Bài giảng Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học sẽ giúp các em có thêm kĩ năng cũng như hệ thống lại những kiến thức cần thiết cho các em trước khi đến lớp, chuẩn bị thật tốt bài viết nghị luận văn học sắp tới. Chúc các em có thêm một bài kiểm tra đạt được điểm cao.
Đề 1: So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau:
Đầu lòng hai ả tố Nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuân trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên "bạc mệnh" lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rũ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Đề 2: Nguyễn Khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ có điểm khác nhau như thế nào? Hãy làm rõ ý kiến của mình
Đề 3: Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.
Đề 4: Những cảm nhận sâu sắc của anh (chị) qua tìm hiểu cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Chú ý
Đề 1: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - một tiếng khóc bi tráng
Đề 2: Vẻ đẹp của bài Bài ca ngất ngưỡng
Gợi ý làm bài:
Đề 1:
Đề 2:
Để có thêm kĩ năng cũng như hệ thống lại những kiến thức cần thiết khi làm văn nghị luận, các em có thể tham khảo bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
a. Mở bài:
– Giới thiệu về hai nhà thơ
- Dẫn dắt vấn đề
b. Thân bài:
* Nỗi niềm tâm sự của hai tác giả
– Hai tác giả đều sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến, đầy rẫy bất công, hai tác giả đã chứng kiến bao cảnh nhiễu nhương, chứng kiến cuộc sống cực khổ của người lao động.
– Hai tác giả đều có nỗi niềm tâm sự giống nhau:
+ Tâm sự yêu nước, tâm sự thời thế.
+ Tình cảm bạn bè và gia đình.
+ Đau xót trước cảnh lầm than của người dân, trước những điều nhố nhăng của xã hội đương thời.
+ Tố cáo, đả kích những thói hư tật xấu trong xã hội.
* Sự khác nhau giữa giọng thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương
- Nguyễn Khuyến
+ Thơ trào phúng: tiếng cười hóm hỉnh, nhẹ nhàng, thâm trầm đầy ngụ ý.
+ Thơ trữ tình của Nguyễn Khuyến: giọng thơ khi thì đằm thắm, khi thì đau xót.
- Tú Xương
+ Tiếng cười trào phúng của Tú Xương là tiếng cười suồng sã, chua cay, dữ dội.
+ Mảng thơ trữ tình: Tiêu biểu là bài Thương vợ. Nhà thơ viết về người vợ đảm đang, chịu thương chịu khó của mình với tất cả lòng yêu thương, trân trọng, cảm phục. Bài thơ khắc hoạ thành công hình ảnh người vợ, người mẹ giàu đức hi sinh.
- Nguyên nhân có sự khác nhau:
+ Nguyễn Khuyến tài cao học rộng, thuận lợi hơn trong con đường thi cử. Ông đỗ đạt cao. Thi Hương, thi Hội, thi Đình, ông đều đỗ đầu. Ông là người tài năng, có cốt cách thanh cao, có lòng yêu nước, thương dân
+ Tú Xương học giỏi nhưng lại long đong, lận đận trong con đường thi cử. Đi thi nhiều lần nhưng ông cũng chỉ đậu tú tài. Cuộc sống gia đình khó khăn. Gánh nặng gia đình đè nặng lên vai bà Tú. Ông chẳng giúp được gì cho vợ con. Vì lẽ đó, giọng thơ của ông vừa chua chát, vừa mạnh mẽ, phẫn uất.
c. Kết bài
- Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ nổi tiếng của nước ta. Hai ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị về nội dung cũng như về mặt nghệ thuật.
- Hai tác giả đều có tâm sự giống nhau: căm ghét xã hội thực dân nửa phong kiến nhố nhăng, đầy rẫy cảnh bất công.
- Học thơ hai tác giả, chúng ta càng hiểu hơn tâm sự của mỗi nhà thơ, hiểu hơn giọng thơ của mỗi người và biết vì sao lại có sự khác nhau về giọng thơ như vậy. Đồng thời, ta cũng hiểu về sự đóng góp lớn lao của hai ông cho nền văn học của dân tộc.
Câu trả lời của bạn
a. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du
- Giới thiệu đoạn trích
- Dẫn dắt vấn đề
b. Thân bài:
- Giới thiệu hai chị em => đều đẹp: “tố nga”, “mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”
- Phân tích vẻ đẹp của Thúy Vân: 4 câu tả Thúy Vân
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
+ Vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu.
+ Vẻ đẹp của sự hài hòa và dung hòa được với "xung quanh"
- Vẻ đẹp của Kiều: 12 câu tả Kiều
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn:
...
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên "bạc mệnh" lại càng não nhân.
+ Thúy Kiều lại được tả là sắc sảo mặn mà” hơn hẳn Thủy Vân => Đó là nghệ thuật đòn bẩy
+ Vẻ đẹp lộng lẫy sắc nước hương trời đến hoa phải ghen, liễu phải hờn
+ Thúy Kiều chẳng những rất đẹp mà còn thông minh và tài hoa nữa: giỏi thơ,ca, nhạc hoạ…
+ Dự cảm về số mệnh: “bạc mệnh”
- Nghệ thuật: ước lệ, tượng trung, điển cổ để miêu tả, làm nổi bật vẻ đẹp của hai chị em
c. Kết bài
- Khẳng định lại vẻ đẹp của hai chị em
- Trân trọng đề cao vẻ đẹp con người, vẻ đẹp hoàn thiện , hoàn mỹ của hai chị em Kiều => cảm hứng nhân đạo.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
1. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu: Khái quát qua cuộc đời của ông => tấm lòng thủy chung, son sắt với nước, với dân cho đến hơi thở cuối cùng
2. Nội dung thơ văn
* Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa
- Nhân: lòng yêu thương con người, sẵn sàng cưu mang con người trong cơn hoạn nạn.
- Mang tinh thần nhân nghĩa của đạo Nho nhưng đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc.
- Những nhân vật lí tưởng: con người sống nhân hậu, thủy chung, biết giữ gìn nhân cách ngay thẳng, dám đấu tranh và có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực bạo tàn, cứu nhân độ thế.
* Lòng yêu nước, thương dân
- Ghi lại chân thực thời kì đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù quân giặc, nhiệt liệt biểu dương những người anh hùng nghĩa sĩ hi sinh vì Tổ Quốc.
- Tố cáo tội ác của kẻ thù, lên án những kẻ bán nước, cầu vinh.
- Ca ngợi những sĩ phu yêu nước
- Giữ niềm tin vào ngày mai
- Bất khuất trước kẻ thù
=> Khích lệ lòng yêu nước và ý chí cứu nước của nhân dân ta.
* Nghệ thuật thơ văn
- Bút pháp trữ tình, xuất phát từ cõi tâm trong sáng, nhiệt thành.
- Đậm đà sắc thái Nam Bộ: lời ăn tiếng nói mộc mạc, giản dị, lối thơ thiên về kể.
Câu trả lời của bạn
a. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Đình Chiểu
- Giới thiệu tác phẩm
- Dẫn dắt vấn đề
b. Thân bài:
- Hoàn cảnh xuất thân: là những người lao động chất phác, giản dị, sống cuộc đời lam lũ, cơ cực (Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó). Họ chỉ quen với việc đồng áng, hoàn toàn xa lạ với binh đao. (Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.)
- Những chuyển biến khi giặc Pháp tới xâm lược:
+ Tình cảm: Có lòng yêu nước (trông tin …), căm thù giặc sâu sắc (muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ).
+ Nhận thức: Có ý thức trách nhiệm với Tổ quốc trong lúc lâm nguy (Một mối xa thư đồ sộ … treo dê bán chó)
+ Hành động tự nguyện và ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc (Nào đợi ai đòi bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ …)
- Vẻ đẹp hào hùng của người nông dân nghĩa sĩ:
+ Mộc mạc giản dị (manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi)
+ Rất mực nghĩa khí và với tinh thần xả thân cứu nước hết sức quả cảm (Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố. […] Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bòn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.)
c. Kết bài:
- Nguyền Đình Chiểu đã bất tử hóa hình tượng người nông dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. Ông đã xây dựng được bức tượng đài nghệ thuật bất hủ về người nghĩa sĩ nông dân hiên ngang, dũng cảm trong tác phẳm của mình. Bài văn tế như một cái mốc, một minh chứng về tấm lòng yêu nước, về phẩm chất của người nông dân lao động.
- Tinh thần chiến đấu của người nghĩa binh nông dân là tấm lòng yêu nước nghìn đời đáng ghi nhớ và học tập.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Ngày tết nhà giáo
Ngày vui xin chúc các Cô Thầy
Mạnh khỏe, bình yên, giọng hát hay
Họp mặt cùng nhau vui tiệc nhỏ
Hoa tươi, chúc tục thật đong đầy
Bao ngày vất vả bên trường học
Dạy đỗ đàn em nhiệt huyết say
Đóng góp cho đời thêm sắc thắm
Vinh danh rạng rỡ, cảm ơn dày..
Người lái đò
Một đời người - một dòng sông...
Mấy ai làm kẻ đứng trông bến bờ,
"Muốn qua sông phải lụy đò"
Đường đời muôn bước cậy nhờ người đưa...
Tháng năm dầu dãi nắng mưa,
Con đò trí thức thầy đưa bao người.
Qua sông gửi lại nụ cười
Tình yêu xin tặng người thầy kính thương.
Con đò mộc - mái đầu sương
Mãi theo ta khắp muôn phương vạn ngày,
Khúc sông ấy vẫn còn đây
Thầy đưa tiếp những đò đầy qua sông...
Cảm ơn thầy cô
Uống nước thì phải nhớ nguồn
Ăn quả thì phải nhớ người trồng cây
Dạy ta biết chữ hôm nay
Thành người có ích công cô ơn thầy.
Lỡ yêu thích nghiệp lái đò
Chỉ mong truyền dạy học trò thành công
Thầy cô nào chẳng mong trông
Chúng con phải nhớ ghi lòng tạc ơn.
Dạy từng đứa trẻ thành Nhơn
Truyền từng bài giảng phấn mòn cổ đau
Chỉ mong trò hiểu thật mau
Cười vui trong dạ khổ lao cũng mừng.
Thời gian thoăn thoắt chẳng ngừng
Thầy cô vẫn dạy trò cưng của mình.
"Qua Sông thì phải lụy Đò"
Mấy ai qua khỏi nhớ Đò ngày xưa
Người chèo dẫu có nắng mưa
Vượt qua sóng dữ, vẫn đưa học trò.
Cúi đầu xin lỗi thầy cô
Lâu rồi con cũng quên đò từng đưa
Chữ đầy sợ nói thêm thừa
Công lao dạy dỗ chẳng khua trống kèn.
9. Ru lại ơn thầy
Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy
Lời ru bay bổng tự ngày ấu thơ
Thầy cầm tay viết i tờ
Dạy con đạo lý sống cho ra người.
Một đời cần mẫn thầy ơi
Đưa bao thế hệ tới bờ tương lai
"Nửa chữ cũng vẫn là thầy"
Lời ông cha dạy có sai bao giờ.
Dẫu đời chưa đẹp như mơ
Tình thầy cô với học trò bền lâu
Tóc con giờ đã bạc màu
Lại ru cháu cũng từ câu ơn thầy.
10. Chúc mừng thầy cô
“Muốn sang thì bắc cầu Kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.”
Lời ca văng vẳng đâu đây
Nồng thơm hương sữa dâng đầy khát khao
Dù cho xa mãi phương nào
Ân tình thầy dạy làm sao quên lời.
Dù cho đi bốn phương trời
Nghĩa nhân một thuở trọn đời không quên.
Thưa Thầy
Thưa thầy, bài học chiều nay
Con bỏ quên ngoài cửa lớp
Dưới gốc phượng già, nằm nghe chim hót
Con hóa mình thành bướm và hoa
Thưa thầy bài tập hôm qua
Con bỏ vào ngăn khóa kín
Mải lượn lờ theo từng vòng sóng
Cái ngã điệu đàng, sân trượt patin
Thưa thầy, bên ly cà phê đen
Con đốt thời gian bằng khói thuốc
Sống cho mình và không bao giờ mơ ước
Mình sẽ là ai? Tôi sẽ là ai?
Thưa thầy, qua ngõ nhà thầy khuya nay
Con vẫn thấy một vầng trăng ấm sáng
Thầy ngồi bên bàn phẳng lặng
Soạn bài trong tiếng ho khan
Thưa thầy, cho là nhận: điều giản đơn
Sao con học hoài không thuộc
Để bây giờ khi con hiểu được
Biết làm sao tạ lỗi cùng thầy
Hoa nở trên lối ưu tư
Dòng đời khéo chọn nghiệp duyên
Đưa đò tri thức con thuyền nhân văn
Ươm cây từ đất khô cằn
Một đời lo nghĩ, khuyên răn "nết người"!
Tâm hồn chăm bón tốt tươi,
Tưới câu nhân nghĩa, bao người nên danh.
Con thuyền vượt sóng chòng chành
Mái chèo lúc mỏi, liêm thanh dặn lòng!
Khơi dòng câu cá nước trong
Bất công chưa hết! Chạnh lòng niềm mơ
Dòng sông luôn có bến bờ
Người đi còn nhớ, người mơ...đợi gì?
Một đời tận tụy, tâm tri
Phấn vương khóe mắt để vì tương lai.
Hiền nhân, tài chí, nghiệp dài,
Cho đời hoa nở ngày mai - Ơn Người!
Người lái đò
Suốt một đời đưa đón khách qua sông.
Ai còn nhớ người lái đò thầm lặng?
Vẫn ngược xuôi, dù gió mưa hay nắng
Tiễn người đi... biền biệt chẳng về thăm.
Vẫn lặng lẽ, bằng tất cả cái tâm
Vì sự nghiệp trồng người đầy cao cả
Đôi dòng thơ, thay cho lời cảm tạ
Chúc thầy cô luôn mạnh khỏe bình an.
Mong thầy cô luôn hạnh phúc ngập tràn
Nghĩa thầy trò suốt đời ghi khắc mãi
Sau bao năm con trở về tìm lại
Bến sông đây, người đưa đò giờ đâu?
Dẫu thời gian có làm bạc mái đầu
Tình thầy trò chẳng bao giờ phai nhạt
Bỗng trong lòng một nỗi buồn man mác
Thầy cô đâu giữa trăm vạn nẻo đường?
NGƯỜI ĐI DỆT ƯỚC MƠ
Chiều buông rộn tiếng ve ngân
Bước chân thầy bỗng chậm dần đường xưa
Một đời dệt thảm ước mơ
Để em có một tuổi thơ huy hoàng
Đò đầy gánh ước mơ sang
Đổ về bến hẹn vững vàng thầy trao
Thời gian tựa giấc chiêm bao
Quay đi ngoảnh lại đã vào tuổi ông
Cảm ơn bao ước mơ hồng
Dưỡng nuôi ý chí khó không chịu lùi
Hôm nay vững bước đường đời
Nhờ công thầy đã một đời bón chăm
CÔ GIÁO TRẺ
Hôm nay em trở lại trường
Để cùng các cháu mến thương của mình
Ra đi lúc sáng bình minh
Đường làng vắng vẽ ân tình tuổi thơ
Đi nhanh không kẻo trể giờ
Nông nông xe ít mình chờ chắc hơn
Lòng buồn vì quá cô đơn
Duyên tình chưa có tự hờn bản thân
Lúc nhỏ việc học chuyên cần
Đến khi tốt nghiệp mấy lần đổi nơi
Bây giờ chắc ổn định rồi
Năm nay sẽ có lứa đôi cùng về
Hè sau mình sẽ về quêLỜI CÔ GIÁO TRẺ
Sáng Thu gió thổi nhẹ nhàng
Một mình đến lớp đường làng em đi
Hôm nay chẳng khác mọi khi
Trong lòng vui vẽ mĩm chi nụ cười
Nhìn cô gương mặt rất tươi
Mới về đây dạy mọi người mến yêu
Dân quê tình nghĩa rất nhiều
Tôn sư trọng đạo là điều đương nhiên
Dạy con lễ nghĩa đầu tiên
Với bốn phép tính gắn liền với nhau
Không cần có địa vị cao
Tại vì thu nhập không sao đủ tiền
Số tôi chắc đã có duyên
Với đàn trẻ nhỏ vùng miền nông thôn
Cuộc sống khỏi phải bôn chôm
Việc làm ổn định tiếng thơm cho đời
Đò đưa không tính lỗ lời
Mỗi năm cứ thế đưa rồi lại đưa
Cái nghề không ngại nắng mưa
Cứ ngày hai buổi sớm trưa tới trường
Báo với cha mẹ tràn trề niềm vui
Rồi đây cha mẹ có sui
Năm sau có cháu của tui với bà
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Viết đoạn văn ngắn chứng minh câu tục ngữ: "Uống nước nhớ nguồn"
Giúp mình mới..............nhớ ngắn thui nhoe
Câu trả lời của bạn
Tục ngữ là một bộ phận trong kho tàng văn học dân gian, được xem là túi khôn của nhân loại, bởi vì đó là những bài học trí tuệ sâu sắc của người xưa được đúc kết bằng những câu nói ngắn gọn. Chúng ta có thể tìm thấy ở đấy những kinh nghiệm sống trong thực tế và những bài học về luân lý đạo đức. Ngay từ xa xưa, cha ông ta vẫn thường nhắc nhở thế hệ đi sau phải có tình cảm trân trọng biết ơn đối với những người đã tạo dựng thành quả cho mình. Lời khuyên nhủ ấy được gửi gắm trong câu tục ngữ giàu hình ảnh:
"Uống nước nhớ nguồn"
Chúng ta có suy nghĩ như thế nào khi đọc lời khuyên dạy của tiền nhân? "Nguồn" là nơi xuất phát của dòng nước, mạch nước từ núi, từ rừng ra suối, ra sông rồi đổ ra biển cả mênh mông, không bao giờ cạn. Thứ nước khởi thủy đó trong mát, tinh khiết nhất. Khi ta uống dòng nước làm vơi đi cơn khát thì phải biết suy ngẫm đến nơi phát xuất dòng nước ấy. Từ hình ảnh cụ thể như vậy, người xưa còn muốn đề cập đến một vấn đề khái quát hơn."Nguồn" có thể được hiểu chính là những người đã tạo ra thành quả về vật chất, tinh thần cho xã hội. Còn "uống nước" đó chính là sử dụng, đón nhận thành quả ấy. Câu tục ngữ nhằm khuyên nhủ chúng ta phải biết ơn những người đã tạo dựng thành quả cho mình trong cuộc sống.
Thật vậy, trong cuộc sống, không có hiện tượng nào là không có nguồn gốc, không có thành quả nào mà không có công lao của một ai đó tạo nên, tất cả mọi thành quả đều phần lớn do công sức lao động của con người làm ra. Ta không thể tự tạo mọi thứ từ đôi tay, khối óc của mình cho nên ta phải nghĩ đến những ai đã tạo ra nó. Mặt khác, người tạo ra thành quả phải đổ mồ hôi công sức, thậm chí phải chịu phần mất mát hy sinh. Trong khi đó người thụ hưởng thì không bỏ ra công sức nào cả, vì lẽ đó chúng ta phải biết ơn họ. Đó là sự công bằng trong xã hội.
Hơn nữa, lòng biết ơn sẽ giúp ta gắn bó với cha anh, với tập thể tạo ra một xã hội thân ái, kết đoàn. Cuộc sống sẽ tốt đẹp biết bao nếu truyền thống ấy được lưu giữ và xem trọng. Con người sống ân nghĩa sẽ được người khác quý trọng, được xã hội tôn vinh.
Ngược lại, thiếu tình cảm biết ơn, sống phụ nghĩa quên công, con người trở nên ích kỉ, vô trách nhiệm, những kẻ ấy sẽ bị người đời chê trách, mỉa mai, bị gạt ra ngoài lề xã hội và lương tâm của chính họ sẽ kết tội.
Bên cạnh đó, ta thấy "Uống nước nhớ nguồn" còn là đạo lí của dân tộc, là lẽ sống tốt đẹp từ bao đời nay cho nên thế hệ đi sau cần kế thừa và phát huy. Bài học đạo đức làm người ấy cứ trở đi trở lại trong kho tàng văn học dân gian: "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây", "Uống nước nhớ người đào giếng", "Đường mòn ân nghĩa chẳng mòn", "Ai mà phụ nghĩa quên công, thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm"...
Thật đáng chê trách cho những ai còn đi ngược lại với lẽ sống cao thượng ấy. Sống dưới mái ấm gia đình, có những người con vẫn chưa cảm nhận hết công sức của đấng sinh thành, họ thản nhiên tiêu xài hoang phí những đồng tiền phải đánh đổi bằng những giọt mồ hôi, nước mắt của cha mẹ, thậm chí còn có kẻ đã ngược đãi với cả những người đã tạo dựng ra mình. Dưới mái học đường, nhiều học sinh vẫn còn xao lãng với chuyện học hành. Đó là gì, nếu không phải là vô ơn với thầy cô? Trong xã hội cũng không ít kẻ "uống nước" nhưng đã quên mất "nguồn".
Câu tục ngữ là lời khuyên nhủ chân tình: con người sống phải có đạo đức nhân nghĩa, thủy chung, vừa là lời ca ngợi truyền thống đạo lí lâu đời của dân tộc Việt. Nó còn là hồi chuông cảnh tỉnh đối với ai đã đối xử một cách vô ơn bạc nghĩa với những người đã tạo ra thành quả cho mình hưởng thụ. Học tập câu tục ngữ này, cụ thể là phải biết ơn, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả những gì mà người khác tạo dựng. Là một người con trước hết ta phải biết khắc ghi công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, còn là một người học sinh, biết ơn công ơn dạy dỗ của các thầy cô giáo, sự giúp đỡ của tập thể lớp, trường. Sống trong cuộc đời, ta phải biết khắc ghi công ơn những ai đã cưu mang, giúp đỡ mình khi gặp hoạn nạn khó khăn. Suy rộng ra là con cháu vua Hùng, thuộc dòng dõi Lạc Hồng, ta phải biết tự hào về truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc. Thừa hưởng cuộc sống tự do, thanh bình phải biết khắc ghi công ơn của các anh hùng liệt sĩ, khi "bưng bát cơm đầy", ta phải cảm hiểu "muôn phần đắng cay" của những người nông dân... Không chỉ biết ơn đối với những lớp người đi trước, ta còn phải ý thức quý trọng giữ gìn những giá trị mà quá khứ đã tạo nên bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu, tiếp tục phát triển các thành quả của quá khứ. Nói như Bác: "Các vua Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Trong tương lai, hãy đem tài năng của mình ra xây dựng quê hương, hàn gắn vết thương chiến tranh đó chính là cách "trả ơn" quý báu nhất.
Đồng thời còn phải biết đấu tranh chống lại những biểu hiện vô ơn "ăn cháo đá bát", có thế xã hội sẽ tốt đẹp hơn. Mỗi con người sẽ sống chan hòa với nhau bằng những tình cảm chân thành hơn.
Qua việc sử dụng câu tục ngữ ngắn gọn, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh cụ thể mà ý nghĩa thật vô cùng sâu sắc, người xưa đã khuyên nhủ thế hệ đi sau phải biết nhớ ơn những ai đã tạo dựng thành quả cho mình trong cuộc sống để từ đó khéo léo nhắc nhở, cảnh tỉnh những kẻ còn có lối sống bất nghĩa vô ơn. Mặc dù trải qua bao thâm trầm của thời đại, ý nghĩa câu tục ngữ trên vẫn sống mãi với thời gian... Đọc lại lời dạy của tổ tiên, ta không khỏi tự nhủ với lòng mình. Không bao giờ trở thành kẻ sống thiếu trách nhiệm đối với xã hội, sống và làm việc xứng đáng với đạo lí và truyền thống dân tộc, sống chân thành trọn nghĩa trọn tình, có trước có sau.
Có ý kiến cho rằng truyện cổ đang đem đến cho ta những giấc mơ đẹp qua nhũng truyện cổ đã học em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên
Câu trả lời của bạn
Kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam vô cùng phong phú, mang vẻ đẹp nhân văn kỳ diệu. Là thần thoại, truyền thuyết hay cổ tích, tuy ra đời trong nhừng điều kiện xã hội khác nhau, nhưng tất cả đều phản ánh một cách đậm đà đời sống tinh thần và vật chất của cộng đồng, giải thích một cách hồn nhiên, chất phác các hiện tượng, nguồn gốc các sự việc quanh ta, ghi lại những thăng trầm, những biến cố lịch sử dân tộc qua bao huyền thoại bi hùng, tráng lệ. Có nhiều truyện cổ dân gian đã nói lên những khát vọng của nhân dân từ những thuở xa xưa về sức mạnh để chiến thắng mọi kẻ thù, ước mơ về ấm no, hạnh phúc. Đúng như có ý kiến cho rằng: Truyện cổ dân gian đem đến cho ta những giấc mơ đẹp.
Đọc truyện cổ dân gian, có lúc ta tưởng mình đang nằm mơ, gặp Thần Tiên, Bụt, Phật... Những giấc mơ đẹp ấy đối với tuổi thơ chúng ta thật là diệu kỳ, hạnh phúc. Truyện cổ dân gian như đã chắp cánh cho tâm hồn thơ bé chúng ta bay lên, để chúng ta được sống trong những khoảnh khắc thần tiên.
Thế giới các vị thần trong thần thoại đáng yêu. Ai đã một lần đến thăm núi Kinh Thiên ở tỉnh Hải Dương, dấu tích của thần Trụ Trời thuở hỗn độn mang lại đều có một cảm giác lâng lâng khó tả. Mỗi độ thu về, ngắm bầu trời xanh mênh mông, tôi lại mơ, lại nhớ, lại xôn xao trong lòng câu hát: Ông tát bể - Ông kể sao - Ông đào sông - Ông trồng cây - Ông xây rú - Ông trụ trời.
Và câu đồng dao:
Núi cao sông cũng còn dài
Năm... năm báo oán, đời đời đánh ghen?
Lễ vật Sơn Tinh dâng lên vua Hùng sao nhiều và quý hiếm thế? Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao... là những báu vật đâu dễ tìm, đâu dễ có? Núi Tản Viên cao chót vót ở phía tây kinh thành Thăng Long là dấu tích, là chiến công hoá phép "nâng núi lên" của Sơn Tinh bảo vệ người đẹp, đánh thắng Thuỷ Tinh. Sơn Tinh là ước mơ của người xưa muốn có sức mạnh và phép lạ để chiến thắng lũ lụt thiên tai. Sơn Tinh... cũng là giấc mơ đẹp cho em, cho bạn, cho tuổi thơ gần xa:
Núi Tản như con gà cổ đại
Khổng lồ, mào đỏ thắp bình minh Mênh mông gọi nắng cho mùa chín
Từ buổi Sơn Tinh thắng Thuỷ Tinh.
(Huy Cận)
Sẽ bất hạnh biết bao, nếu không được đọc, được nghe kể chuyện cổ? Sẽ hạnh phúc biết bao khi được nghe bà kể chuyện cổ tích? Vì đó là ngọn nguồn những giấc mơ đẹp tuổi thơ:
Chuyện con cóc, nàng tiên Chuyện cô tấm ở hiền Thằng Lý thông ở ác...
Mái tóc bà bị bạc
Con mắt bà thì vui
Bà kể đến muôn đời
Củng không sao hết chuyện...
(Xuân Quỳnh)
Chú Sọ Dừa chỉ có mắt, mũi..., không chân tay, chỉ biết lăn lông lốc mà không biết đi. Chú lại biết chăn bò giỏi. Chú tìm đâu ra mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm và một chĩnh vàng cốm để làm sính lễ cưới cô út xinh đẹp con gái phú ông? Sọ Dừa... chàng trai lịch sự,... quan trạng nguyên..., một sự hoá thân nhiệm mầu đã trở thành giấc mơ đẹp của nhân dân, của những con người nhỏ bé" bất hạnh trong cõi đời.
Con chim phượng hoàng biết nói, rất tình nghĩa với lời hứa: Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng; ông tiên râu tóc bạc phơ đã ban cho anh Khoai câu thần chú Khắc nhập! Khắc xuất!; ông Bụt và đàn chim sẻ, chiếc giày thêu với hình ảnh cô Tấm xinh tươi gặp Hoàng tử trong ngày hội..., tất cả đều trở thành mơ ước tuyệt đẹp của nhân dân ta từ bao đời nay về ấm no hạnh phúc, về một sự đổi đời, cổ tích thần kỳ đã nuôi lớn tâm hồn ta bằng bao nhiêu niềm tin, bao ước mơ đẹp:
Ta Lớn lên bằng niềm tin rất thật
Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời
Dẫu phải khi cay đắng dập vùi
Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu
Cây khế chua có đại bằng đến đậu
Chim ăn rồi trả ngon ngọt cho ta....
(Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm)
Truyện cổ dân gian, nhất là truyền thuyết, với các yếu tố kỳ diệu, bao sự tích và hình tượng thần kỳ đã trở thành những bài ca yêu nước tráng lệ đem đến cho ta nhiều giấc mơ đẹp. Cái vươn vai của Thánh Gióng, từ một chú bé lên ba bỗng trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Ngựa sắt phun lửa, Gióng vung roi sắt đánh cho lũ giậc Ân tơi bời. Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre làm vũ khí quật cho lũ giặc chết như ngả rạ. Đánh tan giặc,
Gióng đã bay về trời. Gióng là mơ ước của tuổi thơ Việt Nam ngàn đời:
Mỗi chủ bé đều nằm mơ ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hoá Đại Bàng
("Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?" - Chế Lan Viên)
Sự tích trăm trứng đã nhập hồn ta từ thuở trong nôi theo lời ru của mẹ. Lưỡi gươm khắc hai chữ "Thuận Thiên” là vật báu của Long Quân cho Lê Lợi mượn để đánh giặc Minh. Cái lẫy nỏ thần Kim Quy bắn một phát giết hàng van giặc. Triệu Quang Phục chống giặc Lương ở đầm Dạ Trạch được Rồng vàng tháo móng chân đem cho, và dặn: Cắm lên mủ đầu mâu, sẽ đánh đâu thắng đấy! Nhờ thế mà Triệu Quang Phục chém được đầu tướng giặc Dương Sằn, thu phục lại giang sơn.
Truyền thuyết lịch sử tuy mang yếu tố hoang đường nhưng nó đã diễn ra một cách bay bổng thần kỳ sức mạnh con người Việt Nam qua những chặng đường lịch sử vẻ vang. Ta lớn lên cùng truyền thuyết. Ta tự hào và yêu đất nước. Một đất nước có "nghìn núi trăm sông diễm lệ...". Một đất nước có Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên... oai hùng.
Chúng ta sinh ra và lớn lên -dưới trời xanh và hương lúa được nuôi dưỡng bằng tình thương của cha, bằng sữa mẹ, bằng sự dạy bảo của thầy giáo. Tiếng đàn bầu, khúc dân ca, câu thơ Kiều của Nguyễn Du.. đã trở thành mảnh tâm hồn mỗi chúng ta. Bạn có nghe tiếng gà gáy trên hoang đảo:
ò... ó ... o...
Phải thuyền quan trạng rước cô về?
Bạn còn có nhớ câu hát dân gian trong ngày hội Gióng:
Đứa thì sứt mủi, sứt tai
Đứa thì chết nhóc bởi gai tre ngà!
Thật vậy, truyện cổ dân gian đã đem đến cho ta những giấc mơ đẹp. Ta như nghe tiếng thầm thì của ông cha từ ngàn xưavọng nói về. Và ta càng yêu thêm truyện cổ. Một quyển sách ước. Một cây bút thần. Cái đàn thần và cái niêu cơm thần... của Thạch Sanh... đã trở thành mơ ước và hành trang trong tâm hồn mỗi em thơ.
Một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh và tài hoa mới có một kho tàng truyện cổ dân gian đậm đà hấp dẫn thế
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *