Qua bài học, giúp học sinh hiểu được quan niệm của Hoài Thanh về “tinh thần thơ mới” trong ý nghĩa văn chương và xã hội. Bên cạnh đó, Thấy rõ những nét đặc sắc trong cách nghị luận của Hoài Thanh.
⇒ Hoài Thanh là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Năm 2000 được tặng giải thưởng Hồ Chi Minh về văn học nghệ thuật.
Khó khăn
Nhận xét: Bằng những câu văn giả định, cảm thán, với một giọng điệu thân mật, gần gũi, thiết tha, bức xúc mà chân thành, tác giả đã nêu lên được cái khó khăn mà cũng là cái khao khát của kẻ yêu văn quyết tìm cho được tinh thần thơ mới.
Nguyên tắc xác định
Nhận xét: Nguyên tắc ấy có sức thuyết phục, khách quan, đúng đắn. Bởi vì:
Nhận xét:
→ Cách trình bày có tính khái quát cao (về sự bế tắc của cái tôi thơ mới và phong cách riêng của từng nhà văn). Lập luận logic, chặt chẽ nhưng cách diễn đạt lại giàu cảm xúc và có tính hình tượng.
→ Tuyệt vọng, càng đi sâu càng lạnh.
Phân tích theo bố cục 3 phần
1. Tác giả đưa ra tiêu chí xác định tinh thần cùng giá trị của thơ cũ và Thơ mới: Phải căn cứ vào cái đại thể và cái hay của mỗi thời.
2. Nêu ra đặc trưng tinh thần của Thơ mới.
3. Khác
Tác giả luận giải về nội dung và biểu hiện của chữ "Ta" và chữ "Tôi" trong thơ ca
→ Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại song song trong đời sống tinh thần của mỗi con người. Thời trước, cái "Ta" lấn át nên cái "Tôi" không có cơ hội để nảy nở, còn thời nay cái tôi trỗi dậy giành quyền sống tự do. Phong trào thơ Mới nảy sinh chính từ sự trỗi dậy mạnh mẽ đó.
Tác giả đề cập đến sự phản ứng của xã hội trong quá trình tiếp nhận nó
→ Các nhà thơ lãng mạn cũng như “người thanh niên” bấy giờ, giải tỏa bi kịch đời mình vào tiếng Việt, dồn tình yêu quê hương trong tiếng Việt, lấy tinh thần nòi giống, tìm về dĩ vãng làm chỗ dựa tinh thần.
Bài tiểu luận hấp dấn, lôi cuốn và làm rung động tâm hồn bao thế hệ người đọc bởi phương pháp luận khoa học, văn phong tài hoa, tinh tế, cách viết giàu hình ảnh, so sánh gợi liên tưởng Hoài Thanh đã giúp chúng ta thêm hiểu biết trân trọng và những sáng tạo của thơ Mới. Hoài Thanh xứng đáng là nhà phê bình xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cho cuốn Thi nhân Việt Nam – công trình xuất sắc nhất trong sự nghiệp văn chương của Hoài Thanh. Nội dung cuốn sách này đề cập đến nhiều vấn đề : Nguồn gốc Thơ mới; cuộc tranh luận giữa Thơ mới – Thơ cũ ; vài nét về con đường mười năm phát triển của Thơ mới; đặc điểm về hình thức thể loại và triển vọng trước mắt của Thơ mới; tinh thần cốt lõi của Thơ mới và tấn bi kịch của cái tôi… Ở mỗi vấn đề, Hoài Thanh đều có những ý kiến, những nhận định sắc sảo, tinh tế. Để nắm được những kiến thức cần đạt, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Một thời đại trong thi ca.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Đoạn trích Một thời đại trong thi ca là phần cuối của bài tiểu luận, có giá trị như một nhận xét khái quát về đặc trưng của phong trào Thơ mới. Với lập luận chặt chẽ, khoa học và một phong cách nghệ thuật tài hoa, giàu cảm xúc, tác giả đã nêu rõ đặc trưng tinh thần của Thơ mới là cái tôi cá nhân và số phận đầy bi kịch của nó. Để nắm vững kiến thức và viết bài văn phân tích, cảm nhận về văn bản này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Cảm nhận về tinh thần thơ Mới trong tác phẩm Một thời đại trong thi ca
- Cảm nhận về Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh
- Phân tích Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Tinh thần thơ mới là một nội dung nổi bật được Hoài Thanh nói lên thật sâu sắc trong phần cuối bài tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”. Sau khi chỉ ra hình dáng câu thơ, nhạc điệu câu thơ, sự mềm mại, chỗ ngắt hơi, phép dùng chữ, phép đặt câu,… của thơ mới, ông nói rõ tinh thần thơ mới là điều quan trọng hơn ta hãy đi tìm. Ông đưa ra một tiêu chí là “phải sánh bài hay với bài hay”; ông chỉ ra sự kế thừa của sự vật là “Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ”. Vì các thời đại vẫn nối tiếp theo dòng chảy thời gian nên “muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể”.
Tinh thần thơ mới theo Hoài Thanh biểu hiện rõ nhất ở chữ tôi. Trong thơ cũ là chữ ta, còn trong thơ mới là chữ tôi. Tuy có chỗ giống nhau nhưng vẫn có chỗ khác nhau, đó là điều chúng ta hãy cần tìm hiểu.
Cái tôi là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có, là sự tự ý thức về mình. Nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy: quan niệm cá nhân. Lúc đầu chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam “thực bỡ ngỡ”, như một kẻ “lạc loài nơi đất khách”. “Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó” lúc đầu xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó đến một mình, “bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu”. Ngày một ngày hai, “nó mất dần vẻ bỡ ngỡ”, rồi được “vô số người quen”, cảm thấy “nó đáng thương”, “nó tội nghiệp quá!”.
Bài “Tình già” của Phan Khôi, bài “Trên đường đời”, “Vắng khách thơ” (sau đổi thành “Xuân về”) của Lưu Trọng Lư là ba bài thơ mới được giới thiệu trên báo Phụ nữ tân văn vào năm 1932. Sáu năm sau, 1938, tập “Thơ thơ” của Xuân Diệu ra đời. Ta có thể giới thiệu hai đoạn thơ làm ví dụ để thấy được “hình dáng câu thơ”, thấy được cái tôi từ chỗ “bỡ ngỡ” lúc đầu rồi về sau được “vô số người quen” như thế nào?
Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giáp Mộ
Trong gian nhà cỏ
Tôi quay tơ,
Chàng ngâm thơ.
Vườn sau oanh giục giã,
Nhìn ra hoa đua nở,
Dừng tay tôi kêu chàng:
“Này, này! bạn! xuân sang.
Chàng nhìn xuân mặt hớn hở
Tôi nhìn chàng lòng vồn vã…
(“Xuân về” – Lưu Trọng Lư)
Và đây là bốn câu thơ trích trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu:
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân…
Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể: Lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân “chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Những bậc kì tài (như Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Tú Xương,…), “thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ”, “thảng hoặc trong thơ văn họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác” . Trong thơ cũ thường chỉ có chữ ta; các thi sĩ “ẩn mình sau chữ ta một chữ có thể chỉ chung nhiều người”.
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan)
Gặp ta nay, xuân chớ lạ lùng
Tóc có khác nhưng lòng chẳng khác
Kể từ thuở biết xuân bốn mươi chín năm về trước
Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui
Đến xuân này ta tuổi đã năm mươi
Tính trăm tuổi đời người, ta mới nửa
Rồi sau lại bao nhiêu xuân nữa
Mặc trời cho, ta chửa hỏi chi
Sẵn rượu đào xuân uống với ta đi…
(“Gặp xuân” – Tản Đà)
Cái tôi của thơ mới là cái tôi đầy bi kịch. Cũng muốn nói đến cái khổ sở, thảm hại trước “nỗi đời cay cực” của các nhà thơ mới. Cũng nói đến chuyện lên tiên được sống trong giấc mơ tiên (“Tiếng sáo Thiên Thai” – Thế Lữ). Cũng nói đến say, đến cô đơn (“Say đi em”, “Phương xa”,… – Vũ Hoàng Chương). Hoặc phiêu lưu trong trường tình:
Chiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao,
Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó.
Huy Cận
Trăng sáng, trang xa, trông rộng quá!
Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơ
Xuân Diệu
Cái tôi làm cho hồn thơ mới giàu bản sắc, đồng thời cũng làm cho thơ mới chứa đầy bi kịch. Cách phân tích của Hoài Thanh vừa khái quát vừa cụ thể, rất tinh tế và tài hoa. Cách dùng từ chính xác, cách dùng điệp từ, dùng tương phản để tạo giọng điệu và cảm xúc, đọc lên nghe rất lí thú:
“Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
Phải nắm được cái hồn của thơ mới, và phải rất tài hoa mới viết đúng và viết hay như vậy. Hoài Thanh như dẫn hồn độc giả nhập vào cái hồn của thơ mới:
“Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta.
Chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước”.
Một điểm nổi bật nữa của thơ mới là đã góp phần hiện đại hoá tiếng Việt. Câu thơ co, duỗi tự nhiên. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, giàu cảm xúc và hình ảnh. Các nhà thơ mới đã gửi gắm tấm lòng trân trọng và yêu quý tiếng Việt. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh “tấm lụa” và “tấm hồn bạch” để nói lên tình cảm đẹp đẽ đó:
“Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng”.
Đoạn cuối của bài tiểu luận “Một thời đại thi ca”, Hoài Thanh đã trân trọng, quý trọng bày tỏ niềm hi vọng đối với thơ mới và các nhà thơ mới “trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng”. Thơ mới cũng như các nhà thơ mới kế thừa và phát huy truyền thống tinh thần nòi giống, sẽ kế thừa những tinh hoa của thơ cũ, nền thơ cổ điển Việt Nam, “tìm về dĩ vãng để vin về những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai”.
Điệp ngữ “Chưa bao giờ như bây giờ…” cất lên ba lần làm cho giọng văn vang lên tha thiết, ân tình.
Những năm 1943, 1944, thơ mới như bị “chững lại”. Nhưng rồi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, kháng chiến chống Pháp diễn ra ác liệt đã thổi lửa cho thơ mới và thế hệ những nhà thơ mới. Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ,… đã trở thành những người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, đã góp phần xứng đáng xây dựng và phát triển nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
Bảy thập niên sau, đọc “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, ta hiểu thêm thơ mới, ta yêu thêm lớp thi sĩ tiền chiến của “một thời đại thi ca”.
Câu trả lời của bạn
Điều cối lõi mà thơ mới đưa đến cho thi đàn VN lúc bấy giờ.
- Tinh thần thơ mới là chữ “Tôi”.
+ Cái khác ở chữ “Tôi” và chữ “Ta” . Ngày trước là thời chữ “Ta”, bây giờ là thời chữ “Tôi”.
+ Chữ “Tôi” trước đây nếu có thì cũng phải ẩn mình sau chữ “Ta”. Chữ “Tôi” bây giờ là chữ “tôi” theo ý nghĩa tuyệt đối của nó.
Câu trả lời của bạn
Đặc sắc của đoạn văn là ngắn gọn, cô đúc mà chính xác lại cụ thể, không chỉ chỉ ra nguyên nhân mà còn thấy cả tiến trình và báo trước kết quả của tinh thần thơ mới, nét riêng đặc sắc, độc đáo và tính bi kịch bế tắc của nó. Lời văn vừa sôi nổi với các từ ta (chúng ta - người đọc - nhà nghiên cứu phê bình) vừa đồng hành, đồng sáng tạo cùng từng nhà thơ mới tài hoa nhất.
Câu trả lời của bạn
Ý nghĩa văn bản:
Nhận thức tinh tế, sâu sắc về tinh thần thơ mới, động lực thúc đẩy sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.
Câu trả lời của bạn
Một thời đại trong thi ca là một văn bản phê bình văn học. Bài viết thấm đượm phong cách khoa học và phong cách nghệ thuật. Phím hát khoa học trước hết ở những luận điểm mới me, sâu sắc, phản ánh được bản chất sự vật, luận điểm 1 lại được luận giai một cách chặt chẽ, khúc chiết, có sức thuyết phục cao. Phim chất nghệ thuật được bộc lộ ở những cảm xúc thẩm mĩ tinh tế. Cảm xúc hóa thân thánh giọng điệu tác giả, thành hình ảnh diễn đạt, thành thứ ngôn ngữ vừa cảm xúc vừa hàm súc, uyển chuyển, gợi cảm, bài viết đã nêu được quan niệm đúng đắn của tác giả về tinh thần thơ mới qua cách luận giải sắc sảo, diễn đạt tài hoa đẩy sức thuyết phục.
Đoạn trích là phần cuối của bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca. Luận điểm bao trùm cả đoạn trích này là vấn đề "tinh thần thơ mới". Đây là luận điểm đặc sắc và kết tinh nhiều tinh hoa văn phê bình của Hoài Thanh. Luận điếm được triển khai thành ba nội dung chính Bởi thứ nhất, ông nêu ra nguyên tắc chung cho việc định nghĩa của mình: Chỉ căn cứ vào "cái hay", không căn cứ vào "cái đó" ; Chỉ căn cứ vào "đại thể", không căn cứ vào "tiếu tiết". Theo quan niệm của Hoài Thanh (cũng là nguyên tắc phổ biến khi xem xét một hiện tượng văn học), chi có "cái hay", cái "đại thế mới đủ tư cách đại diện cho một thời đại thi ca. "cái dở", cái "tân tiết" không đủ tư cách đại diện cho nghệ thuật và cho một thời đại lớn của nghệ thuật. Hoài Thanh nêu định nghĩa về tinh thần thơ mới bằng cách đối sánh: Tinh thần thơ cũ gồm trong chữ "ta"; tinh thần thơ mới gồm trong chữ "tôi". Nhà phê bình có đề cập đến chỗ giống nhau nhưng hướng trọng tâm vào chỗ khác nhau của hai chữ này. Bước thứ hai, tác giả luận giải về nội dung và biểu hiện của hai chữ "tôi" và "ta”; Chữ "ta" và biểu hiện của chữ "ta" cùng số phận của nó trong thời đại thơ cũ trước kia. Chữ "tôi" và biểu hiện của chữ "tôi" cùng số phận đầy bi kịch của nó trong thời đại thơ mới này.
Qua ba bước trên, người đọc nhận thấy nhà phê bình đã tuân theo trật tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể, từ diện mạo (trong không gian) đến diễn biến lịch sử (trong thời gian). Các bước lập luận với trật tự như vậy rất đảm bảo tính lôgíc của tư duy. Vì vậy khả năng thuyết phục rất cao. Đây là một ưu thế của văn nghị luận.
Tinh thần thơ mới gói gọn trong một chữ "tôi". "Cái tôi" của các nhà thấy mới là bàn ngã của mọi con người mà ai cũng có. Nhưng trong những thời kì lịch sử nhất định (đặc biệt là thời trung đại) do hệ tư tưởng chính thống của thời đại khống chế, ép buộc nén cái bán ngã ấy không được bộc lộ, phái giấu kín hoặc triệt tiêu. Nhà thơ phải nói tiếng nói của "cái ta đạo lí" chung của thời đại. Đó là một nền thơ phi ngã, vô ngã. Chỉ khi nào "cái tôi " ấy được giải phóng thì thi nhân mới có thể nói lên những điều thành thực tự đáy lòng mình. "Cái tôi" đó chính là"khát vọng được thành thực", là sự khẳng định bản ngã của nhà thơ trước cuộc đời, là sự tự ý thức về cá nhân mình trong cuộc sống xã hội. "Cái tôi" ấy bị xã hội phong kiến kiềm chế trong bao nhiêu thế kỉ giờ đây trong bối canh mới của thời kì hiện đại, đặc biệt là những năm 30 của thế kỉ XX mới được giải phóng và bùng nổ mãnh liệt. Và khi được giải phóng thì nó sẽ "làm giàu cho thi ca" bằng những cảm xúc mới mẻ và những cách tân nghệ thuật.
Khi luận giải về tư tưởng thơ mới, Hoài Thanh đã dùng cách đối sánh giữa tư tưởng thơ cũ (gồm trong chữ "ta") và tư tưởng thơ mới (gồm trong chữ "tôi"). Cách luận giải về nội dung và biểu hiện của hai chữ "ta" và "tôi" luôn song hành để nêu lên mặt tích cực của cái tôi trong thơ mới: "Cái tôi thơ mới xuất hiện diễn đàn có tính khái quát: "Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. "Cái tôi thơ mới xuất hiện mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này niệm cá nhân” tức là sự tự ý thức vể bản thân chứ không phải chủ nghĩa cá nhân. Cái tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó làm cho mọi người khó chịu. Nhưng ngày càng mất dần vẻ bỡ ngỡ và được vô số người quen. Sự mới mẻ trong tính ưu việt của cái tôi bản ngã được chấp nhận. Còn trong thơ xưa, các thi nhân không một lần dám dùng chữ "tôi" để nói chuyện với mình hay với tất cà mọi người không tự xưng mà ẩn mình sau chữ "ta". Cách dẫn dắt của tác giả tự nhiên linh hoạt và độc đáo. Từ thưc tẽ văn chương xưa nay mà thể hiện cái tôi trồi dạy đòi được khẳng định và phong trào Thơ mới nảy sinh từ sự trỗi dậy cùa "cái tôi" đó.
Khi nói về bi kịch của cái tôi, tác giả không dùng lí lẽ để diễn đạt. Mạch văn không phải được dẫn dắt bằng ngôn ngữ khái niệm với những phương tiện liên kết của lôgíc hình thức, nặng tính thơ biện ta vẫn quen gặp trong những bài phê bình văn học nghiêng về khoa học thuần túy. Trái lại, ông dẫn dắt ý chủ yếu bằng ngôn ngữ đời sống, nương theo mạch liên kết của cảm xúc thẩm mĩ. Bới vậy mà tạo được sự rung cảm, đồng cảm ở người dọc. "Cái tôi" của các nhà thơ mới thật đáng thương (Người ta thấy nó đáng thương, Mà thật nó tội nghiệp quá!) vì nó mất đi chỗ dựa tư tưởng, bởi họ là những thi nhân mất nước đang sống trong cuộc đời mòn mỏi, tù túng. Nghệ thuật tương phản đối lập giữa con đường muốn thoát thân với cái sự thực hiện hữu của cuộc đời đã nêu bật được bi kịch của cái tôi thơ mới. Mỗi cái tôi là một nỗ lực đào sâu trốn chạy vài ý thức cá nhân nhưng càng đi sâu càng bế tắc. Đặc sắc của đoạn văn là những khái quát rất chính xác, súc tích, lại được viết bằng lối văn giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu khiến cho văn phê bình mà đọc lên nghe như thơ. Tác giả sử dụng dạng ngôn ngữ phi khái niệm, dung dị, dễ hiếu mà vẫn súc tích, diễn đạt được bản chất của đối tượng. Độc đáo hơn nữa là tác giả tạo ra hình ảnh một độc gỉa yêu thơ cứ theo buớc chân các nhà thơ tiêu biểu bước vào cõi thơ riêng của mỗi vị.
Chủ đề được triển khai thành hai phần chính: khái quát về hướng tìm tòi, hệ quả chung và điểm qua những gương mặt điển hình cùng lãnh địa cá nhân điển hình của thơ mới để thấy được sự phân hóa đa dạng cùng sự quẩn quanh bế tác của ý thức cá nhân. Từ đó tác giả đi đến một nhân định: "Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam xôn xao như thê". Đây là nỗi buồn của một thế hệ thi nhân mất nước mang "cái tôi" cô đơn nhỏ bé trước cách mạng. Điều đó đã làm nên âm hưởng, giọng điệu đặc trưng riêng của thơ mới.
Bi kịch của cái tôi thơ mới là bi kịch không dễ gì giãi quyết được vì họ "thiếu một lòng tin đầy đủ", thiếu một lí tướng sống cho cuộc đời. Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, các thi nhân chi biết giải quyết bi kịch ấy bằng cách "gửi cả vào tiếng Việt" bởi vì "tiếng Việt, họ nghĩ là tấm lụa hứng vong hồn những thế hệ qua". Như vậy, các thi nhân thơ mới đã tìm thấy một chỗ dựa tin cậy của tư tưởng nòi giống, của các thể thơ xưa, của tiếng Việt,... để vin vào những điều bất diệt ấy mà đảm báo cho ngày mai. Ba câu vẫn điệp lại một cấu trúc "chưa bao giờ như bây giờ" vừa nhấn mạnh ý vừa thể hiện giọng điệu thiết tha thông cảm khiến cho bài văn nghị luận không khô khan mà thấm đượm tình người ở dây là tình của người phê bình với các thi nhân thơ mới.
Đoạn trích cũng như toàn bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca là một mẫu mực đẹp đẽ, một thành tựu xuất sắc của Hoài Thanh trong thể nghị luận văn chương thuộc lĩnh vực phê bình, văn học. Đoạn văn đã nêu bật được tư tưởng thơ mới, thể hiện được cách nhìn nhận thơ mới trong bối cảnh lịch sứ và thực tiễn thơ ca một cách đúng đắn, khoa học. Đó cũng là cách nhìn tiến bộ với hình tượng thơ mới 1932- 1941 theo quan điểm lịch sứ xuất phát từ chính con người và hồn thơ của các thi nhân lúc bấy giờ. Cách lí giải của Hoài Thanh đã hơn 60 năm trôi qua mà vẫn rất gần với cách hiểu của chúng ta về thơ mới hôm nay.
Câu trả lời của bạn
Tinh thần thơ mới gói gọn trong một chữ "tôi". "Cái tôi" của các nhà thấy mới là bàn ngã của mọi con người mà ai cũng có. Nhưng trong những thời kì lịch sử nhất định (đặc biệt là thời trung đại) do hệ tư tưởng chính thống của thời đại khống chế, ép buộc nén cái bán ngã ấy không được bộc lộ, phái giấu kín hoặc triệt tiêu. Nhà thơ phải nói tiếng nói của "cái ta đạo lí" chung của thời đại. Đó là một nền thơ phi ngã, vô ngã. Chỉ khi nào "cái tôi " ấy được giải phóng thì thi nhân mới có thể nói lên những điều thành thực tự đáy lòng mình. "Cái tôi" đó chính là"khát vọng được thành thực", là sự khẳng định bản ngã của nhà thơ trước cuộc đời, là sự tự ý thức về cá nhân mình trong cuộc sống xã hội. "Cái tôi" ấy bị xã hội phong kiến kiềm chế trong bao nhiêu thế kỉ giờ đây trong bối canh mới của thời kì hiện đại, đặc biệt là những năm 30 của thế kỉ XX mới được giải phóng và bùng nổ mãnh liệt. Và khi được giải phóng thì nó sẽ "làm giàu cho thi ca" bằng những cảm xúc mới mẻ và những cách tân nghệ thuật.
Câu trả lời của bạn
Cách nhận diện “tinh thần thơ mới” của tác giả:
- Cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới là ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới không phải rạch ròi dễ nhận ra.
- Các nhận diện:
+ Không thể căn cứ vào những bài thơ dở, thời nào chả có mà phải so sánh bài hay với bài hay.
+ Vả chăng cái mới và cái cũ vẫn tiếp nối qua lại cho nên phải so sánh trên đại thể.
Câu trả lời của bạn
Hoài Thanh (1909-1982) là nhà phê bình, nghiên cứu văn học xuât sắc ở nước ta. "Thi nhân Việt Nam" là tác phẩm đặc sắc nhất, tiêu biểu nhất của ông viết về thơ mới, xuất bản năm 1942. "Một thời đại trong thi ca" là bài tiểu luận mở đầu công trình, sau đó là phần giới thiệu và tuyển thơ của 44 nhà thơ mới.
Sự thắng lợi của thơ mới là một trong những vấn đề được Hoài Thanh nói đến một cách sâu sắc, tinh tế trong bài tiểu luận cuốn "Thi nhân Việt Nam".
"Một thời đại vừa chẵn mười năm" đó là phong trào thơ mới - thơ tiền chiến -từ năm 1932 - 1941. Giữa thơ mới và thơ cũ đã đấu trang giằng co, gắt gao, kéo dài trong một thời gian dài. Thơ cũ là thơ trung đại, thơ cổ điển Việt Nam, phần lớn viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, theo thi pháp trung đại. Trong cuộc đấu tranh ấy, "một bên giành quyền sống, một bên ,giữ vững quyền sống".
Đã có biết bao bài luận chiến, bút chiến về thơ cũ và thơ mới. Lê Trang Kiều, Lưu Trọng Lư,... được coi là "những người tả xung hữu đột nơi chiến trường để đem lại sự toàn thắngcủa thơ mới. Nhưng trong thắng lợi ấy, Hoài Thanh khẳng định "trước hết là công những nhà thơ mới".
Hoài Thanh đã nêu lên một sự thật là không so sánh các nhà thơ mới với Nguyễn Du để "xem ai hơn ai kém", bởi vì "Đời xưa có thể có những bậc kì tài mà đời nay không sánh kịp". Từ chân lí ấy, ông đưa ra một tiêu chí để so sánh hai thời đại thi ca: "Đừng lấy một người sánh lấy một người. Hay sánh thời đại với thời đại".
Thơ cũ - thơ cổ điển, thơ trung đại - phát triển trong mười thế kỉ có bao thành tựu rực rỡ, bao thi hào như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,... nhưng Hoài Thanh đã khẳng định: "Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này". Thời đại này là thời đại thơ mới "vừa chẵn mười năm" (1932- 1941).
Tiếp theo, tác giả "Thi nhân Việt Nam" viết một cách tài hoa, tinh tế về một số thi sĩ tiêu biểu để chứng minh sự "phong phú" của thời đại thơ mới:
"Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ào nảo như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên,... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu".
Bảy mươi năm sau, đọc "Một thời đại trong thi ca", ta càng thấy rõ nhận định, nhận xét, đánh giá của Hoài Thanh là hoàn toàn chính xác. Những gương mặt thi sĩ được Hoài Thanh nói đến nay đã qua đời nhưng sự nghiệp thơ ca của họ vẫn còn nguyên giá trị, đã góp phần tạo nên giá trị và sự phong phú của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Với sự thẩm thơ tinh tế, ông đã chỉ ra vẻ đẹp riêng, bản sắc riêng của từng nhà thơ mới. Mỗi chữ ông dùng đã chỉ ra rất đúng mỗi hồn thơ: "rộng mở, mơ màng, hùng tráng, trong sáng, ảo não, quê mùa, kì dị, thiết tha, rạo rực, băn khoăn". Không có lối nói chung chung với nhiều sáo ngữ như một số bài giới thiệu thơ, bình thơ trên báo chí hiện nay.
Như mỗi loài hoa trong rừng hoa đều có vẻ đẹp riêng, hương sắc riêng, mỗi nhà thơ mới cùng có cá tính sáng tạo riêng, đúng như Hoài Thanh đã nói: "Từ người này sang người khác sự cách biệt rõ ràng". Ông đã chỉ ra nguyên nhân sâu xa "làm giàu cho thơ ca", cho thơ mới là "sự giải phóng!": "Cá tính con người bị kiềm chế trong bao nhiêu bỗng được giải phóng". Một nguyên nhân nữa là "ảnh hưởng phương Tây, hay đúng hơn là ảnh hưởng Pháp".
Hoài Thanh đã có một cách nói, cách viết thâm trầm, dung dị mà tài hoa. Có lúc ta tưởng như ông đang thổ lộ, tâm tình, tâm sự với độc giả về sự thắng lợi của thơ mới. Ông cho biết đã theo dõi thơ mới trong nhiều năm, đã đọc trên một vạn bài thơ mới để viết nên "Thi nhân Việt Nam".
Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, nhận định và đánh giá chuẩn xác, dùng từ, đặt câu, nêu dẫn chứng, giọng điệu thẩm bình đều thể hiện một văn phong đẹp, một cốt cách đẹp.
Hoài Thanh đã giúp chúng ta một cách nhìn đúng đắn, và trân trọng đối với thơ mới và các nhà thơ mới trong một thời đại thơ ca 1932-1941.
Câu trả lời của bạn
Nghệ thuật nghị luận:
- Tính khoa học:
+ Cách lập luận chặt chẽ, từ khái quát đến cụ thể, từ xa đến nay, từ xa đến gần. Điều này đã được phản ánh tư duy khoa học, sự am hiểu thấu đáo đối tượng phân tích của tác giả.
+ Luôn gắn những nhận định khái quát với luận cứ cụ thể, đa dạng, có sức thuyết phục; có sự so sánh giữa thơ mới với thơ cũ;
- Tính nghệ thuật: cách dẫn dắt ý theo mạch cảm xúc tinh tế, uyển chuyển và bằng ng
Câu trả lời của bạn
Bi kịch của “cái tôi” trong thơ mới và hướng giải toả bi kịch
- “Cái tôi” bây giờ đáng thương và tội nghiệp ở chỗ nó không còn cái cốt cách hiện ngang ngày trước. Thơ mới đang diễn ngấm ngầm dưới những phù hiệu dễ dãi trong hồn người thanh niên.
- Họ giải quyết bi kịch bằng cách giữ cả vào Tiếng Việt là vong hồn các thế hệ đã qua.
Câu trả lời của bạn
Tác giả đề nghị phương pháp của mình:
+ Chỉ căn cứ vào những bài thơ hay, so sánh bài hay với bài hay. Hoàn toàn không căn cứ vào các bài thơ dở. Vì cái dở chẳng tiêu biểu cho cái gì hết.
+ Phương pháp so sánh đối chiếu là phương pháp hữu hiệu. Không so sánh tỉ mỉ, vụn vặt, cá thể, mà so sánh thời đại cùng thời đại và so sánh trên đại thể (khái quát bản chất phổ biến nổi bật). Lý do: cái cũ và cái mới vẫn nối tiếp thay đổi, thay thế nhau: Hôm nay phôi thai từ hôm qua, và trong cái mới vẫn còn rơi rớt ít nhiều cái cũ.
Câu trả lời của bạn
Tinh thần Thơ mới là ở chữ tôi. Cách nêu ngắn gọn, dứt khoát, chứng tỏ sự tự tin trong khám phá và kết luận khoa học. Cách diễn đạt: so sánh với thơ cũ, thời đại xưa: là ở chữ ta. Sự giống nhau đã rõ. Chủ yếu đi tìm sự khác nhau giữa hai tinh thần thơ mới và cũ, thời đại ngày nay (đương thời) và thời đại xưa.
Chữ tôi gắn với cái riêng, cá nhân, cá thể (individu); chữ ta gắn với cái chung, tâp thể cộng đồng, xã hội.
Câu trả lời của bạn
Nêu chủ đề trực tiếp, ngắn gọn: tinh thần Thơ mới. Nói cách khác: đó là nội dung bản chất, cốt lõi, chi phối toàn bộ Thơ mới, làm nên đặc trưng của Thơ mới, mang tính khái quát cao cho cả phong trào Thơ mới, cái phân biêt thơ mới và thơ cũ một cách cơ bản và rõ ràng, nổi bât.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
- "Khốn nỗi, cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải của riêng một thời nào và muốn hiểu tinh thần thơ cho đúng đắn, phải sánh bài hay với bài hay vậy."
"... Muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể".
Câu trả lời của bạn
Theo tác giả, điều "cốt lõi" làm nên cái "tinh thần thơ mới", điều mà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ là "cái tôi". Nhà phê bình giải thích:
- "Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa - hay thơ cũ - và thời nay - hay thơ mới - có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi".
- Chữ tôi trước đây, nếu có, thì cũng phải ẩn minh sau chữ ta - một chữ có thể chỉ chung nhiều người: "Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả. Cũng có những bậc kì tài xuất đầu lộ diện. Thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong thơ văn. Và thảng hoặc họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác. Song dầu táo bạo đến đâu họ cũng không một lần nào dám dùng chữ tôi để nói chuyện với mình, hay - thì cũng thế - với tất cá mọi người"... "Họ phải cầu cứu đoàn thể để trốn cô đơn. Chẳng trách gì tác phấm họ vừa ra đời, đoàn thể đã dành làm của chung, lắm khi cũng chẳng thèm ghi tên của họ".
- Chữ tôi bây giờ là chữ tôi theo cái nghĩa tuyệt đối của nó. Nó mang theo "một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân". Nó "xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Nó cứ luôn luôn đi theo những chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống bây giờ nó đến một mình!".
Câu trả lời của bạn
- Rơi vào bi kịch, các thi sĩ lãng mạn cũng như "người thanh niên" bấy giờ đã giải quyết những bi kịch đời mình bằng cách gửi cả vào tiếng Việt: "Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông.
- Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt". Vì họ nghĩ: "Tiếng Việt là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua" và vì họ tin vào lời nói triết lí "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn". Họ tin rằng tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa có biến thiên nhưng không sao tiêu diệt được, vì phải "tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai".
- Giọng điệu thiết tha, hi vọng thoát khỏi bi kịch của thu sĩ lãng mạn.
Câu trả lời của bạn
Tác giả đã lí giải "chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó" đến với thi đàn một cách bất ngờ, "Nhưng, ngày một ngày hai, nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá!". Sở dĩ có điều lạ lẫm ấy là vì:
- "Cái tôi" bây giờ không còn cái cốt cách hiên ngang ngày trước như cái khí phách ngang tàng của Lí Bạch, cái tự trọng trước cơ hàn của Nguyễn Cống Trứ. "Cái tôi" ngày nay rên rỉ, khổ sở, thảm hại, phiêu lưu trong trường tình, thoát lên tiên, điên cuồng, đắm say, bơ vơ, ngẩn ngơ buồn, bàng hoàng mất lòng tin: "Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta". "Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước".
- Nói chung thơ mới nói lên cái bi kịch đang diễn ngấm ngầm dưới những phù hiệu dễ dãi trong hồn người thanh niên: "Thời trước, dầu bị oan khuất như Cao Bá Nhạ, dầu bị khinh bỏ như cô phụ trên bến Tầm Dương, vẫn còn có thể nương tựa vào một cái gì không di dịch. Ngày nay lớp thành kiến phủ trên linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hoè phủ trên thi tứ. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàrig vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều, một điểu cần hơn trăm nghìn điều khác: một lòng tin đầy đủ".
Câu trả lời của bạn
Nghệ thuật của bài tiểu luận thể hiện qua đoạn trích:
- Đặt vấn đề rõ, gọn
- Dẫn dắt vấn đề khoa học, khéo léo và dễ hiểu, đảm bảo liền mạch trong hệ thống luận điểm
- Câu văn nghị luận giàu chất thơ, có sức gợi cảm xúc, gây hứng thú cho người đọc
- Nghệ thuật lí luận chặt chẽ, thấy đáo khoa học
Khi phân tích đặc điểm thơ mới, tác giả luôn phân tích “cái tôi” trong nhiều quan hệ với “cái ta” để tìm ra điểm giống và khác nhau
+ Khi tìm cái mới của thơ mới tác giả nhìn vẫn đề trong mối quan hệ với thời đại, với tâm lí người thi nhân đương thời thấu đáo, sâu sắc
+ Lí luận gắn bó chặt chẽ giữa những nhận định, luận điểm có tính khái quát những ví dụ cụ thể, đa dạng, giàu sức thuyết phục
+ Có cái nhìn thấu đáo về “cái tôi”, “cái ta” có sự so sánh giữa các câu thơ và nhà thơ cũ, mới trong diễn biến lịch sử.
Câu trả lời của bạn
Có thể thấy sự khác biệt cơ bản giữa "cái tôi" thơ mới và "cái ta" thơ cũ là ở chỗ thơ văn xưa thường nói lên những suy tư, những cảm xúc chung của cả lớp người, loại người, kiểu người. "Cái tôi" nếu có cũng nấp dưới bóng "cái ta" chung ấy. Đến "cái tôi" trong thơ mới, nó đã đứng một mình. Nó đã tự bộc bạch những gì sâu kín nhất ngay bên trong bản thể của nó.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *