngạc nhiên tự hỏi tại sao trong chiến tranh ác liệt chống Mỹ lại có những con người đẹp như vậy , có những cách sống đẹp như vậy và có cả những mối tình đẹp như vậy . Câu trả lời tất yếu chỉ được tìm thấy trong phẩm chất con người Việ Nam “ đã được nhào nặn … sinh ra từ lịch sử ngàn năm của đất nước .” Đó là một lịch sử không ngừng nghỉ chống ngoại xâm , với những kẻ thù lớn hơn mình gấp bội . Nếu ngày xưa tiếng nói đầu tiên của Gióng là tiếng nói tình nguyện đánh giặc cứu nước , hành động kiên quyết của Gióng là xông thẳng vào kẻ thù và đánh bại chúng , thì hôm nay Lãm trốn nhà đi bộ đội , Nguyệt ra trường là tình nguyện đi kiến thiết miền Tây .. Những phẩm chất truyền thống của dân tộc đều toả sáng ở Nguyệt và Lãm . Đó là sự cần cù chịu thương chịu khó , chu tất trong công việc ; thấy người khác khó khăn thì sẵn lòng giúp đỡ ; luôn cầu tiến ; tính thuỷ chung trước sau như một ; coi trọng nghĩa tình hơn quyền lợi vật chất ; sống lạc quan tin yêu vào con người , coi trọng những giá trị nhân bản ; thông minh , tế nhị và khéo léo trong ngôn ngữ và ứng xử; và trên hết là phẩm chất đánh giặc ,“ giặc đến nhà đàn bà cũng đánh “ .
Người đọc cũng nhận ra những chuẩn mực đời sống dân tộc được Nguyễn Minh Châu trình bày một cách mới mẻ và khéo léo trong truyện . Người Việt Nam chúng ta quý mến lối sống tình nghĩa ( Chị Nguyệt Lão sẵn sàng “ dùng giây trói lợn để trói “ Lãm lại nếu anh ta là con người không tình nghĩa hờ hững với Nguyệt ), chọn lựa người yêu và xây dựng gia đình là chọn người đẹp người và đẹp nết ( Chị Tính nhắc đi nhắc lại với Lãm rằng “ cô ta giờ đã lớn , càng ngoan ngoãn , dũng cảm và lại xinh đẹp hơn trước kia “) .
Hoặc nếu phải chọn lựa giữa lợi ích của công đồng và lợi ích của cá nhân , thì con người Việt Nam sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân đat sự lợi ích cộng đồng lên trước ( Hình ảnh cô Nguyệt ngày thường hiền lành nhưng lại chiến đấu dũng cảm và hy sinh khi mới chỉ có người yêu là hình anh làm lay động tâm can Lãm và cả tâm can người đọc ) Và cái chuẩn mực đánh giá con người qua chính hành động của người ấy trong mối tương quan với cộng đồng.( Lãm chỉ tin lời chị Tính nói về Nguyệt khi tận mắt thấy Nguyệt “ ngời lên đẹp lạ thường “ dưới ánh trăng và trong bom đạn kẻ thù ) .
Nhân vật của Nguyễn Minh Châu trong Mảnh Trăng Cuối Rừng là hình ảnh trung thực của đất nước này , trung thực trong thực tại đang sống và trung thực trong những phẩm chất truyền thống , vì thế người đọc thấy họ rất bình dị , gần gũi đời thường nhưng lại sáng ngời vẻ đẹp khác thường , vẻ đẹp lý tưởng . Những nhân vật như thế sẽ sống mãi với người đọc . Và tác phẩm cũng sẽ sống mãi cùng với nhân vật vì tác phẩm thể hiện được nhận thức tư tưởng đạt đến bản chất của hiện thực . Nhưng Mảnh Trăng Cuối Rừng không phải là tác phẩm tư tưởng hay tác phẩm luận đề, các nhân vật Nguyệt và Lãm cũng không phải là kiểu nhân vật tư tưởng hay nhân vật luận đề. Mặc dù mệnh đề “ Nguyệt là trăng “ có hàm ý tư tưởng . Nguyễn Minh Châu không trình bày tư tưởng gì của riêng mình , Ông chỉ ghi nhận miêu tả , chiêm nghiệm thực tại và xây dựng truyện theo nhận thức xem xét con người Việt nam một cách sáng tỏ và đào bới vào nó sâu hơn … cho thấu cốt cách dân tộc “( Văn Nghệ số 39 , 24/9/83 ) . Nguyệt , Lãm thể hiện được cái cốt cách ấy . Tôi nghĩ rằng Nguyễn Minh Châu đã đạt được mục đích của mình.
Để thực hiện được những mục đích nội dung trên , Nguyễn Minh Châu đã xây dựng truyện như thế nào ? Ông nói đến một thứ kỹ thuật viết truyện ngắn : “ nó giống như kỹ thuật của người làm pháo : dồn nén tư tưởng vào trong một cái cốt truyện thật ngắn gọn , thật tự nhiên . Cho nên những người viết truyện ngắn bậc thầy đều cao tay trong kỹ thuật dựng truyện và tinh xảo trong ngôn ngữ “ , một thứ ngôn ngữ mà “… ý tình toát ra trong từng câu một “ ( Văn Nghệ số 20, 14/5/83 )
rằng “ với truyện ngắn , cái điều chính yếu là kêu gọi sự liên tưởng của người đọc “
Khi phân tích Mảnh Trăng Cuối Rừng ,người ta đãnói nhiều đến bút pháp thi vị hoá , chất thơ , chất lãng mạn của câu truyện. Vâng , đúng rằng chất thơ , chất lãng mạn là những màu sắc thẩm mỹ đặc sắc của truyện , đem đến nhiều mỹ cảm cho người đọc . Nó tạo nên một bầu khí nghệ thuật rất riêng . N.I.Niculi nhận xét “..Nhà văn thời ấy khá triệt để trong việc thi vị hoá nhân vật . Đây vừa là chỗ mạnh vừa là chỗ yếu của anh : Niềm tin vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp tinh thần , của cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ anh đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình , họ giống như được bao bọc trong bầu không khí vô trùng “ ( Lời bạt tập truyện Người Đàn Bà Trên Chuyến Tàu Tốc Hành )
Nhưng những đặc sắc nghệ thuật ấy lại là kết quả của một tài năng ,thể hiện ở kỹ thuật dựng truyện , cách dồn nén tư tưởng , ở khả năng kêu gọi sự liên tưởng của người đọc và ở sự chắt lọc ngôn ngữ mà tình ý toát ra trong từng câu văn . Nguyễn Minh Châu đã bố trí , ráp nối , triển khai ; thật khéo léo , tự nhiên và logic, một tình huống bất ngờ , thú vị ; tạo nên sự hư hư , thực thực kích thích trí tưởng tượng của người đọc ; dồn nén câu chuyện dài hằng mấy năm chờ đợi của Nguyệt vào trong một khoảnh khắc ; dồn nén cái cốt cách hàng ngàn năm lịch sử con người Việt Nam chống chọi quần quật với giặc giã và đói khát vào một câu chuyện thật giản dị ; và sử dụng một loại ngôn ngữ chắt lọc đến độ không thể chắt lọc hơn . Chẳng hạn , Nguyễn Minh Châu viết : “ Nguyệt là trăng “ . Cái mệnh đề tối giản ấy cũng là cả câu chuyện , nó chứa đựng chủ đề và tư tưởng của tác phẩm, nhưng cung chứa đựng những năng lượng thẩm mỹ ở cái độ nén rất cao , mà khi người đọc chạm đến , năng lượng ấý sẽ toả ra sức lay động mạnh mẽ và lâu dài, đem đến những khoái cảm thẩm mỹ tưởng như vô tận .
Nguyễn Minh Châu còn sử dụng những “ kỹ thuật viết “ khác để câu chuyện trở thành câu chuyện “ tâm can “ của Lãm , chinh phục được lòng tin của người đọc. Nhà văn như một nhân chứng khách quan nghe chính nhân vật đang kể lại câu chuyện của mình . Đó là kỹ thuật kể truyện trong kể truyện . Cách kể như vậy , không khéo sẽ rất rối trong bố cục và xử lý thời gian , không khéo sẽ thừa ra người kể , và gy lầm lẫn ngôn ngữ người kể chuyện. Lãm vừa kể , vừa tự phân tích tâm lý của mình trước từng sự việc xảy ra và miêu tả ngoại cảnh , gián tiếp bộc lộ những vang động của tâm lý ấy .Câu truyện có những ý vị thật thấm thía và sảng khoái .
Chẳng hạn , Lãm tự ngượng với mình khi ngồi bên Nguyệt mà lầm trăng thành pháo sáng, Lãm tự phân tích các dữ kiện mà Nguyệt cung cấp để tìm hiểu xem Nguyệt đang ngồi cạnh mình là ai . Lãm tự tra vấn lương tâm và ân hận nếu Nguyệt đã hy sinh. Lãm thấy lòng mình thật vui khi anh lái xe như bay ra tiền tiêu mà trước mặt là hình bóng của Nguyệt . Lãm thấỷ vòng tay lái của mình chao đảo trước tin Nguyệt hy sinh , đó là cách miêu tả sự chao đảo trong tâm hồn Lãm. Lãm thấy tim mình đập như đất rung dưới những chuyển động của bánh xe xích , đó là cách bộc lộ nửa như che dấu , nửa như tự thú nhận của Lãm về sự thay đổi của lòng mình.
Bí mật sự hấp dẫn của câu truyện là bí mật của nhân vật Nguyệt được khám phá từ từ qua một não trạng rất “ khôn ngoan, từng trải “ của anh bộ đội “ già đời trong nghề lái xe “ Lãm . Có một cuộc đấu trí rất thú vị , căng thẳng nhưng lại nhẹ nhàng , thông minh trong những lời đối thoại giữa Lãm và Nguyệt. Cả hai người trong cuộc đều muốn khám phá nhau nhưng cả hai cũng rất thận trọng không để lộ tung tích gì của mình cho người kia biết . Ngay khi phát hiện điều gì đó trong những câu hỏi của Lãm , Nguyệt đã ngăn chặn ngay “ sao anh hỏi tỉ mỉ vậy ? “ . Kiểu nói lấp lửng của Lãm như một cái bẫy ngàm .Nếu Nguyệt không thận trọng , cô sẽ để lộ tất cả những gì thuộc về mình , hoặc sẽ tỏ ra “ ngây thơ “ trước một tay “ già đời “ như Lãm . Người đọc yêu mến Nguyệt một phần vì cô rất chân thật , thông minh và kín đáo , Đó cũng là những phẩm chất truyền thống của phụ nữ Việt nam . Thành ra Lãm lại bị mắc bẫy của chính mình . Lãm rất tự hào về sự dày dạn hiểm nguy trận mạc của anh , vậy mà nhiều lần anh đã thua Nguyệt về sự thông minh , sự tinh nhạy và kinh nghiệm chiến trường . Hoá ra chính Lãm mới là người ngây thơ , còn Nguyệt lại là cô gái đầy bản lĩnh . Điều ấy làm người đọc cảm thấy thật sung sướng và thú vị .
Sức hấp dẫn của truyện còn ở chất thơ và chất lãng mạn . Nguyễn Minh Châu tạo ra một trường thẩm mỹ mà người đọc như đắm mình trong không gian thi vị và lãng mạn , đó là không gian của cái đẹp và của chất lý tưởng . Cần xác lập đây không phải là bút pháp lãng mạn . Bút pháp của Nguyễn Minh Châu là bút pháp hiện thực , nhưng nhà văn khơi gợi được sự liên tưởng của người đọc ở nhiều chi tiết và ở nhiều thủ pháp , đồng thời chọn lọc hiện thực qua lăng kính lý tưởng hoá.
Đó là một cuộc tình lãng mạn và lý tưởng . Một cô gái đẹp người đẹp nết lại yêu và chờ đơi một người tình không chân dung , chờ một anh bộ đội lái xe . Anh như con vạc đầu rừng cuối bãi . Có vẻ gì đó giống như Kiều đang chờ đợi một “ cánh hồng bay bổng tuyệt vời “ . Cuộc tình ấy khó có trong đời thực .Nó đặt trên nền của những phẩm chất lý tưởng. Sự gặp gỡ Nguyệt – Lãm cũng là một sự gặp gỡ tình cờ lãng mạn . Cái không gian trong vắt ánh trăng , bồng bềnh sương trắng cùng với hai con người ma trái tim đang đầy ắp tình yêu cuộc sống , không gian ấy là một không gian hiếm có . Cuộc sống chiến đấu được miêu tả đẹp và hấp dẫn . Nguyễn Minh Châu tuy có ghi nhận sự dữ dội , những cảnh tàn phá và sự hy sinh , nhưng trên nên cái hùng tráng ấy là mảnh trăng sáng trong như một mảnh bạc cùng với hình tượng Nguyệt ngời lên đẹp la thường trong ánh lửa đạn . Quả thực đời sống chiến đấu đã được miêu tả như một bài thơ tình tuyệt đẹp. Cái dư âm của câu chuyện chuyện tình , cái “ vô thanh “ của bản nhạc tình vẫn âm vang trong lịng người đọc khi câu chuyện đã kết thúc. Người đọc mong cho cuộc tình ấy sẽ thành hiện thực vì cả Lãm và Nguyệt đều là những con người tuyệt vời trong đời thường.
Ngưới ta cũng nói nhiều đến ánh trăng , đến mảnh trăng như là sự miêu tả sóng đôi với Nguyệt , và “mảnh trăng cuối rừng “ là ẩn dụ chứa đựng chủ đề câu truyện . Điều ấy vừa là thủ pháp , vừa là tư tưởng của Nguyễn Minh Châu . Nguyệt có những vẻ đẹp như trăng, Nguyệt đẹp trong ánh trăng , vẻ đẹp của Nguyệt bị che lấp , thấp thoáng như mảnh trăng cuối rừng. Nguyệt có những phẩm chất đẹp nhưng chưa phải là vầng trăng rạng rỡ giữa trời để soi chung cho mọi người .
Khi đọc kỹ truyện , người đọc sẽ thấy Nguyễn Minh Châu không chỉ tập trung miêu tả vẻ đẹp của trăng. Bởi vì , có những lúc ánh trăng không đẹp , không tạo ra giá trị thẩm mỹ , có khi còn tạo ra cảm giác khó chịu . Đó là một mảnh trăng như “ pháo sáng xanh lét run rẩy loè nhoè ở trên đầu “. Trăng có vẻ bệnh hoạn, yếu ớt, thoi thóp . Rồi trăng lại hiện ra : “ mảnh trăng nằm giữa những tảng mây hiện ra tái ngắt , ánh sáng loè nhoè .. chập chờn .. có lúc rơi tõm xuống khoảng tối mịt mù ..”. Người đọc dù có tâm hồn yêu trăng đến mấy , đọc những dòng miêu tả trên , cũng không thể thấy trăng đẹp , mà trăng như một vật thể vô cảm . Đến quá nửa đêm thì trăng đã lặn và không gian “ chưa bao giờ trời tối đến thế ‘ .
Nếu cứ theo cái logic Nguyệt đẹp trong trăng , Nguyệt được miêu tả sóng đôi với trăng thì bây giờ , trong bóng tối của đêm , Nguyệt sẽ chìm mất . Nhưng không phải vậy , người đọc lại thấy Nguyệt đẹp hơn nhièu trong lửa đạn , và Nguyệt trở thành một thứ ánh sáng như trăng hướng dẫn Lãm vượt qua nguy hiểm. Và trong cái bóng tối của đêm ấy , câu chuyện tình vẫn đầy lãng mạn . Nguyệt đã kéo Lãm vào giữa khe hai gốc cây to , ngược lại Lãm đã bế xốc Nguyệt vào chỗ an toàn . Phải chăng Nguyễn Minh Châu để mảnh trăng thiên nhiên lặn đi và mảnh trăng tâm hồn Nguyệt rạng rỡ lên . Quả thực , đúng là ông đã sử dụng những gam màu tương phản trong bức tranh để xây dựng nhân vật Nguyệt . Ông không chi chú ý tạo ra bầu khi lãng mạn và tạò chất thơ cho câu truyện . Cái cảm giác thú vị về bầu khí lãng mạn và chất thơ chỉ là một cách cảm thụ do kỹ thuật kêu gọi sự liên tưởng của Nguyễn Minh Châu . Ông nhấn mạnh cái ý này : “ trong truyện ngắn , theo riêng tôi nghĩ , nói cái gì và nói thế nào , đều là nội dung cả “ ( Văn Nghệ Quân đội số 8 . 1981 ) , Như vậy người đọc không được bỏ qua chi tiết nào mà nhà văn miêu tả , cũng phải chú ý đến cái cách nhà văn miêu tả nữa, vì tất cả “đều là nội dung “ .
Có thể nhiều điều trong bài viết này cần được xem xét kỹ hơn . Nhưng những ý kiến của Nguyễn Minh Châu đã giúp soi rọi nhiều góc cạnh tác phẩm . Người đọc vừa có được cái thú vị từ câu chuyện nhưng cũng có cả cái thú vị được biết tác giả đã thực hiện tác phẩm như thế nào . Người viết bài này chỉ thử tiếp cận tác phẩm theo ánh sáng của cái nhìn và kỹ thuật cuả tác giả , đồng thời với những các tiếp cận khác . Ước mong được góp thêm đôi điều vào giờ giảng của thầy cô, điều đó thật là một hạnh phúc.
DÀN Ý
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhân vật Nguyệt và cảm nhận của Lãm về nhân vật.
2. Cảm nhận trên của Lãm tập trung vào vẻ đẹp tâm hồn và đề cao sức mạnh từ vẻ đẹp tâm hồn ấy.
3. Giới thiệu chung về nhân vật Nguyệt .
- Là nhân vật chính của tác phẩm. Nguyệt là một nữ thanh niên xung phong làm việc tại Cầu Đá Xanh ( một vị trí trọng yếu trên tuyến đường Trường Sơn)
- Nguyệt được miêu tả có vẻ đẹp lí tưởng cả ngoại hình lẫn tâm hồn.
- Vài nét về ngoại hình ( D/c). Nhưng quan trọng nhất là vẻ đẹp bên trong tâm hồn.
4. Vẻ đẹp trong tâm hồn: Thể hiện ở các mặt sau:
- Có lý tưởng cao đẹp: Cô tự nguyện rời ghế nhà trường lên đường xây dựng Cầu Đá Xanh theo tiếng gọi của tổ quốc. Chấp nhận nhiều khó khăn gian khổ.
- Có tình yêu đẹp đẽ, trong sáng, lãng mạn: Yêu một người (Lãm) chưa hề gặp mặt và rất chung thủy dù bom đạn chiến tranh rất ác liệt.
- Có tinh thần đồng đội: thể hiện qua chi tiết giúp Lãm cứu xe. Cũng ở chi tiết này, ta nhận ra ở Nguyệt những phẩm chất của một nữ thanh niên xung phong: Nhanh nhẹn, tháo vác, bình tĩnh dầy bản lĩnh, gan dạ, dũng cảm...
=> Nguyệt có tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Và điều đó giúp cô vượt qua những khó khăn, khốc liệt của chiến tranh. Rõ ràng Lãm cẩm nhận khá sâu sắc và chính xác về vẻ đẹp trong tâm hồn của Nguyệt.
5. Vẻ đẹp ấy của Nguyệt - sợi chỉ xanh óng ánh trong tâm hồn - cũng chính là hạt ngọc mà Nguyễn Minh Châu cần tìm.
Hướng dẫn soạn bài : "Chiếc thuyền ngoài xa" - Nguyễn Minh Châu
Câu trả lời của bạn
I. Tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả
Nguyễn Minh Châu ( 1980-1989) quê ở làng Thới, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Năm 1944, ông học ở Trường Kỹ Nghệ Huế. Đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội, theo học trường Sỹ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ 1952-1958, ông công tác và chiến đấu tại sư đoàn 320.Năm 1962, ông về Phòng văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí "Văn nghệ quân đội". Năm 2000, ông được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
Tác phẩm chính : " Cửa sông"- tiểu thuyết 1967, "Những vùng trời khác"- Tập truyện ngắn, 1970, "Dấu chân người lính"- Tiểu thuyết 1972. "Miền cháy"-1977," Lửa từ những ngôi nhà"- 1977.....
2. Tác phẩm
"Chiếc thuyền ngoài xa" in đậm phong cách tự sự-triết lí của Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị của đời thương, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm của ông về nghệ thuật và cuộc đời.
II. Trả lời câu hỏi
1. Để có một tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đã tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh, đã dự tính bố cục, phục kích mấy buổi sáng để chộp được một cảnh thật ưng ý. Đôi mắt người nghệ sĩ phát hiện được một vẻ đẹp trời cho trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm mãy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp một lần. Niềm vui sướng của nhân vật "tôi" là niềm hạnh phúc của một người nghệ sĩ đạt tới đỉnh cao của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận huyền diệu, tinh khôi của cái đẹp. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa chính là một điểm nhấn linh diệu mà bắt gặp được nó là tâm hồn con người đã chạm được vào nơi tận thiện, tận, mĩ. Hình ảnh nghệ thuật hài hòa, vẻ đẹp sống lãng mãn có khả năng tác động mạnh mẽ và thanh lọc tâm hồn con người
2. Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy nghịch lí. Ánh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu, một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ như một phương thức để giải tỏa những uất ức khổ đau. Từng là một người lính cầm súng chiến đấu, Phùng không thể chấp nhận, chịu đựng nổi cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác, con trai lão đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ hai, khi phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thể hiện bản chất người lính, không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Anh cay đắng nhận thấy những cái ngang trái , xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản khủng khiếp, ghê rợn. Phùng đã từng có cái khoảng khắc hạnh phúc ngập tràn tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại, anh đã tưngh chiêm nghiệm bản thân cái đẹp chính là đạo đức, vậy mà hóa ra đằng sau cái đẹp toàn bích, toàn diện mà anh vừa bắt gặp trên biển xa lại chặng phải là "đạo đức", là "chân lí của sự hoàn thiện". Sự thật cuộc sống làm người nghệ sĩ bất ngờ, day dứt và ám ảnh khôn cùng.
3. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời. Nó như giúp những người như Phùng và Đẩu hiều được nguyên do của những điều tưởng như vô lí. Bề ngoài, đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập khốn khổ, nhưng vẫn nhất quyết gắn bó với người đàn ông vũ phu ấy. Lời giãi bày của người mẹ đáng thương chất chứa những hi sinh, thương yêu vô bờ bến cho những đứa con của mình. . Sự cam chịu nhẫn nhục của người đàn bà thương con này là một lựa chọn duy nhất. Vì thương con mà bà không thể tìm một lối thoát nào khác cho mình. Trong đau khổ triền miên, bà vẫn chắt lọc những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi cho mình. Câu chuyện người đàn bà càng khẳng định một cách nhìn của người nghệ sĩ về cuộc đời và con người : không thể dễ dãi,đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng, cuộc sống.
4. Người đàn bà vùng biển là một nhân vật vô danh, không tên, không tuổi nhưng lại được tác giả tập trung thể hiện tính cách, số phận một cách sinh động,đặc sắc. Đó là một người đàn bà khoảng 40, thô kệch, mặt rỗ,lúc nào cũng xuất hiện với khuôn mặt mệt mỏi, dấu vết in hằn của một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ. Thầm lặng chịu mọi đau đớn, hành hạ được bà coi là một việc tất yếu, đương nhiên, bởi trong cuộc mưu sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiêm sống ngoài xa cần có một người đàn ông khỏe mạnh và biết nghề, chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên, đó chính là lòng nhân hậu, bao dung, đức hi sinh đẹp đẽ của người mẹ, khiến người đọc cảm thông và trân trọng.
Cuộc sống đói nghèo, quẩn quanh những lo toan, cực nhọc đã biến người con trai cục tính nhưng hiền lành năm xưa thành một người chồng vũ phu, độc ác. Cứ khi nào khổ quá, ông lại đánh vợ. Lão đàn ông vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình. Chị em thằng Phác chính là những đứa trẻ đáng thương, trực tiếp hứng chịu những bi kịch gia đình mà bố chúng gây ra. Chị thăng Phác là một cô bé yếu ớt mà can đảm, phải vật lộn để tước con dao trong tay thằng em để tránh không cho nó làm một việc trái luân thường đạo lí. Cô bé tan nát, đau đớn khi chứng kiến những cảnh tượng bi kịch của gia đình. Hành động của cô bé là hành động đúng, cô là điểm tựa vững chắc cho người mẹ đáng thương và cản được việc làm dại dột của đứa em trai. Những ngây thơ, non dại của một thằng bé con khiến người ta nhói đau và cảm động bởi tình thương mẹ da diết, xót xa.
Phùng vốn là một chiến sĩ vào sinh ra tử, anh căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, vì công bằng. Tâm hòn người nghệ sĩ thật sự tinh tế, nhạy cảm khi xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển lúc bình minh nhưng cũng vỡ òa khi phát hiện ra đằng sau đó là sự bạo hành, xấu xa. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời lại nằm rất gần. Nghệ thuật chân chính phải chính là cuộc đời đó mà tồn tại, mà lên tiếng. Bởi thế, người nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp nhưng cũng phải là người nghệ sĩ biết thấu cảm những buồn vui, cay đắng đời.
5. Cách xây cốt truyện của Nguyễn Minh Châu nừm chính ở cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Tình huống Phùng chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ chính là một sự kiện có ý nghĩa bộc lỗ mọi mối quan hệ, bộc lỗ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách của con người. Trước đó, anh nhìn đời bằng con mắt nghệ sĩ đầy rung động mê say trước cái đẹp trời cho của thuyền biển sớm mai. Nhưng chính trong giây phút thăng hoa đó, tâm hồn nghệ sĩ lại va chạm rất mạnh vào sự thật ở đời. Tình huống được lặp lại lần hai, từ đó Phùng có cách nhìn đời khác hẳn. Tình huống truyện được tác giả đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn để phát hiện tính cách con người, phát hiện sự thật cuộc đời.
6. Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện cũng hết sức phong phú, độc đáo. Người kể chuyện là nhân vật Phùng, cũng chính là hóa thân của tác giả. Lựa chọn người kể như vậy đã tạo ra một điểm tựa trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huống truyện, lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.
Ngôn ngữ các nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người. Việc sử dụng ngôn ngữ một cách linh hoạt và sáng tạo góp phần khắc sâu thêm chủ đề, tư tưởng cho tác phẩm
Câu trả lời của bạn
Mị là nhân vật chính của Tây Nguyên “Vợ chồng A Phủ” trong lời kể trầm buồn mở đầu tác phẩm, hình ảnh Mị đã mang đến cho người đọc một sự ám ảnh sâu sắc: “Ai ở xa về, có việc vào nhà Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi đay bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đó là tư thế vẻ mặt của một người cam chịu làm nô lệ, không dám ngẩng đầu, cô chìm vào trong lao động khổ sai và lần như lần nào các vật vô tri: quay sợi, tảng đá, tàu ngựa
Theo lời kể chuyện, cuộc đời Mị dần hiện lên như một cuốn phim. Thuở thiếu nữ, Mị là một cô gái Mèo xinh đẹp, thùy mị, nết na, tài hoa, hiền lành, yêu đời và vui sống. Mị làm siêu lòng bao chàng trai Mông: “những đêm tình mùa xuân đến, trai đứng nhẫn cả bức vách đầu buồng Mị” Mị rất nhạy cảm với cái đẹp bao nhiêu rung động của tâm hồn trước vẻ đẹp của thiên nhiên, núi rừng, của người tình Mị gửi vào tiếng sáo: “có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị cũng có một tình yêu, có điệu gõ vách hẹn hò và ngón tay đeo nhẫn. Tâm hồn thiếu nữ xinh đẹp và tài hoa ấy đã rộng mở để đón nhận hương hoa của cuộc đời.
Nhưng tất cả đã chấm dứt trong cái đêm ai oán khi Mị bị bắt cóc về nhà thống lý Pá Tra trong tiếng nhạc sinh tiền cúng ma, cô đã trở thành con dâu nhà thống lý để trả món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ để lại. Mị trở thành con dâu gạt nợ là người con gái hiếu hạnh và cũng là cô gái trong trắng, yêu đời, khao khát được sống được yêu thương, Mị đã tìm cách cứu cha, cứu mình, cô van xin cha: “con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Lòng hiếu hạnh của cô gái Mông trong trắng ngây thơ không chống lại được hoàn cảnh và uy quyền của cha con nhà thống lý. Cô bị chúng biến thành nô lệ trung thân.
Những ngày đầu làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra, Mị thấm thía nỗi đau của một cuộc đời bị tước đoạt: “Có đến mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc”. Mị tìm đến lá ngón mong kết thúc cuộc sống không đáng sống. Cô Mị hiếu thảo trước khi ăn lá ngón đã về lạy cha để vĩnh biệt và xin người cha khốn khổ cho mình được chết. Vì những lời nói thống thiết của cha già, Mị không thể chết. Mị đành ném nắm lá ngón, quay lại nhà thống lý, chấp nhận cuộc đời nô lệ.
Ngày tháng trôi qua lạnh lùng “ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi”. Tháng ngày của Mị là công việc, những công việc giống nhau, nối tiếp nhau, lặp đi lặp lại một cách nhàm chán”. Ăn tết xong thì đi lên núi hái thuốc phiện, giữa năm giặt đay se đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp”. Mị đã trở thành công cụ trong nhà thống lý Pá Tra “dù làm gì trong tay cô lúc nào cũng có bó đay để tuốt thành sợi”. Những nhọc nhằn về thể xác đã khiến tinh thần Mị tê liệt. Nhà văn đã dùng phép so sánh nghệ thuật đau đớn “ Mị như con trâu con ngựa. Mị không bằng con trâu con ngựa. Mị như con rùa lùi lũi trong xó cửa” cách so sánh ấy đã cực tả nỗi đau của kiếp người là kiếp vật. Có thể nói rằng Mị đã bị bóc lột một cách trọn vẹn, bị tước đoạt cả về ý thức thời gian không gian “ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”
Mị còn mang một nỗi ám ảnh ghê gớm: “Con ma nhà thống lý, dù bị A Sử tra tấn tàn bạo, Mị không bao giờ nghĩ đến chuyện phản kháng.
Mị là hiện thân của sự bất hạnh của người phụ nữ miền núi thời phong kiến, nạn nhân của thần quyền và thần quyền.
Người đàn bà của làng chài là hiện thân của người phụ nữ lao động vùng biển thời hậu chiến. Nếu nhân vật Mị hiện trước mắt người đọc qua lời trần thuật của Tô Hoài thì người đàn bà làng chài xuất hiện qua một tình huống mang tính nhận thức. Đó là tình huống của nghệ sĩ Phùng chụp được một tấm ảnh đẹp như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, chụp chiếc thuyền ngoài xa. Khi chiếc thuyền vào bờ người nghệ sĩ đã phải chứng kiến một cảnh đời cay cực ngang trái: “Người chồng tới tấp đánh vợ, đứa con ngăn bố với tốc độ thù ghét”.
Người đàn bà trong mắt của nghệ sĩ luôn săn tìm cái đẹp là “người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người phụ nữ ấy gây ấn tượng về cuộc đời nhọc nhằn lam lũ. Nhà văn miêu tả nhân vật của mình một cách chân thật đến từng chi tiết khiến người đọc cảm giác người đàn bà từ chiếc thuyền lưới vó bước thẳng vào trang giấy. Hình ảnh chị với “tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng” gợi bao xót xa thương cảm. Người đàn bà đã tự kể về mình “từ nhỏ tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một trận đậu mùa nữa” một ngoại hình thiệt thòi, việc lấy chồng của chị cũng là việc không bình thường: “cũng vì xấu. Trong phố không ai lấy. Tôi chủ động có mang với một anh chàng trai nhà hàng chài giữa phố hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”. Lời tâm sự của chị dấy lên trong lòng người đọc sự đồng cảm với người phụ nữ kém may mắn. Hạnh phúc đến với chị khó khăn, chật vật biết nhường nào. Khát vọng lớn nhất của chị là có được chiếc thuyền rộng rãi và có đủ gạo để nuôi sống đàn con. Trong cảnh túng quấn, người chồng thay đổi tâm tính. Anh ta cho rằng nỗi khổ của mình là do đám vợ con đông đúc gây nên. Anh đã không bỏ mặc vợ con nhưng càng lao vào con đường kiếm sống gian nan, anh ta càng rơi vào bế tắc. Hệ quả tất yếu là anh ta trở nên dữ tợn, biến vợ thành nô lệ cho những hành động xâm hại lỗ mãng của mình.
Tác giả dành khá nhiều chi tiết để làm nổi bật vẻ cam chịu của người đàn bà, từ khuôn mặt mệt mỏi, cặp mắt nhìn xuống chân đến vẻ mặt lúng túng khi đi vào công sở: “Nếu như có một thoáng nào đó người đàn bà lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế mà thôi, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò của chúng tôi” rồi lại trở về trong phút chốc ngồi trước mặt chúng tôi vẫn là người đàn bà đầy lúng túng sợ sệt. Đặc biệt lạ là hành động vái lạy của chị. Lần thứ nhất như lời van xin của đứa con trai đừng làm điều gì dại dột với bố khi thằng bé bênh mẹ, lao vào trả thù bố. Lần thứ hai hành động đó lặp lại với Đẩu vị chánh án đang ra sức bảo vệ công lý, với những đề nghị khẩn thiết: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.
Nếu trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài nhân vật Mị với so sánh tiềm tàng đã phản kháng, chờ có cơ hội thoát khỏi những đọa đầy thì người đàn bà thầm lặng chịu mọi đớn đau dù bị chồng thường xuyên đánh đập: “ba ngày một trận nhẹ….” Chị hiểu rằng những trận đòn của chồng bắt nguồn từ sự ức chế tâm lý: “… là lão xách tôi ra đánh … cũng như đàn ông khác uống rượu”. Chị nhớ rất rõ điểm tốt của chồng để biện hộ cho những hành động tội ác của anh ta: “Lão chồng tôi khi ấy là một chàng trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Chị tha thiết xin quý tòa đừng bắt mình phải ly dị lão chồng vũ phu ấy. Với chị đàn bà vùng biển: “Phải gánh lấy cái khổ”, “đàn bà ở thuyền đôi chúng tôi phải sống cho con chứ, không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Điều duy nhất chị dành cho mình là việc xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh vì không muốn các con phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ”. Nếu có một lúc nào đó khuôn mặt người đàn bà sáng lên nụ cười hạnh phúc là lúc chị nhớ đến “ ở trên thuyền cũng có lúc việc chúng ta sống hòa thuận vui vẻ”. Đó là những giây phút hiếm hoi quá ít ỏi so với những trận đòn cơm bữa của chồng, sự hòa thuận vui vẻ đó như những đốm sáng lóc lên trong cuộc đời tăm tối dài dằng dặc của chị.
Song nếu như người đàn bà thuận theo sự giúp đỡ của Phùng và Đẩu sẽ ly dị lão chồng độc ác thì: cuộc đời người đàn bà sẽ đi về đâu? Ai sẽ giúp mụ nuôi những đứa con. Như thế với cái nhìn của người ngoài, người đàn bà ấy bất hạnh, trong khi đàn bà ấy ý thức rằng được ở với người chồng vũ phu đã là một may mắn hạnh phúc. Đó là cái hạnh phúc dựa trên nỗi đắng cay, hạnh phúc được nhờ sự hy sinh.
Nguyễn Minh Châu chỉ gọi nhân vật của mình là người đàn bà một cách phiếm định, đó là dụng ý của nhà văn. Ông muốn nói hộ người đàn bà vô danh ở những vùng biển suốt một dải non sông, bao nỗi niềm đau thương, bao nhiêu giọt nước mắt tủi hổ của người đàn bà mà đời không nhìn thấy. Thấp thoáng trong chị là bóng dáng biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hy sinh.
Nhân vật Mị và người đàn bà làng chài đều là những nhân vật bé nhỏ nạn nhân của hoàn cảnh. Tội ác của phong kiến chúa đất đã biến Mị thành con dâu gạt nợ kiếp người thành kiếp vật, còn người đàn bà là nạn nhân của tình trạng đói nghèo và nhận thức tăm tối. Khát vọng sống mãnh liệt đã khiến Mị vùng dậy, đổi đời nhờ cách mạng. Với người đàn bà làng chài, Nguyễn Minh Châu khiến người đọc luôn day dứt về số phận người phụ nữ thời hậu chiến. Công cuộc giải phóng dân tộc chúng ta đã hoàn thành vẻ vang nhưng ở đâu đó vẫn còn những phận người khốn khổ chưa được giải thoát. Hình ảnh bãi xe tăng hỏng như một gợi ý rằng cuộc chiến chống đói nghèo tăm tối còn gian nan hơn cả cuộc chiến chống ngoại xâm. Và chừng nào chưa thoát được đói nghèo, người phải chung sống với cái xấu cái ác. Và nữa qua nhân vật người đàn bà Nguyễn Minh Châu còn gửi gắm những quan điểm nghệ thuật: mối quan hệ khăng khít giữa nghệ thuật và đời sống, yêu cầu hiểu biết và bản lĩnh trung thực của người nghệ sĩ, chủ nghĩa nhân đạo trong như thế trong thể xa lạ với sự vật cụ thể của con người.
Phân tích tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu
Câu trả lời của bạn
Nhà văn Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông tham gia bộ đội năm 1950, chiến đấu ở vùng địch hậu đồng bằng Bắc Bộ rồi vào chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên. Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ, đồng thời cũng là người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn học từ sau năm 1975. Ở giai đoạn trước, ông là ngòi bút có khuynh hướng lãng mạn, sử thi. Ở thời kì sau, ngòi bút của ông chuyển sang đề tài thế sự, quan tâm tới đời sống của con người trong đời thường với những vấn đề về đạo đức, về triết lí nhân sinh. Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970), tiểu thuyết Dấu chân người lính (1972) với hình tượng trung tâm là những người lính đang chiến đấu chống quân xâm lược Mĩ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã khẳng định tài năng và tên tuổi Nguyễn Minh Châu trong văn học hiện đại. Ông cũng là nhà văn đi đầu trong công cuộc đổi mới văn học với mối quan tâm đặc biệt tới phẩm giá, đạo đức, quan niệm sống của 1 con người trong đời thường. Điều đó được thể hiện qua các tác phẩm như tiểu thuyết Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977) và những truyện ngắn như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quế, Khách ở quê ra, Bức tranh. Năm 2000, Nguyễn Minh Châu được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chi Minh về văn học và nghệ thuật.
Chiếc thuyền ngoài xa sáng tác năm 1983 là truyện ngắn xuất sắc nhất của ông ở thời kì sau; nội dung kể về chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh, qua đó thể hiện cách nhìn của tác giả về hiện thực cuộc sống, một cái nhìn thấu hiểu và thấm đẫm tình thương cùng sự băn khoăn, day dứt vể thân phận con người. Tác giả cùng gửi gắm trong truyện ngắn này những chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn bó với cuộc đời. Người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách hời hợt, giản đơn mà cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người bằng cái nhìn tỉnh táo, sáng suốt của lí trí kết hợp với rung động chân thành của trái tim nhân ái.
Tác giả đã thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người lao động trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn và hành trình kiếm tìm hạnh phúc. Những “hạt ngọc tâm hồn” không hiện ra trong lửa đạn chiến tranh, mà lẩn khuất giữa đời thường đầy sóng gió.
Phân tích vẻ đẹp lãng mạn trong truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu ?
Câu trả lời của bạn
Vẻ đẹp lãng mạn của tác phẩm thể hiện ở các mặt sau:
1. Nhan đề:
- Mảnh trăng cuối rừng: là một nhan đề gợi cảm, gợi liên hệ đến câu chuyện tình giữa Nguyệt và Lãm. Tình yêu của họ như mảnh trăng khuyết xa xôi (cuối trời) khi ẩn, khi hiện ...
2. Cốt truyện:
- Cốt truyện xoay quanh cuộc gặp gỡ bất ngờ thú vị giữa hai người yêu nhau nhưng chưa hề biết mặt và đến khi chia tay, họ vẫn chưa nhận ra nhau.
- Hành trình trên chuyến xe ra tiền tiêu của họ được miêu tả thật lãng mạn như hành trình phát hiện vẻ đẹp ở nhân vật nguyệt, hành trình của đôi lứa yêu nhau.
- Nguyệt từ một cô gái đi nhờ xe trở thành một người dẫn đường, cứu xe.Sự xuất hiện của Nguyệt ở dầu truyện làm Lãm khó chịu thì về cuối truyện chính cô đã làm cho Lãm dậy lên tình yêu mê muội lẫn cảm phục.
3. Hình tượng nhân vật:
- Nguyệt là nhân vật mang vẻ đẹp lãng mạn từ ngoại hình đến tâm hồn
a. Ngoại hình: Đôi gót chân hồng hồng sạch sẽ, vẻ đẹp giản dị mát mẽ như sương núi tỏa ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh dẻ, từng sợi tóc của Nguyệt sáng lên, mái tóc dày thơm ngát và trẻ trung làm sao, khuôn mặt tươi mát ngời lên đẹp lạ thường ...
b. Tâm hồn:
- Vẻ đẹp lý tưởng: Tự nguyện rời ghế nhà trường lên đường làm một nữ TNXP theo tiếng gọi của tổ quốc. Đặc biệt khi xây dựng cầu Đá Xanh, Nguyệt cùng với các chị em công nhân leo lên những đỉnh núi cao, chọn những viên đá đẹp nhất đem về xây cầu.
- Vẻ đẹp trong tình yêu: Nguyệt có một tình yêu đẹp đẽ, trong sáng, thủy chung với Lãm...
- Vẻ đẹp của một nữ TNXP: thể hiện đậm nét khi cùng Lãm cứu xe. Đó là tinh thần đồng đội, sự bình tĩnh, tự tin, gan dạ dũng cảm...
=> “ Trong tâm hồn người con gái ấy, tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống... không thể nào tàn phá nổi ư?”
4. Vẻ đẹp của bước tranh thiên nhiên:
- Tập trung nhất là hình ảnh ánh trăng. Trăng xuất hiện khắp nơi, bàng bạc trong tác phẩm... trăng được miêu tả song hành và gắn bó với nhân vật ,... trăng tạo nên bầu thanh khí trong suốt và vô trùng trong tác phẩm có khả năng thi vị hóa câu chuyện tình và cuộc gặp gỡ giữa Nguyệt và Lãm, đồng thời đẩy lùi hiện thực tàn khốc của chiến tranh, làm nền cho cái đẹp hiện lên.
5. Chủ đề tư tưởng:
- Tác phẩm có chủ đề ngợi ca vẻ đẹp trong tâm hồn của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Vẻ đẹp ấy cũng chính là hạt ngọc mà Nguyễn Minh Châu muốn tìm trong sự nghiệp cầm bút của mình
Phân tích nhân vật người đàn bà để làm rõ giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Câu trả lời của bạn
Mở bài
Nguyễn Minh Châu là một hiện tượng văn học vừa độc đáo, vừa lớn lao của nền văn học Việt Nam hiện đại vào cuối thế kỷ 20. Ông bước vào nghề văn hơi muộn nhưng sự nghiệp đổi mới trong văn học đã chọn ông để trao cho ông “Ấn Tiên Phong” lãnh chức Đại Tướng quân của Tập đoàn quân Chữ! Nhà văn Nguyên Ngọc đã rất đúng khi cho rằng Nguyễn Minh Châu là “người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất” ở chặng đầu đổi mới của văn học nước nhà. Trong cơn trở dạ nhiều đau đớn ấy, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cả bản lĩnh và tài năng của mình cho một khát vọng khẩn thiết và mãnh liệt: văn chương cần phải khác. Nơi đó cái đẹp phải là cái “thật”, con người phải được nhìn nhận ở “bề sâu, bề sau, bề xa” của nó. Hàng loạt tác phẩm được viết dưới ý tưởng đó. Trong đó, “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những sáng tác điển hình của ông được viết sau năm 1980. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Phùng, một nghệ sĩ khao khát khám phá, sáng tạo ra cái đẹp, người luôn lo lắng, trăn trở, suy tư về nhân cách và đời sống con người. Điều đó được thể hiện qua tình huống truyện độc đáo.
Thân bài
HCST: Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.
GTC: Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở toà án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.
Tên gọi: Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, NMC đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam.
Ngoại hình:Về ngoại hình, người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.
Số phận Bất hạnh: Ngoại hình thì vậy, số phận cũng không khá hơn. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ: có mang với một anh hàng chài đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,... Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất hậu và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.
Phẩm chất, tính cách: Song ẩn bên trong người đàn bà hình dáng bên ngoài xấu xí, thô kệch, chịu bao cay đắng, nhọc nhằn ở cuộc đời là những phẩm chất cao đẹp. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình. Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển không có người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được.
Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị. Với người đàn bà này, các con là cuộc sống, lẽ sống. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí do bà đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi mười đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu. Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh bà còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”. Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa.
Không những thế, đây còn là người phụ nữ vị tha thánh thiện. Không chỉ yêu thương, hi sinh đến quên mình vì đàn con, ở người phụ nữ này còn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học. Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng
Người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch.
Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đời thường. Đó những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn. Niềm vui lớn nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.
Đánh giá chung:Trên trang viết của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài là hiện thân của tình yêu thương, đức hi sinh, sự nhẫn nhục của người phụ nữ. Qua người đàn bà hàng chài, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh
"Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng
Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời" [Tố Hữu]
Bằng biện pháp đồi lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ông đã khai thác số phận cá nhân và thân phận con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời, ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”.
Kết bài
Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Chính số phận của người đàn bà hàng chài như một hồi chuông lay tỉnh chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà NMC chính là vị "khai quốc công thần của triều đại văn học mới"
Phân tích nhân vật Phùng để làm rõ quan niệm về nghệ thuật và cách nhìn cuộc sống của nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Câu trả lời của bạn
Trong văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự cống hiến, hy sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thể hiện chủ yếu trong mối quan hệ với đồng chí, đồng bào, với kẻ thù. Sau năm 1975, văn chương trở về với đời thường và Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kỳ đổi mới đã đi sâu khám phá đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Khi làm cho người đọc ý thức về sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, chằng chịt, thì văn chương đã ít nhiều đáp ứng được nhu cầu nhìn nhận và hoàn thiện nhiều mặt của nhân cách con người. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là phát hiện về đời sống và con người theo hướng đó.
Phát hiện thứ nhất của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh là một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh, nơi anh đã dự tính bố cục, đã “phục kích” mấy buổi sáng để “chộp” được một cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: “trước mặt tôi là bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới… toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp… Tôi tưởng thấy chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh về chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mỹ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời.
Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lý, nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã từng có “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”, anh đã từng chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, vậy mà hoá ra đằng sau cái đẹp “toàn bích… toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là “đạo đức”, là “chân lý của sự toàn thiện”. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn và độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để giải toả những uất ức, khổ đau. Phùng đã từng là người lính cầm súng chiến đấu để có vẻ đẹp thanh bình của thuyền biển mênh mông, anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lý và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác, con lão đàn ông đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ hai, khi lại phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thể hiện được bản chất người lính không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện, ở đó có chánh án Đẩu, bạn chiến đấu cũ của anh. Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ.
Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người như Phùng và Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô lý. Bề ngoài đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, vậy mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy. Chỉ qua những lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng thương đó mới thấy nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hy sinh của bà là tình thương vô bờ với những đứa con: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có những người đàn ông ở thuyền để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa… phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không thể khác được. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no… trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”; “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn…”. Qua câu chuyện của người đàn bà càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.
Tư tưởng nghệ thuật đó của Nguyễn Minh Châu thấm sâu trong hầu hết các nhân vật của truyện ngắn: người đàn bà vùng biển, lão đàn ông độc ác, chị em thằng Phác, người nghệ sĩ nhiếp ảnh.
Tác giả chỉ gọi là “người đàn bà” một cách phiếm định. Tuy không có tên tuổi cụ thể, chỉ là một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này. Trạc ngoài bốn mươi, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, người đàn bà ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ. Bà thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau, khi bị chồng đánh “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách trốn chạy”, bà coi đó là lẽ đương nhiên, chỉ đơn giản trong cuộc mưu sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khoẻ mạnh và biết nghề, chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên. “Tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài” – một sự cam chịu nhẫn nhục như thế thật đáng để chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hy sinh.
Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác. Cứ khi nào thấy khổ quá là lão đánh vợ, đánh như để giải toả uất ức, để trút cho sạch nỗi tức tối, buồn phiền: “lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong đời vẫn có những kẻ như thế, nói như Nam Cao trước kia, chỉ để thoả mãn lòng ích kỷ, chúng tự cho mình cái quyền được hành hạ mọi người. Lão đàn ông “chân chữ bát”, “mái tóc tổ quạ”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ”, vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình.
Trong một gia đình mà bố mẹ có chuyện lục đục, đáng thương nhất là những đứa trẻ. Chúng bị đẩy vào tình thế thật khó xử: biết đứng về phía ai, biết làm thế nào để trọn đạo làm con? Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lý. Chắc trong lòng cô bé tan nát vì đau đớn: bố điên cuồng hành hạ mẹ; chỉ vì thương mẹ mà thằng em định cầm dao ngăn bố… Cô bé lúc ấy là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương, cô đã hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi mẹ phải đến toà án huyện. Còn thằng Phác lại thương mẹ theo kiểu một đứa con còn nhỏ, theo cái cách một đứa con trai vùng biển: nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”, nó “tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Mặc dù thật khó chấp nhận kiểu bảo vệ mẹ của nó, nhưng hình ảnh thằng Phác vẫn khiến người ta cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào.
Vốn là người lính chiến từng vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra ngay sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác. Mới đầu, chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ và người vợ nhẫn nhục chịu đựng, Phùng hết sức “kinh ngạc”, anh “há mồm ra mà nhìn”, rồi sau như một phản xạ tự nhiên, anh “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Hành động ấy nói được nhiều điều. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.
Ở tác phẩm này, nét độc đáo trong xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu là cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Nếu coi tình huống là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người, thì với Phùng, việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ là một sự kiện như thế. Trước đó, Phùng nhìn đời bằng con mắt của một nghệ sĩ, anh rung động, say mê trước vẻ đẹp “trời cho” của thuyền biển sớm mai. Chính trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn nhất, anh bất ngờ chứng kiến đôi vợ chồng từ con thuyền “thơ mộng” bước xuống, rồi lão đàn ông đánh vợ một cách dã man và vô lý. Tình huống đó được lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ chứng kiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng mà còn thấy được thái độ, hành động của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha với mẹ. Từ đó đến cuối truyện, Phùng đã có cách nhìn đời khác hẳn. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài ấy, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu sâu thêm bản chất người đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình. Tình huống truyện đã được Nguyễn Minh Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn nữa để phát hiện tính cách con người, phát hiện sự thật cuộc đời.
Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn này cũng rất đáng chú ý. Người kể chuyện ở đây là nhân vật Phùng, hay nói đúng hơn, đó là sự hoá thân của tác giả vào nhân vật Phùng. Việc chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huống truyện, lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ các nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu lão đàn ông thật thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ đầy vẻ tục tằn, hung bạo; những lời của người đàn bà thật dịu dàng và xót xa khi nói với con, thật đớn đau và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của mình; những lời của Đẩu ở toà án huyện rõ là giọng điệu của một người tốt bụng, nhiệt thành… Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần khắc sâu thêm chủ đề- tư tưởng của truyện ngắn.
Có thể thấy cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 là cảm hứng anh hùng cách mạng, còn sau năm 1975 là cảm hứng về nhân cách con người, là hành trình “khám phá con người bên trong con người” (Bakhtin). Theo mạch cảm hứng ấy, năm 1982 Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn Bức tranh; trong ý nghĩ tự phán xét, nhân vật hoạ sĩ đã vẽ một bức chân dung tự hoạ nhằm thể hiện “khuôn mặt bên trong của chính mình”. Đáng lưu ý là, nếu trong truyện Bức tranh, Nguyễn Minh Châu hướng cái nhìn nghệ thuật vào thế giới nội tâm thì trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu lại hướng cái nhìn nghệ thuật ra thế giới bên ngoài, ra cuộc sống đời thường. Nếu truyện Bức tranh là sự tự nhận thức, tự phê phán của con người dưới ánh sáng của lương tâm, đạo đức, thì truyện Chiếc thuyền ngoài xa là sự nhận thức và phê phán cái xấu, cái ác trong cuộc sống thường ngày. Cả hai tác phẩm đều được viết dưới sự chỉ đạo của quan điểm nghệ thuật: chỉ ra mặt xấu, mặt tối để góp phần hoàn thiện nhân cách con người, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đặc biệt, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, thật đúng như Nguyễn Minh Châu từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.
Đọc truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, em suy nghĩ gì về nạn bạo hành gia đình trong xã hội? n
Câu trả lời của bạn
Ngày nay, tuy xã hội đã văn minh hơn, nhưng tư tưởng phong kiến “trọng nam khinh nữ” vẫn tồn tại song song với đó. Có lẽ điều tiến bộ hơn chỉ là người phụ nữ được bảo vệ và đối xử công bằng với nam giới bởi nhiều chính sách tiến bộ của Nhà nước mà thôi, ví như phụ nữ được đi học, được tham gia hoạt động cộng đồng, chính trị, tôn giáo … và được sống “một vợ một chồng”! Nói như vậy không hẳn lên án người dân ta vẫn còn mang nặng tư tưởng lỗi thời, lạc hậu đó, nhưng quả thực tư tưởng này vẫn còn hằn dấu trong mỗi người chúng ta, chỗ khác là ít hay nhiều mà thôi. Một nguyên do nữa khiến phụ nữ hay bị bạo hành, dù là ở bên phương Đông hay phương Tây; đó chính là so sánh tương quan về thể lực. Người đàn ông thường có thể lực tốt hơn và khỏe hơn phụ nữ, hơn nữa tính cách bẩm sinh thường mạnh mẽ hơn, trong khi người phụ nữ thường yếu đuối, nhạy cảm, không ham bạo lực. Nói thế không phải chỉ trích người đàn ông thiếu tình cảm, tình người, mà tôi đang muốn nói về xu hướng xử sự trong gia đình và cộng đồng của họ. Giờ ta thử lật lại giả thuyết này. Đó là giả thử khi xưa, đạo Nho coi trọng người phụ nữ, và rẻ rúng đàn ông, thì thử hỏi bạo hành trong gia đình nói riêng và xã hội nói chung có nghiêm trọng như ngày nay không? Câu trả lời có lẽ là không! Vì có lẽ người phụ nữ vẫn là phái chuộng hòa bình và chuộng nhẹ nhàng, thanh lịch hơn phái mạnh. Nói chung, ta không thể đánh giá xác đáng về nguyên nhân bạo hành gia đình từ những khái niệm và lí lẽ trên, vì còn quá nhiều yếu tố tác động nữa. Một trong những yếu tố đó chính là sự giáo dục từ khi còn nhỏ. Người nào khi còn nhỏ được giáo dục càng tốt thì khi lớn lên, tỉ lệ gây ra bạo lực gia đình sẽ thấp hơn và ngược lại. Ngoài yếu tố giáo dục ra, thì còn những yếu tố khác cũng là những nguyên nhân trực tiếp. Đó là khi người vợ hoặc người chồng phải phụ thuộc kinh tế, tài chính và thậm chí cả tình cảm vào đối phương. Họ thường chịu áp lực về điều này, họ có thể bị coi thường, thậm chính bị đối xử bất công trong gia đình. Tuy là vậy, nhưng không phải trường hợp nào cũng thế, vì mỗi người trong chúng ta có cái nhìn và suy nghĩ khác nhau về phương diện này; nhưng dù ở mặt nào đi nữa, thì việc làm đó là điều sai trái, không nên. Và thậm chí không chỉ người chiếm ưu thế về kinh tế trong gia đình có xu hướng bạo lực, mà ngay cả người chịu phụ thuộc kinh tế cũng mang tâm lí mặc cảm, thường hay dẫn đến bạo lực. Điều này không chỉ được thực tiễn chứng minh, mà ngay cả văn chương cũng có nói. Nếu ai đã từng đọc “Đời thừa” của Nam Cao thì sẽ thấy. Hộ là người chồng tốt, là nhà văn chân chính, nhưng cũng vì gánh nặng gia đình, gánh nặng “cơm, áo, gạo, tiền” mà đã trở thành thủ phạm của bạo lực gia đình trong những lúc say sưa để giải quyết bế tắc trong sự nghiệp và cuộc đời. Hay như trong chính “Chiếc thuyền ngoài xa”, nguyên nhân chủ yếu khiến người đàn bà hàng chài đó bị đánh là vì cứ mỗi khi khổ quá, anh chồng lại lôi chị ra đánh. Rõ ràng hoàn cảnh và điều kiện sống cũng là một nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình, đó là còn chưa kể tới những hệ lụy của nó. Cái gì quá khó khăn, quá vất vả thường khiến con người ta ích kỉ và tàn nhẫn hơn, khó mà giữ được mình trong sạch, giữ mình là mình nữa. Chính vì thế, khi ý thức được về bạo hành trong gia đình và nhân quyền, con người ta đã ngày càng tiếp thu và học hỏi nhiều hơn để xây dựng xã hội thêm văn minh. Và như đã đề cập ở trên, một xã hội văn minh thì không thể nào tồn tại chung với bạo hành trong gia đình. Bởi lẽ bạo hành trong gia đình để lại hậu quả nặng nề, xâm phạm nghiêm trọng tới nhân quyền. Mỗi hình thức bạo hành trong gia đình để lại những hậu quả khôn lường khác nhau. Chẳng phải nói đâu xa, các bạn có thể liên hệ ngay với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Người phụ nữ ấy liệu có sống sung sướng không với người chồng vũ phu? Đó là một câu hỏi mà có lẽ ai cũng có thể trả lời, nhưng để trả lời xác đáng cho những câu hỏi mà cả hội hiện nay đang tìm cách giải đáp và khắc phục, thì có lẽ chúng ta phải cố gắng thật nhiều hơn nữa. Nhiều chứng minh đã được chỉ ra từ thực tiễn, rằng tới 90% nạn nhân của bạo lực gia đình là phụ nữ và trẻ em; khoảng 9 – 10% là nam giới trong gia đình. Tỉ lệ bạo hành ở nông thôn và thành thị cũng khác nhau. Bạo hành ở mỗi nơi cũng khác nhau. Nhiều nơi vùng sâu vùng xa ở nước ta, do trình độ học vấn còn nhiều hạn chế, nên bạo hành xảy ra chủ yếu dưới hình thức là bạo hành thể xác và bạo hành tình dục. Còn ở nhiều nơi với mức sống và trình độ văn minh hơn, bạo hành tuy tỉ lệ ít hơn, nhưng dưới hình thức cũng đa dạng hơn, có khi gồm đầy đủ cả bốn dạng bạo hành đã nêu trên. Bạo hành nói chung đã gây cho nạn nhân nhiều tổn thương cả về thể chất và tinh thần, bạo hành trong gia đình còn để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng hơn nữa. Đó là khi bạn phải chịu bạo hành bởi chính người cha, người mẹ thân yêu của bạn. Đó là khi bạn phải chứng kiến cha mẹ bạn đánh mắng nhau. Bạn biết ai đúng, ai sai, nhưng bạn không dám lên tiếng, vì đó là cha mẹ bạn, là những người đã sinh thành, nuôi nấng bạn. Làm sao bạn có đủ dũng khí đứng ra can thiệp, nói ra những lời đúng sai phân minh, trong khi chính tình cảm của bạn bị tổn thương nghiêm trọng. Bạo hành gia đình thường gây đau đớn về tinh thần nhiều hơn bất cứ một dạng đau đớn tinh thần nào. Con người ta có thể bị tổn thương tinh thần khi mất đi người thân, bạn bè, khi mất đi mối tình đẹp, hay khi thất bại trong cuộc sống; nhưng để vượt qua tất cả điều đó, ta còn có gia đình bên ta. Nhưng giờ khi chính gia đình ấy để lại vết thương tinh thần đau đớn cho ta, thử hỏi ta còn muốn tạo cho mình niềm tin nào ở những người thân yêu? Bạo hành trong gia đình chính là nguyên nhân của nhiều hậu quả thương tâm. Nhiều cặp vợ chồng đã đưa nhau ra tòa li dị, để lại cho nhau nhiều tổn thương, để lại cho đàn con bơ vơ những kí ức đen tối, không hay về mái ấm, về cha mẹ. “Trẻ em như búp trên cành”, liệu có đứa trẻ nào có thể phát triển tinh thần một cách bình thường khi luôn phải chứng kiến bạo hành gia đình? Hay chính chúng sẽ trở thành thủ phạm của bạo hành gia đình trong tương lai! Hay chúng sẽ luôn hoài nghi khi chọn bạn đời khi đã lớn lên, với những ám ảnh của tuổi thơ bất hạnh! Thật đau đớn biết bao khi phải chứng kiến cảnh những người cha mẹ tranh nhau giành quyền nuôi con khi đứng trước hôn nhân tan rã! Liệu có bao nhiêu trong số họ hiểu rằng điều mà con mình cần nhất là sự yên ấm, hạnh phúc, là sự yêu thương của cả cha lẫn mẹ? Hãy cùng nhìn lại mọi chuyện mà xem, hãy lật lại những trang viết mà Nguyễn Minh Châu đã viết trong “Chiếc thuyền ngoài xa” mà xem. Người đàn bà hàng chài ấy đã van xin được chồng cho lên bờ mà đánh, chỉ vì chị ta hiểu rằng không nên để con thấy những cảnh như thế! Tâm hồn con trẻ cần được nuôi dưỡng trong một môi trường trong sạch, hãy để chúng phát triển nên người trong hạnh phúc, bình yên. Một khi những tâm hồn và con tim non nớt đó bị chai sạn vì tổn thương, chúng sẽ không thể là những đứa trẻ ngây thơ, trong sáng và hồn nhiên như bản chất của chúng nữa. Đau đớn làm sao khi chứng kiến những đứa trẻ tuổi đời chưa là bao, mà đã được biết đến như những kẻ băng hoại đạo đức, sống lầm lũi trong những góc tối u ám của xã hội. Chúng thường là những đứa trẻ có hoàn cảnh éo le, không được sự chăm sóc, yêu thương của cha mẹ, hay thậm chí là bị cha mẹ ruồng bỏ, hắt hủi. Có một câu danh ngôn rất hay về ý nghĩa của gia đình mà tôi rất tâm đắc “Dù nó thật tồi tàn đi nữa, nhưng không nơi nào có thể sánh được với mái ấm gia đình” (J. H. Payne). Câu danh ngôn tuy ngắn gọn, giản dị mà ý nghĩa thật thâm thúy, sâu sắc. Các bạn thử nghĩ mà xem, ngay cả các loài động vật, chúng còn sống thành bầy đàn, sống bên nhau để nương tựa vào nhau, cùng nhau chung sống để kiếm ăn, để bảo vệ lẫn nhau. Loài người chúng ta cũng không ngoại lệ, chỉ khác ở chỗ có lẽ chúng ta hiểu hơn ai hết tầm quan trọng của gia đình với sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân, mỗi thành viên trong gia đình mà thôi. Từ khi ta sinh ra, ta đã có cha, có mẹ, có một mái ấm, dù cho nó có được sung túc hay không. Ta lớn lên trong mái ấm gia đình, ta được nuôi dưỡng không chỉ bởi bầu sữa ngọt ngào của người mẹ, mà còn được sống trong bầu không khí đầm ấm, hạnh phúc của mái ấm gia đình giản dị đó. Liệu có ai mong muốn gia đình mình tan vỡ, có ai mong mình sẽ bơ vơ như những chú chim non lạc mẹ, để rồi phải một mình chống chọi với muôn ngàn cạm bẫy và bóng tối của cuộc đời? Không, chẳng ai trong chúng ta mong mỏi diều đó cả, tôi tin là như vậy! Tôi chưa từng trải với cuộc sống, nhưng tôi cũng đã được biết về nhiều trường hợp và hậu quả của nạn bạo hành trong gia đình. Có những người vợ, người mẹ bị bạo hành nghiêm trọng, họ chịu tổn thương ghê gớm cả về thể chất và tinh thần, nhưng vì thương những đứa con côi cút, họ hi sinh cho con và chịu những trận đòn roi, xỉ vả; trong khi chính họ hoàn toàn có lí do chính đáng để bỏ người chồng vũ phu. Tôi cũng được biết, được nghe nhiều trường hợp bạo hành giữa con cái với cha mẹ. Đó là khi cậu con trai không đủ tiền chơi bời, đua đòi với bạn bè, đã nhẫn tâm dùng dao cướp đi sinh mạng người mẹ của mình. Hay có những đứa cháu sẵn sàng dùng vũ lực tước đoạt đồng lương hưu ít ỏi của ông bà mình cũng chỉ vì thói đua đòi ăn chơi. Thật đáng buồn làm sao khi thỉnh thoảng lại thấy trên truyền hình những thông tin về bao vụ bạo lực gia đình như thế. Giờ là thời buổi mà người ta đề cao và hô hào về nhân quyền, đặc biệt là nữ quyền, nhưng hình như thời gian chưa đủ để mỗi chúng ta nhận thức một cách sâu sắc về tầm quan trọng của nó. Và trong thời gian chờ đợi để sự nhận thức đó “thấm” vào tư tưởng mỗi chúng ta, đã và đang có biết bao người trở thành nạn nhân của bạo hành trong gia đình. Thỉnh thoảng ta lại nghe đâu đó chuyện một người vợ tự tử vì bị chồng hành hung; một người con giết chết cha mình để bảo vệ mẹ khỏi người cha độc tàn; một người con gái bỏ nhà ra đi vì bị cha mẹ hắt hủi, coi thường; một đứa trẻ lang thang, cơ nhỡ bỏ đi vì thường xuyên bị cha mẹ đánh đòn, mắng nhiếc; một người vợ lầm lũi bước ra ánh sáng của công lý khi đã ra tay giết chồng; hay một người đàn bà bị hắt hủi, ruồng rẫy chỉ vì không sinh được cậu con trai nối dõi tông đường … Tất cả thật thương tâm làm sao! Tại sao con người ta đôi khi lại quá tàn nhẫn như thế, lẽ nào sức mạnh của tình yêu gia đình không đủ để ta nghe theo lí trí, mà chỉ biết ích kỉ vì quá nóng giận, để rồi tự biến mình thành thủ phạm của bạo lực gia đình, bạo hành ngay chính người thân yêu của mình? Tình cảm gia đình là tình cảm thật thiêng liêng, nó kết nối mọi thành viên trong gia đình với nhau, kết nối mọi người trở thành một thể thống nhất. Gia đình có hòa thuận, hạnh phúc ấm no thì xã hội mới ổn định, văn minh. Mọi người đối xử với nhau tốt đẹp thì cả cộng đồng sẽ thật an ấm, tươi vui. Từ khi đất nước đổi mới tới giờ, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chính sách và pháp luật để chống bạo lực trong gia đình, cũng như đảm bảo nhiều quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội. Nhiều tổ chức đã ra đời không chỉ ở nước ta, mà còn ở khắp nơi trên thế giới, hoạt động vì mục tiêu chống bạo lực gia đình. Trên thế giới, ngày 25 – 11 hàng năm đã trở thành ngày phòng, chống bạo lực gia đình. Rõ ràng loài người đã nhận thức rất đúng đắn về hậu quả của bạo lực gia đình trong gia đình nói riêng và trong xã hội nói chung. Tôi thoáng nghĩ, giá như các ban ngành đoàn thể, các cấp chính quyền trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu quan tâm sát sao, đúng mực tới vấn đề này, thì có lẽ câu chuyện về người đàn bà hàng chài năm ấy sẽ không còn nữa. Liệu rằng người đàn bà đó dám đứng lên, đấu tranh vì quyền lợi của mình, thì mọi chuyện sẽ thế nào? Người ta thường nghĩ những đề tài về bạo lực gia đình thì không nên bàn tới nhiều, vì nó thường liên quan tới bạo lực, làm tổn thương và ảnh hưởng tình cảm của người đọc. Nhưng nếu như thế, nếu không ai lên tiếng, thì bạo hành trong gia đình bao giờ mới được dập tắt! Các bạn nghĩ sao về điều này?
Trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được một tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Anh (chị) hãy làm rõ điều đó.
Câu trả lời của bạn
1. Tình huống truyện:
- Nghệ sĩ Phùng đến một vùng ven biển miền Trung chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Anh thấy cảnh chiếc thuyền ngoài xa, trong làn sương sớm, đẹp như tranh vẽ. Phùng nhanh chóng bấm máy, thu lấy một hình ảnh không dễ gì gặp được trong đời.
- Khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng thấy hai vợ chồng hàng chài bước xuống. Anh chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ, đứa con ngăn bố. Những ngày sau, cảnh đó lại tiếp diễn. Phùng không ngờ sau cảnh đẹp như mơ là bao ngang trái, nghịch lý của đời thường.
- Từ đó, trong người nghệ sĩ đã có sự thay đổi cách nhìn đời. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài để hiểu sâu thêm về người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu thêm người đồng đội (Đẩu) và hiểu thêm chính mình.
2. Thông qua tình huống , tính cách các nhân vật được bộc lộ
Tình huống truyện được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài xa với cái thật gần là sự ngang trái trong gia đình người thuyền chài. Từ tình huống trên mà các nhân vật bộc lộ phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm của mình.
a. Nhân vật người chồng:
- Ngoại hình thô kệch bộc lộ nét dữ dằn: “Mái tóc tổ quạ”, “đi chân chữ bát”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ”…
- Hành động hung ác: “Dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két”.
- Ngôn ngữ thô lỗ: Lão nói với vợ "Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ"."Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ !"
=> Người đàn ông là nạn nhân của đói nghèo, lam lũ nên trở thành kẻ độc ác, hành hạ, thô bạo với vợ con để giải toả tâm lý và nỗi khổ đời thường. Nhân vật này trở thành điển hình cho bạo lực gia đình cần lên án. Qua đó tác giả thể hiện cái nhìn của mình về đời sống: đói nghèo góp phần làm tha hoá nhân cách của con người.
b. Nhân vật người vợ:
- Không có tên riêng được tác giả gọi một cách phiếm định “người đàn bà”. Nhà văn cố tình mờ hoá tên tuổi của chị để tô đậm một số phận.
- Số phận bất hạnh của chị: Ngoài 40, thô kệch, mặt rỗ, xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, thầm lặng chịu mọi đau đớn khi bị chồng đánh không kêu một tiếng, không chống trả, không trốn chạy.
àTác giả khắc hoạ thật ấn tượng về người đàn bà một đời nhọc nhằn, lam lũ, nhiều cay đắng.
- Vẻ đẹp tâm hồn: Yêu thương con tha thiết:
+ Không muốn các con thấy cảnh chị bị chồng đánh vì chị sợ làm tổn thương tình cảm của các con.
+ Không muốn ly hôn, chấp nhận bị đánh đập, hành hạ để nuôi con khôn lớn: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”
=> Qua nhân vật người vợ, tác giả đã khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam: Dù trong hoàn cảnh đói nghèo, lạc hậu, con người vẫn khát khao hạnh phúc bình dị, sống nhân hậu, giàu lòng vị tha.
c. Nhân vật chánh án Đẩu:
Là người tốt bụng nhưng lại đơn giản trong cách nghĩ. Anh khuyên người đàn bà bỏ chồng là xong, mà không biết bà cần một chỗ dựa kiếm sống để nuôi con khôn lớn.
d. Nhân vật nghệ sĩ Phùng:
=> Ý nghĩa khám phá, phát hiện của tình huống
- Ở tình huống truyện này, cái nhìn và cảm nhận của nghệ sĩ Phùng, chánh án Đẩu là sự khám phá, phát hiện sâu sắc về đời sống và con người.
- Đẩu hiểu được nguyên do người đàn bà không thể bỏ chồng là vì những đứa con. Anh vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống.
- Phùng như thấy chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện giúp anh hiểu rõ hơn cái có lý trong cái tưởng như nghịch lý ở gia đình thuyền chài. Anh hiểu thêm tính cách Đẩu và hiểu thêm chính mình.
=> Tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa có ý nghĩa khám phá, phát hiện về sự thật đời sống, một tình huống nhận thức. Tình huống truyện này đã nhấn mạnh thêm mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật và cuộc đời, khẳng định cái nhìn đa diện, nhiều chiều về đời sống, gợi mở những vấn đề mới cho sáng tạo nghệ thuật.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *