Bài học hôm nay sẽ giúp các em cảm nhận được tâm trạng của nhân vật trữ tình và khát vọng của nhà thơ. Đồng thời cũng giúp các em thấy được tài năng nghệ thuật thơ Nôm Hồ Xuân Hương với những từ ngữ, hình ảnh giàu sức biểu cảm, táo bạo mà tinh tế. Mời các em đến với bài thơ Tự Tình!
"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non."
⇒ Câu thơ thể hiện nỗi đau đớn, xót xa, cay đắng của nhà thơ trước tình cảnh của chính mình
"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn."
→ Tuổi xuân đã trôi qua mà tình duyên không trọn vẹn
⇒ Xót xa, cay đắng cho duyên phận dang dở, lỡ làng
" Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn."
⇒ Ý thức về hạnh phúc, tình duyên
" Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con!"
→ Sự trở lại của mùa xuân lại đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Tác giả cảm nhận sự chảy trôi của thời gian, đời người với bao xót xa, tiếc nuối.
→ Câu thơ là cảnh ngộ và là tâm trạng bi kịch của nữ sĩ: càng khát khao hạnh phúc càng thất vọng, mơ ước càng lớn thực tại càng mỏng manh ⇒ nỗi ngao ngán về số phận và thực tại phũ phàng, tình duyên lận đận
Đề: Phân tích bài thơ Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương
Gợi ý làm bài
a. Mở bài:
b. Thân bài:
⇒ đau đớn, xót xa trước tình cảnh của bản thân
⇒ Sự dang dở, bẽ bàng của duyên phận ⇒ xót xa, cay đắng
⇒ Tâm hồn đầy sức sống, cõi lòng nhiều khát khao của Xuân Hương.
⇒ Một nỗi buồn chán và thất vọng...
c. kết bài:
Tự tình II nằm trong chùm thơ Tự tình gồm 3 bài của Hồ Xuân Hương. Bài thơ là tiếng lòng của tác giả trước duyên phận hẩm hiu. Để nắm được những nội dung và nghệ thuật của bài thơ, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Tự tình.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Bài thơ Tự tình là nỗi niềm buồn tủi của Hồ Xuân Hương. Đó là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công. Là một bài thơ hay, Tự tình được khám phá với nhiều dạng đề, các em có thể tham khảo dưới đây:
- So sánh hình tượng người phụ nữ qua hai bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương và bài Thương vợ của Trần Tế Xương
- Lập dàn ý phân tích tâm sự tình yêu của hai tác giả nữ trong bài Tự tình II - Hồ Xuân Hương và bài Sóng - Xuân Quỳnh.
- Lập dàn ý phân tích 4 câu thơ đầu trong bài Tự tình II của Hồ Xuân Hương
- Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua Tự tình II của Hồ Xuân Hương
- Phân tích bài thơ Tự tình II của tác giả Hồ Xuân Hương
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Hồ Xuân Hương (chưa rõ năm sinh năm mất) là một thiên tài kì nữ trong làng thơ trung đại Việt Nam nhưng cuộc đời lại éo le, bất hạnh.
Bà là người phụ nữ mạnh mẽ, thông minh, có học thức lại có nhan sắc đồng thời chúng ta tìm thấy ở bà tâm hồn của người phụ nữ hiện đại thích tự do, phóng khoáng.
Bi kịch cuộc đời của bà lớn nhất là khao khát hạnh phúc lứa đôi, khao khát tình yêu tự do nhưng lại hai lần làm lẽ.
Chủ đề thơ của bà chủ yếu viết về người phụ nữ bằng cái nhìn của người phụ nữ vừa trào phúng lại vừa trữ tình, vừa ngông nghênh ngạo mạng lại vừa thiết tha chua xót.
Chúc cậu học vui vẻ nha ^^
Nhớ tick mình nhé^^
Xuất xứ: nằm trong chùm thơ "Tự tình" gồm 3 bài của Hồ Xuân Hương.
Thể loại: Thất ngôn bát cú Đường luật
Chủ đề: Bài thơ bày tỏ nỗi lòng của tác giả trước duyên phận hẩm hiu
Phong cách thơ của Hồ Xuân Hương ?
Cám ơn mọi người
Câu trả lời của bạn
Hồ Xuân Huowg là 1 trong số các nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học trung đại VN. Có rất nhiều công trình nghiên cứu về thơ Hồ Xuân Hương đã đưa ra những nhận định về thơ văn của Bà. Xuân Diệu đã từng nhận xét về thơ Hồ xuân Hương: “thứ thơ ấy không chịu ở trong khuôn khổ thông thường mà là một thứ thơ muốn lặn sâu vào sự vật, vào những thứ đáy rất kín thẳm của tâm tư. Những thứ kín thẳm ấy không phải lạc lõng, cô đơn, cá nhân chủ nghĩa mà trái lại đã được hàng vạn người đồng tình thông cảm”. Người phụ nữ nói chung và người phụ nữ bất hạnh nói riêng thường là nhân vật chính trong thơ của thơ Hồ Xuân Hương. Những người phụ nữ ấy vừa thoắt ẩn thoắt hiện, có lúc hữu hình, có khi vô hình. Một nhà văn nước ngoài còn cho rằng: “Đọc thơ Hồ Xuân Hương ta không chỉ thấy hình ảnh người phụ nữ mà còn thấy được tất cả những thứ thuộc về phụ nữ”. Người phụ nữ trong thơ của bà thường là những người lao động dám vươn lên chống trả quyết liệt với số phận và lễ giáo phong kiến.
Không chỉ có thế, thơ của Hồ Xuân Hương còn mang nặng tư tưởng chế giễu, phê phán thói hư tật xấu của xã hội lúc bấy giờ. Một giọng thơ mang tính hiện thực rõ rệt. Mặc dù ở bên ngoài cái vỏ gai góc, xù xì nhưng từ trong sâu thẳm từng câu chữ ấy đã toát lên một thứ tình cảm lạ lùng. Đó là tình yêu quê hương đất nước, tình yêu với thiên nhiên vạn vật và tình yêu của con người với con người. Đó còn là nỗi khát khao cuộc sống, ý chí vươn lên thoát khỏi lễ giáo phong kiến cổ hủ. Cảnh vật trong thơ bà luôn tươi tắn, khỏe mạnh và giàu sức sống. Cái thế giới vạn vật vô tri vô giác trong thơ của bà luôn động đậy, cựa quậy. Chính vì thế mà khi đứng trước thiên nhiên, thơ của bà bao giờ cũng tìm được ra những điều mới mẻ, thú vị đánh thức giác quan của người đọc. Đọc thơ của Hồ Xuân Hương, ta thấy bà cười nhiều quá đó chính là những cái cười đốp chát lạnh lùng. Phải chăng vì thế mà nhiều người trách bà là một người phụ nữ vô tình. Thế nhưng ai hiểu được sau những tiếng cười ấy lại là những tiếng khóc thổn thức ứ nghẹn nơi cổ họng không thể nào thoát ra được, cũng chẳng thể khóc to lên được. Sau những trận cười nghiêng ngả ấy chỉ còn lắng lại tiếng trống canh xa vắng của những đêm khuya vắng cô đơn chỉ lòng mình với riêng mình. Ai có thể hiểu nỗi lòng Bà? Ai hiểu được rằng tiếng cười dành cho ông quan ba khác tiếng cười dành cho ông Tổng Cóc. Ai hiểu tình yêu và cách thể hiện tình yêu trong thơ của Bà.
Có thể nói thơ Hồ Xuân Hương là một dòng thơ tụng ca mang tính đấu tranh của những người phụ nữ mạnh mẽ với cả một chế độ phong kiến lúc bấy giờ. Bà đã phải vật lộn vượt lên trên tất cả để bám lấy cuộc sống. Nhiều lúc thơ của bà đã trở thành một giọng thơ ngạo mạn, tự cao, đầy thách thức với người đời và xã hội để khẳng định giá trị của mình. Trong văn học nước nhà, ít có nhà thơ nào mang cá tính mãnh liệt chi phối nghệ thuật sâu sắc như vậy. Chính cái khao khát: “Giơ tay với thử trời cao thấp. Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài” là cái khao khát lành mạnh mang giá trị khẳng định ý chí vươn lên của mình. Cái riêng nhất của thơ Hồ Xuân Hương là ở chỗ khi đọc thơ của Bà tức là ta đọc nên cái lấp lửng của mỗi câu thơ, mỗi ý thơ. Những bài thơ như trêu như ghẹo đã làm cho người đọc cảm giác có thể hiểu thế nào cũng được. Từ cái “thanh” cho ta liên tưởng vẩn vơ về cái “tục”, từ cái “tục” lại làm cho ta nghĩ đến sự sáng trong tao nhã của cái “thanh”. Mỗi bài thơ là một sự phối hợp nhịp nhàng của các động từ, tu từ, tính từ, ẩn dụ vô cùng đa dạng nhằm biểu đạt tư tưởng của nhà thơ. Từ đó ta có thể thấy thơ của Hồ Xuân Hương có nhiều nghĩa và nghĩa nào cũng lấp lửng. Điều đó nói lên việc sử dụng ngôn ngữ rất thành công của bà trong từng tác phẩm. Ngôn ngữ của HXH không chỉ giàu có về từ mà còn đa dạng về màu sắc dân tộc. Đánh giá thơ Hồ xuân Hương đến nay còn có rất nhiều quan điểm trái chiều. Những ai cho rằng thơ Hồ Xuân Hương không có gì là dâm tục thì họ hết lời ca ngợi. ngược lại, những ai coi thơ bà là dâm đãng thì thường dè dặt và nhìn nhận một cách khắt khe hơn, thậm chí còn phê phán. Bởi lẽ, trong sáng tác của bà luôn có một cái gì đó không bình thường. Sự hiện diện đa hình ảnh sắc màu luôn thường trực trong từng tác phẩm. Bà vừa muốn nói đến cái này lại vừa muốn nói đến cái khác, từ cái khác này lại muốn đề cập đến những cái khác nữa. Nhiều người đánh giá rằng, với việc vận dụng nhuần nhuyễn các từ ngữ trong dân ca, ca dao…thơ của bà đã thống nhất đến cao độ hai tính chất dân tộc và đại chúng. Nội dung và hình thức trong mỗi sáng tác của bà đều bắt nguồn từ quần chúng nhân dân. Mặc dù còn nhiều quan điểm trái chiều khi nghiên cứu về thơ của bà, nhưng tài năng của bà thì ai cũng phải công nhận.
Để hiểu đúng thơ Hồ Xuân Hương là phải hiểu kỹ về thơ Đường và niêm luật của nó. Mỗi bài thơ được coi là thành công là phải đáp ứng được các yêu cầu về luật, cấu trúc bố cục của bài thơ. Giá trị của bài thơ ngoài ý tứ ra, còn được thẩm định dựa vào các quy định chặt chẽ này. Vài cuộc thăm dò cho thấy số người viết đương đại viết thơ Đường không còn nhiều. Nhiều tác giả còn cho rằng thơ Đường là một thể thơ khó viết, khó hiểu. Thế mới biết là Hồ Xuân Hương đã thật khéo léo khi viết rất thành công những sáng tác của mình. Thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu là thơ Đường nên đòi hỏi niêm luật và bố cục chặt chẽ. Không ai có thể phủ nhận giọng điệu và ngôn ngữ trong thơ của Hồ Xuân Hương rất táo bạo, mạnh mẽ và khá độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định: “Hồ Xuân Hương là một nhà thơ thực sự vĩ đại và xuất sắc”. Trong sự nghiệp phát triển nền văn học Việt Nam hôm nay, việc kế tục phát huy và mở rộng cách viết thơ Hồ Xuân Hương lại là cả một vấn đề lớn cần tranh cãi. Nhà văn đất cảng Trần Tâm nhận xét: “Hồ Xuân Hương có cách viết thơ rất độc đáo, ta chỉ có thể bắt chước chứ không thể học tập hoặc kế thừa được”. Hiện nay nhiều câu lạc bộ thơ được thành lập ở nhiều nơi trong cả nước. Hội UNESCO-Thơ Đường Việt Nam có 77 chi hội trong cả nước, với 2349 hội viên và xuất bản thành công tuyển tập “Thơ Đường luật Việt Nam” do NXB Hội nhà văn ấn hành với gần 1500 trang thơ. Làm thơ để bày tỏ nỗi niềm, giao lưu tình cảm với bè bạn xa gần, để “tập thể dục” cho bộ não, tăng thêm độ bền của cơ thể, nâng cao năng khiếu thẩm mỹ và đã trở thành nhu cầu của nhiều người. Việc bảo tồn thơ Đường cũng là nhiệm vụ của việc “bảo tồn văn hóa Việt”.
Cái thú vui của người viết và chơi thơ Đường chính là việc cảm nhận được cái hay của thơ Đường. Đó là cái hay của tứ thơ, kiểu ngôn ngữ, cảm xúc và vẻ đẹp tư tưởng. Các nhà thơ đương đại ngày nay khi viết thơ Đường đã khai thác mọi đề tài, kể cả tình dục. Tuy nhiên, cách viết thơ Đường theo kiểu “thanh mà tục, tục mà thanh” của Hồ Xuân Hương lại là một việc không dễ làm. Thậm chí, có nhiều người do thiếu cẩn trọng khi bắt chước cách viết thơ của Bà, đã viết nên những câu thơ sai luật và vô nghĩa đến mức ngớ ngẩn... Do đâu mà thơ Đường được nhiều người quan tâm, sáng tác và bảo tồn ? Mặc dù có nhiều người sáng tác thơ Đường nhưng chưa có nhà thơ hay bài thơ Đường nào ghi được dấu ấn trong dòng thơ Việt đương đại ? Phải chăng do đề tài của thơ Đường còn chật hẹp. Tìm hiểu và sáng tác thơ Đường là tìm hiểu những thú vui trí tuệ và nghệ thuật của ngôn từ. Là vượt qua những luật lệ chật chội cứng nhắc của thơ Đường để gửi gắm lòng mình vào những tứ thơ, ý thơ và câu chữ. Mặt hạn chế của thơ Đường là cách diễn đạt biểu cảm đều phải tuân thủ theo khuôn mẫu nhất. Nhiều nhà thơ đương đại cho rằng: “sáng tác thơ Đường rất khó. Nếu vụng về thì câu thơ trở nên sáo mòn, rỗng tuyếch, đọc câu trước đã đoán được ý của câu sau. Đọc một bài có thể hình dung liên tưởng được nhiều bài”. Cho đến nay các nhà thơ đương đại tham gia sáng tác thơ đường hầu như đều khai thác lại các đề tài, cảm xúc và tứ thơ của những người đi trước nên nội dung của tác phẩm luôn trở nên cũ kĩ khó truyền tải rộng rãi đến được với bạn đọc. Vì thế, ngày nay các nhà thơ vẫn đang nỗ lực trong việc việt hóa thơ Đường để làm mới thơ Đường và làm cho các sáng tác thơ Đường gần gũi đời sống hơn. Số lượng tác phẩm của Hồ Xuân Hương còn đọng lại và những người thuộc thơ của Bà còn lại không nhiều. Hiện nay, người ta vẫn còn tranh cãi nhau về một số sáng tác cũng như nguồn gốc thân phận của Hồ Xuân Hương. Vượt qua những lễ giáo phong kiến và hình ảnh người phụ nữ, đối với thơ Đường, Hồ Xuân Hương cũng chưa làm thay đổi được nhiều trong cách viết. Tuy nhiên cùng với những tác phẩm của mình, tên tuổi của bà đã vượt qua bao nhiêu cuộc tranh luận từ xưa đến nay và vẫn chiếm một giá trị trong nền văn học Việt Nam. Vì vậy, việc gìn giữ và khai thác thơ của Bà vẫn là một điều cần thiết và ý nghĩa trong việc xây dựng đổi mới kho tàng văn học Việt Nam phong phú.
viết đoạn văn phân tích bài thơ tự tình của hồ xuân hương
Câu trả lời của bạn
Đề bài : Em hãy phân tích bài thơ tự tình của Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương là một trong những nữ thi sĩ xuất sắc của Việt Nam, số lượng tác phẩm bà để lại khá nhiều, và phong cách sáng tác thơ chủ yếu của Hồ Xuân Hương chính là tả cảnh ngụ tình. Bà còn được biết đến với hình ảnh của một nữ nhà thơ viết nhiều về thân phận người phụ nữ, là người dũng cảm đề cao vẻ đẹp, sự hi sinh và đức hạnh của người phụ nữ, đồng thời lên tiếng bên vực cho họ và phê phán lên án gay gắt chế độ xã hội cũ. Tự tình là một trong những bài thơ hay, chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc của chính tác giả và cũng là của người phụ nữ nói chung.
Bài thơ tự tình mở đầu với 2 câu thơ vừa tả cảnh nhưng cũng tả hình ảnh của một ngươi phụ nữ- hay có thể gọi là hồng nhan.Nhưng tiếc thay, hồng nhan đó lại roi vào hoàn cảnh- cô đươn trống vắng, giữa đêm khuya u tịch.
“ Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Từ láy “ Văng vẳng” được tác giả sử dụng để miêu tả thứ âm thanh từ xa vang lại, mặc dù không biết nó xuất phát từ đâu hoặc dù ở xa nhưng nghe mỗi lúc một gần một rõ hơn. Thời gian được nhắc tới là “ đêm khuya”- thời điểm khiến con người dễ rơi vào các cung bậc cảm xúc trạng thái khó tả nhất, cũng chính thời gian này có một người phụ nữ vẫn ngồi đó,không yên lòng mà ngủ được vẫn ngồi đó nghĩ ngợi về mọi thứ xung quanh đặc biệt về con người cuộc đười của mình. Là một người phụ nữ có nhan sắc, nhưng lại được miêu tả “ trơ với nước non. Trước cuộc đười rộng lớn, người phụ nữ đó nhận ra thân phận của mình lẻ loi đơn chiếc, và âm thanh của trống cầm canh lại càng điểm thêm một nỗi buồn, trống vắng khó tả. Người phụ nữ ấy đã tìm đến rượu để giải sầu :
“ Chén rượu hương đưa rồi lại tỉnh
Vầng trăng xế bóng khuyết chưa tròn”
Mỗi khi có chuyện gì đó sầu muộn, người xưa thường tìm đến trăng đến rượu để ngỏ cùng bầu tâm sự. Chỉ muốn uống thật say, hương rượu thật nồng để quên đi tất cả, nhưng nghịch lí thay, chén rượu đưa lên mũi, hương nồng vào mũi nhưng người muốn say nhưng tâm và suy nghĩ vẫn đang rất tĩnh. Không có nỗi buồn nòa biến mất ở đây,mà càng làm hiện hữu rõ nỗi lòng của người phụ nữ lúc này. HÌnh ảnh vầng trăng xuất hiện nhưng khuyết chưa tròn. Phải chăng, ngụ ý hco thân phận cho hạnh phúc của chính tác giả. Là người tài giỏi nhưng duyên phậm haamrhiu.chưa một lần trọn ven. Tuổi xuân dần đi qua mà hạnh phúc vẫn chưa tới bến đỗ.:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm tạc chân mây đá mấy hòn”
HÌnh ảnh rêu được đưa ra đây nhưng mang những dụ ý sâu xa của tác giả Hồ Xuân Hương, rêu là loài mỏng manh nhỏ bé nhưng lại có sức sống vô cùng mạnh mẽ, không dừng lại đó, ở bất cứ một điều kiện nào thì nó vẫn có thể tươi tốt,dù là điều kiện sống như thế nào đi chăng nữa. HÌnh ảnh rêu từng đám đâm xuyên ngang mặt đất gợi ra cho chúng ta những liên tưởng mạnh mẽ về sự phản kháng mạnh mẽ cũng như sự chống đối của nó với thứ có thể mạnh hơn nó. Hình ảnh đá cũng vậy, đối lập với sự nhỏ bé của những viên đá với sự rộng lớn của trời đất, nó lại càng làm nổi bật sức mạnh của những viên đá, quả thực nó không tầm thường một tí nào. Sự đồng điệu của người và thiên nhiên, luôn đối mặt với khó khăn thách thức nhưng chưa bao giờ đi đến thành công. Kiếp làm vợ lẽ, dù cố thoát ra nhưng vẫn không được. Cho nên mới có 2 câu cuối:
“ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Thiên nhiên thuận theo đất trời, xuân đi rồi xuân lại tới, nhưng con người lại khác, với người phụ nữ tuổi xuân trôi đi nhưng chẳng bao giờ quay lại thêm một lần nào nữa. Lại càng đáng buồn hơn cho nhưng số phận hẩm hưu, chờ mong cả tuổi xuân, chờ có một niềm hạnh phúc trọng vẹn nhưng nào đâu có được. Trước sự lẻ loi, chán chường mà Hồ Xuân Hương đã sử dụng” ngán” phần nào nói lên được nỗi lòng của thi sĩ bây giờ. Mảnh tình đã bé lại còn phải san sẻ, chia nhỏ ra. Không được hưởng một tình yêu một hạnh phúc trọn vẹn, tới khi tìm đến với hạnh phúc lại phải san se, thật quả là đáng thương. Qua đây cũng ngầm ẩn ý về những số phận của người phụ nữ ,chịu cảnh thê thiếp, dưới chế độ cũ không được coi trọng và không có quyền lên tiếng
Tự tình là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách cũng như tư tưởng của Hồ Xuân Hương đặc biệt là những vấn đề xoay quanh người phụ nữ. Qua đây chúng ta cũng thấy được một Hồ Xuân Hương vừa yếu mềm nhưng cũng thật ngang tàng mạnh mẽ khi dám bộc lộ những suy nghĩ của chính mình.
Nêu cho em ý nghĩa của bài thơ tự tình 2 của HXH với ạ
Câu trả lời của bạn
Hồ Xuân Hương là nữ sĩ tài danh bậc nhất trong dòng văn học trung đại Việt Nam, được xưng tụng là “Bà chúa thơ Nôm” (Xuân Diệu). Thơ Hồ Xuân Hương tự do, phóng khoáng cả trong hình thức nhệ thuật lẫn nội dung tư tưởng. Ý thơ táo bạo, đôi lúc nổi loạn, gây sự bỡ ngỡ, gây hứng thú người đọc tìm đến nghĩa hàm ẩn trong thơ của Hồ Xuân Hương.
Cho nên, Hồ Xuân Hương được xem như hiện tượng kỳ thú của dòng thi ca cổ điển Việt Nam khi tích cực đưa ra cái nhìn đối lập với truyền thống đạo đức, nhưng không vì thế mà tự trở nên suy đồi theo cách hiểu của một vài học giả.
Bài thơ Tự tình thể hiện rõ nét phong cách thơ Hồ Xuân Hương, trào lộng mà đằm thắm sâu cay, đôi câu chạm đến nỗi niềm riêng tư sâu thẳm của kiếp đời người phụ nữ trong cuộc đời đầy biến động này.
Thông thường mọi người sẽ nghĩ trữ tình và trào phúng là hai thái cực khác nhau, thầm chí đối lập nhau. Trong sáng tác, cũng từ đó mà hình thành các thuật ngữ phong cách trữ tình hay trào phúng, giọng thơ trữ tình hay trào phúng…
Bên cạnh những bài thơ châm biếm, Hồ Xuân Hương cũng có những sáng tác đậm chất trữ tình, trong đó đáng nói nhất là ba bài thơ Tự tình. Liệu những bài tự tình này có bị lạc điệu so với dóng thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương qua những bài thơ này, người đọc đánh giá như thế nào về chiều sâu tưởng tượng trong thơ của bà.
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Người nghệ sĩ tài năng là người nghệ sĩ biết sáng tạo “Chất liệu” ngôn ngữ của dân tộc để làm nên tác phẩm của mình, xây dựng hình tượng nghệ thuật của riêng mình và tạo cho mình một giọng điệu riêng, một phong cách riêng, không nhầm lẫn vào đâu được.
Trước hết có thể khẳng định rằng, nhìn tổng thể ta sẽ thấy các bài thơ tự tình không hề lạc so với dòng thơ chung của Hồ Xuân Hương. Với một nhà thơ trào phúng lớn thì mọi vấn đề bao giờ cũng phản ánh trên nền tảng trữ tình. Điều này một mặt gắn chặt với bản chất của thơ, mặt khác nó cho thấy chiều sâu trong tư duy nghệ thuật của tác giả.
Chùm thơ Tự tình không hề lạc điệu so với tư tưởng chủ đạo trong thơ bà. Hơn nữa, nếu đọc kĩ các bài thơ, người ta đều thấy dấu vết của tín ngưỡng phồn thực, nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ Hồ Xuân Hương. Trong ba bài thơ trên thì Tự tình (bài 2) nois rõ hơn cả tâm sự của nữ sĩ trong đêm tối quạnh quẽ, một mình đối diện với chính mình với nỗi cô đơn cùng cực:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đáọa
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con!
(Tự tình – bài 2, SGK Ngữ văn 11, tập một)
Ấn tượng đầu tiên của bài thơ là hình tượng người phụ nữ (hồng nhan) được đặt trong thời gian “đêm khuya” và không gian vũ trụ (nước non). Nếu như bài thơ là sự cảm nhận sâu sắc thân phận của người phụ nữ thì đây cũng là một sự cảm nhận rất táo bạo. Bởi xưa nay hầu như chỉ có nam nhi (tức kẻ mạnh) đặt mặt trong không gian vũ trụ như Phạm Ngũ Lão cắp ngang ngọn giáo canh giữ non sông.
Hồ Xuân Hương tạo không gian đêm tối, vắng lặng và trong đó, người phụ nữ không ngủ mà ngồi lắng nghe tiếng trống cầm canh với tâm trạng cô đơn. Sự cô đơn dồn tụ trong từ “trơ” – trơ trọi, một mình. “Hồng nhan” là cách gọi đặc trưng của người phụ nữ, tức nói đến cái đẹp. Người phụ nữ, tức nói đến cái đẹp. Người phụ nữ vốn mang nhiều đặc tính tự nhiên lại được đặt vào không gian vũ trụ như một sự so sánh để nâng người phụ nữ lên rất cao. Rõ ràng cái cô đơn ở đây cũng ẩn chứa bản lĩnh này dẫn đến điều thú vị thứ hai của bài thơ:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Không chỉ đặt người phụ nữ trong không gian vũ trụ, Hồ Xuân Hương còn tìm thấy sự đồng điệu của con người với thiên nhiên, vũ trụ. Cả con người và thiên nhiên, vũ trụ ấy đang chuyển động theo tuần hoàn. Như một cách để quên đi cái trơ trọi, cô đơn, người phụ nữ mượn chén rượu để khỏa lấp nỗi buồn.
Tâm trạng “say lại tỉnh” tạo ảm ảnh về thực tại tuần hoàn nhiều khi đáng sợ, bởi tỉnh dậy sẽ phải đối mặt với cô đơn. “Vầng trăng” là hiện thân của vũ trụ. Vầng trăng ấy “khuyết chưa tròn”, tức nó vẫn còn dang dở, và cũng“bẽ bàng” không kèm con người (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Nếu hai câu đầu có sự đổi sánh giữa con người và vũ trụ thì đến đây con người và vũ trụ đã tạo nên được sự tương ứng về hoàn cảnh và trạng thái.
Điểm nhìn bài thơ đã có sự dịch chuyển gần hơn với con người, về cách miêu tả cũng gần và cụ thể hơn.
Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Tác giả sử dụng thủ pháp đặc tả cận cảnh của điện ảnh.Thủ pháp này đi ngược lại với tinh thần của thơ Đường bởi chính tính chất cụ thể, cận cảnh của nó. Thoạt nhìn, hai câu thơ mang ý nghĩa tả thực về thiên nhiên, nhưng xâu chuỗi các sáng tác của Hồ Xuân Hương và đặc biệt trong logic bài thơ này thì hai câu thơ còn mang tính biểu tượng mang ý nghĩa phồn thực. Như vậy, bằng một cách kín đáo và tế nhị, Hồ Xuân Hương đã thể hiện sự tôn thờ sự sống và khát vọng hạnh phúc của con người.
Thơ của Hồ Xuân Hương đã thống nhất đến cao độ hai tính cách dân tộc và đại chúng. Hồ Xuân Hương biết sử dụng ngôn ngữ toàn dân, của dân tộc để tạo nên một giọng điệu riêng, một chất giọng riêng không hề nhầm lẫn. Chất giọng riêng ấy trước hết thể hiện ngôn ngữ, sự sáng tạo ngôn ngữ. Sự sáng tạo ngôn ngữ này chính là sự sáng tạo của Hồ Xuân Hương làm phong phú thêm kho tàng ngôn ngữ của dân tộc.
Kết thúc bài thơ, tác giả giãi bày tâm trạng cụ thể về thân phận của người phụ nữ:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.
Sự đối lập giữa mùa xuân vĩnh cữu của thiên nhiên, vũ trụ và con người. Sự tương ứng của con người và vũ trụ đã biến mất một cách ngao ngán. Vũ trụ thì cứ tuần hoàn viên mãn, còn con người thì ngày càng nhỏ bé lẻ loi. Sự khập khiễng giữa con người và vũ trụ bao tạo nên sự đứt gãy dòng chảy của cuộc sống. “Mảnh tình” vốn đã không được nguyên vẹn vậy mà vẫn phải“san sẻ” để rồi chỉ còn “tí con con”. Sự thu gọn đến mức có thể làm cho chủ thể gần như tan biến.
Về nghệ thuật bài thơ chứa đầy đủ dấu vế thủ pháp đặc trưng thơ Hồ Xuân Hương. Trong thơ bà thường xuất hiện một số vần “hiểm” (như vần “om”, “ui”, “e”, “ong”, “ôn”) và các từ láy tượng hình (như “tẻo tèo teo”, “lom khom”, “leo teo”, “cheo queo”, “long đong”…).
Cách dùng vần và từ lắt léo như vậy, một mặt cho thấy cá tính mạnh mẽ của Xuân Hương, đồng thời nhiều khi cũng gợi thân phận hẩm hiu của bà. Trong Tự tình (bài 2) này, tác giả dùng từ “trơ” tạo sự đa nghĩa. Trơ có thể là trơ trụi. Trơ cũng có nghĩa là bền gan như trong ý thơ Bà Huyện Thanh Quan (đá cũng trơ gan cùng tuế nguyệt). Nhiều tính từ, động từ chỉ mức độ mạnh (xiên, đâm, toạc) được sử dụng càng tô đậm thêm phong cách thơ Hồ Xuân Hương.
Như vậy, rõ ràng bài thơ đã hòa nhập dòng tư tưởng và phong cách chung của Hồ Xuân Hương. Từ góc nhìn tính ngưỡng phồn thực, ta sẽ có cách đánh giá về Hồ Xuân Hương khác với cái nhìn mang tính chất xã hội trước đây. Cái nhìn xã hội học cho rằng thơ Hồ Xuân Hương đả kích, chống đối chế độ phong kiến mà biểu tượng là các vua chúa, hiền nhân, quân tử, nhà sư.
Thơ của Hồ Xuân Hương tươi trẻ giản dị và hồn nhiên, trong sáng, tạo ấn tượng đặc biệt độc đáo. Nhưng thơ bà, thi thoảng ta cũng cảm thấy những vần thơ chua ngoa:
“Dắt dìu nhau lên đến cửa chiền
Cũng đòi học nói không nên”
(Phường Lòi Tói)
Hay:
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đến thái thú dừng cheo leo”
(Đề đến Sầm Nghi Đốn)
Những kẻ học đòi hay kẻ hèn nhát như vậy hiển nhiên là đáng tố cáo, đáng chế giễu. Nhưng những trường hợp như gặp Thiếu nữ ngủ ngày:
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thi cũng dở ở không xong.
Đứng trước cảnh Đèo Ba Dội:
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo
Hoặc trước Cảnh chùa ban đêm, nhà thơ hỏi:
Hỡi người quân tử đi đâu đó
Thấy cảnh sao mà đứng lượm tay.
Chính cách sử dụng ngôn ngữ khác lạ này đã chuyển nghĩa bình thường thành nghĩa ẩn dụ có nghĩa là chuyển nghĩa thô thành nghĩa thực, nghĩa ngầm, nghĩa tâm tình. Mỗi bài thơ là một sự phối hợp liên kết chặt chẽ giữa các động từ chỉ hoạt động, các tính từ chỉ màu sắc âm thanh, hình dáng…các trạng từ chỉ phẩm chất để biểu đạt tư tưởng tình cảm thái độ của nhà thơ. Vì lẽ đó ta thấy thơ Hồ Xuân Hương có nhiều nghĩa và nghĩa nào cũng lấp lửng.
Trong xã hội phong kiến, dù sao vua chúa cũng là những giá trị thuộc đẳng cấp cao. Lê Thánh Tông từng nói:
Che dân bao quản lòng tư túi
Giúp chúa vào quên nghĩa sớm trưa!
(Cái nón)
Những tầng lớp ấy cũng tôn sùng cái phồn thực huống chi người bình thường! Nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng đã được Hồ Quỳnh Hương vận dụng một cách khéo léo để khẳng định chủ đề tư tưởng của thơ bà. Không nên vội vàng kết luận như vậy. Nếu tín ngưỡng phồn thực đã ăn sâu trong văn hóa Việt thì tư tưởng lớn nhất của thơ Hồ Xuân Hương (qua cái nhìn phồn thực) chính là tôn thờ sự sống chứ không đơn thuần là chống nam quyền, chống phong kiến hay chống sư sãi.
Bài thơ liên quan trực tiếp đến hoàn cảnh cá nhân Hồ Xuân Hương:
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lụng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Nhưng với nhà thơ lớn, họ luôn vượt trên hoàn cảnh cụ thể đến hướng đến cái khái quát. Cái riêng làm nên cho cảm xúc, còn sự khái quát hòa làm nên giá trị trong thơ bà. Tự tình chính là một nét vẽ, một mảng màu làm đậm thêm giá trị thơ Hồ Xuân Hương cũng như những sáng tạo nghệ thuật chân chính.
Hồ Xuân Hương là nhà thơ nữ đầu tiên dùng ngôn ngữ của đại chúng được nâng cao một cách rộng rãi nhất trong văn học. Thơ Bà ít từ Hán Việt, vài ba điển tích mà cũng rất quen thuộc với nhân dân và không trở ngại gì cho việc hiểu ý thơ. Tất cả những điều trên khẳng định Hồ Xuân Hương nắm vững ngôn ngữ dân tộc, có ý thức dân tộc, có cá tính mạnh mẽ, có bản lĩnh, có tài năng.
Có mấy cách đoạn để phân tích bài thơ tự tình của Hồ Xuân Hương?
Câu trả lời của bạn
Có 2 cách: cách 1 phân tích theo nội dung, cách 2 phân tích theo ĐTLK
Chúc cậu học vui vẻ nha ^^
Nhớ tick mình nhé^^
Có cách phân tích theo Đề Thực Luận Kết
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *