Nội dung bài học Tràng giang của Huy Cận sẽ giúp các em cảm nhận được nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, nỗi sầu nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời và tình cảm đối với quê hương đất nước của tác giả, thấy được màu sắc cổ điển trong một bài thơ mới. Học 247 mời các em tham khảo bài giảng Tràng Giang để cùng tìm hiểu những kiến thức thú vị trên.
⇒ Gợi không khí cổ kính, khái quát ⇒ nỗi buồn mênh mang, rợn ngợp.
⇒ Với khổ thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu và cách gieo vần nhịp nhàng và dùng nhiều từ láy, khổ thơ đã diễn tả nỗi buồn trầm lắng của tác giả trước thiên nhiên.
⇒ Với cách gieo vần tài tình, âm hưởng trầm bổng, Huy Cận như muốn lấy âm thanh để xoá nhoà không gian buồn tẻ hiện hữu nhưng không được. Nhà thơ cố tìm sự giao cảm với vũ trụ cao rộng nhưng tất cả đều đóng kín.
⇒ Đó là một bức tranh thiên nhiên thấm đượm tình người, mang nặng nỗi buồn bâng khuâng, nỗi bơ vơ của kiếp người.
⇒ Đằng sau nỗi buồn, nỗi sầu trước không gian và vũ trụ là tâm sự yêu nước thầm kín của một trí thức bơ vơ, bế tắc trước cuộc đời.
Đề: Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ "Tràng giang" của nhà thơ Huy Cận.
Gợi ý làm bài
Sức Khỏe
Không chỉ là một trong những bài thơ hay của Huy Cận mà “Tràng giang” còn là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới (1930-1945). Mới đọc, không ít người nhầm tưởng “Tràng giang” là một bài thơ miêu tả cảnh thiên nhiên, thể hiện tình yêu quê hương đất nước nhưng kì thực bấy nhiêu chưa đủ với “Tràng giang”. Bài thơ là lời bộc bạch của một tâm hồn cô đơn, bơ vơ ngay giữa quê hương mình. Hay nói đúng hơn thì đó là nỗi buồn của cả một thế hệ chứ không riêng gì một hồn thơ. Để nắm được những kiến thức cần đạt về tác phẩm, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Tràng giang.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận được “thai nghén” và “sinh nở” từ những buổi chiều tác giả đứng trên bến Chèm của con sông Hồng đỏ nặng phù sa. Ban đầu bài thơ có tên “Chiều trên bến sông” nhưng sau này Huy Cận đặt lại thành “Tràng giang”. Để có thể lập dàn ý và viết bài văn hoàn chỉnh về tác phẩm này, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận
- Phân tích cái tôi trữ tình trong bài Tràng giang của Huy Cận
- Cảm nhận về khổ thơ đầu tiên trong Tràng giang của Huy Cận
- Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong Tràng giang của Huy Cận
- Cảm nhận cái tôi trữ tình trong Tràng giang của Huy Cận
- Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài Tràng giang của Huy Cận
- Phân tích hai khổ thơ đầu bài thơ Tràng Giang
- Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang của Huy Cận
- Phân tích bài thơ Tràng giang của nhà thơ Huy Cận
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Nhan đề bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận là một trong những dụng ý nghệ thuật nhà thơ đưa ra. Tràng giang vốn là hai từ hán việt để chỉ dòng sông dài. Đó là dòng sông của đất nước việt nam có từ thủa khai thiên lập địa rồi. nó không chỉ là dài về không gian mà còn dài về cả thời gian,đó là thời gian lịch sử. Nhan đề : Tràng giang -> Gợi hình ảnh con sông dài, rộng ; điệp vần “ang” gợi cái mênh mông, cái rộng lớn, âm của nó vang vốn là một âm mở, nó không chỉ là để miêu tả về chiều dài của con sông mà còn nói lên được chiều rộng của con sông. > Âm hưởng chung cho giọng điệu bài thơ.
Nhan đề Tràng giang gợi ra ấn tượng khái quát và trang trọng, vừa cổ điển (từ Hán Việt: giang - sông) vừa thân mật (tràng - dài); nhưng không dùng trường (Hán Việt) sợ lầm với Trường Giang (Dương Tử - một dòng sông rất lớn của Trung Quốc). Mặt khác tạo vần lưng "ang", gợi âm hưởng vang xa , trầm buồn,dài rộng, lan toả, ngân vang trong lòng người đọc, ánh lên vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại -> Âm hưởng chung cho giọng điệu bài thơ.
Câu trả lời của bạn
"Củi" là thứ đơn sơ, mộc mạc, chưa từng xuất hiện trong thơ ca mang ý nghĩa biểu tượng. Thế nhưng dưới cái nhìn của Huy Cận, nó lại gợi lên bao cảm xúc khác lạ, mới mẻ trong lòng người đọc. "Cành củi" vốn đã mang cảm giác thật nhỏ bé, một cành củi "khô" ở đây càng gợi lên sự hoang tàn, héo úa. Một cành củi khô lạc lõng giữa dòng chảy mênh mang của dòng sông, bơ vơ, vô định. Nó thậm chí không thể xuôi dòng song song như con thuyền, bị quăng quật theo dòng nước, lạc đến mấy dòng. Lối viết đảo ngữ "củi một cành khô" được sử dụng càng nhấn mạnh nỗi cô đơn, lẻ loi, héo tàn. “Một” gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, “cành khô” gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, “lạc” mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên “mấy dòng” nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cụm từ “lạc mấy dòng” như muốn nói cành củi khô vốn bé nhỏ lại bị chia rẽ khắp mấy dòng sông. Qua câu thơ, người đọc cũng phát hiện ra tài năng độc đáo của thi nhân Huy Cận. Đó là việc tác giả sử dụng thành công ngòi bút "tả cảnh ngụ tình", mượn hình ảnh của thiên nhiên, tác giả đã nói lên tâm trạng suy tư, trầm lắng, thê lương, buồn man mác và da diết của mình. Đồng thời câu thơ như muốn gợi lên hình ảnh của thân phận nhỏ bé, bơ vơ lênh đênh giữa cuộc đời. Cành củi khô lạc giữa dòng nước dường như chính là hình ảnh biểu tượng cho con người mang trong mình nỗi sầu lo, lạc lõng vô định giữa dòng đời xô đẩy, không biết đi đâu về đâu
Câu trả lời của bạn
Những lớp bèo nối nhau trôi dạt trên sông. Hình ảnh ước lệ diễn tả thân phận, kiếp người chìm nổi. Những bờ xanh tiếp bãi vàng lặng lẽ. Câu hỏi: “về đâu” gợi cái bơ vơ, lạc loài của kiếp người vô định. Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là “bờ xanh tiếp bãi vàng” như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết
Cảnh cô đơn, buồn, trống vắng được nhấn mạnh hơn bởi hai lần phủ định: Không cầu, không đò: không có sự giao lưu kết nối đôi bờ -> Cảnh có thêm màu sắc nhưng chỉ càng buồn hơn ,chia lìa hơn. Bèo dạt: hình ảnh chia lìa, tan tác -> gợi hình ảnh con người mất quyền lợi, mất tự do, mất chủ quyền, kiếp sống lưu lạc trên dòng đời, thân phận bèo bọt, vô nghĩa, cô đơn trước đất trời.
-> Thể hiện rõ bút pháp tả cảnh ngụ tình với những hình ảnh vừa gần gũi, thân quen vừa giàu sức gợi
-> Niềm tha thiết với thiên nhiên tạo vật, một bức tranh thiên nhiên thấm đượm tình người, mang nặng nỗi buồn bâng khuâng, nỗi bơ vơ của kiếp người. Nhưng đằng sau nỗi buồn về sông núi là nỗi buồn của người dân thuộc địa trước cảnh giang sơn bị mất chủ quyền
Câu trả lời của bạn
Nhà thơ mong tìm một sự giao cảm, gắn bó nhưng trước mắt chỉ là một không gian mênh mông, không một bóng người, không một chuyến đò, không một cây cầu kết nối. Trong không gian này con người càng cảm thấy bơ vơ, cô độc giữa một cõi đời không chút niềm thân mật -> Nỗi sầu trước sông dài biển rộng ở đây chứa đựng cả lòng bâng khuâng nhớ về một cuộc sông nào đó rất xa xôi – một nỗi buồn nhân thế.
Câu trả lời của bạn
Lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”
Bâng khuâng: thể hiện được nỗi lòng của nhà thơ, thấy mênh mông, vô định, khó tả nổi cảm xúc trước không gian rộng lớn.
Trời rộng, được nhân hóa “nhớ sông dài” cũng chính là ẩn dụ nỗi nhớ của nhà thơ.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
"Tràng Giang" là một bài ca về tình yêu quê hương, đất nước nó dọn đường cho các tác phẩm sau này của Huy Cận như "Đất nở hoa" hay "Những bài thơ cuộc đời".
Câu trả lời của bạn
Huy Cận thể hiện nỗi buồn trong cảnh nước nhà mất chủ quyền, vì thế ông bơ vơ trước thiên nhiên hoang vắng, niềm tha thiết với tự nhiên, cảnh vật cũng theo đó nhuốm buồn.
Niềm tha thiết với thiên nhiên, tạo vật cũng là niềm thiết tha với quê hương, đất nước.
Thực tế, ở phương diện nào đó Tràng Giang là bài thơ thể hiện tình yêu đất nước, non sông.
Nỗi buồn trước cảnh mất nước được hòa quyện trong cảnh vật của tự nhiên,
Thông qua việc miêu tả cảnh vật, ông gián tiếp thể hiện tấm lòng yêu nước và nỗi buồn của mình.
Câu trả lời của bạn
Tràng Giang khắc họa không gian rộng lớn của sóng, nước, sông chảy về vô tận.
+ Không gian được mở rộng theo nhiều chiều, lan tỏa sang đôi bờ.
+ Chiều thứ ba của không gian vũ trụ mở với bầu trời sâu chót vót.
+ Cả ba chiều của không gian nỗi buồn, nỗi cô đơn như không có giới hạn.
Nhà thơ mang nặng nỗi sầu nhân thế và nỗi cô đơn của chính mình.
+ Tràng Giang của trời đất, của tâm tưởng nhà thơ không những xuôi theo dòng nước còn xuôi từ hiện tại về quá khứ. Thời gian ở đây là buổi chiều tà, cảm nhận thời gian vừa cụ thể, vừa gợi cảm lại thể hiện đúng tâm trạng buồn hiu hắt tác giả.
Nhà thơ trở về hiện tại để tìm điểm tựa tinh thần ở quê hương, đất nước.
Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật ở Tràng Giang góp phần vào việc thể hiện sâu sắc, tình cảm và tư tưởng của tác giả.
Câu trả lời của bạn
ài thơ tạo nên bức tranh thiên nhiên cổ kính, hoang sơ:
Không gian: mênh mông, bao la, rộng mở.
Cảnh vật hiu quạnh, hoang vắng, đơn lẻ, hiu hắt buồn.
Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường Thi.
Các hình ảnh cổ: thuyền, nước, nắng, sông dài, trời rộng, bóng chiều, khói hoàng hôn…
“Tràng Giang” vẫn chứa nét mới, nét hấp dẫn của thơ hiện đại: âm thanh tự nhiên, âm thanh cuộc sống bình dị, mộc mạc được đưa vào thơ
Sự hòa quyện, đan cài giữa chất cổ điển, sự gần gũi, thân thuộc tạo cho bài thơ vẻ đẹp độc đáo, đơn sơ mà tinh tế, cổ điển mà hiện đại
Câu trả lời của bạn
Củi một càng khô lạc mấy dòng
Câu thơ chính là hình ảnh tả thực về cành củi khô rơi gãy từ thân cây và không còn dấu hiệu của sự sống. Cành củi khô ấy đang dập dềnh, trôi nổi trên sông nước. Không một lí giải cho sự rơi của cành củi, không một thông tin mà chỉ đơn thuần tả rất mực giản dị về hình ảnh củi khô, Huy Cận như đang nhuốn nỗi buồn trong một sự vật bình dị. Thế nhưng cành củi khô ấy không đơn thuần là hình ảnh tả thực giản dị mà nó còn là biểu trưng cho những kiếp người nhỏ bé, cô đơn trong đời sống khi ấy và họ không biết đi đâu, về đâu. Ở đây, Huy Cận đã khéo léo dùng đảo ngữ “củi một cành khô” để tô đậm cảm giác khô héo, thiếu vắng sự sống giữa một vùng rộng lớn, mênh mông, Hình ảnh đối lập, tương phản cũng được tận dụng tài tình “một cành - mấy dòng”. Ý thơ đã góp phần cho thấy trạng thái cô đơn, bơ vơ, lạc lõng của kiếp người giữa dòng đời.
Câu trả lời của bạn
- Bâng khuâng: thể hiện được nỗi lòng của nhà thơ, thấy mênh mông, vô định, khó tả nổi cảm xúc trước không gian rộng lớn
- Trời rộng, được nhân hóa “nhớ sông dài” cũng chính là ẩn dụ nỗi nhớ của nhà thơ
- Hé mở hoàn cảnh sáng tác, trời rộng và sông dài là hình ảnh gợi ra để sáng tác bài thơ
- Định hướng nội dung và cảm hứng chủ đạo
+ Nội dung: Không gian rộng lớn, mang tầm vũ trụ
+ Cảm xúc: Bâng khuâng, lạc lõng trước không gian rộng lớn, choáng ngợp.
Câu trả lời của bạn
Tràng giang khắc hoạ một không gian rộng lớn. Tất cả các chiều của không gian đều có xu hướng "mở ra" không giới hạn, tất cả thấm sâu nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn cô đơn của nhà thơ: Không gian của dòng sông sóng nước mênh mang như đang chảy về vô tận, rồi từ chiều dọc không gian mở ra chiều ngang, lan toả đôi bờ, không gian vũ trụ mở ra bầu trời sâu chót vót.
Tràng giang của đất trời, tràng giang của tâm tưởng nhà thơ không những trôi xuôi theo dòng nước mà còn trôi theo dòng thời gian từ hiện tại về quá khứ xa xôi. Rồi từ dòng sông thời tiền sử, nhà thơ trở về hiện tại để tìm điểm tựa tinh thần ở quê hương, đất nước. Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật ở Tràng giang đã góp phẩn thể hiện sâu sắc tư tưởng, tình cảm của tác giả.
Câu trả lời của bạn
Tình yêu thiên nhiên trong bài thấm đượm lòng yêu nước thầm kín:
- Yêu thiên nhiên:
+ Bức tranh thiên nhiên tuy buồn vắng, rợn ngợp nhưng cũng rất đỗi thơ mộng, đẹp đẽ.
+ Ẩn chứa tấm lòng thiết tha của nhà thơ với dòng sông quê hương đất nước.
- Nỗi cô đơn, lạc lõng của cái tôi cá nhân giữa không gian vũ trụ bao la và tấm lòng “nhớ nhà” của nhân vật trữ tình trong bài thơ. "Nhớ nhà" có thể được hiểu là nỗi nhớ quê hương Hà Tĩnh của Huy Cận khi ông lên Hà Nội học. Đồng thời, đó còn là nỗi nhớ quê hương trong những năm tháng bị mất chủ quyền, "đứng trên quê hương mà vẫn nhớ quê hương".
=> Kín đáo bày tỏ nỗi buồn thế hệ của Huy Cận và thanh niên đương thời khi đất nước còn trong vòng nô lệ của thực dân Pháp.
Câu trả lời của bạn
Bức tranh thiên nhiên trong bài vừa cổ điển vừa gần gũi, thân thuộc:
- Màu sắc cổ điển:
+ Đề tài quen thuộc: thiên nhiên (cảm hứng về dòng sông).
+ Hình ảnh ước lệ, tượng trưng, quen thuộc: dòng sông, con thuyền cánh chim, mây, núi, khói hoàng hôn.
+ Phong vị Đường thi: nhịp thơ 4/3, thể thơ thất ngôn, bút pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng thi liệu cổ, nhiều từ Hán Việt cổ kính, tâm thế sầu muộn của con người bé nhỏ trước không gian bao la rợn ngợp...
- Màu sắc hiện đại, gần gũi, thân thuộc:
+ Hình ảnh bình dị, gần gũi: củi một cành khô, tiếng làng xa vãn chợ chiều, bèo dạt.
+ Thiên nhiên hiện lên qua cảm nhận và nỗi niềm của cái tôi hiện đại.
=> Sự hòa quyện, đan cài giữa chất cổ điển, sự gần gũi, thân thuộc tạo cho bài thơ vẻ đẹp độc đáo, đơn sơ mà tinh tế, cổ điển mà hiện đại.
Câu trả lời của bạn
Ở khổ thơ thứ tư, nhà thơ mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường mà vẫn giữ được nét riêng biệt của thơ mới và vẫn thể hiện được khá rõ nét độc đáo của hồn thơ Huy Cận. Ở đây, thiên nhiên tuy buồn, nhưng thật tráng lệ. Mùa thu, những đám mây trắng đùn lên trùng điệp ở phía chân trời. Ánh dương phản chiếu vào những đám mây đó, phản chiếu lấp lánh như những núi bạc. Lấy lại ý thơ của người xưa (Đỗ Phủ), hình ảnh "mây cao đùn núi bạc" tạo được ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên. Trước cảnh sông nước, mây trời bao la và hùng vĩ ấy, bỗng hiện lên một cánh chim bé bỏng, nó chỉ cần nghiêng cánh là cả bóng chiều sa xuống. Hình ảnh cánh chim đơn lẻ trong buổi chiều tà thường dễ gợi nỗi buồn xa vắng. Nhưng điều đáng nói hơn ở đây chính là hiệu quá của nghệ thuật đối lập. Đối lập giữa cánh chim đơn độc, nhỏ bé với vũ trụ bao la, hùng vĩ. Phải chăng, điều này làm cho cảnh thiên nhiên rộng hơn, thoáng hơn, hùng vĩ hơn và đặc biệt cũng buồn hơn.
Câu thơ cuối: "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" gợi nhớ hai câu thơ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc lâu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)
(Tản Đà dịch)
Cũng là nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương trong buổi chiều tàn nhưng hai câu thơ của Huy Cận không phải lặp lại hoàn toàn ý thơ của Thôi Hiệu. Thôi Hiệu buồn, nhớ quê vì ngoại cảnh (khói sóng trên sông). Còn Huy Cận, không cần mượn tới khói sóng, lòng nhà thơ đã sầu buồn rồi. Nỗi buồn ấy là nỗi buồn vạn cổ của con người cô đơn giữa vũ trụ rợn ngợp, bao la.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *