Bài giảng Ôn tập phần văn học sẽ giúp các em nắm vững và hệ thống những tri thức cơ bản về các tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam và văn học nước ngoài đã học trong học kì một trên hai phương diện chủ yếu lịch sử và thể loại vừa rồi đồng thời sẽ giúp các em củng cố thêm năng lực phân tích văn học. Học 247 hi vọng các em sẽ học hỏi được nhiều điều thú vị từ bài giảng, chúc các em có thêm một bài học hay.
Giai đoạn 1: thế kỉ X - hết thế kỉ XIV.
→ Hai giai đoạn đầu còn được gọi là văn học giao thời, bắt đầu giai đoạn thứ 3 nền văn học Việt Nam mới thực sự trên con đường hiện đại hóa.
* Văn học Việt Nam
⇒ trân trọng, nâng niu con người và tố cáo hiện thực
→ yêu cái đẹp ⇒ tri âm tri kỉ.
→ Khẳng định và ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của nông dân
⇒ Phê phán, tố cáo, lên án xã hội phi nhân tính đã chà đạp con người.
→ Vạch trần được bản chất của tầng lớp thượng lưu trong xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám
⇒ Tiếng nói phê phán, tiếng nói tố cáo xã hội tư sản thành thị ở Việt Nam trước cách mạng tháng Tám
→ Ước vọng: Có những tác phẩm nghệ thuật phục vụ cho nhân dân và có giá trị lâu dài.
* Văn học nước ngoài
Đề: Nêu và giải thích nguyên nhân hình thành ba đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam thời kì đầu thể kỉ XX đến cách mạng tháng Tám 1945
Gợi ý làm bài
Để nắm vững và hệ thống những tri thức cơ bản về các tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam và văn học nước ngoài đã học trong học kì một, các em có thể tham khảo
bài soạn Ôn tập phần Văn học.
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Lãng phí thời gian là mất tuyệt đối. Thời gian là một dòng chảy thẳng, không bao giờ dừng lại và cũng không bao giờ quay lại. Mọi cơ hội, nếu bỏ qua là mất. Tuổi trẻ mà không làm được gì cho đời, cho bản thân thì nó vẫn xồng xộc đến tuổi già. Thời gian là một dòng chảy đều đặn, lạnh lùng, chẳng bao giờ chờ đợi sự chậm trễ. Hãy quý trọng thời gian, nhất là trong thời đại trí tuệ này; nền kinh tế tri thức đã và đang làm cho thời gian trở nên vô giá. Chưa đầy một giờ, công nghệ Nhật Bản đã có thể sản xuất một tấm thép, con tàu tốc hành của các nước phát triển, trong vài giờ đã có thể vượt qua được vài ngàn kilômét. Mọi biểu hiện đủng đỉnh, rềnh ràng đều trở nên lạc lõng trong xu thế toàn cầu hiện nay. Giá trị là cần thiết những chơi bời quá mức, để thời gian trôi qua vô vị là có tội với đời, với tương lai đất nước.
(Phong cách sống của người đời, nhà báo Trường Giang, theo nguồn Internet)
CÂU 1: Xác định ptbđ chính
CÂU 2: Cho câu:"Hãy quý trọng thời gian, nhất là trong thời đại trí tuệ này; nền kinh tế tri thức đã và đang làm cho thời gian trở nên vô giá." xét theo mục đích nói, câu văn trên thuộc kiểu câu gì? chức năng?
CÂU 3: Từ nội dung đoạn văn trên rút ra 2 bài học cho bản thân
Câu trả lời của bạn
Anh/chị đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi: Một hôm, cậu con trai hỏi cha của mình: “Ba ơi, con không hiểu ngày xưa ba và mọi người sống như thế nào khi không có Internet, không có máy tính, không có tivi, không có điều hòa, không có điện thoại di động?" Người cha trả lời: “Thế hệ của ba sinh ra trong khoảng thời gian trước năm 1980, thật may mắn, khi: Ai cũng phải đi học một mình từ sau ngày đầu tiên đến trường. Không ai ôm tivi từ giờ này qua giờ khác. Và ai cũng có những người bạn thực sự chứ không phải với những người bạn từ Internet. Bọn ba không bị béo phì, dù rằng ngày nào cũng chén căng cơm, bắp và khoai lang. Bọn ba chơi bằng các đồ chơi tự làm lấy và chia sẻ đồ chơi, sách truyện với nhau. Ngày xưa, các gia đình hầu hết là không giàu có. Nhưng các ông cha bà mẹ đã tặng cho con cái tình yêu của mình, dạy cho con biết trân trọng những giá trị tinh thần chứ không phải là vật chất, dạy cho con biết thế nào là giá trị thực sự của con người: Sự trung thực, lòng trung thành, sự tôn trọng và tình yêu lao động. Thường đến chơi nhà nhau mà chả cần phải có lời mời, đến nhà ai gặp gì ăn nấy. Ký ức của thế hệ ngày đó chỉ là những tấm ảnh đen trắng, nhưng đầy ánh sáng và rực rỡ, ai cũng trân trọng lật mở cuốn album gia đình với sự thích thú, tôn kính, trong cuốn album đó luôn lưu giữ chân dung của ông bà cụ kỵ các con... Thế hệ ba không bao giờ ném sách vào thùng rác, mà gom góp cả tháng, xin xỏ ba mẹ, đứng chồn chân trong hàng để mua sách, rồi sau đó đọc chúng suốt ngày đêm. Bọn ba không bao giờ đưa cuộc sống riêng tư của thiên hạ ra để đàm tiếu, cũng như biết giữ bí mật cuộc sống của gia đình mình, không phải như những gì bây giờ đang xảy trên Facebook và Instagram.... Thế hệ ba, có lẽ, là thế hệ đầu tiên biết lắng nghe con cái. Thế hệ ba là như thế đó, là "phiên bản giới hạn", vậy nên các con hãy biết tận hưởng những ngày bên ba mẹ, hãy biết học hỏi và trân quý… …Trước khi thế hệ này biến mất, nhé con !” (Sưu tầm)
Câu 1. Nêu hai phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản ?
Câu 2. Nêu nội dung chính của văn bản ?
Câu 3. Tại sao người cha lại khẳng định thế hệ mình thật may mắn ?
Câu 4. Theo anh/chị để thế hệ trước không là “phiên bản giới hạn”, thế hệ trẻ hôm nay cần làm những gì ?
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Ai ai cũng phải có một ký ức tuổi thơ. Dù nó đẹp đẽ hay không đẹp đẽ, tươi sáng những cũng để lại một ấn tượng nhất định, khó phai mờ trong mỗi người. Vậy kí ức tuổi thơ là gì? Kí ức tuổi thơ là những điều đã có trong thời tuổi thơ, thời mà bạn còn được cắp sách tới trường, nằm trong vòng tay âu yếm của bố mẹ. Thực tế cuộc sống đã cho chúng ta thấy, khi con người bộn bề với bao mối lo toan thì họ luôn nghĩ về những kí ức tuổi thơ tươi đẹp của mình. Cái thời mà chẳng biết nghĩ đến tiền là gì. Cái thời mà lúc nào cũng nở nụ cười hồn nhiên trên môi. Cái thời mà lúc nào cũng được chơi những trò chơi bịt mắt bắt dê, ô an quan rồi đạp xe quanh quẩn trên khắp con phố. Cái thời mà suốt ngày được đi học vậy mà ngày nào cũng mè nhoe bố mẹ "Huhu....con không đi học đâu". Giờ nghĩ lại mới thật xót xa, mới thật tiếc nuối. Có lẽ vì vậy mà Linklee đã sáng tác bài hát "Cho tôi xin một vé về tuổi thơ". Và đây có lẽ là điều mà mọi người, những người trưởng thành, những người tất bật với công việc, cuộc sống gia đình mong ước nhất.
fffffffffffffff
Câu trả lời của bạn
Bài ca ngắn đi trên bãi cát
Câu trả lời của bạn
Nhiều bộ phận văn học và nhiều khuynh hướng thẩm mĩ.
Câu trả lời của bạn
Số đỏ, Tinh thần thể dục.
Câu trả lời của bạn
Cốt truyện, nhân vật, chi tiết, không gian – thời gian, điểm nhìn, lời kể.
Câu trả lời của bạn
a) Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 hình thành theo hai bộ phận và phân hoá thành nhiều dòng, vừa đấu tranh với nhau, vừa bổ sung cho nhau để cùng phát triển.
- Những điểm khác nhau của 2 dòng văn học đó là:
+ Văn học công khai: văn học hợp pháp và tồn tại trong vòng pháp luật của chính quyền thực dân phong kiến. Nền văn học công khai phân hóa thành nhiều dòng, trong đó nổi lên hai dòng chính: văn học lãng mạn và văn học hiện thực.
+ Văn học bất hợp pháp gồm thơ văn cách mạng, thơ ca trong tù, thơ văn Đông Kinh nghĩa tục, thơ văn thời Mặt trận Dân chủ Đông Dương…
b) Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 phát triển với nhịp độ hết sức nhanh chóng. Sự phát triển này thể hiện rất rõ ở sự phát triển của thơ trong phong trào Thơ mới, ớ các thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, lí luận và phê bình văn học,...
Những nguyên nhân làm cho văn học thời kì này phát triển nhanh chóng là do:
+ Sự thúc bách của yêu cầu thời đại. Xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX đến năm 1945 đã đặt ra bao vấn đề về đất nước, về cuộc sống, con người và nghệ thuật mà ở những thời kì trước đó chưa từng có, đòi hỏi thời kì mới phải giải quyết.
+ Tuy nhiên, nhân tố quyết định là ở bản thân chủ quan của nền văn học dân tộc. Từ xa xưa, dân tộc ta đã có một sức sống mãnh liệt mà hạt nhân là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc. Giờ dây, sức sống đó được tiếp sức bới các phong trào yêu nước và cách mạng suốt nửa thế kỉ.
+ Sự phát triển của văn học thời kì này còn do sự thức tỉnh, trỗi dậy mạnh mẽ của cái tôi cá nhân sau hàng nghìn năm bị kìm hãm. Chính "cái tôi" cá nhân này là một trong những động lực tạo nên sự phát triển với nhịp độ hết sức nhanh chóng và những thành tựu rực rỡ của văn học Việt Nam nửa đầu thế kí XX theo hướng hiện đại hoá.
+ Ngoài ra, cũng cần phải nhận thấy rằng, thời kì này, văn chương đã trớ thành một thứ hàng hoá, viết văn trớ thành một nghề để kiếm sống. Đây là lí do thiết thực, một nhân tố kích thích người cầm bút.
Câu trả lời của bạn
a)
* Tiếu thuyết trung đại:
- Tiểu thuyết trung đại Việt Nam thường vay mượn đề tài, cốt truyện của văn học Trung Quốc;
- Tập trung vào việc xây dựng cốt truyện li kì, hấp dẫn;
- Kết cấu theo kiểu chương hồi và theo công thức; kết thúc có hậu;
- truyện được thuật theo trình tự thời gian; nhân vật thường phân tuyến rạch ròi; câu văn theo lối biền ngẫu,...
* Tiếu thuyết hiện đại:
- Tiểu thuyết hiện đại lấy tính cách nhân vật làm trung tâm, chú trọng tính cách hơn là cốt truyện, đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật.
- Tiểu thuyết trần thuật theo thời gian tự nhiên mà rất linh hoạt; kết thúc thường không có hậu; bỏ những ước lệ, dùng bút pháp tả thực; lời văn tự nhiên gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày,...
b) Trước năm 1930, tiểu thuyết văn xuôi quốc ngữ xuất hiện chưa nhiều. Hồ Biểu Chánh là nhà tiểu thuyết đầu tiên khẳng định được chỗ đứng của mình với hàng chục tác phẩm dày dặn, dựng lên được bức tranh hiện thực xã hội Nam Bộ dầu thế kỉ XX với các nhân vật dường như thuộc đủ các tầng lớp xã hội. Tuy nhiên tác phẩm của ông còn mô phỏng cốt truyện của phương Tây nhiều, đặc biệt còn nhiều dấu hiệu chưa "thoát thai" hết của văn học thời trung đại: Chưa thoát khỏi kiểu kết cấu chương hồi, cách kết thúc có hậu, nhân vật có tính chất minh hoạ cho những quan điểm đạo đức, lối văn biền ngẫu,... Các đặc điểm này đều được thê hiện rõ trong tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh.
Câu trả lời của bạn
- Ở "Vi hành" của Nguyễn Ái Quốc, nó là tình huống nhầm lẫn của đôi trai gái người Pháp trong chuyến tàu điện ngầm: Nhìn người An Nam (nhân vật tỏi) và cho đó là Khái Định.
- Tình huống nhầm lẫn tưởng như vô lí nhưng lại rất có lí, vì người Tây rất khó phân biệt được bộ mặt khác nhau của người da vàng (mắt xếch, mặt bủng như vỏ chanh có gì khác nhau đâu) cũng như người châu Âu, da trắng mũi lõ mắt xanh như nhau cả. Nhờ sự nhầm lẫn mà hình ảnh Khải Định được miêu tả vừa rất khách quan lại vừa thật hài hước.
- Trong "Tinh thần thể dục" của Nguyễn Công Hoan là tình huống trào phúng mâu thuẫn giữa mục đích có vẻ tốt đẹp và thực chất là tai hoạ. Mâu thuẫn trào phúng cơ bản của truvện là mâu thuẫn giữa chính quyền với người dân nghèo, giữa sự khuếch trương của bọn quan lại thực dân phong kiến với ước mong xin được ớ nhà của người dân, giữa việc đi cổ vũ với việc tìm mọi cách chạy chọt để được ở nhà thậm chí trốn tránh. Trên cơ sở những mâu thuẫn đổ, mỗi cảnh tình riêng lại có những nét hài hước riêng.
- Trong truyện ngắn "Chữ người tứ tù", Nguyễn Tuân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Hai nhân vật Huấn Cao và quản ngục, trên bình diện xã hội, họ hoàn toàn đối lập nhau. Một người là tên "đại nghịch", cầm đầu cuộc nổi loạn nay bị bắt giam, đang chờ ngày ra pháp trường đê chịu tội; còn một người là quản ngục, kẻ đại diện cho cái trật tự xã hội dương thời. Nhưng họ đều có tâm hồn nghệ sĩ. Trên bình diện nghệ thuật, họ là tri âm, tri kỉ với nhau. Tạo dựng tình thế như vậy, đồng thời cho họ gặp nhau giữa chốn ngục tù, tối tăm nhơ bẩn, tạo nên một cuộc kì ngộ đáng nhớ và kì lạ.
- Tình huống truyện độc đáo thể hiện ớ mối quan hệ éo le, đầy trớ trêu giữa những tâm hồn tri kỉ. Hai nhân vật được đặt trong một tình thế đối địch: Tử tù và quản ngục. Chính tình huống độc đáo này đã giúp làm nổi bật trọn vẹn vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao, đồng thời cũng làm sáng tỏ tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục. Từ đó mà chủ đề của tác phẩm cũng được thể hiện sâu sắc.
- Trong "Chí Phèo" là tình huống bi kịch thể hiện màu thuẫn giữa khát vọng sống lương thiện, khát vọng làm người và tình trạng bị cự tuyệt quyền làm người.
Câu trả lời của bạn
a. Đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Hai đứa trẻ.
- Hai đứa trẻ là một truyện không có cốt truyện. Nó giống như một bài thơ. Toàn bộ câu chuyện chỉ kể về tâm trạng thao thức của Liên và An, mong mỏi chờ đợi một chuyến tàu đêm đi ngang qua.
- Thạch Lam chú trọng đi sâu vào nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh. Những trang viết miêu tả tâm trạng nhân vật rất sâu sắc và tinh tế.
- Thạch Lam cũng sử dụng rất thành công thú pháp nghệ thuật đối lập, tương phản (giữa một bên là ánh sáng tù mù, nhạt nhoà của ngọn đèn dầu nơi hàng nước của chị Tí và bên kia là ánh sáng cực mạnh như xuyên thủng màn đêm của đoàn tàu...), qua đó nhấn mạnh, làm nổi bật khung cánh nghèo nàn, vắng lặng của phố huyện nhỏ.
- Truyện còn đặc sắc ở lối kể chuyện thủ thỉ, tâm tình thấm đượm chất thơ của Thạch Lam. Ẩn hiện kín đáo, lặng lẽ sau những hình ảnh và ngôn từ là một tâm hồn đôn hậu, tinh tế, hết sức nhạy cảm với mọi biến thái của lòng người và tạo vật.
b. Đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn Chữ người từ tù của Nguyễn Tuân:
- Truyện thể hiện tài năng nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Tuân trong việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo, trong nghệ thuật dựng cảnh, dựng người, tạo không khí cổ kính, trang trọng; trong việc sử dụng thủ pháp đối lập và ngôn ngữ rất giàu tính tạo hình.
- Các nhân vật của Nguyễn Tuân tuy chỉ được miêu tả trong những khoảnh khắc nhưng đó là những khoảnh khắc đặc biệt, bới thế mà họ đều rất ấn tượng. Nhân vật rất giàu tính cách, rất ngang tàng, rất tài năng nhưng cái tâm cũng luôn trong sáng. Đó là những biểu tượng về cái dẹp, là những con người hoàn mĩ.
- Trong truyện, đáng chú ý nhất là đoạn miêu tả cảnh vật và không khí thiêng liêng, cổ kính của cảnh cho chữ. Đoạn văn này thể hiện lài năng sắc sảo của Nguyễn Tuân không chỉ trong việc sử dụng ngôn ngữ một cách điêu luyện mà còn ớ khả năng sử dụng bút pháp đối lập trong tạo dựng cảnh. Chính nhờ thủ pháp đối lập (một thủ pháp đặc trưng của văn học lãng mạn) mà cảnh tượng này hiện lên với đầy đủ vẻ đẹp trang trọng, uy nghi, rực rỡ của nó.
c. Đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao:
- Ngôn ngữ trong tác phẩm rất sống động, vừa điêu luyện, nghệ thuật, vừa rất gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày. Giọng điệu của nhà văn phong phú và biến hoá, có sự đan xen lẫn nhau.
- Cách trần thuật cũng rất linh hoạt. Nhà văn có khả năng nhập vào các vai, chuyển từ vai này sang vai khác một cách tự nhiên, linh hoạt, gây hấp dẫn cho người đọc. Lúc thì trần thuật theo điểm nhìn của tác giả, lúc thì trần thuật theo điểm nhìn của nhân vật Chí Phèo, khi lại trần thuật theo điểm nhìn của nhân vật bá Kiến, thị Nở,... Cũng nhờ đó mà tạo nên giọng điệu đan xen độc đáo.
Câu trả lời của bạn
a) Những nét chính về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng thể hiện qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia:
- Nhan đề chương đã hàm chứa tính chất hài hước.
- Từ một tình huống trào phúng cơ bản (hạnh phúc của một gia đình có tang), nhà văn triển khai mâu thuẫn theo nhiều tình huống khác nhau tạo nên một màn đại hài kịch phong phú và rất biến hoá.
- Một trong những thủ pháp quen thuộc được Vũ Trọng Phụng sử dụng là phát hiện những chi tiết đối lập nhau gay gắt nhưng cùng tồn tại trong một sự vật, một con người, để từ đó làm bật lên tiếng cười.
- Nghệ thuật miêu tả đám tang.
- Ngôn ngữ mang giọng mỉa mai, giễu nhại.
- Ngoài ra, các thủ pháp cường điệu, nói ngược, nói mỉa, những cách chơi chữ, so sánh bất ngờ, độc đáo,... đều được sử dụng một cách đan xen linh hoạt. Và tất cả đều đem lại hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Chẳng hạn, cụ cố tổ chết khiến cho cái đại gia đình bất hiếu này đều hạnh phúc, nhưng mổi người lại có niềm hạnh phúc riêng, tuỳ theo hoàn cảnh của từng người, rất phong phú và đa dạng; từ con cháu trong nhà tới bạn bè của cụ, thậm chí đến cả bọn cảnh sát. Đặc biệt, đám ma được tổ chức rất nhố nhăng, lố bịch và cái đám ma này thực chất là một đám rước; đi đưa ma là cơ hội để mọi người gặp gỡ, trò chuyện, đùa cợt nhau, tán tỉnh nhau.
b) Bằng nghệ thuật trào phúng sắc bén, qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng đã phê phán mãnh liệt bản chất giả dối và sự lố lăng, đồi bại của xã hội "thượng lưu" ớ thành thị ngày ấy.
Câu trả lời của bạn
- Trong hai mâu thuẫn của vở kịch và cũng là của đoạn trích Vĩnh biệt cửu Trùng Đài, mâu thuẫn giữa nhân dân khốn khổ lầm than với bọn hôn quân bạo chúa cùng phe cánh của chúng đã được giải quyết dứt khoát theo quan điểm của nhân dân. Bạo chúa Lê Tương Dực bị giết; Nguyễn Vũ - đại thần của y - tự sát; đám cung nữ bị những kẻ nổi loạn nhục mạ, bắt bớ.
- Thế nhưng mâu thuẫn thứ hai giữa quan điểm nghệ thuật cao siêu, thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thực của quần chúng nhân dân chưa được tác giả giải quyết một cách dứt khoát.
+ Vũ Như Tô cho đến lúc chết vẫn không nhận ra sai lầm của mình, vẫn đinh ninh là mình vô tội. Vũ Như Tô không đứng về phía hôn quân Lê Tương Dực nhưng lại muốn mượn uy quyền và tiền bạc của hắn để thực hiện hoài bão nghệ thuật của mình, trong thực tế, đã vô tình gây thêm nỗi khổ cho nhân dân.
+ Vũ Như Tô có tội hay có công? Vũ Như Tô đúng hay những người giết Vũ Như Tô đúng?
=> Đó là những câu hỏi day dứt mà chính tác giả cũng không thể giải quyết một cách rạch ròi, dứt khoát được. Chính xác giả đã bày tỏ nỗi băn khoăn của mình qua lời đề từ: "Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc?", chẳng biết "Như Tô phải hay những người giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm". Cách nêu vấn đề của tác giả như vậy là hợp lí. Bởi lẽ, chân lí chỉ thuộc về Vũ Như Tô một nửa, còn nửa kia lại thuộc về quần chúng nhân dân.
Câu trả lời của bạn
- Quan điểm của Nam Cao thể hiện sự ý thức sâu sắc và đòi hỏi rất cao sự tìm tòi sáng tạo của nhà văn trong nghề văn. Ý kiến nêu trên khẳng định yêu cầu hết sức quan trọng đối với tác phẩm văn chương và nói rộng ra là đối với tác phẩm nghệ thuật và người nghệ sĩ đó là phải sáng tạo, phải phát hiện ra những cái mới.
- Đây là ý kiến hoàn toàn đúng, phản ánh bản chất của nghệ thuật, đã được nhiều người thừa nhận và khẳng định theo những cách diễn đạt khác nhau.
- Ở đây, Nam Cao đã diễn đạt điều đó một cách ngắn gọn bằng những liên tưởng hàm súc và giàu hình ảnh. Soi tỏ vào sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, chúng ta có thể thấy nhà văn thực hiện một cách nghiêm túc điều này.
+ Trong cả hai mảng sáng tác của ông giai đoạn trước Cách mạng, hình ảnh những người nông dân và người trí thức đều mang những nét riêng không lẫn với các tác giả khác.
+ Mảng đề tài về người nông dân chẳng hạn, Nam Cao cũng viết về người nông dân nhưng không đi lại con đường của Nguyễn Công Hoan hay Ngô Tất Tố, ông tìm cách khám phá quá trình con người bị tha hóa, bị đè nén đến mức trở thành lưu manh, từ đó ông đặt ra các vấn đề có ý nghĩa xã hội và nhân sinh. Con đường sáng tạo nghệ thuật của Nam Cao là con đường của con người không bao giờ muốn lặp lại mình. Đó là con người luôn muốn làm mới mình.
Câu trả lời của bạn
Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét diễn ra trong hoàn cảnh hai dòng họ có mối hận thù truyền kiếp. Tính chất thù hận của hai dòng họ được phản ánh trong lời thoại của Giu-li-ét năm lần ("Chàng hãy khước từ cha chàng và từ chối dòng họ của chàng đi...", "chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi"; "nơi tử địa"; "họ mà bắt gặp anh..."; "Em chẳng đời nào muốn họ bắt gặp anh ở nơi đây"... ) và trong lời thoại của Rô-mê-ô ba lần ("Từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa"; "tôi thù ghét cái tên tôi..."; "chẳng phải Rô-mê-ô cũng chẳng phải Môn-ta-ghiu...").
Nỗi ám ảnh về hận thù giữa hai dòng họ xuất hiện ở Giu-li-ét nhiều hơn. Điều đó cho thấy nỗi lo kèm theo sự ái ngại về hoàn cảnh của Giu-li-ét. Song Giu-li-ét không chỉ lo cho mình mà còn lo cho cả người mình yêu.
Thái độ của Rô-mê-ô đối với hận thù giữa hai dòng họ quyết liệt hơn. Chàng sẵn sàng từ bỏ dòng họ của mình, thể hiện sự dũng cảm để đến với tình yêu. Điều mà Rô-mê-ô sợ là sợ không có được, không chiếm được tình yêu của Giu-li-ét, sợ nàng nhìn mình bằng ánh mắt của sự hận thù ("ánh mắt của em còn nguy hiểm cho tôi hơn hai chục lưỡi kiếm của họ; em hãy nhìn tôi âu yếm là tôi chẳng ngại gì lòng hận thù của họ nữa đâu").
Cả Rô-mê-ô và Giu-li-ét đều ý thức được sự thù hận đó, song nỗi lo chung của hai người là lo họ không được yêu nhau, họ không có được tình yêu của nhau. Chính vì thế, cả hai đều nhắc tới hận thù song không nhằm khơi dậy, khoét sâu hận thù mà chỉ để hướng tới vượt lên trên hận thù, bất chấp hận thù. Sự thù hận của hai dòng họ tuy là cái nền nhưng tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét không xung đột với hận thù ấy. Đây là sự khẳng định quyết tâm xây đắp tình yêu của hai người.
Câu trả lời của bạn
- Về mặt xã hội, sau gần nửa thế kỉ tiến hành chiến tranh xâm lược đến đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp đã bình định xong Việt Nam, ra sức củng cố bộ máy chính quyền. Từ chỗ hoạt động quân sự là chính, chúng chuyển mạnh sang hoạt động kinh tế, tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa với quy mô lớn, biến nước ta thành một nước nửa thuộc địa nửa phong kiến. Từ Nam ra Bắc những đô thị, thị trấn có tính chất tư bản chủ nghĩa mọc lên, những tầng lớp xã hội mới xuất hiện: công nhân, tư sản, tiểu tư sản, dân nghèo thành thị,...
- Thực dân Pháp đã áp đặt một hệ thống chính trị hết sức tàn bạo, vơ vét tài nguyên của đất nước, bóc lột thậm tệ nhân dân ta. Giai cấp địa chủ phong kiến đã đầu hàng, làm chỗ dựa, tay sai cho thực dân Pháp. Tuy nhiên, có một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước. Giai cấp nông dân, số lượng đông đảo, bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, họ sẵn sàng hưởng ứng, tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Một bộ phận nhỏ mất ruộng đất vào làm việc trong các hầm mỏ, đồn điền. Tầng lớp tư sản đã xuất hiện, có nguồn gốc từ các nhà thầu khoán, chủ xí nghiệp, xưởng thủ công, chủ hãng buôn... bị kìm hãm, chèn ép. Vì thế lực kinh tế nhỏ bé, lệ thuộc nên họ không dám mạnh dạn đấu tranh, chỉ mong muốn có những thay đổi nhỏ để dễ bề làm ăn sinh sống. Tiểu tư sản thành thị, bao gồm chủ các xưởng thủ công nhỏ, cơ sở buôn bán nhỏ, viên chức cấp thấp và những người làm nghề tự do. Đó là những người có trình độ học vấn, nhạy bén với thời cuộc nên đã sớm giác ngộ và tích cực tham gia vào cuộc vận động cứu nước đầu thế kỉ XX. Công nhân phần lớn xuất thân từ nông dân, làm việc trong các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, lương thấp nên đời sống khổ cực, có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống giới chủ nhằm cải thiện đời sống.
- Về mặt văn hóa: Từ sau những năm 20 TK XX, ngọn cờ văn hóa mới ngày càng lộng gió tâm hồn người trí thức Việt Nam, nhất là tầng lớp trí thức Tây học, Âu hóa với tinh thần dân chủ, dân tộc và đại chúng. Báo chí quốc ngữ tiếp tục phát triển, xuất hiện thêm nhiều từ báo mới như Thực nghiệp dân báo (1920), Khai hóa, Hữu thanh (1921), An Nam tạp chí (Tờ báo văn chương đầu tiên - 1926), Tiếng dân (1927), Thần chung (1929), Phụ nữ tân văn (1929). Theo đó, các loại hình văn hóa nghệ thuật mới lạ của Tây phương đều lần lượt ra mắt công chúng như kịch nói, điện ảnh (chiếu bóng), hội họa, điêu khắc, kiến trúc, xiếc, tạp kỹ, âm nhạc... Tất cả đã tạo nên những sắc màu mới lạ của một nền nghệ thuật hiện đại chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.
Câu trả lời của bạn
Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945 có sự phân hoá phức tạp thành nhiều bộ phận, nhiều xu hướng trong quá trình phát triển:
- Ở bộ phận công khai, có các xu hướng chính:
+ Văn học nô dịch, phản động, chống lại nhân dân, cam tâm làm tay sai cho Pháp, chống lại các phong trào yêu nước, cách mạng...
+ Văn học lãng mạn:
+ Văn học hiện thực:
- Ở bộ phận văn học bất hợp pháp:
+ Văn học yêu nước cách mạng do các sĩ phu yêu nước, các cán bộ, chiến sĩ và quần chúng cách mạng...
+ Văn chương là vũ khí đấu tranh cách mạng.
+ Tác giả: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh, Tố Hữu...
- Nguyên nhân dẫn đến sự phân hoá phức tạp:
+ Do sự khác nhau về quan điểm nghệ thuật.
+ Do sự phức tạp của tình hình xã hội, chính trị, tư tưởng...
- Văn học phát triển với tốc độ hết sức mau lẹ, phi thường:
+ Do sự thúc đẩy của thời đại.
+ Xã hội mới đòi hỏi văn học phải đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề trước đó chưa từng có.
+ Sức sông của dân tộc tiếp sức, chịu ảnh hưởng của phong trào yêu nước và cách mạng, của Đảng Cộng sản Đông Dương.
+ Sự thức tỉnh, trổi dậy mạnh của ý thức cái tôi cá nhân.
Câu trả lời của bạn
- Tiểu thuyết trung đại:
+ Chữ Hán, chữ Nôm.
+ Chú ý đến sự việc, chi tiết.
+ Cốt truyện đơn tuyến.
+ Cách kể theo trình tự thời gian.
+ Tâm lí, tâm trạng nhân vật sơ lược.
+ Ngôi kể thứ 3.
+ Kết cấu chương hồi.
- Tiểu thuyết hiện đại:
+ Chữ quốc ngữ.
+ Chú ý đến thế giới bên trong của nhân vật.
+ Cốt truyện phức tạp, đa tuyến.
+ Cách kể theo trình tự thời gian, theo sự phát triển của tâm lí, tâm trạng nhân vật.
+ Tâm trạng, tâm lí nhân vật phức tạp.
+ Ngôi kể thứ 3, thứ nhất, kết hợp nhiều ngôi kể.
+ Kết cấu chương đoạn.
Câu trả lời của bạn
- Tình huống là các quan hệ, những hoàn cảnh, những nhà văn sáng tạo ra để tạo nên sự hấp dẫn, sức sống và thế đứng của truyện. Sáng tạo tình huống đặc sắc là vấn đề then chốt của nghệ thuật viết truyện.
+ Vi hành: tình huống nhầm lẫn.
+ Tinh thần thể dục: mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung, mục đích và thực chất tốt đẹp và tai hoạ. Bắt buộc dân xem đá bóng, dân trốn chạy, thoái thác.
+ Chữ người tử tù: tình huống éo le, tử tù sắp bị tử hình - người cho chữ, quản ngục- người xin chữ. Cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có.
+ Chí Phèo: Tình huống bi kịch: mâu thuẫn giữa khát vọng sông lương thiện và không được làm người lương thiện.
Câu trả lời của bạn
- Hai đứa trẻ: Truyện không có truyện - truyện trữ tình. Cốt truyện đơn giản. Tác giả chủ yếu đi sâu vào tâm trạng và cảm giác của nhân vật. Ngôn ngữ giàu chất thơ, nhẹ nhàng, tinh tế...
- Chữ người tử tù: Cốt truyện đơn giản, Tạo tình huống éo le. Tình huống cho chữ, xin chữ. Ngôn ngữ kể, tả vừa cổ kính, vừa hiện đại, rất tạo hình.
- Chí Phèo: Cốt truyện hấp dẫn, li kì. Cách kể, tả linh hoạt, biến hoá. Xây dựng nhân vật điển hình, miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật...
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *