Nội dung bài học Hai đứa trẻ giúp các em cảm nhận được tình cảm xót thương của Thạch Lam đối với những con người sống nghèo khổ, quẩn quanh và sự cảm thông, trân trọng của nhà văn trước mong ước của họ về một cuộc sống tươi sáng hơn. Thấy được một vài nét độc đáo trong bút pháp nghệ thuật của Thạch Lam qua một truyện ngắn trữ tình.
⇒ Không đủ sức khuấy động không khí lặng lẽ, tù đọng của phố huyện.
⇒ Tác giả miêu tả bước đi của thời gian rất cụ thể, tỉ mỉ, chi tiết -> thời gian có sự vận động: chậm rãi, lặng lẽ -> nhịp sống buồn bã, tẻ nhạt của phố huyện từ chiều tàn đi dần vào đêm khuya.
Bóng tối | Ánh sáng |
⇒ Bóng tối đang luồn lách, bám sát vào mọi cảnh vật, mọi hoạt động âm thầm của sinh vật, con người. |
⇒ Lẻ loi, hiếm hoi, yếu ớt, không đủ xé rách màn đêm, làm cho đêm tối mênh mông hơn.
|
⇒ Tương phản: động - tĩnh; ánh sang - bóng tối, nhịp điệu câu văn chậm rãi... -> Khung cảnh phố huyện ảm đạm, xao xác, ngập chìm trong bóng tối đậm đặc.
→ Nhịp sống cứ lặp lại một cách đơn điệu, quẩn quanh, tẻ nhạt, mỏi mòn, buồn chán,... Tuy vậy, họ vẫn hi vọng - cho dù hi vọng đó rất mơ hồ: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Chính sự mong đợi mơ hồ này càng tô đậm thêm tình cảnh tội nghiệp của những nhân vật trong truyện.
⇒ Tất cả đều hiện ra trong cái nhìn xót xa, thương cảm của Thạch Lam, qua lời văn đều đều, chậm buồn, giàu chất thơ và những chi tiết dường như khách quan.
⇒ Đánh thức kỷ niệm về Hà Nội đẹp đẽ thiết tha.
⇒ Hiện thực buồn tẻ, tù đọng của tác phẩm càng nặng nề vì Liên đã ý thức được đầy đủ và sâu sắc về cuộc sống đó.
Ví dụ
Đề: Chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ trích từ tập Nắng trong vườn (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội, 1938). Cũng như những truyện ngắn khác, tác phẩm phản ánh những cảnh đời bề ngoài dường như không có gì đáng để ý, nhưng đi vào bên trong, nơi sâu lắng của tâm hồn thì mảnh đời nào, nhất là của tầng lớp nghèo khổ, cũng gợi lên bao nỗi xót xa, thương cảm, có lúc sâu sắc, tinh tế đến bất ngờ. Để nắm được những nội dung kiến thức cần đạt khi học văn bản này, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Hai đứa trẻ.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ thể hiện thái độ đồng cảm, xót thương của tác giả Thạch Lam với những số phận bất hạnh trong xã hội cũ trước năm 1945. Qua khung cảnh phố huyện nghèo đói, lụi tàn, Thạch Lam muốn bày tỏ niềm xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé, vô danh, không bao giờ biết đến ánh sáng của hạnh phúc. Họ phải sống cuộc đời tẻ nhạt, vô nghĩa, đời sống cạn kiệt, mòn mỏi cả về vật chất lẫn tinh thần. Để nắm vững nội dung bài học cũng như nắm được cách phân tích các vấn đề xoay quanh tác phẩm này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người ở phố huyện nghèo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Nét đặc sắc về phong cách nghệ thuật của Thạch Lam qua truyện ngắn Hai đứa trẻ
- Cảm nhận về truyện ngắn Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam
- Phân tích chất thơ trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Cảm nghĩ về truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam
- Chất hiện thực và chất lãng mạn trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Phân tích giá trị hiện và giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Phân tích nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Bức tranh phố huyện nghèo qua Hai đứa trẻ của Thạch Lam
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Miêu tả vẻ đẹp của Liên trong 2 đứa trẻ. Từ đó hãy nhận xét về giá trị nhân đạo của tác phẩm (làm bài văn).
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
diễn biến tâm trang của liên khi chuyến tàu đi qua
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Giúp em với ạ
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Con tàu là sản phẩm của nền văn minh phương Tây, xuất hiện ở Việt Nam trong bối cảnh người Pháp tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương. Sự xuất hiện của nó không chỉ làm thay đổi đời sống kinh tế - xã hội, mà còn đem đến cho văn chương Việt Nam một nguồn thi liệu mới. Giờ đây, bên cạnh hình ảnh con thuyền - bến sông, trong văn chương nước nhà đã có thêm hình ảnh sân ga - con tàu. Giữa rất nhiều sáng tác trước 1945, chúng ta thấy truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam đã miêu tả thành
Trước hết, hình tượng con tàu được nhà văn miêu tả nhằm thể hiện tình trạng tàn lụi của cuộc sống. Cuộc sống "đang cùn đi, gỉ đi" (Nam Cao) vốn là một chủ đề phổ biến trong văn chương trước cách mạng tháng Tám. Với mỗi nhà văn, chủ đề này sẽ được thể hiện theo từng cách khác nhau. Trong Hai đứa trẻ, hiện thực cuộc sống được nhà văn Thạch Lam quan sát qua tình huống con tàu về ga. Như đã biết, bối cảnh câu chuyện Hai đứa trẻ là khu phố huyện nghèo. Ở đây có đường sắt chạy qua, có sân ga để con tàu theo lịch trình hằng đêm về đón và trả khách. Con tàu vô hình trung đã trở thành một phần cuộc sống của khu phố huyện. Nó là niềm hi vọng của nhiều người trong cuộc mưu sinh. Bởi vậy, đêm đêm, mọi người vẫn thức để đợi con tàu về ga. Với chị em Liên, việc đợi tàu chủ yếu vì một lí do khác. Trong tác phẩm, hình tượng con tàu được miêu tả qua cái nhìn của chị em Liên. Nghệ thuật miêu tả của nhà văn theo lối từ xa đến gần. Khi con tàu sắp về đến sân ga, nó được nhận ra qua "ngọn lửa xanh biếc" và tiếng còi "trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi". Gần hơn, con tàu hiện ra với "một làn khói bừng sáng trắng", với "các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống lòng đường". Mọi hình ảnh, âm thanh, ánh sáng... của đoàn tàu đều được hai chị em Liên quan sát kỹ lưỡng. An nói với Liên: "Tàu hôm nay không đông chị nhỉ". Câu nói này chỉ ra hai hiện thực. Thứ nhất, chị em Liên vẫn hằng đêm thức đợi tàu. Thứ hai, so với trước, chuyến tàu hôm nay vắng khách hơn. Ở một hoàn cảnh khác, chuyện đông khách, vắng khách sẽ là chuyện bình thường. Nhưng trong trường hợp này, nhận xét của An có ý nghĩa khắc sâu chủ đề tư tưởng "cuộc sống đang tàn lụi" của nhà văn. Để thấy rõ điều này, cần phải đặt câu nói của An trong hệ thống những câu văn khác của tác phẩm.
Chúng tôi muốn nói tới ba câu văn, đoạn văn sau:
- "Hôm nay, ngày phiên mà bán hàng cũng chẳng ăn thua gì".
- "Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?".
- "Trước kia, ở sân ga, có mấy hàng cơm mở đón khách, đèn sáng cho đến nửa đêm. Nhưng bây giờ họ đóng cửa cả rồi, cũng im lặng tối đen như ngoài phố".
Câu thứ nhất là cảm nghĩ của Liên, câu thứ hai là lời chị Tý, còn đoạn trích dẫn thứ ba là miêu tả của nhà văn về những hàng quán ở sân ga. Suốt một ngày chợ phiên mà Liên bán hàng "chẳng ăn thua gì". Khách hàng chị Tý không ra mua hàng đều đặn như mọi khi. Cảnh những hàng quán ở sân ga thật tàn tạ. Cái tấp nập "đèn sáng cho đến nửa đêm" giờ chỉ còn là dĩ vãng. Hiện thực trước mắt thật u buồn: những hàng cơm cửa đóng then cài, chìm nghỉm giữa bóng đêm dày nặng. Liên kết những hình ảnh, chi tiết nói trên, chúng ta nhận ra chủ ý nghệ thuật của Thạch Lam. Nhà văn không triết lý kiểu như Nam Cao mà để các hình thức nghệ thuật tự "lên tiếng". Văn Thạch Lam nhẹ nhàng mà sâu sắc là vì vậy.
Hình tượng con tàu ngoài ý nghĩa tả thực còn mang ý nghĩa biểu trưng. Tính chất biểu trưng của nó được xác nhận qua luồng ánh sáng rực rỡ. Trong cảm nhận của những tâm hồn thơ trẻ như Liên và An, ánh sáng con tàu gợi về một thế giới khác "vui vẻ và huyên náo" hơn. Nó đối lập với cái u buồn, thinh lặng của không gian phố huyện. "Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của bác Siêu". Trên nền cảm nhận về sự đối lập của hai thứ ánh sáng đó, tâm hồn Liên nảy sinh những khát khao về sự đổi thay cuộc sống. Rõ ràng, những đứa trẻ như Liên, An đã mất đi cái hồn nhiên, trong trẻo của tuổi thơ. Thay vào đó là nỗi buồn, là sự tự cố gắng để hy vọng vào một ngày mai. Chuyện hai chị em cố thức để đợi tàu chính là vì cái lẽ ấy. Ta hiểu vì sao khi con tàu vừa rời khỏi sân ga, Liên lập tức "lặng theo mơ tưởng". Tâm hồn Liên đang tìm về với thế giới của ánh sáng rực rỡ và âm thanh huyên náo. Khi viết câu văn "Liên lặng theo mơ tưởng", Thạch Lam hình như cũng đang đau đầu về một sự đổi thay!
Câu trả lời của bạn
Thạch Lam là một cây bút nổi tiếng trong dòng văn học hiện thực Việt Nam. Những tác phẩm của ông luôn chứa đựng những tình cảm dịu dàng, lắng đọng, những lãng mạn, tinh tế của cuộc sống thường ngày. Ông kể những câu chuyện không phải chuyện, chủ yếu khai thác nội tâm nhạy cảm của nhân vật, để phản ánh nỗi lòng, tâm tư của mình vào trong câu chuyện, vừa dung dị, nhẹ nhàng, lại vô cùng thâm trầm, sâu sắc. Hai đứa trẻ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Thạch Lam. Ông đã dựng lên một bức tranh của một phố huyện nghèo điển hình của Việt Nam và đặt vào trong đó những suy tư, suy ngẫm của mình cũng niềm cảm thương sâu sắc cho số kiếp của mỗi con người. Đó chính là điều tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm Hai đứa trẻ.
Giá trị nhân đạo là niềm cảm thông sâu sắc của tác giả dành cho những nhân vật trong tác phẩm của mình, là sự trân trọng những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn con người đồng thời trân trọng, tin tưởng vào những ước mơ của những con người đó. Tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam không chỉ bày tỏ quan điểm của cá nhân ông mà còn là niềm thương cảm sâu sắc của ông dành cho những kiếp người, những nhân vật trong tác phẩm. Chính vì vậy mà Hai đứa trẻ mang một giá trị nhân đạo hết sức sâu sắc. Nó được thể hiện trong niềm cảm thông, xót thương của Thạch Lam dành cho những kiếp người tàn trong phố huyện nghèo đói ấy, là sự phát hiện những phẩm chất cao đẹp của những con người lao động nghèo nơi đây, là sự trân trọng những khát vọng của những kiếp người lao động nghèo, đồng thời sâu kín trong đó là sự lên án một xã hội thực dân Pháp thuộc đang đày ải người dân Việt Nam.
Đọc Hai đứa trẻ, người ta thấy bao trùm lên cả câu chuyện là một cuộc sống với những kiếp người nghèo tới xơ xác, những kiếp đời tàn giữa một phố huyện đầy u tối, thê lương. Cái khung cảnh của phố huyện ấy cũng hiện ra ở một thời điểm mà ngày sắp tàn, sắp kết thúc, tuy đẹp đẽ nhưng lại chỉ là chút ánh nắng cuối ngày, chỉ kịp lóe rạng rồi biến vào trong đêm đen, giống như những con người ở đây với khát vọng của họ. Không gian hiện lên với sự huy hoàng, đẹp rực rỡ của hoàng hôn buông trải "Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn", khung cảnh đẹp rực rỡ, lộng lẫy là thế nhưng nó chỉ là một cảnh ngày tàn, như "một hòn than sắp tàn" trong bếp lửa cháy, gợi ra trước mắt người đọc chúng ra là một nỗi buồn man mác.
Trên cái nền cảnh nhá nhem tối ấy, con người hiện lên cũng thật đơn sơ. Hình ảnh của một chị Tí cùng đứa con bày một gian hàng nước còm cõi, một bác Siêu với gánh phở trên vai, hai chị em Liên với cái gian hàng tạp hóa "nhỏ xíu", cụ Thi điên say rượu với tiếng cười khanh khách trong đêm, gia đình bác xẩm mù đang ngồi dưới nền đất, … Tất cả hòa quyện tạo nên một bức tranh trầm buồn cùng với không gian lặng lẽ, u tối của nơi phố huyện nghèo này. Ngòi bút chấm phá của Thạch Lam chỉ điểm vài nét trên bức tranh với gam màu đỏ đen hỗn độn ấy nhưng lại khiến cho chúng ta như thấy được cả một làng quê Việt Nam tiêu biểu cho xã hội ta dưới thời thực dân Pháp đô hộ. Và từ đấy, người ta thấy được nỗi thương cảm của Thạch Lam dành cho con người.
Đầu tiên khi đọc Hai đứa trẻ, người ta thấy được một nỗi xót thương sâu sắc vô cùng của Thạch Lam dành cho những kiếp người tàn nơi phố huyện nghèo này. Ông xót xa trước những cảnh đói nghèo xơ xác của nơi đây. Hình ảnh những đứa trẻ ấy hiện lên trên nền cái chợ tàn "chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía". Trên cái khung cảnh tàn tạ ấy, "những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của các người bán hàng để lại". Cuộc sống của những đứa trẻ đang tuổi đến trường, tuổi ăn tuổi chơi lại phải quanh quẩn trên cái đống rác rưởi của người ta để lại. Những kiếp sống của chúng rồi cũng sẽ lụi tàn như bố mẹ chúng, bởi cái đói cái nghèo đã cướp đi hết của chúng niềm vui, sự ngây thơ của con trẻ. Chúng quanh quẩn bên cái chợ tàn, "tìm tòi, nhặt nhạnh", gieo niềm hi vọng trên đống rác của người ta để lại. Thạch Lam đã tinh tế gieo vào lòng chúng ta một nỗi thương cảm sâu sắc dành cho những đứa trẻ nhỏ, cũng từ đó mà ta nhận ra được cái tình cảm thương mến mà ông dành cho chúng. Ông thương cảm đời của chúng mà xót xa trước cái nghèo mà chúng đang phải chịu đựng. Và chính ông đã hóa thân vào Liên đã mà chứng kiến mà "động lòng thương" cho những đứa trẻ ấy. Ông muốn mang tới cho chúng một chút gì đó, bù đắp cho chúng thế nhưng lại bất lực vô cùng khi "chính chị cũng chẳng có tiền để mà cho chúng".
Không chỉ cảm thương cho số phận của những đứa trẻ nhà nghèo ven cái chợ tàn, ông còn xót thương cho những mảnh đời còm cõi khác như mẹ con chị Tí chẳng hạn. Chị Tí là một kiếp người điển hình trong phố huyện ấy, một kiếp đời vất vả suốt năm tháng mà không thoát nổi cái đói nghèo, tăm tối. Chị Tí là hình ảnh của một thân cò, quanh năm lặn lội, tảo tần, sáng chị đi mò cua bắt tép, tối về lại bày biện cái quán hàng nước bé tí xíu để kiếm thêm. Cái quán nước của chị cũng còm cõi, nhỏ nhoi như chính chị, bởi tất cả đồ đạc của cái quán ấy, chị đều có thể mang, vác, đội, xách được. Cái quán ấy chỉ có vài bát nước chè xanh, vài điếu thuốc lào, khách có đến cũng chỉ là bác phu, chú lính lệ,…hay những con người cũng mang cái số kiếp như chị. Vất vả là thế nhưng cũng "chả kiếm được là bao", như cái câu nói chị trả lời cho Liên "ối chao, sớm muộn cũng có ăn thua gì!". Đó là tiếng thở dài ngao ngán cho một đời người bế tắc, mòn mỏi, quẩn quanh, đơn điệu. Và Thạch Lam đã cúi xuống kiếp người như chị Tí để mà thương cảm, mà xót thương cho số kiếp của chị. Bởi ông hiểu rằng, cuộc sống của chị cũng chỉ nhỏ bé, le lói như cái quầng sáng đèn ở cái chõng nước của chị mà thôi.
Rồi đến cảnh đời của bác Siêu, Thạch Lam cũng đã vô cùng xót xa khi nhìn thấy cuộc sống của bác. Cái gánh phở nhỏ bé trên đôi vai rong ruổi là một "thứ quà xa xỉ, nhiều tiền" mà không phải ai cũng có đủ tiền để mua. Chính vì thế, gánh hàng của bác luôn bị ế hàng. Thế nhưng, chiều nào cũng thế, gánh phở của bác cứ chiều tối lại xuất hiện, nhóm lửa, đến đêm lại gánh trở lại làng. Nhịp sống của bác cứ quẩn quanh cái bếp lửa ấy, đơn điệu, tẻ nhạt như chính cuộc đời của bác và Thạch Lam đã cảm thấy xót thương vô cùng cho những con người như bác. Ông hiểu rằng, mỗi lần nhóm lửa lên, bác Siêu nhóm tất cả niềm hi vọng của mình, thứ hi vọng về một ngày mai khác hơn, về một tương lai tốt đẹp hơn, để đến khi bếp lửa lụi tàn, bác lại trở về với cuộc sống tăm tối, mòn mỏi của chính mình.
Gia đình bác xẩm mù cũng vậy. Một người mù làm nghề hát rong, cả gia tài chỉ có "manh chiếu, cái thau sắt trắng", cùng với chiếc đàn mà phải gánh vác cả một gia đình. Cuộc sống của gia đình bác là những ngày tha phương cầu thực, lấy gầm cầu, vỉa hè làm nhà, còn đứa con chỉ có thể nghịch ngợm "nhặt rác trên nền đất bẩn". Kiếp sống của gia đình bác cũng tối tăm như thế, cũng nghèo đói như thế.
Rồi bà cụ Thi điên – một cụ già nghiện rượu và "bị điên". Cụ là biểu tượng cho một kiếp người đã đi gần hết cuộc đời mình trong cái kiếp đời tàn tạ, tăm tối đến thê lương ấy. Thạch Lam đã lưu lại hình ảnh trong lòng chúng ta về cụ Thi điên là "tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng". Tiếng cười ấy phải chăng là tiếng cười chua chát của một con người đã đi gần hết cái số kiếp tăm tối của chính mình? Và Thạch Lam đã thật đồng cảm với nỗi đau khổ ấy của một kiếp người, ông xót thương cho cụ, cho bác Siêu, bác xẩm mù, cho tất cả những con người nơi phố huyện tù túng này mà đặc biệt là chị em Liên.
Chị em Liên An vốn có cuộc sống dư dả trên Hà Nội nếu như thầy Liên không mất việc mà đẩy cả gia đình vào bế tắc. Cả gia đình phải tạm xa Hà Nội, trở về quê, chị em Liên An thì trông hàng tạp hóa giúp mẹ, mẹ của Liên thì phải đi làm hàng xáo. Cái gian hàng "tạp hóa bé xíu" của hai chị em đã khắc thành ấn tượng trong lòng người đọc về cái nghèo của nơi phố huyện này. Cái gian hàng ấy chỉ có vài bánh xà phòng, cút rượu, mấy quả sơn đen, .., mà bán suốt của "ngày phiên" lẫn ngày thường "mà bán cũng chẳng ăn thua gì". Cuộc sống của hai chị em Liên là chuỗi ngày sáng dọn ra tối dọn vào, đơn điệu, tẻ nhạt như chính cuộc đời của hai chị em. Những niềm vui con trẻ cũng chẳng còn thấy trên gương mặt non nớt của hai chị em Liên An nữa. Thạch Lam thương lắm, xót xa lắm trước cái cuộc sống nghèo đói, tăm tối này đã cướp đi cả những khoảng khắc con trẻ của những đứa trẻ. Ông xót xa, ông đồng cảm với họ, với những kiếp đời tàn nơi phố huyện này.
Bằng những rung động mơ hồ, đầy tinh tế của mình, Thạch Lam đã vẽ lên bức tranh một phố huyện nghèo với những kiếp đời tàn, và đặt trong đó là niềm xót thương vô cùng của mình đối với những con người lao động nơi đây.
Không chỉ thương xót cho những thân phận, những kiếp đời tàn nơi phố huyện tăm tối này, Thạch Lam còn tinh tế khi nhận ra rằng, mặc dù sống trong đói nghèo, tàn tạ là thế, con người nơi đây vẫn có những phẩm chất tốt đẹp vô ngần của người lao động. Và Thạch Lam – một con người ở tầng lớp trên, tầng lớp tiểu tư sản, đã vô cùng sâu sắc phát hiện ra và trân trọng những phẩm chất đáng quý ấy ở những con người nghèo khổ kia.
Ông phát hiện thấy ở con người nơi phố huyện nghèo này, họ đói nghèo đấy, cuộc sống đơn điệu, tù túng, vô nghĩa đấy nhưng họ không hề buông thả mà luôn chịu thương, chịu khó, tần tảo sớm hôm để mong có được một cuộc sống tốt đẹp hơn, mặc dù công việc họ làm cũng chẳng giúp họ khá hơn là bao. Như một chị Tí, "ngày đi mò cua bắt tép, tối đến chị dọn cái hàng nước này", mà cái hàng nước bé xíu của chị cũng chả bán gì nhiều ngoài mấy chén nước chè và đôi điếu thuốc lào. Thu nhập của cái quán nước "chả kiếm được bao nhiêu", thế nhưng "chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm", chẳng hôm nào bỏ ngỏ. Sự tần tảo của chị đã khiến cho Thạch Lam phải cảm động, ông thương chị, ông thấy được cái vẻ đẹp trong sự vất vả, tần tảo sớm hôm của chị. Cái sự tần tảo ấy của chị là phẩm chất tốt đẹp, đáng khâm phục của tất cả những người phụ nữ Việt Nam, cũng giống như vợ của Tú Xương tần tảo nuôi chồng, khiến ông phải cảm động mà thương xót:
"Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông"
Thạch Lam cũng phát hiện ra ở bác Siêu, bác xẩm mù hay chị em Liên cái phẩm chất cao quý ấy của người lao động. Đó là dù có thế nào, cuộc sống có bấp bênh, mệt mỏi ra sao, họ vẫn luôn luôn chăm chỉ, tần tảo, chịu thương chịu khó. Bác Siêu với "tiếng đòn gánh kĩu kịt nghe rõ rệt", chiều nào cũng gánh gánh phở ngồi chờ khách. Ngày nào bác cũng nhóm lửa, "thổi vào cái ống nứa con", để mùi phở thơm thoảng hết con phố huyện nghèo. Mặc dù hàng phở của bác là "một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền" mà hiếm ai có thể mua được, thế nên luôn ế khách, nhưng bác vẫn hàng ngày chăm chỉ, gánh đôi gánh phở bán ở phố lúc chiều, đến đêm lại quẩy vào làng. Thế mới biết, người lao động chưa bao giờ thôi tần tảo, chưa bao giờ thôi hi vọng vào sự chăm chỉ sẽ giúp họ trải qua những đói nghèo, tăm tối của cuộc sống. Đó chính là những phẩm chất đẹp đẽ mà Thạch Lam đã vô cùng tinh tế khi phát hiện ra.
Rồi hai chị em Liên, hai chị em vốn mới chỉ là những đứa trẻ, thế nhưng đã thay mẹ gánh vác một phần gia đình. Với độ tuổi của An hay của Liên, chúng vốn phải được vui chơi, phải được tận hưởng quãng đời thơ ấu hạnh phúc, không phải lo lắng cơm áo gạo tiền, thế nhưng, sự nghèo đói đã khiến hai chị em phải trở thành những người lớn. Hai chị em trông coi "cái gian hàng tạp hóa bé xíu" để mẹ em có thể đi đong gạo, làm hàng xáo. Cái quán ấy "ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì" nhưng chị em Liên vẫn luôn luôn đều đặn mở cửa đón khách tới tận đêm khuya, sau khi đoàn tàu cuối cùng rời đi mới đóng cửa. Tác giả đã rất tinh tế khi phát hiện ra cái tần tảo và chịu thương chịu khó của những con người lao động nơi đây dù rằng cuộc sống của họ nghèo đói, họ vẫn luôn cố gắng vươn lên, cố gắng mỗi ngày.
Không chỉ thế, Thạch Lam còn phát hiện ra rằng, tuy họ nghèo đói, khổ sở, vất vả là thế nhưng họ vẫn luôn có lòng trắc ẩn, lòng thương người, thương những con người cùng số phận với mình. Đó là khi Liên nhìn thấy những đứa trẻ nghèo nhặt rác ở khu chợ tàn, chị đã động lòng thương chúng, thương cho số phận của chúng, thương cho tuổi thơ bị chôn vùi trong sự đói nghèo mà đáng ra phải được sống vui tươi hơn của chúng. Mặc dù rằng tình thương ấy của chị cũng chỉ là một niềm thương cảm, bởi chính chị cũng đang rơi vào hoàn cảnh nghèo đói như chúng, chị cũng bất lực trước số phận "Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó". Thạch Lam vẫn thế, ông vẫn rất tinh tế khi phát hiện được những gì nhỏ nhặt nhất trong từng câu chuyện đời thường, để phát hiện ra một niềm thương cảm nhỏ nhoi của Liên dành cho lũ trẻ. Như ở Liên, cuộc sống của chị cũng chẳng hơn gì những đứa trẻ kia, đáng ra, chị phải thương chính bản thân mình trước, nhưng chị vẫn thương, vẫn động lòng trắc ẩn trước những số phận giống mình. Đó là tấm lòng nhân đạo đáng quý của Liên hay cũng của chính Thạch Lam khi ông đã không chỉ phát hiện ra sự tần tảo sớm hôm của người lao động mà còn phát hiện ra tấm lòng cao quý, trắc ẩn của họ dành cho những số phận kém may mắn như mình.
Và hơn thế, giá trị nhân đạo của truyện ngắn Hai đứa trẻ còn được thể hiện ở chỗ Thạch Lam trân trọng vô cùng những ước mơ bé nhỏ, giản dị của những con người nơi đây về một tương lai tươi sáng hơn.
Tác giả trân trọng những hoài niệm của chị em Liên khi hai chị em hồi tưởng về cuộc sống ở phố thị trước kia "khi ở Hà Nội chị được thưởng thức những thức quà ngon, lạ - bấy giờ mẹ Liên còn nhiều tiền – được đi chơi bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ". Hoài niệm ấy của Liên là sự khao khát được trở lại những ngày tháng còn sung túc, bởi "kỉ niệm còn nhớ lại không rõ rệt gì, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh". Những hoài niệm ấy là một vùng kí ức, giờ đây trở thành khát vọng mà hai chị em Liên mong mỏi được trở về, nó thật tươi sáng và đẹp đẽ biết mấy. Thạch Lam trân trọng vô cùng cái mơ ước nhỏ bé ấy của hai chị em Liên, bởi ông hiểu, cái mơ ước ấy giờ đây quá xa vời, nhưng những niềm hi vọng thì không bao giờ lụi tàn cả.
Cái thế giới mà họ mơ tưởng đến nơi sáng rực ánh đèn và tiếng còi vang vọng, Thạch Lam trân trọng niềm khao khát về một thế giới khác, không còn u tối của những con người nơi đây. Và niềm khao khát ấy trở thành hiện thực khi chuyến tàu đêm cuối cùng băng qua con phố huyện nghèo đói, tối tăm này. Thạch Lam đã miêu tả đoàn tàu qua với tất cả sự trân trọng, tự hào, với những hình ảnh rực rỡ nhất "tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng". Đoàn tàu chỉ vụt qua trong giây lát, thế nhưng nó lại để lại một thế giới mới, đầy ánh sáng và âm thanh rực rỡ, chói lọi, một thế giới khác lạ, tốt đẹp hơn. Thế giới ấy "khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu", âm thanh chan hòa, vang vọng khác với "tiếng trống thu không" đơn điệu, đều đều, đó là thế giới "Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo", nơi mà Thạch Lam muốn con người nơi đây hướng tới.
Câu chuyện khép lại, thế nhưng, đó đây, người ta vẫn cảm thấy nao lòng trước cuộc sống quá đỗi tăm tối, tù túng và vô ý nghĩa của con người lao động nơi phố huyện này. Vậy nên, chắc hẳn, miêu tả phố huyện nghèo điển hình thời Pháp thuộc cùng với những kiếp người tàn, Thạch Lam đã kín đáo lên án cái xã hội thực dân ấy đã không đảm bảo được quyền sống cho con người, bào mòn những kiếp người trong đói nghèo và u tối.
Hai đứa trẻ đã làm nổi bật lên giá trị nhân đạo sâu sắc mà Thạch Lam muốn gửi gắm. Đó không chỉ là tình cảm thương xót dành cho những số phận nghèo đói, cho những kiếp đời tàn mà còn là sự trân trọng những phẩm chất cao đẹp, những ước mơ nhỏ nhoi của họ về một tương lai khác tươi đẹp hơn ở phía trước.
Giá trị nhân đạo là một trong những phần quan trọng nhất làm nên một tác phẩm hay. Có lẽ bởi thế, Hai đứa trẻ đã trở thành một tác phẩm thành công bậc nhất trong nền văn học hiện thực Việt Nam. Nó không chỉ minh chứng cho tài năng miêu tả nội tâm bậc thầy của Thạch Lam, phô bày xã hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc mà còn bộc lộ những tình cảm trân trọng, yêu mến ông dành cho con người lao động.
Câu trả lời của bạn
Thạch Lam là một nhà văn có lối viết nhẹ nhàng và sâu lắng, tác phẩm của ông mang đến cho người đọc những cung bậc cảm xúc đa dạng bằng sự bình dị và tinh tế vốn có. Một trong những tác phẩm xuất sắc của Thạch Lam phải kể đến truyện ngắn Hai đứa trẻ, truyện kể về những kiếp người nghèo khổ trong cuộc sống tàn lụi nơi phố huyện, song lấp lánh trong đó còn có cả sự yêu thương, những ánh sáng hy vọng dù nhỏ bé trong cuộc đời mỗi người nơi đây. Bên cạnh những chi tiết tiêu biểu như ngọn đèn dầu của chị Tí, cảnh chợ tàn,...còn có một hình ảnh khác khiến ta không khỏi nghĩ suy- đó là hình ảnh chuyến tàu đêm qua huyện nghèo.
Khi chợ đã vãn nơi phố huyện cũng là lúc cái nghèo, cái đói hiện lên rõ rệt nhất. Những rác rưởi bị vứt bỏ đầy đường, tiếng ồn ào huyên náo chẳng còn, mùi ẩm bốc lên,...Màn đêm dần buông xuống, đâu đó có những ánh đèn le lói nơi nhà bác Xẩm, chị Tí,...nhưng những ánh sáng nhỏ nhoi ấy chẳng thể nào có thể xua tan đi bóng tối đang dần bao trùm lên phố huyện. Đêm về, cuộc sống thường ngày vẫn diễn ra như vậy, chị em Liên dọn quầy tạp hoá nhỏ ra bán, chị Tí dọn hàng nước bán cho mấy anh lính lê hay phụ gạo, phụ xe, bà cụ Thi tới mua rượu, hàng phở bác Siêu cũng dần đến trong tiếng kẽo kẹt của gánh đòn,....Hoạt động còn người vẫn diễn ra đấy thôi nhưng sao thật nhạt nhẽo, buồn thương. Tất cả đều quen thuộc, đều không có gì là thú vị với chị em Liên, duy chỉ có một điều khiến hai chị em chờ đợi đó là chuyến tàu từ trên phố Hà Nội đi ngang qua, một hoạt động diễn ra cuối ngày nơi phố huyện.
Liên và An muốn đợi tàu với hai lý do. Thứ nhất là theo lời mẹ dặn, cố thức đến khi tàu xuống để đón khách, họ tranh thủ khi tàu dừng ghé lại mua dăm ba gói thuốc, vài ba bao diêm nơi hàng nhà. Thứ hai, cũng là lý do chính mà Liên và An đều muốn thức đến lúc ấy là bởi họ muốn được nhìn chuyến tàu đêm đó.
Khi trống cầm canh phố huyện đánh lên vài tiếng động vang xa, vài ba người cầm đèn lồng có các bóng dài đi qua cũng là lúc báo hiệu tàu dần đến. Liên nghe tiếng bác phở Siêu cất lên trong niềm vui nhỏ bé:
" Đèn ghi đã ra kia rồi.". Cố ngẩng về phía tàu, Liên thấy thứ ánh sáng xa xa quên thuộc: "ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi". Và lắng nghe tiếng âm thanh phát ra từ chiếc tàu dài khổng lồ kia" còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi". Rồi trong tiếng nhẹ nhàng, Liên hối thúc em dậy để kịp nhìn tàu đến, trong khoảnh khắc ấy, cả hai đều ánh lên niềm vui khôn tả, cố căng mắt để cảm nhận hết tất thảy những ánh sáng, yêu thương và sự thú vị mà đoàn tàu mang đến. "Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi. Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kèn lấp lánh, và các cửa kính sáng. Dù hôm nào tàu cũng qua phố huyện nhưng lần nào đến tàu cũng mang lại cho hai chị em Liên cả sự tò mò và thích thú. Chuyến tàu qua được miêu tả vô cùng cụ thể, từ ánh sáng, đến hoạt động của những người trên các toa, từ âm thanh xa xa đến tiếng ồn vội vã khi tàu đến. Khi tàu đêm qua đi, chỉ còn những đốm than đỏ bay trên đường sắt và màu bóng tối lại bao trùm cũng là lúc mà trong lòng cả An và Liên đều trống rỗng, nuối tiếc.
Chuyến tàu đêm đến trong sự đợi chờ, mong mỏi và rời đi trong nỗi hụt hẫng, tiếc nuối. Chuyến tàu đêm khiến Liên nhớ về những ngày quá khứ đẹp đẽ nơi Hà Nội, khi gia đình Liên còn được sống trong những ngày vui vẻ, an yên. Chuyến tàu cũng mang đến màu sắc của tương lai, của một thế giới khác, đó là một thứ ánh sáng mới, ánh sáng của hy vọng, của niềm tin, của một thế giới khác đầy vui vẻ, an yên. Nó khác xa với thế giới của những ngọn đèn tàn, của sự tĩnh mịch, tù túng nơi đây.
Chuyến tàu đêm đi qua, ta càng thấy thương cảm cho những kiếp người nghèo khổ nơi phố huyện, họ bị cái đói, cái khổ vùi dập trong bóng tối. Nhưng trong bóng tối, trong màn đêm của sự tù túng, nhạt nhoà họ vẫn khát khao hạnh phúc, khát khao một cuộc sống tốt đẹp hơn
cho chính cuộc đời mình và mọi người. Ánh sáng của đoàn tàu chở cả những mơ ước nhỏ bé của chị em Liên, của những người dân nơi phố huyện, họ mơ ước một cuộc sống mới, huyên náo và vui vẻ, hạnh phúc và bình yên, họ luôn khát khao vươn mình trước bóng tối với sự mong mỏi về một tương lai sẽ mới mẻ hơn.
Chỉ với một chi tiết nhỏ thôi nhưng quả cái nhìn đầy nhân văn của Thạch Lam đã làm cho giá trị của tác phẩm thêm phần sâu sắc.
Câu trả lời của bạn
hạch Lam là hiện tượng đặc biệt trong văn học lãng mạn 1930-1945. Ông sở trường về truyện ngắn. Văn phong của Thạch Lam trong trèo, nhẹ nhàng, gợi cảm. Và đằng sau những trang văn tinh tế đầy cảm xúc ấy là tấm lòng trắc ẩn đối với những kiếp người nghèo khổ trong xã hội cũ.
Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Thạch Lam. Thiên truyện được in trong tập truyện ngắn Nắng trong vườn (1938). Truyện không có cốt truyện mà chỉ là thế giới tâm hồn của hai đứa trẻ Liên và An thay mẹ trông coi một gian hàng xén, đêm đêm thức đợi chuyến tàu từ Hà Nội về.
Hiện thực cuộc đời buồn tẻ, vô vọng ở phố huyện nhỏ được thể hiện qua bức tranh cảnh vật và bức tranh nhân thế.
* Bức tranh cảnh vật lúc chiều tối:
Tác giả chọn thời khắc hoàng hôn - ngày tàn. Cảnh mỗi lúc một tối hơn. Ánh sáng lụi tàn dần. Bóng tối bắt đầu lan tỏa khắp nơi; trên cái chòi, đám mây và lũy tre làng và bao trùm lên cảnh vật, gợi lên từ âm thanh của tiếng trống thu không (...) vang ra từng tiếng để gọi buổi chiều, gợi lên từ màu sắc: Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn.
Đó là cảnh vật phố huyện nghèo nàn, xơ xác tiêu điều: tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái kêu ra, cảnh chợ tàn, trên nền đất chỉ còn rác rưởi, một miền đất như đang lụi tàn trong quên lãng.
* Bức tranh nhân thế:
Trong cảnh xơ xác, tiêu điều ngập đầy dần bóng tối là những cuộc đời đầy bóng tối: Những đứa trẻ nghèo vờ vật trong buổi chiều tàn. Mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt tép, tối lại đội cái chõng tre tàn ra sân ga bày bán với một hi vọng còm cõi như chõng hàng của chị. Bà cụ Thi xuất hiện trong bóng tối và trở về cũng đi lần vào bóng tối... Thấp thoáng sau họ là một bà cụ móm phải cho thuê bớt một gian hằng ọp ẹp, một người cha mất việc. Bao quanh họ là những đồ vật tàn: những tấm phên nứa dán nhật trình, cáo chõng sắp gãy..
Tất cả những con người ấy sống đơn điệu từ ngày này qua ngày khác. Nhịp sống lặp đi không thay đổi nói lên cái mòn mỏi, vô nghĩa của kiếp người trong xã hội cũ. Con người không chỉ chịu đựng cuộc sống nghèo mà còn phải chịu đựng cuộc sống uể oải, nhàm chán.
Nhưng nhân vật của Thạch Lam dường như còn mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ. Họ chờ đợi cái gì không rõ, chỉ thấy nỗi lòng thương xót của nhà văn.
* Nổi bật trong bức tranh phố huyện mù tối ấy là hai đứa trẻ, đặc biệt là cô bé Liên
Nhân vật Liên trong thời khắc chiều tối gây ấn tượng cho người đọc ở sự nhạy cảm và chiều sâu tâm hồn: cảnh thiên nhiên trong ánh nắng chiều lặng trầm và u uất làm Liên buồn man mác trước thời khắc của ngày tàn. Liên thương những đứa trẻ nhặt rác ở bãi chợ.
Nhà văn như hóa thân vào nhân vật để day dứt về kiếp sống vô nghĩa, lụi tàn.
* Những nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của tác giả.
Hai đứa trẻ là truyện ngắn giàu chất thơ:
+ Chất thơ tỏa ra từ cảnh vật quê hương: không gian chiều là không gian quen thuộc, cảnh bình dị nhưng giàu sức gợi. Mùi vị quê hương hiện lên chân thực và thú vị.
+ Chất thơ tỏa ra từ bức tranh đời sống u buồn, hiu hắt.
+ Chất thơ còn tỏa ra trong cách tác giả miêu tả hồn người, tác giả tinh tế trong việc nắm bắt những rung cảm mơ hồ trong tâm hồn nhân vật.
Hệ thống lời văn, hình ảnh góp phần làm ngôn ngữ miêu tả của tác phẩm đầy chất thơ.
Đằng sau bức tranh phố huyện, đằng sau những kiếp người mòn mỏi là tư tưởng nhân đạo của tác giả. Đó là lòng yêu nhân ái, nỗi day dứt trước những cuộc đời đơn điệu, nặng nề. Là tâm hồn tinh tế, đồng cảm với nỗi khổ và khao khát ánh sáng của họ. Nghệ thuật miêu tả đặc sắc của tác giả góp phần thành công cho thiên truyện.
Câu trả lời của bạn
Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, nếu như Nguyễn Tuân được biết đến là nhà văn miệt mài đi tìm cái đẹp khác biệt, phi thường với phong cách tài hoa, uyên bác thì Thạch Lam lại khám phá những điều tưởng chừng như nhỏ bé và rất đỗi đời thường, bình dị trong cuộc sống của con người. Điều này được thể hiện rõ thông qua tác phẩm “Hai đứa trẻ”. Đây là truyện ngắn thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của nhà văn Thạch Lam. Trong thiên truyện mang âm hưởng man mác buồn thấm đẫm âm hưởng trữ tình, tác giả Thạch Lam đã miêu tả thành công tâm trạng của cô bé Liên đêm đêm thức đợi chuyến tàu đi qua phố huyện.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là mẩu chuyện xoay quanh cuộc sống sinh hoạt thường nhật của hai chị em Liên và An. Ở mỗi phân đoạn của thiên truyện, ngòi bút tinh tế của Thạch Lam đều lách sâu vào tâm trạng của nhân vật để miêu tả những cảm xúc tưởng chừng như rất đỗi giản đơn, đặc biệt là tâm trạng của Liên khi thức đợi xem chuyến tàu đi qua phố huyện. Đối với Liên và An, hình ảnh chuyến tàu đi qua phố huyện chính là ánh sáng đẹp nhất chất chứa những niềm hi vọng nhỏ nhoi về một thế giới khác. Giữa ánh sáng le lói trong màn đêm dày đặc bao trùm phố huyện, dù buồn ngủ nhưng An và Liên vẫn cố thức đợi những chuyến tàu. Bởi vậy, khi nghe thấy thanh âm tiếng còi tàu từ xa vọng lại, trong lòng Liên đã háo hức mong chờ và ngóng đợi. Khi đoàn tàu tiến lại gần hơn, Liên cuống quýt gọi em dậy với sự giục giã như sợ hãi khi để vụt mất một điều đáng quý và đáng trân trọng. Như vậy, hai chị em Liên mong chờ chuyến tàu qua phố huyện để gửi gắm những ước mơ, hi vọng chất chứa trong tâm hồn để thỏa mãn đời sống tinh thần.
Khi con tàu rầm rộ đi đến với những luồng sáng mới mẻ, Liên nắm tay em để ngắm nhìn đoàn tàu vụt qua. Dù đoàn tàu đến và đi nhanh chóng chỉ trong thoáng chốc nhưng đủ để Liên quan sát và chiêm ngưỡng “các toa đèn sáng trưng, chiếu cả xuống đường”. Liên xúc động “lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Như vậy, khi ngắm nhìn những đoàn tàu vụt qua phố huyện, Liên như được sống trong một thế giới mới tươi đẹp và sôi động hơn. Liên ngắm nhìn những luồng sáng rực rỡ mà con tàu đem đến, khác hẳn với ánh đèn dầu tù mù leo lét của quán hàng nước nhà chị Tí và ngọn lửa của bác Siêu. Con tàu còn đem đến những âm thanh náo nhiệt của dòng người tấp nập, huyên náo cùng tiếng bánh xe lăn trên ray tàu xua đi không khí tĩnh lặng man mác buồn nơi phố huyện nghèo.
Khi “chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay trên đường sắt”, hai chị em vẫn dõi theo “cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa mãi rồi khuất sau rặng tre” như muốn níu lại khoảnh khắc bừng sáng mà con tàu đem đến khi qua phố huyện. Và sau đó, hai chị em nhanh chóng quay trở về hiện thực với nỗi buồn man mác. Dù con tàu đến và đi chỉ trong thoáng chốc nhưng đủ thắp lên những niềm hi vọng nhỏ bé trong tâm hồn Liên.
Như vậy, cảnh Liên đợi con tàu đi qua phố huyện đã thể hiện rõ giá trị nhân đạo và hiện thực của thiên truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Qua hình ảnh đoàn tàu, tác giả Thạch Lam đã gián tiếp tô đậm bức tranh cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu mang tính tuần hoàn, tù túng nơi phố huyện nghèo. Đồng thời, những ánh sáng rực rỡ và thanh âm đông đúc vụt qua mà con tàu đem đến còn có ý nghĩa đem cuộc sống ồn ào, tấp nập nơi thị thành về nơi phố huyện. Con tàu đối với Liên là một niềm say mê bởi nó thắp lên trong Liên hi vọng về tương lai mới, đồng thời đánh thức cuộc sống quá khứ tốt đẹp. Chuyến tàu chợt đến chợt đi còn giúp Liên nhận thức rõ hơn về cuộc sống của phủ đầy bóng tối của người dân nơi phố huyện. Đồng thời, chúng ta có thể thấy được niềm đồng cảm, xót thương của nhà văn đối với những con người sống kiếp lay lắt, tàn tạ, quẩn quanh bế tắc.
Qua dòng tâm trạng của Liên khi thức đợi chuyến tàu đi qua phố huyện, chúng ta có thể thấy được biệt tài khai phá những điều bình dị, đời thường của nhà văn Thạch Lam. Chất tự sự đã chuyển hóa thành chất trữ tình với phong vị man mác buồn để tạo nên một thiên truyện ngắn đầy chất thơ.
Câu trả lời của bạn
BỨC TRANH PHỐ HUYỆN TRONG TÁC PHẨM HAI ĐỨA TRẺ
Giữa bộn bề phồn tạp buổi chợ phiên văn chương, giữa náo nhiệt đông đúc của gian hàng lãng mạn, Thạch Lam được xem như một khách hàng đặc biệt. Con người của Tự lực văn đoàn ấy đã không đưa ta tới những chân trời phiêu du, mộng tưởng của những tình yêu, khát vọng thường thấy trong trời lãng mạn mà dắt ta đi vào giữa cõi đời ta đáng sống. Con người dịu dàng nhân ái ấy đã nguyện gắn ngòi bút của mình với những kiếp người đau khổ, vẫn luôn trân trọng sự sống bình yên chốn phố huyện nghèo để rồi khắc họa bức tranh ấy vào những trang văn của mình trong tác phẩm Hai đứa trẻ.
Thạch Lam tuy là thành viên trong Tự lực văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ lại theo một hướng riêng. Ông đã hướng ngòi bút của mình về phía những người nghèo khổ với tấm lòng trắc ẩn chân thành. Thế giới nhân vật của Thạch Lam thật nhỏ bé và tội nghiệp. Trong đêm tối mênh mông của ga xép quạnh quẽ, các nhân vật hiện ra như những mảnh đời nhỏ bé, âm thầm. Các nhân vật yên lặng nhiều hơn cử động, nghĩ nhiều hơn nói. Họ tựa hồ như cái bóng âm thầm trong bóng đêm rộng lớn vô cùng, trong cái bóng đêm của kiếp người, trong cái bóng tối lờ mờ của những ngọn đèn không đủ sáng.Truyện ngắn của Thạch Lam không có cốt truyện mà chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những xúc cảm mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày. Mỗi truyện như một bài thơ trữ tình đượm buồn, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa biết bao tình cảm yêu mến chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người. Đó chính là nét đặc biệt “có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở nơi đây” khiến ta vương vấn . “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật trữ tình lãng mạn độc đáo của Thạch Lam. Toàn bộ câu truyện diễn ra như một thước phim chậm rãi về một phố huyện nghèo xung quanh chị em Liên vào một buổi chiều tối mùa hè. Không có thắt nút, không có mở nút nhưng truyện ngắn dễ dàng đi vào tâm trí người đọc bởi một nỗi buồn sâu lắng mà rất đẹp - vẻ đẹp của một cuộc sống bình thường được Thạch Lam khám phá ra.
Có lẽ, buổi chiều luôn là khoảnh khắcmà khiến con người ta dễ mang nhiều niềm cảm xúc buồn bâng khuâng, man mác.Bởi buổi chiều luôn tĩnh lặng, êm đềm như thế, buổi chiều luôn là thời gian của sum vầy, là thời gian con người được nghỉ ngơi sau một ngày dài lê thê, mệt mỏi.Bởi thế, với những câu đầu của tác phẩm , Thach Lam đã vẽ ra bức tranh buổi chiều ở phố huyện để làm cho chúng ta cảm giác được sự buồn bã và tẻ nhạt đầu tiên ở phố huyên ngay đoạn mở đầu tác phẩm. Hoàn cảnh buổi chiều nơi phố huyện bắt đầu với “tiếng trống thu không… từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”, tiếng trống thu là tiếng trống đánh dấu sự khép lại của ngày dài, từng hồi tiếng một buông ra nghe thật thảm thiết não nề, đượm buồn. Tiếng trống thu như đang thúc giục gọi buổi chiều man mác,điểm nhịp cho cuộc sống nặng nề trôi. Một không gian yên tĩnh đến nỗi tác giả còn có thể nghe được cả tiếng muỗi vo ve. Và phía xa xa tiếng ếch nhái văng vẳng từ ngoài đồng xa vọng lại. Phía trước nhà là tiếng chõng cũ nát kêu cót két, tàn tạ. Cả đất trời như chan chứa một khoảng không tĩnh mịch, êm ả đượm chút buồn, thê lương đến ảm đạm. Một loạt các âm thanh động cộng hưởng với nhau cũng không có sức để khuấy động mà lại gợi ra một không gian tĩnh lặng, vắng vẻ đến nao lòng. Bút pháp tài tình lấy động tả tĩnh của Thạch Lam thật khiến lòng người rung động.Cái độc đáo của Thạch Lam ở chỗ ông chẳng cần dùng những nét vẽ cao xa mà chỉ cần phẩy tay vấy hồn cho những cảnh đơn sơ, mộc mạc cũng đã khiến nó trở lên thật tuyệt tác. Bên cạnh những âm thanh đặc trưng nhà văn còn đan xen thêm những đường nét, hình ảnh và màu sắc chân thực của bức tranh phố huyện lúc trời chiều. Đó là “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Mặt trời đang dần nghiêng bóng về phía tây, những ánh nắng không còn chói chang, sức sống nhữ buổi trưa nữa mà đã chuyển dần sang màu đỏ rực, lóe lên lần cuối trước khi lụi tàn. Dấu hiệu của sự lụi tàn đang chập chững buông xuống, bóng tối đang xâm lấn vào từng thớ đất, thớ trời.Những “dãy tre làng trước mặt đen lại cắt hình rõ rệt trên nền trời” khiến cho sự ảm đạo bao trùm lên cảnh vật khi bóng tối dần bủa vây xung quanh. Với nhịp điệu chậm, bằng cảm hứng lãng mạn, tinh tế Thạch Lam đã gợi lên bức tranh thiên nhiên thôn dã đẹp, êm đềm ,thơ mộng mang hồn quê Việt Nam.
Hoàng hôn buông, chợ họp giữa phố vãn từ lâu, chỉ còn thấp thoáng vài bóng người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa. Rồi những ngườiấy ra về, chỉ còn bãi chợ lặng ngắt, trống trơ. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị,… và một mùi ẩm mốc rất đặc trưng của phiên chợ nghèo. Chợ là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê, biểu hiện thuần phong mĩ tục của làng quê. Người ở nông thôn thường trông chờ vào ngày chợ phiên đông vui, tấp nập. Thạch Lam đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ, tiêu điều của phố huyện. Mặc dù không tả buổi chợ phiên nhưng ông đã tả những phế phẩm còn lại của buổi chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống đầy hay vơi của phố huyện. Mấy đứa trẻ lom khom đi đi lại lại tìm tòi, nhặt nhạnh thanh tre, thanh nứa hay bất cứ thứ gì có thể dùng được của những người bán hàng còn để lại. Kiếp sống của những đứa trẻ nhặt rác sao lầm lũi, cơ cực, vô vọng đến vậy. Cảnh chợ quê, chợ huyện vốn đã nghèo xơ xác, tiêu điều nay lại càng tiêu điều, xác xơ hơn. Cảnh vật trong truyện của Thạch Lam thật khiến ta nhớ đến những câu thơ trong “Tràng Giang” của Huy Cận:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Trong bức tranh cảnh sinh hoạt nổi bật lên với hình ảnh của những kiếp người tàn. Tại sao lại gọi là kiếp người tàn ? Bởi cuộc đời những con người ấy là chuỗi dài những cơ cực, khổ đau, họ bị cuộc sống nghèo nàn bủa vây, đeo đuổi. Không phải những người nông dân bị rượt đuổi bởi sưu cao thuế nặng, đồng tiền bát gạo như trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Nam Cao. Không phải những ông quan Tây học, cô gái thôn quê sống an nhàn dưới nếp khói lam chiều như trong sáng tác của Nhất Linh, Hoàng Đạo. Phận người mà Thạch Lam quan tâm là những kiếp người bé mọn vô danh, sống lụi tàn trong một xã hội đen tối mịt mùng. Thạch Lam đã viết về họ bằng tất cả niềm ai hoài cảm thương rung lên từ “chân cảm” của mình. Bắt đầu từ những đứa trẻ con nhà nghèo ở khu bên chợ, rồi đến mẹ con chị Tí loay hoay, mệt nhọc với gánh hàng mà cũng chả kiếm được bao nhiêu; là bà cụ Thi với tiếng cười ám ảnh, chua chát và đầy ngao ngán. Phải chăng vì cuộc đời bà đã quá khổ, đã nếm trải đủ đắng cay, đã khóc quá nhiều đến nỗi nước mắt đã cạn, giờ đây chỉ biết lấy tiếng cười than thay cho nỗi lòng xót thương, rồi đến cả chị em Liên còn bé nhưng đã phải đối mặt với sức lo cơm áo gạo tiền, vốn cái tuổi được ăn chơi học hành nhưng các em đã phải phụ mẹ bán hàng kiếm tiền trang trải cho cuộc sống, cả mẹ Liên cơ cực gồng gánh cả gia đình.Bức tranh sinh hoạt càng khiến cho phố huyện lúc nhá nhem thêm tàn phai, héo úa, số phận con người hiện lên thật nhỏ bé, rẻ rúm và đáng thương. Đây chính là thực tại miền Bắc nước ta một thời.
Màn đêm dần buông xuống là lúc phố huyện đang dần chìm sâu trong bóng đêm tăm tối, mênh mông. Cảnh đêm tối ấy như gợi lên cho người đọc được sắc màu, màu của bóng tối như bao chùm lên tất cả nơi phố huyện này “tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Cái bóng tối đáng sợ ấy như ám ảnh con người nơi đây, nó thống trị tất cả từ con người đến cuộc sống. Ánh sáng không phải không có, nhưng nó chỉ là ánh sáng từ ngọn đèn chị Tí, bếp lửa của Bác Siêu, quầng sáng, vệt sáng, hệt sáng của đom đóm, ngôi sao lấp lánh. Những thứ ánh sáng ấy chỉ là ánh sáng nhỏ bé ,yếu ớt không đủ sức để xé tan màn đêm mà như càng làm cho bóng tối trở nên mênh mông hơn, tối tăm hơn.
Cuộc sống của những người dân nơi đây chỉ là những chuỗi ngày tẻ nhạt, đơn điệu, lặp đi lặp lại như cỗ máy được lập trình sẵn giống như thơ Huy Cận từng viết:
“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện”
Niềm vui duy nhất để khuây khỏa nỗi hắt hiu chỉ là đêm nào những người dân phố huyện và chị em Liên cũng mỏi mắt cố gắng chờ đợi một chuyến tàu đi qua “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.Chuyến tàu mang đến một thế giới khác ánh sáng xa lạ “ ngọn lửa xanh biếc “ , “ các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường “ ,âm thanh náo nức “ tiếng xe rít mạnh vào ghi “, tiếng ồn ào của khách.Chuyến tàu ấy mang theo một thứ ánh sáng duy nhất như con thoi xuyên thủng màn đêm dù chỉ trong chốc lát cũng đủ xua tan sự tối tăm ảm đạm nơi phố huyện.
Bức tranh của phố huyện mà Thạch Lam vẽ lên thật chân thực.Thiên nhiên bao bọc truyện với nhiều trạng thái phong phú. Tác giả còn chú ý khắc họa được cảm giác mơ hồ về giờ khắc của ngày tàn, về vũ trụ thăm thẳm bao la rất gần gũi với những tứ thơ lãng mạn “mang mang thiên cổ sầu“. Nét hòa đồng với thiên nhiên một cách dịu dàng của làng quê Bắc Bộ là một nét cảm giác rất quen thuộc và gần gũi mang sắc thái dân tộc .Đặc biệt tác giả còn sử dụng mô típ bóng tối.. Bóng tối bao trùm cảnh vật và con người, bóng tối như một ám ảnh, như một sự hăm dọa, như một quái vật đè nặng lên cảnh vật và con người. Tác giả nhắc đến bóng tối nhiều lần bằng những hình ảnh và ngôn từ khác nhau “buổi chiều hòn than sắp tàn”, “mặt đen lại”, “chiều, chiều rồi”, “bóng tối ngập đầy”, “bước của buổi chiều”, “ngày tàn”.
“Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, lẩn khuất khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở những chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật để cho người đọc trông nhìn và thưởng thức”.Thạch Lam không đơn giản chỉ vẽ lên trước mắt một bức tranh phố huyện bình thường mà tác giả đã vẽ lên bức tranh chân thực mang cho mỗi người một cảm xúc thật bâng khuâng, chiêm nghiệm.Bức tranh phố huyện trong tác phẩm Hai đứa trẻ đã đưa chúng ta đến những chân trời của thiên nhiên làng quê bình dị, mộc mạc, mang cốt cách Việt Nam.
Thạch Lam là cây bút trưởng thành trong nhóm Tự lực văn đoàn với phong cách sáng tác không thể lẫn lộn với bất cứ nhà văn nào. Những trang viết của ông nhẹ nhàng, sâu lắng, man mác và dìu dặt. Đó như là những lời tâm tình thủ thỉ nhưng lại có sức ám ảnh đối với người đọc. Những câu chuyện ông kể thường không có cốt truyện, bởi mọi thứ được viết bởi một chất liệu nhẹ và sâu nhất. "Hai đứa trẻ" là một câu chuyện như vậy. Truyện ngắn này đã vẽ lên bức tranh phố huyện nghèo với những mảnh đời nghèo khó, cơ cực trong xã hội.
Thạch Lam luôn khiến cho người đọc nhận ra được sự tinh tế trong tâm hồn, trong những câu văn. Sự nhẹ nhàng đã làm nên nét độc đáo trong văn của Thạch Lam. "Hai đưa trẻ" là câu chuyện xoay quanh cuộc sống của An và Liên tại phố huyện nghèo với những công việc nhàn nhạt được lặp đi lặp lại hằng ngày. CŨng qua hai nhân vật này, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc nhiều thông điệp về cuộc sống, về những khó khăn mà con người đã trải qua.
Chất liệu làm nền cho câu chuyện chính là khung cảnh phố huyện nghèo luôn chấp chới, ẩn hiện trong mỗi trang viết. Có lẽ chính bức tranh là gợi nên cảm hứng để Thạch Lam bày tỏ cảm xúc của mình. Và có phải đây chính là phố huyện nghèo Cẩm Giàng - nơi mà ông đã sinh ra và lớn lên.
Khung cảnh phố huyện nghèo hiện lên ở những câu văn đầu tiên "Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ, từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều...". Một tiếng trống vang lên trong một buổi chiều sắp tàn, và có lẽ cảnh vật và con người đang đắm chìm vào trong trạng thái lơ đãng. Tại sao tác giả lại lựa chọn một buổi chiều mùa thu để làm cảm hứng vẽ lên bức tranh phố huyện? Là bơi mùa thu luôn gợi buồn, gợi nhớ, gợi nhiều xúc cảm nhất. Hình ảnh hai đứa trẻ xuất hiện với những công việc thường ngày "thắp đèn" rồi "đóng quan" và ngắm nhìn đoàn tàu chạy từ Hà Nội trở về, vụt sáng lên và rồi lại rơi vào hụt hẫng.
Hình ảnh phố huyện buổi chiều tà được tác giả phác họa qua những chi tiết "Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá khiến chị em Liên tường là mùi riêng của đất, của quê hương này. Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu". Đó chính là khung cảnh của khu phố nghèo lúc ngày đã tàn, một sự héo úa, tàn phai và cả sự tiêu điều hiu quạnh hiện lên trước mắt người đọc. Có lẽ đây chính là hiện thực thời bấy giờ ở miền bắc nước ta. Mọi thứ dường như chông chênh, không điểm nhấn, không sức hút và dường như không có sự sống. Tất cả chỉ là những điều bình dị, gần gũi nhưng lại phảng phất nghèo đói.
Những câu văn mềm mại, mượt mà diễn tả một không gian đìu hiu, vắng lặng ở phố nghèo. Trên cái nền u ám đó xuất hiện bóng dáng những đứa trẻ nghèo "Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh trem hay bất cứ cái gì có thể dùng được. Liên động lòng nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng". Một bức tranh thêm ảm đảm hơn khi những con người nghèo khổ xuất hiện, dường như đã nhân đôi cái nghèo, cái khốn khó của mảnh đất này. Và người đọc thấy toát lên vẻ đẹp tâm hồn của Liên,thánh thiện và cao cả.
Trong bức tranh làng quê nghèo ấy còn có rất nhiều số phận khác nữa, tất cả đã tạo nên sự hỗn độn của phố huyện buổi chiều tàn. Đó là hình ảnh mẹ con chị Tí dọn hàng nhưng "chả kiếm được bao nhiêu". Hay chính là hình ảnh của chị em Liên từ khi dọn về phố nghèo này, hai chị em bán hàng giúp cho mẹ trên một gian hàng bé thuê lại của người khác, một tấm phên nứa dán giấy nhật trình.
Những con người lẳng lặng, những con người cần mẫn lặng nhìn cái nghèo đói diễn ra trước mắt nhưng cũng không thể làm gì được.
Xen lẫn những con người nghèo khổ vật chất còn là hình ảnh bà cụ Thị bị điên vẫn thường hay mua rượu tại cửa hàng nhà liên. Hình ảnh bà cụ thi "ngửa cổ uống một hơi sạch, đặt 3 xu vào tay liên và lảo đảo bước đi" khiến người đọc chạnh lòng về một khiếp người, một đời người dật dờ, không bến đỗ.
Giữa chốn phố huyện này, dường như ai cũng mong ngóng một chuyến tàu từ Hà Nội chạy về đây mang theo sự ồn ào, huyên náo và tấp nập hơn nữa. Có lẽ chuyến tàu có ý nghĩa to lớn đối với những phận người nơi mảnh đất này. Bởi "con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua"/ Đó có thể là thế giới có sự phồn hoa ngày xưa của hai chị em Liên, có cuộc sống sung túc và bình an hơn.
Chuyên tàu có lẽ chính là ước mơ, là khát vọng được vươn ra ánh sáng của những con người tại phố huyện nghèo này.
"Hai đứa trẻ" là một câu chuyện nhẹ nhàng, không có tình huống gay cấn những lại khiến cho người đọc thấy ám ảnh về những mảnh đời, mảnh đất nghèo nàn những năm đất nước ta còn chìm trong bom đạn.
Câu trả lời của bạn
Hẳn các bạn đã từng thả hồn mình cho bóng hoàng lan rũ xuống để thưởng thức giọng văn tươi mát dịu ngọt "ngon lành như cánh bướm non" của Thạch Lam? Và với giọng văn quyến rũ ấy ông đã gây được nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng người đọc khi miêu tả bức tranh đời sống phố huyện lúc về chiều. Hai đứa trẻ xuất bản năm 1938 in trong tập "nắng trong vườn". Đã gọi là nắng trong vườn thì làm sao có được những cảnh ồn ào nhộn nhịp khẩn trương nơi đô thị. Buổi chiều nơi phố huyện thật lặng lẽ và cô quạnh. Không gian êm ả đâu đó có tiếng động là tiếng của côn trùng nỉ non ngoài bãi cỏ. "Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào". Nhịp điệu câu văn như buông chùn, kéo dài gợi nỗi buồn man mác khó lí giải. Không phải tác giả giật mình nhận ra chiều đang tới mà có lẽ hình ảnh buổi chiều đã in đậm sâu trong tâm hồn người nên câu văn "chiều, chiều rồi" chỉ đọc ba tiếng nhưng tiết tấu của nó ngân vang toàn tác phẩm. Âm thanh thiên nhiên biểu hiện qua tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái bên bờ ruộng xa xa... Thạch Lam đã lấy ngày tàn làm nền bóng tối là gam màu chủ yếu, bóng tối quê nhà như phủ đầy phố huyện, phủ lên số phận cô đơn tủi cực của một số kiếp người, trong đôi mắt Liên thì con đường phố huyện thăm thẳm tăm tối, gian hàng phở của Bác Siêu, manh chiếu của người xẩm mù hay hàng nước của chị Tí đầy bóng tối. Những ánh đèn leo lét hắt ra từ những ngôi nhà phố huyện tăng thêm đêm tối mịt mù.
Tuy nhiên, dười ngòi bút tinh tế và nặng lòng gắn bó với quê hương thì bức tranh quê hiện lên bình dị và có phần nên thơ. Đó là đời sống phố huyện nghèo được miêu tả chân thực, cảm xúc trữ tình đã gây cho ta buồn thương day dứt về số phận của con người.
Hình ảnh những đứa trẻ nghèo hèn nhặt nhạnh bất cứ thứ gì còn sót lại, cái người ta vứt trên nền chợ đã làm Liên động lòng thương, Liên rất muốn giúp đỡ chúng nhưng chính chị cũng không có tiền kia mà ! Cái nghèo cái đói đã cướp đi ba dự định tốt đẹp vốn có tính truyền thống "lá lành đùm lá rách" của đạo lí Việt Nam. Và ở đâu đấy còn biết bao hình ảnh thương tâm khác đang diễn ra tương tự trong âm thầm lặng lẽ... Đó là mẹ con chị Tí dọn hàng để rồi thu xếp hàng về vì chẳng có ai buồn ghé lại uống cho chị vài bát nước. Chị vẫn ngồi đó, ngồi để làm bạn với lũ ruồi, ngồi để hi vọng về một điều gì. Bác phở Siêu cũng vậy, ở xứ sở mà người ta chỉ dám mua một phần hai bánh xà phòng thì hàng của bác quả là 1 thứ xa xỉ chả ai dám mò đến...Họa chăng người ta chỉ nhắc đến nó với niềm tiếc rẻ về 1 kỉ niệm xa xôi...Qua giọng văn miêu tả ta cũng thấy rõ sự ế ẩm chán nản mòn mỏi nơi phố huyện về đêm. Có lẽ hình ảnh đau lòng hơn cả là gia đình bác xẩm mù bên manh chiếu rách. Thời buổi người ta ko còn lòng thương để lo cho cho chình mình thì làm sao bác xẩm có thể khơi gợi lòng thương từ người khác ? bác sờ sẫm cuộc đời mình trong bóng tối ? có lẽ mọi bế tắc của cuộc đời đều dồn về với bác, bác không thấy ánh sáng bình thường cuộc đời và bất hạnh hơn khi trông thấy được tương lai phía trước. Rồi lại đột ngột xuất hiện tiếng cười trong chuyện một kiểu Chí Phèo thứ 2. Đó là bà cụ hơi điên tên Thi, một cuộc đời vô cị ko nghĩa lí cũng tiếng cười man rợ. Đó là cả cuộc sống bế tắc hoàn toàn ko vui buồn hờn giận. Cả phố huyện dường như bị tê liệt hay mắc chứng bệnh tự kỉ. Chị em Liên cũng vậy hết dọn hàng rồi lại kiểm hàng mà quanh đi quẩn lại chỉ mấy bánh xà phòng mấy món vặt cũng tạo thành "gian hàng" của chị. Chính sự lặp lại nhàm chán ấy làm cho họ không màng suy nghĩ không màng trò chuyện với nhau. Chợ huyện lạ thật , họ chỉ hỏi nhau và trả lời theo quán tình vì có chuyện gì đâu để nó với nhau. Quanh đi quẩn lại thì vẫn:
- Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế?
- Cô chưa dọn hàng à?
Rồi những câu trả lời dường như được sắp xếp sẵn, có khi vừa hỏi thì nó đã bật ra tiếng cười trả lời: "ối chao sớm với muộn mà có ăn thua gì". Cuộc sống của họ như mòn đi. Mẫu đối thoại rời rạc, câu trả lời nhiều lúc giật mình ta mới nhận thấy người ta nói để có chuyện chứng tỏ mọi người đã hiểu nhau và ko còn gì để nó với nhau. Cuộc sống cô đọng, khép kín và nhạt nhẽo đến lạ lùng. Dường như sự băng hoại sắp sửa gặm nhắm ấy nếu họ ko có một thứ đó là lòng tin, niềm hi vọng. Phải, dù trong lòng đêm heo hút hay bán buôn ế ẩm nhưng họ vẫn tin tưởng vào một điều gì đó dù rất mơ hồ. Khi con người ta gặp nhiều đau khổ thì cần có 1 niềm tin để sống cần phải hi vọng dù đang thất vọng.
Câu trả lời của bạn
Có một nhà văn đã quan niệm rằng: "Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn", đó chính là Thạch Lam. Nhắc đến Thạch Lam, người ta thường biết đến ông với một phong cách viết truyện ngắn rất độc đáo, không theo lối mòn cốt truyện hay tình huống truyện, mà truyện của ông là truyện nhưng lại không có cốt truyện, tựa như một cuốn phim mà diễn viên tự biên tự diễn chẳng cần có kịch bản vậy. Mỗi tác phẩm, mỗi truyện ngắn của ông tựa như một bài thơ trữ tình đượm buồn, chất thơ vương vấn trong từng câu chữ, từng cái quan sát biến chuyển của dòng thời gian, sự vật. Ông thường đi sâu vào tìm hiểu thế giới nội tâm của nhân vật với những xúc cảm mơ hồ, mong manh, rất đỗi tinh tế. Và nét văn phong độc đáo như vậy ta thấy được rất rõ ràng trong tác phẩm Hai đứa trẻ, đặc biệt thông qua cảnh hai đứa trẻ ngồi đợi chuyến tàu đêm muộn, chúng ta lại cũng thấy được những thông điệp và ý nghĩa đẹp đẽ, đầy tính nhân văn mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải cho độc giả.
Có thể nói rằng đột phá của chất thơ trong toàn bộ tác phẩm đó chính là cảnh hai chị em Liên và những người dân phố huyện ngồi đợi chuyến tàu khuya, đợi một cái gì đó nhộn nhịp nào nhiệt khác hẳn với cái màu u ám, trầm buồn của khu phố tỉnh lẻ này. Những người dân nơi đây họ chờ đợi một cái gì đó tươi sáng hơn, chúng ta mới vỡ lẽ ra rằng tại sao "Chị Tí chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm", bác Siêu chẳng thấy bán được cho ai nhưng chiều nào đêm nào bác cũng gánh hàng phở ra đây, vợ chồng bác xẩm cũng hiếm người nghe hát, nhưng chiều nào cũng một manh chiếu rách ngồi đây đợi, để rồi ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ. Hóa ra không phải chỉ để mưu sinh mà họ còn cùng nhau đợi được một chuyến tàu đêm, "chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ".
Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với những sự đợi chờ mong mỏi của người dân nơi phố huyện, người ta mong đến nỗi chỉ một chút động thái báo hiệu của đoàn tàu cũng đã khiến họ vui mừng háo hức, đó là bác Siêu nghển cổ nhìn ra phía ga "Đèn ghi đã ra kia rồi", đó là ánh mắt chăm chú phóng ra đường ray của Liên thấy một "ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi", là âm thanh của tiếng còi xe lửa kéo dài trước khi vào ga. Đoàn tàu rầm rập kéo đến , tiếng bánh sắt rít mạnh vào đường ray, những toa tàu "sáng trưng", cửa kính "lấp lánh", cả tiếng người lố nhố,... Tàu đi vào đêm tối, chỉ để lại những "đốm than đỏ bay tung trên đường sắt", còn chỉ em Liên thì cứ nhìn mãi theo mấy cái chấm xanh xanh khuất dần và mất hút vào đêm tối. Hình ảnh chuyến tàu đêm đã bộc lộ rõ nét tâm trạng của người dân phố huyện. Sở dĩ nói như vậy bởi vì như nhà văn Thạch Lam đã nói "chuyến tàu như mang một chút thế giới khác đi qua", đối với người dân phố huyện thì chuyến tàu ấy có một ý nghĩa vô cùng lớn, nó đã mang lại một thứ ánh sáng khác hẳn cái ánh sáng tù mù của ánh đèn dầu, của loài đom đóm, của những buổi chiều sẩm tối dưới ánh hoàng hôn nơi phố huyện, đó là thứ ánh sáng tươi vui đến từ Hà Nội thủ đô, nơi phồn hoa nhộn nhịp. Dẫu họ cũng biết rằng ánh sáng ấy cũng chỉ đến một chút rồi lại đi mất hút, để lại sau lưng bóng tối bao trùm còn ám ảnh hơn trước đó, thế nhưng họ cam lòng đợi chờ mãi từ sẩm tối cho đến khuya đợi đến mắt díu lại buồn ngủ, nhưng họ vẫn khát khao, mong chờ. Bởi chuyến tàu nhộn nhịp mang hơi thở nhộn nhịp, tươi sáng ấy chính là một món quà của cuộc sống, giữa bộn bề cái khó khăn, đói khát mưu sinh. Cái ánh sáng rực rỡ, lấp lánh mà đoàn tàu mang lại chính là tượng trưng cho niềm khát khao, nỗi hy vọng của những con người nơi đây. So sánh với nhiều tác phẩm văn học khác, ánh sáng cũng thường được nhiều tác giả tượng trưng cho niềm khát khao, hy vọng của con người trước những tối tăm, bất lực của cuộc đời. Đơn cử như trong Chí Phèo của Nam Cao, cảnh Chí Phèo tỉnh dậy nhìn thấy ánh sáng lờ mờ lọt vào căn lều ẩm thấp của mình, khao khát được trở lại làm người lương thiện, được hạnh phúc của hắn đã trỗi dậy, hay trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, ánh sáng trên bếp lửa mà Mị vẫn thường hơ tay, hơ lưng cũng phản ánh những khao khát mãnh liệt trong tâm hồn Mị, và trong Vợ nhặt, nhân vật Tràng mua hai hào dầu về thắp lửa cho căn nhà sáng sủa lên trong đêm tân hôn cũng phản ánh cái khao khát, hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn của anh.
Tâm trạng của hai đứa trẻ cũng có nhiều những xao động, An còn nhỏ, cậu đợi tàu trong cái tâm trạng nôn nao háo hức, chuyến tàu đối với An đó chính là một món quà, thú vị, khơi gợi trong tâm hồn em những tưởng tượng phong phú. Chuyến tàu ấy đã thay thế, khỏa lấp đi những thiếu sót tuổi thơ em, bởi vì gia cảnh nghèo khó em không được có những món đồ chơi đẹp đẽ, không có những chuyến đến khu vui chơi, mà chỉ được quanh quẩn bên gian hàng nhỏ, nơi phố huyện mịt mù tăm tối. Còn với Liên đoàn tàu lại mang nhiều ý nghĩa khác, mang đến cho cô bé mới lớn những xúc cảm tinh tế, "tâm hồn Liên Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm xúc mơ hồ khó hiểu". Còn tàu gợi nhắc Liên về một thời quá vãng, đó là một cuộc sống nơi phố thị Hà Nội, đó là khi nhà Liên còn khá giả, Liên được thưởng thức những món quà vặt ngon miệng, được đi chơi đây đó, đâu đâu cũng là những ánh đèn sáng rực và lấp lánh. Nhưng ngày đó đã quá xa và có lẽ cuộc đời Liên mãi phải chôn chân ở cái phố huyện nghèo nàn và tối tăm này, chuyến tàu càng giúp Liên nhận thức rõ hơn về cuộc sống bế tắc, nghèo khổ hiện tại của những con người nơi đây. Thông điệp chính mà Thạch Lam muốn nhắn nhủ ở đây rằng dẫu cuộc sống có khốn khó, vất vả và bế tắc đến chừng nào thì con người ta vẫn không bao giờ được thôi khát vọng, thôi mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp và tươi sáng hơn. Những hy vọng, khát khao ấy vẫn luôn tiềm ẩn trong mỗi con người dù già hay trẻ và chúng được nuôi dưỡng bằng một tâm hồn lạc quan, yêu đời, bằng tình thương cảm, gắn kết những con người với nhau. Dẫu có là cảnh tượng ngày tàn, chợ tàn hay những kiếp người tàn, thì chí ít vẫn có những tâm hồn non trẻ, những tâm hồn kiên cường như chị em Liên và những con người như bác Siêu, chị Tí, vợ chồng bác xẩm không tàn. Họ vẫn sống, vẫn lao động và cố gắng từng ngày, vẫn hằng hy vọng và mơ ước thoát khỏi cái cuộc đời tăm tối, u buồn nơi phố huyện mà tượng trưng chính là chuyến tàu Hà Nội về đầy ánh sáng rực rỡ, tươi vui.
Với văn phong viết truyện chậm rãi, lãng mạn, là truyện nhưng không có cốt truyện, Thạch Lam đã mang đến một tác phẩm rất đỗi tinh tế, với giọng điệu đầy tính nhạc và chất thơ êm đềm. Khắc họa rõ nét khung cảnh làng quê Việt Nam trước cách mạng, chất chứa những nỗi u buồn, khó nhọc, thông qua đó nhà văn bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc đối với cuộc sống của những con người quẩn quanh bế tắc. Đồng thời trân trọng niềm hy vọng dẫu rất mong manh của họ về một cuộc sống tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn thông qua cảnh đợi tàu của chị em Liên và nhắn nhủ những thông điệp về tinh thần sống lạc quan của con người. Đó chính là bút pháp nhân đạo của nhà văn Thạch Lam trong những tác phẩm của mình.
Câu trả lời của bạn
1. Thạch Lam (1910 - 1942) là cây bút có tài nhất trong Tự lực Văn đoàn. Hàng loạt những truyện ngắn của ông ghi dấu ấn của một tấm lòng nhân ái , như làn gió đầu mùa se lạnh, thấm đẫm niềm cảm thông trước những số phận bất hạnh, những cuộc đời chìm trong bóng tối. Thấp thoáng trong những câu chuyện của ông bóng hình kỷ niệm của những ngày tháng đã hằn sâu trong ký ức tuổi thơ Thạch Lam. Hai đứa trẻ, tác phẩm thấm đượm tình người, như minh chứng tiêu biểu cho một tấm lòng nhân ái.
2. Có người đã nhận xét, mỗi truyện ngắn Thạch Lam như một bài thơ trữ tình. Thế Lữ, một người bạn của ông đã nhận xét: "Sự thực của tâm hồn mà Thạch Lam diễn trong lời của văn chương phức tạp nhiều hình nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương". Tình thương với con người trong Hai đứa trẻ hình thành trên nền không gian phố huyện nghèo đầy bóng tối, với những cuộc đời lầm lụi, vất vả mưu sinh: mẹ con chị Tý, bác phở Siêu, gia đình bác Xẩm. Nhưng những nhân vật được ông dành cho "chút lệ thầm kín", yêu thương chân thành nhất có lẽ là hai chị em Liên và An. Bởi hai đứa trẻ chính là một mảng đời nghèo túng của hai chị em Thạch Lam tại phố huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Thế giới phố huyện hiện ra qua góc nhìn trẻ thơ chứa đựng những bí mật mơ hồ. Hơn ai hết, Thạch Lam hiểu rõ tâm trạng của những em bé không có tuổi thơ khắc khoải, đau đớn thế nào, bởi đó chính là những gì nhà văn đã từng trải nghiệm. Tất thảy những gì nhà văn đem đến trong câu chuyện không có cốt truyện này: không gian đìu hiu phố huyện, thời gian đi dần vào đêm khuya, đến những khoảnh khắc sống của Liên và An chờ đợi chuyến tàu cuối cùng băng qua phố huyện... mang ý nghĩa thông điệp của một tấm lòng chân thành : đừng bao giờ lãng quên những cuộc đời trong bóng tối! Và chính ông là người đã khơi dậy những nguồn sáng lạ kỳ để mỗi người đọc chúng ta thấm thía vẻ đẹp bình dị và sâu sắc của con người.
3. Thạch Lam là người ý thức rõ hơn hết về thiên chức của người cầm bút chân chính trong lời tựa Gió đầu mùa : "Văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên. Mà trái lại văn chương là một thứ khí giới đắc lực và thanh cao mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác; vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn lên". Quan niệm ấy đã thể hiện trên từng trang văn, từng dòng cảm xúc ở Hai đứa trẻ, làm nên phẩm chất hàng đầu ở văn Thạch Lam, làm người đọc được sống cùng thế giới của lòng nhân ái. Tấm lòng ấy giúp ông tạo dựng được không khí thắm đượm tình người, đi sâu khai phá những vẻ đẹp rất người và nói lên những tâm tình khát vọng con người. Người đọc có dịp thẩm thấu những nét đời thường một cách tinh tế mà nếu vô tình chúng ta rất dễ bỏ qua, trong một câu chuyện đan xen những yếu tố hiện thực - thi vị trữ tình, với những ấn tượng và cảm giác không thể phai mờ về cuộc sống và con người phố huyện.
4. Đó là cuộc sống đã được nhà văn tái hiện bằng tất cả những ấn tượng đậm nét nhất của một thời dĩ vãng. Không gian được dựng lên bằng hồi tưởng giúp ta suy tưởng sâu sắc hơn về cuộc sống của con người trong những hoàn cảnh đầy ám ảnh bóng tối phủ chụp lên cuộc đời. Mỗi một chi tiết của phố huyện như khơi dậy bao nỗi niềm con người. Từ một nhịp sống chậm chạp, nặng nề, rời rạc mở đầu với "tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều", một cảm giác lắng buồn cứ tăng dần cùng âm thanh "ếch nhái" đến "tiếng muỗi vo ve". Sự yên tĩnh không đem lại cảm giác êm ả cho lòng người mà tiếp liền đó là những hình ảnh hiện lên qua ánh nhìn của cô bé Liên, một đôi mắt đầy bóng tối. "Cái giờ khắc của ngày tàn" cũng mở ra những cuộc đời tàn héo.
5. Những cuộc đời ấy thấp thoáng trong quang cảnh chợ vãn: "Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất", "mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại". Những nét phác hoạ đơn sơ ấy làm tăng nét hiện thực điển hình của phố huyện. Những chi tiết ấy không chỉ chứng tỏ năng lực quan sát tinh tường của nhà văn mà còn cắt nghĩa cụ thể cho độ nhạy cảm của một tâm hồn không bỏ qua bất cứ một biểu hiện nhỏ nhặt bình thường của cuộc sống để từ đó khơi ln những liên tưởng về thân phận con người. Để rồi, ông hướng sự quan tâm của người đọc về những số phận cụ thể: mẹ con chị Tý ngày đi mò cua bắt tép, tối dọn hàng nước, chiều nào cũng thế, theo một chu kỳ đều đặn "từ chập tối cho đến đêm", một bà cụ Thy nửa điên nửa tỉnh thoáng hiện nhưng khó quên, một gánh phở bác Siêu với chấm lửa nhỏ và vàng hiện lên từ đêm tối, một gia đình bác Xẩm... những con người ấy đã tô đậm cuộc sống phố huyện về đêm, hoà cùng gian hàng tạp hoá của chị em Liên và An.
6. Cuộc sống ấy chìm trong bóng tối, ảm đạm và buồn tẻ. Ánh sáng cứ bị lấn át dần. Thạch Lam đã xây dựng bức tranh phố huyện bằng thủ pháp đối lập ánh sáng và bóng tối rất quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn. Nhưng ngôn ngữ giàu sức gợi của nhà văn đã đem đến ý nghĩa hiện thực đậm nét cho tác phẩm. Ánh sáng và Bóng tối không phải là những ý niệm tượng trưng trong văn Thạch Lam mà hiện hình cụ thể trong từng khung cảnh , từng mảnh đời, ẩn chứa những xung đột ngấm ngầm của cuộc sống tưởng như bình lặng. Viết về bóng tối, nhưng thực chất nhà văn muốn hướng người đọc về ánh sáng. Ông dùng ánh sáng để soi tỏ từng bí ẩn của tâm hồn con người. Ấn tượng về bóng tối, ánh sáng gắn với cảm nhận của một cô bé Liên - bóng dáng người chị thân yêu của chính tác giả, dẫn dắt người đọc khám phá những góc khuất của tâm hồn con người phong phú và sâu sắc. Thông qua đó, nhà văn cũng nói lên đầy đủ sự thông cảm thương yêu đối với con người bé nhỏ.
Câu trả lời của bạn
Truyện ngắn của Thạch Lam thường không có cốt truyện độc lập, mỗi câu chuyện mang âm điệu của một bài thơ trữ tình nhẹ nhàng, đượm buồn. Nhà văn thường đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những xúc cảm mơ hồ mong manh và tinh tế. Và nét văn phong ấy ta sẽ gặp qua Hai đứa trẻ, một truyện ngắn giàu chất thơ.
Thạch Lam (1910-1942) tên khai sinh là Nguyễn Tường Linh, người gốc Hà Nội, xuất thân trong nhóm Tự lực văn đoàn, sau đó ông tách riêng ra sáng tác, bởi văn phong của ông ngoài những yếu tố lãng mạng, trữ tình thì ông còn đưa vào những yếu tố hiện thực, để văn chương không thoát li khỏi cuộc sống. Thạch Lam quan niệm rằng: “Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn” .
Hai đứa trẻ được in trong tập truyện ngắn Nắng trong vườn, truyện có sự kết hợp giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình, khắc họa bức tranh phố huyện nghèo, cảm thông sâu sắc trước cuộc sống cơ cực, của những con người quẩn quanh sau lũy tre làng trước cách mạng. Tác giả luôn luôn trân trọng những hy vọng đẹp đẽ, dẫu rất mong manh, hàm súc.
Phải nói Hai đứa trẻ một truyện ngắn giàu chất thơ vừa lãng mạn, vừa cuốn hút bởi sự nhẹ nhàng, truyền cảm trong từng câu chữ. Thạch Lam chẳng chú tâm khai thác một câu chuyện, hay biến cố bất ngờ nào cả, ông thích đi sâu vào miêu tả nội tâm nhân vật, vào những quang cảnh, kiếp sống con người, những thứ vốn tưởng bình thường mà lại sâu sắc, và đậm chất nhân văn. Bằng lối tự sự, miêu tả trữ tình đầy rung động, sâu lắng, bằng những hình ảnh giàu xúc cảm, truyền tải được những thông điệp đầy yêu thương của một hồn văn đôn hậu và rất đỗi tinh tế.
Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ, ta thấy hiện lên ba chữ “tàn”, ngày tàn, chợ tàn và những kiếp người tàn. Trước hết chất thơ được thể hiện trong khung cảnh ngày tàn, được nhà văn miêu tả bằng một âm thanh rất đặc trưng của miền Bắc thuở trước cách mạng, “tiếng trống thu không”, thời gian cứ chầm chậm trôi một cách bình lặng, rồi tiếng ếch nhái, vắng lặng đến mức nghe được cả tiếng muỗi vo ve trong cửa hàng. Đêm vắng một tiếng đàn bầu bật lên trong yên lặng, một âm thanh thoáng qua của đoàn tàu, một tiếng trống cầm canh hiu hắt, một tiếng chó cắn xa xăm. Những âm thanh tan loãng vào cuối chiều, khắc họa sâu sắc không khí im ắng của buổi chiều tàn, buồn bã, vắng lặng của khu phố tỉnh lẻ. Tất cả những âm thanh cộng hưởng lại làm người ta liên tưởng ngay đến bút pháp nghệ thuật độc đáo lấy động tả tĩnh, mà chỉ thường xuất hiện trong thi ca phương đông.
Khoảng thời gian dịch chuyển từ chiều đến đêm thật từ từ, chậm rãi, hiện lên qua sự biến đổi màu sắc của sự vật “phương tây đỏ rực như lửa cháy” rồi dần phai nhạt đi, hoàng hôn phủ xuống, “những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”, rồi dần ngập tràn trong màu đen của bóng đêm. Thời gian thay đổi qua ngòi bút đầy chất thi vị và tinh tế của Thạch Lam, không cần đi sâu vào ấn định một khoảng thời gian nhất định, nhưng qua những chi tiết miêu tả về âm thanh, màu sắc, người đọc đã cảm nhận được khoảnh khắc khi hoàng hôn lịm tắt, bóng đêm bao trùm cảnh vật. Không gian vô cùng yên ả, tĩnh lặng, có thứ buồn man mác, len lỏi đâu đây. Khung cảnh chợ tàn, nghèo xơ xác, buồn hiu hắt, người về hết, thứ còn bỏ lại chỉ là rác rưởi.
Cả đoạn văn mang một nhịp điệu chậm rãi, giàu tính nhạc, giàu hình ảnh. Câu từ vừa chân thực, lại mang màu lãng mạn, da diết, hình ảnh mang màu sắc thơ mộng, như một bức tranh thiên nhiên cùng phố thị u buồn, chẳng biết là cảnh thấm vào hồn người, hay nỗi lòng con người đang vận vào cảnh sắc, nhưng rất hài hòa ăn nhịp với nhau như một bài thơ lặng lẽ. Những nét vẽ không cầu kỳ kiểu cách, chân thực đã lột tả được cái thần và cái hồn của bức tranh phong cảnh làng quê Việt Nam lúc bấy giờ. Trong bức tranh đậm chất thơ buồn ấy, có sự xuất hiện của những kiếp người tàn. Hình ảnh cô bé Liên và cậu em An với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, sơ sài, mấy đứa trẻ con nhà nghèo, chị Tý, bà cụ Thi hơi điên điên, và hình ảnh của mẹ Liên thấp thoáng hiện ra qua suy lời của hai chị em.
Chất thơ còn thể hiện qua việc tác giả đi sâu vài miêu tả bức tranh tâm hồn của nhân vật Liên. Một cô bé có tâm hồn ngây thơ, non nớt, nhưng lại đầy tinh tế và nhạy cảm trước sự biến chuyển của thiên nhiên. Liên cảm nhận được cái mùi vị riêng của đất quê, sau một cái phiên chợ tàn “một mùi âm ẩm bốc lên”, mang theo cái sức nóng còn sót lại của ban ngày, khó chịu mà quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi của đất, của quê hương. Rồi chi tiết “Liên ngồi lặng lẽ bên mấy quả thuốc sơn đen lúc chiều muộn với đôi mắt ngập đầy dần bóng tối, và cái buồn của buổi chiều khuya thấm thía vào cái tâm hồn ngây thơ của chị”, cái buồn của cảnh màn đêm sập xuống xuyên thấm vào tâm hồn của Liên, hay cũng có thể là nỗi buồn của Liên làm buồn thêm cảnh, chúng tương hỗ cho nhau, cân xứ nhịp nhàng, tạo nên một khung cảnh trữ tình, nên thơ, man mác u buồn. Một nét đẹp nữa trong tâm hồn Liên là tấm lòng trắc ẩn đầy yêu thương, quan tâm đối với người xung quanh, hỏi han ân cần với chị Tý, cách Liên kể về hoàn cảnh của chị thể hiện đầy ái ngại, thương xót cho cuộc đời khổ cực của chị. Với bà cụ Thi là sự thơm thảo, nắm bắt rõ được thói quen, cùng ánh mắt nhìn dõi theo cho đến khi cụ khuất bóng đầy buồn bã, cảm thông cho một kiếp người tàn tạ. Tình thương, lòng nhân hậu của nhân vật Liên càng được thể hiện rõ trong khi cô quan sát những đứa trẻ con nhà nghèo, Liên “động lòng thương, nhưng chính chị cũng không có tiền để cho chúng” bởi gia cảnh của chị nào có hơn gì chúng đâu. Dù tuổi đời còn nhỏ nhưng Liên đã thể hiện mình là một con người có tâm hồn sâu sắc, hiểu biết.
Và đỉnh điểm của chất thơ trong Hai đứa trẻ đó là cảnh chờ đoàn tàu khuya của những con người phố huyện, họ chờ đợi một cái gì đó tươi sáng hơn, chuyến tàu như “mang một chút thế giới khác đi qua”. Với người dân phố huyện nó có một ý nghĩa vô vùng sâu sắc, mang lại một chút ánh sáng, một chút vui tươi trong khoảnh khắc thoáng qua, như một món quà của cuộc sống. Bởi trong cái đói khát, tối tăm ấy ít ra vẫn còn có điều gì đó khiến họ chờ đợi, hy vọng được. Ánh sáng lấp lánh ấy tượng trưng cho khao khát sâu thẳm trong tâm hồn con người về một cuộc sống tươi đẹp hơn. Riêng với chị em Liên chuyến tàu còn mang ý nghĩa khác. Với An chuyến tàu như một niềm vui thú, thỏa mãn cái trí tưởng tượng phong phú của cậu bé tuổi ăn tuổi lớn, chẳng được tiếp xúc với thứ đồ chơi, hay cảnh sắc huy hoàng mới lạ bao giờ. Còn Liên lặng lẽ mơ tưởng về một Hà Nội xa xăm, sáng sủa, vui vẻ và huyên náo khác hẳn cái phố huyện nghèo nàn tối tăm này. Tâm hồn Liên là sự yên tĩnh, cảm xúc mơ hồ mong manh, con tàu gợi nhắc về một thời dĩ vãng đẹp đẽ tuy đã xa lắm rồi, giúp Liên nhận thức rõ ràng hơn về cuộc sống bế tắc, khốn khổ của mình và những người xung quanh.
Hai đứa trẻ là bài ca êm đềm về tình yêu quê hương đất nước, gợi nhắc nên một vùng quê Việt Nam ở Bắc Bộ, một vùng quê nghèo, buồn nhưng thấm đẫm chất thơ. Thạch Lam đã viết: "Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”, “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Chắc hẳn phải có một tình yêu quê hương đất nước sâu sắc và sự gắn bó sâu nặng với quê hương thì nhà văn mới viết ra được những câu văn giàu chất thơ và đẹp đẽ như một bản tình ca man mác buồn. Nội dung của truyện ngắn đậm chất thơ, chất trữ tình, tiêu biểu cho bút pháp nhân đạo của nhà văn Thạch Lam. Là niềm cảm thông sâu sắc trước cuộc sống cơ cực của người dân nghèo giai đoạn trước cách mạng tháng tám. Hình ảnh đoàn tàu là tượng trưng cho sự khao khát về một cuộc sống tươi sáng hơn khi “mang một chút thế giới khác đi qua”, khơi gợi cho Liên về những ký ức tươi đẹp của Hà Nội. Thông qua nhân vật Liên tác giả muốn gởi gắm thông điệp đầy tính nhân văn: Trong cuộc sống, tình yêu thương là quan trọng nhất, nó gắn kết mọi thứ lại với nhau, đem đến một cuộc sống có ý nghĩa hơn. Biểu trưng cho tấm lòng nhân đạo của nhà văn Thạch Lam, cho văn phong bình dị, gần gũi nhưng giàu chất thơ trữ tình độc đáo.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Tường Lân.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
- Không gian trong tác phẩm là khung cảnh nơi một phố huyện nghèo trước Cách mạng tháng Tám: vào buổi tan chợ, những tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một đã vang lên để gọi buổi chiều, nó hiện lên trong một không gian ở phố huyện… Đây là một không gian thực.
- Ngoài ra, trong truyện còn đề cập đến không gian hồi tưởng của chị em Liên – đó là không gian cuộc sống gia đình Liên và An còn ở Hà Nội; và không gian mở tưởng – nơi Hà Nội xa xăm, tấp nập, sáng rực, huyên náo và hạnh phúc.
- Thời gian là một biểu chiều tàn, có tiếng trống thu không, ếch nhái kêu ran ngoài đồng; ở chợ mọi người đang chuẩn bị ra về sau buổi buôn bán. Tiếp theo đó là bóng tối của màn đêm bao phủ “một đêm tối tịch mịch”.
- Cảnh vật lúc chiều tàn thật xác xơ, trên mặt đắt vương vãi những rác rải, lũ trẻ nhanh chóng nhặt nhạnh, bòn mót. Một không gian gợi cảm giác u buồn cho người đọc.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
- Có sống trong cảnh nhàm chán, tẻ nhạt nơi phố huyện, ta mới hiểu vì sao đêm nào Liên cũng cùng em thức để đợi đoàn tàu đi qua với “các toa đèn sáng trưng” và nhìn hút theo nó mãi... Bởi đó là thế giới của ao ước, dù chỉ là một ao ước nhỏ nhoi, dù chỉ như là một ảo ảnh. Nhưng như thế cũng đã là những phút giây bừng sáng hạnh phúc trong cả một ngày dài buồn chán, tẻ nhạt của hai đứa trẻ.
- Hình ảnh đoàn tàu tượng trưng cho một cuộc sống tươi sáng hiện ra, trước khi đoàn tàu đến cảnh vật hiện lên chỉ là những cảnh mờ nhạt, không gian yên tĩnh nhẹ nhàng. Hình ảnh đoàn tàu lóe sáng thêm những tia hy vọng mới cho hai chị em, điều này làm cho họ nhớ những quãng thời gian khi còn sống ở Hà Nội, chuyến tàu gợi cho họ những kí ức của tháng ngày êm đềm hạnh phúc trước đây – xem đó như là một niềm an ủi trong cuộc sống tù túng hiện tại.
- Và để rồi khi chuyến tàu qua, họ trở lại với cuộc sống thực tại nghèo khó, vô vị - cuộc sống mà “món phở của bác Siêu trở thành một món quà xa xỉ không bao giờ mua được”. Để rồi tối hôm sau, họ lại chờ đợi đoàn tàu cũng giống như chờ đợi một ước mơ – một ước mơ kéo dài, chập chờn chưa định hình hẳn.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *