Bài giảng này sẽ đưa các em đến với những kiến thức trọng tâm về bài học Bài ca ngất ngưởng. Mong rằng các em sẽ nắm được một vài đặc điểm của thể thơ hát nói và hiểu được phần nào phong cách sống, bản lĩnh cá nhân của nhà thơ Nguyễn Công Trứ.
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng,
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc Bình tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
⇒ Là một quân tử, sống tự tin, bản lĩnh, kiên trì với lí tưởng
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không phật, không tiên, không vướng tục.
→ Thái độ thanh lạc, thỏa thích, phóng túng, tự do, xem nhẹ, coi thường được mất, hơn thua ở đời
⇒ Cuộc sống tự do tự tại, phóng khoáng vượt lên mọi thói tục của một bản lĩnh vững vàng, một nhân cách cứng cỏi → Là bậc tài tử phong lưu không ngần ngại khẳng định cá tính của mình
Chẳng Trái, Nhạc, cũng phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
⇒ Tự hào, sảng khoái, tự tin thể hiện cái tôi cá nhân
Đề: Nhận xét về từ "ngất ngưởng" được sử dụng trong bài thơ
Bài ca ngất ngưỡng là bài thơ được Nguyễn Công Trứ sáng tác khi vừa trả lại phong ấn để về quê nghỉ hưu. Bài thơ như một bảng tổng kết cuộc đời của tác giả với những sự "ngất ngưởng" của mình. Để nắm được những nội dung và nghệ thuật của bài thơ, các em có thể tham khảo thêm bài soạn: Bài soạn Bài ca ngất ngưởng.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Bài ca ngất ngưởng được Nguyễn Công Trứ sáng tác sau 1848 là năm ông cáo quan về hưu. Bài thơ có giá trị tổng kết cuộc đời của Nguyễn Công Trứ, cả trí tuệ, tài năng, cả cốt cách, cá tính và triết lí. Khúc ca trác tuyệt viết bằng thể Hát nói này là tài hoa và khí phách của “Ông Hi Văn”. Để cảm nhận được sự ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích cái tôi trong bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
- Phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
âu thơ Vũ trụ nội mạc phi phận sự được hiểu: Trong trời đất, không có việc gì không phải là phận sự của ta. Câu thơ đã thể hiện quan niệm của nhà nho đầy tự tin, tự hào vào tài trí và lí tưởng của mình, một phương diện quan trọng trong phong thái ngất ngưởng của nhà thơ.
Câu trả lời của bạn
1, Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, bài thơ
- Nội dung của bài hát nói
- Dẫn dắt đến yêu cầu đề bài
2, Thân bài
* Khái quát đầu:
- Nêu khái quát hoàn cảnh sáng tác bài thơ: viết sau năm 1848 sau khi NCT về hưu ở quê nhà Hà Tĩnh. Cuộc sống tự do tự tại không bị gò bó bởi những luật lệ chốn quan trường khiến tác giả đã vốn ngông nay càng ngông hơn nữa.
* Phân tích:
- Câu 1: khẳng định vai trò cấ nhân gánh vác mọi việc trong trời đất→ câu thơ chữ Hán thể hiện ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm của bản thân với thời cuộc.
- Câu 2: tự cho rằng việc mình làm quan là “vào lồng”→ hình ảnh ẩn dụ độc đáo chỉ cuộc sống giam hãm tù túng của một ông quan nhưng vẫn thể hiện được cái tôi đầy cá tính của bản thân. Tự xưng tên→ ý thức sâu sắc về cái tôi của mình giữa những cái ta chung chung đại khái (hs lí giải biết rằng làm quan là vào lồng nhưng với các nhà nho xưa kia đấy là một cách để thể hiện tài năng cứu nước giúp đời).
- Các câu tiếp theo: kể về các công trạng và thành tích trong suốt thời kì làm quan trong triều. Điệp từ khi, liệt kê, ngắt nhịp ngắn đã khẳng định những tài năng cụ thể, phong phú cuẩ nhà thơ. Nhà thơ không kể chi tiết tỉ mỉ những công trạng ấy mà chỉ điểm qua cũng đủ hiểu con người khiêm tốn không thích khoe khoang, hống hách của nhà thơ ( hs so sánh chỉ cần một cái khi của ông thôi, một số kẻ cũng đủ vênh váo huênh hoang cả cuộc đời). Ông khiêm tốn giản dị, biết mình biết ta, tràn đầy niềm tự hào, kiêu hãnh về tài năng, trí tuệ của bản thân.
→ Cuộc đời con người là hành trình đi tìm chính bản thân mình nhưng trong xã hội phong kiến không cho phép họ nhận thức khẳng định cái tôicá nhân. Trong thời đại ấy, thơ NCT là lời ngợi ca khẳng định cá tính của con người, đó là biểu hiện kín đáo của tính nhân bản , nhân văn trong ý thơ tác giả
- Ngất ngưởng cả khi về hưu: ý thức được tài năng, con người ngất ngưởng ấy còn ý thức được cả đức hạnh phẩm chất tốt đẹp của mình: không ngần ngại phô phang con người thật của mình “Đạc ngựa....” .Lối sống khác người, khác đời vô cùng độc đáo ấy nhằm tách mình ra khỏi bụi trần xô bồ xu nịnh tham danh hám lợi của thế gian. Cá tính ấy cũng là thái độ của nhà thơ khinh thị những kẻ a dua tầm thường giả dối. Mang theo các cô đầu lên chùa, Bụt cũng nực cười trước cảnh đó. Ai cười cũng mặc, ông ung dung trước những được mất của cuộc đời trước những khen chê của thế gian; Dù sống sao đi nữa ông Hi Văn vẫn dặn lòng mình “Nghĩa vua tôi...”. Giữ được cá tính nhưng vẫn hòa nhập vào cái chung đó là bản lĩnh là vẻ đẹp của sự tự tin hiếm có trên đời.
→ Những từ láy, tượng hình, điển tích, điển cố, cách ngắt nhịp, sự liên tưởng độc đáo tất cả góp phần bộc lộ lối sống phong cách sống khác người vượt ra khỏi khuôn khổ xã hội, khẳng định bản lĩnh cá nhân trong cuộc sống; thể hiện tâm hồn phóng khoáng, tự do, trẻ trung; một nghệ sĩ đam mê nghệ thuật ca trù, nghệ sĩ tài hoa, một nhà nho thanh cao chân chính.
( So sánh với khí tiết như cây mai cây tùng của Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến; cá tính bản lính như Cao Bá Quát, Trần Tế Xương).
* Khái quát cuối:
- Đánh giá khái quát nội dung đã trình bày ở trên
- Liên hệ bản thân hoặc rút ra bài học trong cuộc sống về lối sống ngất ngưởng
3, Kết bài
* Viết đoạn kết bài
Nhắc đến Nguyễn Công Trứ là nhắc đến một cá tính có một không hai trong nền văn học VN. Thơ Nguyễn Công Trứ luôn ngất ngưởng một cái tôi ngạo nghễ song không hề tách rời cuộc sống đời thường. Bài ca ngất ngưởng đã chứng minh vẻ đẹp trong lối sống tự tại, thấu tỏ lẽ đời ấy.
Câu trả lời của bạn
Bài thơ gửi gắm đến người đọc thông điệp: Hãy sống thật với lòng mình: Phóng khoáng, rộng mở. Sống có trách nhiệm với cuộc đời bằng bằng sự hiến dâng nhiệt tình cho lý tưởng.
Câu trả lời của bạn
Ngất ngưởng:
- Nghĩa đen: Vị trí cao, không vững.
- Nghĩa văn chương: Chỉ một lối sống khác người, khác đời, luôn đặt mình lên trên thiên hạ, bất chấp khuôn phép, lề thói.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Xuất hiện vào những năm cuối của thế kỉ XIX Dương phụ hành của Cao Bá Quát và Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ đã ghi được những dấu mốc trên tiến trình văn học trung đại Việt Nam, được coi như một sự vượt rào về thi pháp, một báo hiệu về thời cận đại.
Nói đến văn học trung đại là nói đến tính phi ngã và tính quy phạm. Từ trước đến nay chúng ta đều quan niệm tính quy phạm của dòng văn học trung đại là một bức thành kiên cố. Nó đã bó buộc, giam hãm nguồn cảm xúc của thi nhân, không để cho nguồn cảm xúc ấy tuôn trào một cách tự nhiên dù nó là một tình cảm nhân bản rất con người. Rất ít nhà thơ thời kì này nhận thức được đúng đắn những hạn chế đó. Dòng cảm xúc trong con người họ đã bị ức chế, bị dồn nén và bị uốn theo một lối mòn “muôn thuở”. Nhưng đã có những con người không đi theo vết xe của người đi trước, họ đã tìm đến những lối rẽ mới, thể hiện đầy đủ hơn tính người và rõ nét hơn bản ngã của cá nhân. Vì thế khi Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) và Dương phụ hành (Cao Bá Quát) ra đời đã mang đến cho ta những tư tưởng tình cảm mới, cách nhìn mới từ xưa đến nay chưa mấy ai khơi nguồn.
Ngược dòng thời gian trở về với lịch sử của dân tộc dưới chế độ phong kiến, chúng ta nhận thấy có một lớp sương mờ đang bao trùm lên khắp bầu trời và xã hội Việt Nam. Con người ấy, xã hội ấy cứ bình lặng trôi xuôi, không có một sự cựa quậy, phản kháng, khẳng định cá tính. Chế độ phong kiến không công nhận cá nhân, tỏa chiết những tình cảm tự nhiên của con người trong vòng kim cô của lễ giáo và tôn ti trật tự. Nhưng khi thưởng thức cái âm hưởng hùng mạnh trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, chúng ta thấy ông cha ta không phải ai cũng chịu cúi đầu. Trong bài thơ ta thấy nổi cộm lên cá tính của một tâm hồn tự do phóng khoáng, thích nói đến bản thân mình, kể cả những cái riêng nhất, cái mà dòng văn học trung đại không bao giờ đề cập đến. Mở đầu bài thơ Nguyễn Công Trứ đã khẳng định một cách hùng hồn vai trò của mình:
“Vũ trụ nói mạc phi phận sự”
Đâu còn tư tưởng vô vi của Lão - Trang. Lòng nhiệt tình, niềm say mê với công việc và trách nhiệm đã giúp ông ý thức được vai trò của mình trong cuộc đời, trong xã hội. Ở đây ta bắt gặp một hình ảnh của thiên nhiên: đó là vũ trụ - một hình ảnh quen thuộc và chiếm ưu thế trong thơ ca trung đại. Nhưng không gian vũ trụ trong câu thơ này lại không chiếm lĩnh tất cả. Tồn tại song song với nó còn là không gian xã hội - mà ở đây chính là vai trò cá nhân của tác giả. Nguyễn Công Trứ không trở về với không gian tình tại, với mây ngàn bạc nội, núi cao suối vắng, trầm tư sau lũy tre làng hoặc lặng lẽ bên luống cúc, thư trai mà với bản lĩnh và ý thức về trách nhiệm của mình, ông đã hòa mình vào cái náo nức hồ hởi, cái vòng đời đang lăn chuyển trong xã hội. Rõ ràng trong cái thế thừa đã bước đầu có sự cách tân, dọn đường cho một phong cách nghệ thuật mới sinh động nảy nở…
Sau khi thể hiện mình một cách tổng quát nhất, cái “tôi” đã bắt đầu khoa trương về cuộc đời, về những lần thi thố tài năng của mình với một giọng thơ say mê nhiệt huyết. Lời thơ dài ngắn khác nhau, ngắt nhịp theo lời kể và đặc biệt là với cách dùng từ “khí”, Nguyễn Công Trứ đã khắc họa một cách chính xác, đàng hoàng về tài năng của mình. Khi Nguyễn Công Trứ viết: “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”, ta thấy nảy sinh ra một mâu thuẫn. Bản thân ông tự thấy mình cần phải có phận sự đối với trời đất, có trách nhiệm với cuộc đời. Vậy mà khi làm quan, khi mà ông có điều kiện để thể hiện rõ nhất phận sự của mình thì ông lại cảm thấy bị như bị vào “lồng”. Nguyễn Công Trứ đã gọi việc ra làm quan tựa như một cái “lồng”. Một hình ảnh thật mới mẻ, thật táo bạo. Thời ấy ai dám nói như Nguyễn Công Trứ bởi việc ra làm quan tuy có nhiều ràng buộc song nó vẫn là đối tượng của sự tôn kính, ngưỡng vọng của người đời… “Vào lồng” rồi ông vẫn tiếp tục chơi ngông.
“Gồm thao Xược đã nên tay ngất ngưởng”
Giọng văn hơi khoa trương mà không hề gây khó chịu bởi nhà thơ rất có ý thức về tài năng và phẩm hạnh của mình. Cá tính của nhà thơ còn xuyên suốt khắp bài thơ, nó như một đốm sáng làm cho giá trị của tác phẩm thêm rực rỡ lung linh. Nguyễn Công Trứ là một con người của tự do, một tâm hồn phóng khoáng và ưu hoạt động. Chính vì thế khi bị giam chân vào trong cái “lồng” của xã hội thì cũng là lúc ông có dịp để thể hiện cái “ngất ngưởng” của mình rõ hơn cả. Nhưng chế độ phong kiến hà khắc đã không dung nạp cái thói ngạo nghễ, khinh đời đầy ý thức cá nhân của ông. Song Nguyễn Công Trứ không hề cúi đầu khuất phục mà cái “ngất ngưởng” trong ông lại như có động lực thúc đẩy để phát triển lên tới đỉnh cao của cá tính. Khác hẳn với cái ta chung chung, mang tính chất tập đoàn, Nguyễn Công Trứ đã tự xưng danh, biến cái ta thành cái tôi, thành lẽ sống cho bản thân mình.
“Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”
Có lẽ khi ra làm quan, cá tính của Nguyễn Công Trứ phần nào vẫn bị chế độ phong kiến chi phối, lấn át nên bây giờ khi đã thôi làm quan thì cá tính kia mới bộc lộ một cách đầy đủ nhất, mãnh liệt nhất bởi không có gì ràng buộc. Việc cho bò đeo nhạc ngựa thời ấy đã là ghê gớm lắm rồi, vậy mà khi đến nơi cửa phật ông còn mang vài cô “Kiều” mà ông tả là “gót tiên đủng đỉnh”. Mức độ ngang tàng giờ đây đã phát triển lên đỉnh cao và nhà thơ của chúng ta đã quên đi hết thảy những ràng buộc cấm kị của thi pháp trung đại, cái thú vị hành lạc của nhà thơ bắt đầu thể hiện. Ông đã từng nói “cuộc hành lạc chơi đâu là lãi đấy”.
Thi pháp văn học trung đại trong “Bài ca ngất ngưởng” và “Dương phụ hành” Nguyễn Công Trứ đã xé rào thi pháp văn học trung đại lúc nào cũng không biết. Tư tưởng của nhà thơ là một tư tưởng cách tân mang đậm dấu ấn thời đại bởi nó không chỉ là sự cách tân bằng văn hóa mà bằng cả cuộc đời ông đang sống. Sự thoát li với thế lực còn thể hiện ở câu thơ:
“Kia núi nọ phau phau mây trắng…”
Sức chiếm lĩnh của không gian lên cao của thi pháp trung đại không phải là nhạt nhòa trong phong cách thơ của nhà thơ. Lên cao để mà thoát tục, xa lánh bụi trần là một sở thích của thi nhân thời xưa. Nguyễn Công Trứ cũng muốn hòa mình vào thiên nhiên cao rộng để cho lòng thêm thanh thản sáng trong.
Có thế nói cá tính ngông của Nguyễn Công Trứ thể hiện đầy đủ nhất, toàn diện nhất khi ông viết câu thơ:
“Được mất dương dương người tái thượng”
Điển cố một lần nữa trở lại với thơ ông. Rõ ràng sức nặng của thi pháp trung đại vẫn chiếm lĩnh tư tưởng của nhà thơ. Nhưng ta vẫn thấy cái gì đó mới mẻ lớn lao đằng sau cái “dương dương” tự đắc của Nguyễn Công Trứ vậy.
Nguyễn Công Trứ tuy đã có sự ngấp nghé vượt rào thi pháp trung đại nhưng ông vẫn luôn ý thức được cái gì cần phải có và quay trở về với quỹ đạo của cương thường, có khi đến mức tôn thờ:
“Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”
Văn học trung đại đã có nhiều trang viết về đạo trung quân. Nguyễn Công Trứ đã đi theo con đường đó để kế thừa và thể hiện cái đạo cao quý trong con người của mình. Rồi sau đó ông lại viết: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”. Nhà thơ xưng “ông” với thiên hạ, với cuộc đời, không ngại ngùng dè dặt mà vẫn hiên ngang. Rõ ràng cái “ngất ngưởng” ở đây đã trở thành một hình tượng tự thuật độc đáo, có ý vị hài hước. Nhưng đàng sau nụ cười đó lại là một thái độ, một quan niệm nhân sinh ít nhiều mang màu sắc hiện đại bởi nó đã đề cao vai trò cá nhân với sự khẳng định cá tính, không đi theo con đường chính thống sáo mòn trong đó chỉ có hình ảnh tập đoàn cùng những giáo điều khô khan, còn quyền sống của con người bị che lấp vùi dập.
Nguyễn Công Trứ đã vượt lên trên cái đó với một phong cách nghệ thuật nỗi bật. Ông đã dùng hình tượng phi chính thống, nói nhiều đến cái tôi, bước đầu phá vỡ tính quy phạm của văn học trung đại. Nhìn chung Nguyễn Công Trứ đã vượt xa thời đại của ông rất nhiều.
Nếu chỉ có mình Nguyễn Công Trứ dám vượt rào thi pháp văn học trung đại thì sự cách tân kia cũng chưa phải là đáng kể. Cùng với Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát một lần nữa đã làm cho “hàng rào” của thi pháp trung đại bị đẩy lùi, bị lung lay. Nếu như Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ đem lại cho ta một tâm trạng hồ hởi, náo nức thì Dương phj hành lại len vào trong hồn ta với một chất tình man mác, tràn đầy tính nhân văn, nhân bản. Bài thơ đã khắng định, đã đề cao những tình cảm riêng tư của con người. Đó là một nguồn cảm hứng rất đổi thân thuộc đối với thi nhân nếu như họa không bị thi pháp văn học trung đại phong tỏa. Đọc bài thơ ta như lạc vào một miền đất mới mà trên đó nảy sinh biết bao tâm tư tình cảm của con người, vẫn là một bài hành - một thể loại phổ biến của thi pháp trung đại cùng với không gian lữ thứ của một chủ thể trữ tình li hương song bài thơ lại được tác giả thổi vào một cái nhìn mới lạ, mang đậm tính nhân văn cao đẹp. Sự cách tân đã bước đầu thế hiện:
“Thiếu phụ Tây Dương áo trắng phau”
Người thiếu phụ phương Tây hiện ra với một cái nhìn trân trọng và trìu mến của tác giả. Lịch sử văn học đã mấy ai dám đưa hình ảnh người phụ nữ vào trong văn thơ táo bạo như Cao Bá Quát, mà lại là hình ảnh người đàn bà phương Tây đầy xa lạ. Ông nói thẳng vào điều mình nhìn thấy, không vòng vo, không còn những ước lệ đặc trưng dành cho người con gái như trong thơ Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều. Cái đập vào mắt nhà thơ đầu tiên là trang phục màu trắng của người thiếu phụ. Cao Bá Quát đã mở hồn mình ra để cho cái màu trắng tinh khiết trang nhã kia in vào, xâm chiếm lấy con người tác giả. Người đàn bà kia không chỉ cuốn hút nhà thơ bằng trang phục khác xa với người con gái phương Đông mà những hành động cử chỉ của bà ta với chồng đã thực sự làm cho tâm hồn nhà thơ rung động, cảm hứng thơ trỗi dậy mãnh liệt:
“Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu…”
Sự hà khắc của những điều khó khăn trong chế độ phong kiến đã trói buộc tình cảm con người, đã không để nó phát sinh một cách tự nhiên. Tuy vậy hình ảnh đôi vợ chồng kia đối với nhà thơ không hoàn toàn lập dị. Một thoáng ngạc nhiên để rồi thay vào đó là một cái nhìn đầy thiện cảm, không tỏ ý bất động. Đâu còn thấy hình ảnh người phụ nữ Việt Nam e lệ, kín đáo bên người chồng và nguyện là người “nâng khăn sửa túi”, “cử án tu mi” suốt cuộc đời. Những cái đó giờ đây đã trở thành bảo thủ lạc hậu vì nó không đề cao sự bình đẳng trong quan hệ giữa người với người, đặc biệt là quan hệ vợ chồng. Câu thơ này chứng tỏ Cao Bá Quát đã có một cái nhìn thật tinh tế và tiến bộ. Những điều mới lạ vẫn tiếp tục dâng trải trước mắt nhà thơ:
“Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy”
Lòng ta cũng cảm thấy lâng lâng, lan tỏa một niềm vui trước những cử chỉ tự nhiên gần gũi của đôi vợ chồng nọ. Và khi đó chúng ta nhìn về quê hương xứ sở của mình bấy giờ mới cảm thấy sao mảnh đất đó lại xa vời, khắc nghiệt quá vậy. Kể cũng đúng bởi những tình cảm rất con người kia không bao giờ nảy nở trực tiếp, nó đã bị những giáo điều khô khan của chế độ phong kiến chèn ép làm thui chột. Tư tưởng đó đã ảnh hưởng mãnh liệt đến các trang thơ. Tính quy phạm quả là hạn chế. Nhưng đến thời Cao Bá Quát thì một lần nữa nó lại bị phá tung ra và ít nhiều ảnh hưởng đến dòng văn học hiện đại sau này. Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta có được một phong cách đầy mới mẻ và hấp dẫn mà bởi chính nhà thơ đã phần nào thấm ý thức được cách nhìn của mình, một sự cách tân độc đáo vượt xa thời trung đại. Người con gái phương Đông đang sống trên quê hương tác giả nhút nhát, e dè bao nhiêu thì “thiếu phụ Tây Dương” kia lại bạo dạn tự nhiên bấy nhiêu và điều quan trọng là giữa hai vợ chồng đó phải có một sự bình đẳng gần như tuyệt đối thì người vợ mới có thể nũng nịu đến như vậy. Khả năng cảm nhận của nhà thơ cũng thật nhạy cảm, tinh tế, chính vì vậy nên khi đứng trước những cử chỉ thân mật âu yếm của đôi vợ chồng nọ, nhà thơ của chúng ta không hề là gỗ đá mà tâm hồn đã bắt đầu xao động, từ sự ngạc nhiên đồng cảm đến nỗi niềm tủi thân của người xa quê hương, xa gia đình:
“Biết đâu đến khách biệt li này?”
Chủ thể trữ tình đã hiện ra. Biết bao cảm xúc đang dồn nén giờ đã bật tung ra từng câu chữ, dường như để trách móc mà lại như để tìm kiếm một tâm hồn đồng cảm để giải bày… Cảm nhận của văn học trung đại là cảm nhận trên cái toàn thể, cái ta trữ tình, những câu thơ về tình yêu, về tình vợ chồng thật hiếm. Cao Bá Quát đã vượt qua cản đó để đến với người đọc bằng một cái “tôi” trữ tình đầy tính nhân văn. Tuy Cao Bá Quát thể hiện nỗi nhớ người thân của mình (ở đây chính là người vợ tào khang nơi quê nhà) vẫn chưa dám bộc bạch thẳng mà thể hiện qua yếu tố khách quan, đi từ ngoại cảnh và để ngoại cảnh tác động đến lòng người. Song đọc bài thơ ta thấy thấp thoáng hiện lên một sự chuyển biến về cảm thức tiến bộ của tác giả. Bài thơ thể hiện một nỗi khát khao hạnh phúc của chính bản thân tác giả cũng như của tất cả mọi người. Đây là một chủ nghĩa nhân văn hết sức cao đẹp mà Cao Bá Quát đã đề cập tới.
Bài thơ kết thúc ở đây nhưng những dư âm của nó vẫn âm vang mãi trong lòng người. Nó như một “kì quan” đối với con người lúc bấy giờ, bởi nó đã mở ra một thế giới mới, một thế giới riêng tư, thế giới của tình yêu.
Hơn một thế kỉ đã trôi qua kể từ ngày Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát ra đi nhưng sự nghiệp văn thơ của hai ông vẫn còn, đặc biệt là Bài ca ngất ngưởng và Dương phụ hành đã vượt qua sức cản phá của thời gian. Bởi vì về mặt tư tưởng, nó có ý nghĩa nhân văn, về văn học, nó có ý nghĩa cách tân. Nó đã đem vào văn học một tiếng nói mới, tiếng nói của cá nhân, tiếng nói của cá tính. “Phong cách ấy là con người” (Buýtphông). Nguyễn Công Trứ với cá tính ngang tàng đã tạo nên một phong cách rất riêng trong nghệ thuật. Còn Cao Bá Quát với bút pháp đằm thắm chất nhân văn đã mang đến cho cuộc đời những tình cảm nhân bản cao đẹp, những tình cảm riêng tư thầm kín. Với những phong cách ấy, tính quy phạm của dòng văn học trung đại dần dần bị phá vỡ để thay vào đó là “cái tôi” đòi khẳng định. Nó như báo hiệu sự ra đời của một dòng văn học hoàn thiện hơn, gần người hơn, nền văn học mang trong mình một chủ nghĩa nhân văn mới” Nền văn học hiện đại Việt Nam.
Câu trả lời của bạn
Trong xã hội phong kiến, cái tôi cá nhân, bản thân nó không được xem là một giá trị đáng coi trọng, thì trên bầu trời văn học trung đại Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX xuất hiện một nhà thơ với cái tôi cá nhân hết sức rõ ràng. Đó là Nguyễn Công Trứ với tác phẩm Bài ca ngất ngưởng.
Bao trùm toàn bộ bài thơ là lối sống ngất ngưởng, khinh đời ngạo thế của tác giả. Những điều kiện lịch sử thời Nguyễn Công Trứ không cho phép đất nước chuyển sang một thời kỳ mới. Vậy là tính cách thì lớn nhưng khuôn khổ vẫn chật hẹp. Nguyễn Công Trứ tuy nhiên với một thứ khuôn phép chuẩn mực của xã hội đẳng cấp phong kiến đã trở thành trái tự nhiên, phi đạo lý bằng những vần thơ ngang ngược, oái oăm, bằng cái tôi ngông nghênh, ngất ngưởng đầy kiêu ngạo của mình:
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng. Được mất dương dương người tái thượng, Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Bao trùm bài ca là hình tượng con người ngất ngưởng. Nhưng đó không phải là cái ngất ngưởng của người gàn dở, hợm mình và hợm người mà là cái ngất ngưởng của một con người đầy tự tin và bản lĩnh. Con người ấy ý thức rất rõ về tài năng và phẩm giá của mình. Cái ngất ngưởng rất Nguyễn Công Trứ không phải là kiểu sống ngất ngưởng thông thường mà là một lối sống độc đáo, một vẻ đẹp ngang tàng, phóng túng của một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
Thái độ sống ngất ngưởng của ông không chỉ lúc làm quan ‘Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông’ mà ngay cả khi rũ áo từ quan, thái độ ấy càng thêm đậm nét. Ông ngất ngưởng trong cung cách sống. Một cách sống khác người, Nguyễn Công Trứ cưỡi bò, đeo nhạc ngựa ung dung trong tư thế:
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Nguyễn Công Trứ vốn là quan võ quyền sinh sát trong tay, khi đã tháo cũi sổ lồng trở nên từ bi. Và càng độc đáo hơn nữa ngất ngưởng hơn nữa, đủng đỉnh một đôi dì đi thăm chùa chiền trong tâm trạng hết sức thảnh thơi. Nguyễn Công Trứ còn khác người hơn nữa, dẫn theo vài cô đầu đi cùng mình đến nơi vốn chỉ dành cho nam nhi. Có phải nhìn thấy cảnh tượng đó mà Bụt cũng bật cười. Bụt cười, hay người đời cười cái sự ngất ngưởng của mình.
Thái độ khinh đời ngạo thế của ông còn được thể hiện rất rõ ràng trong quan niệm được mất và sự lạc quan bình thản trước cuộc đời:
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Trong xã hội phong kiến, một xã hội đầy những khuôn mẫu, lễ nghi hết sức chặt chẽ, quan niệm về cách sống hết sức ngông nghênh, ngất ngưởng rất Nguyễn Công Trứ quả là một sự thách thức, chọc ghẹo cuộc đời. đường như ông muốn chống lại sự vùi dập và bóp nghẹt cái tôi cá nhân của xã hội phong kiến.
Cái vẻ đẹp ngất ngưởng từ bài ca và cuộc đời Nguyễn Công Trứ đã trở thành một cách sống, một mẫu hình in đậm trong các nhà thơ sau này. Ta còn gặp lại cốt cách ấy, hình bóng của ông ở một Tản Đà, một Nguyễn Tuân và một Tú Xương sau này.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Công Trứ, cái tên thật sự quen thuộc và gần gũi mà từ xưa đến nay vẫn được bao người dân Việt Nam nhắc đến như một sự biết ơn trân trọng về công lao khai phá ra hai vùng đất trù phú: Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Song không vì thế mà ta có thể quên đi một Nguyễn Công Trứ, nghệ sĩ tài hoa, một nhân cách đã khẳng định được cái bản ngã của chính mình, để từ đó định hình nên một tính cách, một bản lĩnh trong cuộc sống và sáng tạo nghệ thuật. “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ sẽ cho ta thấy rõ cái bản lĩnh riêng không thể trộn lẫn ấy của ông.
Theo “Từ điển Tiếng Việt’’, ngất ngưởng được hiểu là ở thế không vững lắc lư, nghiêng ngả như chực ngã. Tuy nhiên hai chữ ngất ngưởng trong bài thơ này của Nguyễn Công Trứ cần được hiểu theo một cách khác, ở đây ngất ngưởng cần hiểu gắn với một cách sống, một thái độ sống. Có như vậy ta mới có thể hiểu được về con người Nguyễn Công Trứ - một con người có lối sống khác người, bất chấp mọi thế lực ở đời, một lối sống được khẳng định bằng chính tài năng tuyệt vời.
Toàn bộ bài thơ không chỉ là sự cắt nghĩa lí giải về cái sự ngất ngưởng của chính mình, mà nó còn được xem như là một lời tự thuật về cuộc đời, là niềm tự hào về con người có công dài, tiền tài, đồng thời cho ta thấy một phong cách lối sống tài tử phóng khoáng của Nguyễn Công Trứ.
Mở đầu bài thơ là lời khẳng định về quan niệm sống của một đấng làm trai:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự.
(Mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không là phận sự của ta).
Câu thơ vang lên chắc nịch, khẳng định một cách mạnh mẽ và tự hào về quan niệm làm trai của Nguyễn Công Trứ. Đây là một quan niệm cho thấy Nguyễn Công Trứ luôn luôn ý thức được về bản thân mình, đồng thời luôn xác định được vị trí của mình trong cuộc đời. Điều này có được từ một kẻ sĩ có tài. Tuyên ngôn này của Nguyễn Công Trứ đã được khẳng định như một chân lí và trở đi trở lại như một mệnh đề quen thuộc trong thơ ông.
Vũ trụ giai ngô phận sự
(Những việc trong vũ trụ đều thuộc phận sự của ta - Nợ tang bồng).
Hay trong bài Gánh trung hiếu, Nguyễn Công trứ cũng đã khẳng định:
Vũ trụ chức phận nộ
(Việc trong vũ trụ là chức phận của ta)
Nói như vậy để ta khẳng định rằng Nguyễn Công Trứ luôn luôn xác định cho mình một quan niệm sống tích cực, đồng thời càng cho thấy rõ sự tự ý thức về bản thân của chính tác giả.
Chính vì luôn luôn có ý thức về vị trí của chính mình trong trời đất mà Nguyễn Công Trứ không ngại ngùng khẳng định về chí làm trai, tác giả lần lượt chứng minh cho người đọc thấy được tài năng và bản ngã của chính mình:
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Nguyễn Công Trứ đã tự xưng danh, đồng thời khẳng định tài bộ (tài năng lớn, nhiều mặt) của bản thân với những thực danh: Thủ khoa, tham tán, Tổng đốc Đông. Câu thơ được ngắt nhịp ngắn đều, chậm rãi cùng với việc sử dụng điệp từ khi tạo nên một lối nói khẳng định đầy sự tự hào.
Tuy nhiên hiện lên trong bài thơ không chỉ là một Nguyễn Công Trứ thiên tài, mà còn là một Nguyễn Công Trứ có tài kinh bang tế thế:
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Như vậy đến đây chúng ta có đầy đủ cơ sở để khẳng định một con người có tài năng thực sự và luôn luôn ý thức được về tài năng của chính bản thân mình. Đây cũng chính là sự khẳng định bản ngã của Nguyễn Công Trứ, là một phần trong phẩm chất mà ông tự hào gọi là tay ngất ngưởng. Để từ đó ta có thể hiểu ngất ngưởng theo một nghĩa tích cực, trong đó có sự khẳng định bản ngã của chính mình.
Một Nguyễn Công Trứ có tài, có thực danh như vậy, ấy mà khi trờ về đời thường lại là một tay ngạo nghễ giễu đời:
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Cho nên ông không ngại ngùng bày tỏ một cách sống thật khác người, khác đời:
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đinh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Là một nhà nho, từng là một danh tướng, từng xông pha trận mạc ấy vậy mà lại sống cuộc sống bình dị nên dạng từ bi. Tuy nhiên cái lối sống ấy của Nguyễn Công Trứ lại chẳng bình thường một chút nào: đi vãng cảnh chùa mà: “gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì” phải chăng ông đang bất chấp cuộc sống, đang giễu cợt sự đời, có lẽ hiểu biết như vậy còn phiến diện. Bởi sinh thời Nguyễn Công Trứ là một người biết chơi theo quan niệm sống hết mình và chơi cũng hết mình. Trong trần hoàn mấy mặt làng chơi... Biết mùi chơi chưa dễ mấy người hay ông từng tuyên bố Nếu không chơi thiệt ấy ai bù... Vậy cũng có thể hiểu đây là một lối sống phóng túng, không chịu gò bó. Câu thơ được Nguyễn Công Trứ miêu tả bằng nụ cười hóm hỉnh, nhiều tự hào của tác giả, phải chăng là cười cho sự khen chê của thiên hạ, có lẽ là cả hai điều đó, bởi một điều thật đơn giản.
Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Với Nguyễn Công Trứ một khi đã thoát khỏi vòng danh lợi thì những chuyện được mất, khen chê ở đời xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông thổi qua mà thôi. Điều này chỉ có được khi người ta có bản lĩnh tự tin về tài năng của mình. Đó cũng chính là cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong đó chứa đựng hạt nhân của phong cách sống phóng túng, hiếm thấy của ông. Chính vì vậy mà ông có được cuộc sống thanh cao vui vẻ:
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Câu thơ được ngắt nhịp hai, kết hợp với lối diễn đạt trùng điệp tạo cho câu thơ chậm rãi, qua đó lột tả được phong thái ung dung yêu đời, thanh cao của nhà nho Nguyễn Công Trứ.
Thái độ sống như vậy của ông có được từ con người luôn tự tin vào bản thân mình, luôn ý thức được bản thân.
Sự phô bày bản ngã được bộc lộ rõ nét một cách cực độ ở khổ thơ cuối:
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo xơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Nguyễn Công Trứ đã tự khẳng định mình là con người trung thần, làm tròn đạo vua tôi, điều này góp phần khẳng định thêm quan niệm về chí làm trai của tác giả ở đầu bài thơ. Bằng lối so sánh với những bậc anh hùng như Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật... của đời Hán, Tống bên Trung Quốc. Tác giả đã khẳng định tài năng và công lao của mình một cách đĩnh đạc hào hùng. Cũng có thể xem đó là những lời nói đầy tự hào về bản thân của chính tác giả. Để từ đó Nguyễn Công Trứ ngạo nghễ tuyên bố: Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Như vậy đến đây hẳn chúng ta đã hiểu cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ. Đó chẳng phải là cái gì khác mà chính là thái độ, cách sống của một nhà nho tài tử. Nguyễn Công Trứ có được điều đó xuất phát từ tài năng, thực danh, từ sự làm tròn bổn phận. Vậy cái ngất ngưởng của ông không phải tiêu cực mà sự khẳng định bản thân của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa tài tử.
Cùng với những bài thơ khác như Đi thi tự vịnh, Chí làm trai, Nợ tang bồng, Gánh trung hiếu... Bài thơ Bài ca ngất ngưởng đã một lần nữa vẽ rõ nét chân dung của nhà thơ. Đây chính là phong cách sống, phong cách nghệ thuật của con người và của thơ Nguyễn Công Trứ - phong thái ngất ngưởng.
Câu trả lời của bạn
Bài thơ được làm theo thể ca trù.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Công Trứ biết làm quan và mất tự do. Ông coi chốn quan trường là cái lồng giam hãm con người (Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng). Thế nhưng ông vẫn ra làm quan vì ông quan niệm đó là nơi để thể hiện tài năng và nhiệt huyết cho xã hội, cho triều đình, cho đạo vua tôi nên ông có quyền ngất ngưởng nhất trong triều. Vì ông coi việc làm quan là một điều kiện, một phương tiện để thể hiện hoài bão vì dân vì nước và tài năng của mình. điều quan trọng là trong một môi trường có nhiều trói buộc, ông vẫn thực hiện được lí tưởng xã hội của mình và vẫn giữ được bản lĩnh, cá tính.
Câu trả lời của bạn
- Từ “ngất ngưởng” trong từng văn cảnh sử dụng:
+ Trước hết là tác giả ngất ngưởng trong thực hiện chức phận làm quan của mình. Có được phong cách ngạo nghễ như vậy là vì tác giả có tài năng thực sự, không chấp nhận luồn cúi để tiến thân.
+ Từ ngất ngưởng thứ nhất chỉ sự thao lược, tài năng của Nguyễn Công Trứ.
+ Từ ngất ngưởng thứ hai chỉ sự ngang tàng của tác giả ngay khi làm dân thường.
+ Từ ngất ngưởng thứ ba khẳng định cái hơn người của Nguyễn Công Trứ là dám thay đổi, thích nghi với hoàn cảnh, từ một viên tướng tay kiếm cung oanh liệt, có thể hiền lành như một kẻ tu hành, nhưng còn hơn người là việc đem cả gái hầu vào chốn chùa chiền.
+ Từ ngất ngưởng thứ tư cho thấy tác giả hơn người là vì dám coi thường công danh phú quý, coi thường cả dư luận khen chê, thỏa thích vui chơi bất cứ thú gì, không vướng bận đến sự ràng buộc thân phận.
+ Từ ngất ngưởng cuối cùng chính là sự đánh giá của tác giả về con người mình. Hai điều quan trọng nhất với đấng nam nhi là kinh bang tế thế và đạo vua tôi. Điều đáng chú ý là ở bất kì vị trí nào, làm sao để cuộc sống có ý nghĩa nhất. Phải dung hòa được cả bổn phận, quyền lợi và hưởng thụ thì mới là kẻ ngất ngưởng nhất trên đời.
- Trong bài “Bài ca ngất ngưởng”, vì sao Nguyễn Công Trứ lại tự cho mình là ngất ngưởng?
- Ông đánh giá sự ngất ngưởng của mình như thế nào?
Câu trả lời của bạn
- Sau khi cởi mũ, cáo quan ra khỏi cuộc sống bó buộc chốn quan trường bon chen, Nguyễn Công Trứ có những hành vi kỳ quặc, lập dị đến ngất ngưởng. Người ta cưỡi ngựa đi giao du thiên hạ thì ông cưỡi bò, lại còn đeo cho một cái đạc ngựa khiến cả chủ lẫn tớ đều ngất ngưởng. Đi thăm thú cảnh chùa mà vẫn đeo kiếm cung bên người và mang theo “một đôi dì". Đó là lối sống phá cách của một con người thích làm những chuyện trái khoáy ngược đời để ngạo đời, thể hiện thái độ và khát vọng sống tự do tự tại.
- Trong bài thơ, Nguyễn Công Trứ đã cho thấy ông rất thẳng thắn và có ý thức về cách sống của mình. Nguyễn Công Trứ hoàn toàn tự hào về những đóng góp cho xã hội, tự hào vì chính thái độ coi thường danh lợi, coi thường phú quý, công danh của mình.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) hiệu là Ngộ Trai.
Câu trả lời của bạn
- Đây là tác phẩm được viết theo thể loại hát nói, với lối tự thuật, có hình thức tự do, phóng khoáng, đặc biệt là tự do về vần, nhịp thích hợp với việc thể hiện con người cá nhân.
- Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa hệ thống từ ngữ Hán Việt với từ ngữ Nôm thông dụng trong đời sống hàng ngày.
Câu trả lời của bạn
Cái Ngông của Nguyễn Công Trứ là cái tôi hơn đời, dám khẳng định tài năng và nhân cách của bản thân, đó còn là cái tôi cống hiến hết sức mình cho đất nước và cho cuộc đời.
Câu trả lời của bạn
- Hát nói là một điệu hát ca trù (tức hát ả đào hay hát cô đầu) có nhạc kèm theo và có một hình thức thơ riêng được gọi là thể thơ hát nói. Đây là thể thơ cột trụ của hát ca trù, đặc biệt thịnh hành vào thế kỷ XIX.
Câu trả lời của bạn
Bài ca ngất ngưởng được sáng tác sau năm 1848, khi ông đã cáo quan về hưu và sống cuộc đời tự do, nhàn tản.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *