Bài giảng hôm nay sẽ đưa các em đến gần hơn với tác gia Nguyễn Đình chiểu - một cuộc đời, một nhân cách cao cả giữa thời đại và nền văn học nước nhà. Học 247 mời các em tham khảo bài giảng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc phần tác giả Nguyễn Đình Chiểu
⇒ Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, cao đẹp về nhân cách về nghị lực, về lòng yêu thương dân và thái độ kiên trung, bất khuất trước kẻ thù.
⇒ Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu trở thành lá cờ đầu của văn học yêu nước chống thực dân Pháp trong cả nước. Biểu dương khích lệ tinh thần, ý chí cứu nước của nhân dân sĩ phu đương thời.
Đề: Cảm nhận về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
→Với những tác phẩm nổi tiếng của mình, Nguyễn Ðình Chiểu trở thành người có uy tín lớn. Bọn thực dân nhiều lần tìm cách mua chuộc ông nhưng ông vẫn một mực từ chối các ân tứ. (Có nhiều giai đoạn về thái độ bất hợp tác của Nguyễn Ðình Chiểu với kẻ thù).
⇒ Cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà thơ mù Nam Bộ là một bài học lớn về lòng yêu nước, về việc sử dụng ngòi bút như một vũ khí đấu tranh sắc bén. Tấm gương Nguyễn Ðình Chiểu theo thời gian vẫn không mờ đi chút nào.
Để hiểu và nắm được những kiến thức cần đạt về tác giả Nguyễn Đình Chiểu, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc phần tác giả Nguyễn Đình Chiểu.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Để hiểu hơn về tác giả Nguyễn Đình Chiểu, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
---------------------(Đang cập nhật)--------------------
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Đình Chiểu, tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, nay thuộc phòng Cầu Kho, quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Thân sinh nhà thơ là Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên là Thơ lại Văn hàn ty của Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Mẹ là Trương Thị Thiệt, người Gia Định.
Tuổi niên thiếu, Nguyễn Đình Chiểu từng chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội lúc bấy giờ. Những cuộc nổi dậy của đồng bào các dân tộc bị triều đình Huế đàn áp, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định. Cuộc nổi dậy này đã gây ra những bão táp kinh hoàng trực tiếp đến gia đình Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Đình Huy bỏ trốn ra Huế, bị cách chức, sau đó trở vào Nam đón Nguyễn Đình Chiểu, đem gửi cho một người bạn để ăn học. Cuộc sống 8 năm ở Huế đã giúp ông nhận rõ hơn sự thối nát và phức tạp của triều đình, đồng thời có điều kiện để tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc ở đất kinh đô.
Năm 1843, ông thi đỗ tú tài ở Trường thi Gia Định. Năm 25 tuổi, ông trở ra Huế học tập, chờ khoa thi năm Kỷ Dậu (1849), nhưng chưa kịp thi thì có tin mẹ mất. Trên đường trở về quê chịu tang mẹ, vì quá lo buồn, khóc thương, ông lâm bệnh và mù cả hai mắt.
Về đến Gia Định, sau khi mãn tang mẹ, ông tổ chức dạy học, bốc thuốc chữa bệnh và sáng tác thơ văn. Nhờ sống gắn bó với nhân dân, ông có điều kiện hiểu đồng bào của mình sâu sắc hơn. Chính trong thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện thơ đầu tiên Lục Vân Tiên. Tác phẩm đề cập đến vấn đề đạo nghĩa ở đời, mang dấu ấn tự truyện, đã được nhanh chóng phổ biến rộng rãi. Một người học trò của ông là Lê Tăng Quýnh, vừa trọng nể tài năng và nhân cách, lại vừa thương cảm hoàn cảnh của thầy, đã đem gả người em gái là Lê Thị Điền cho ông. Ngày 17-2-1858, giặc Pháp chiếm thành Gia Định. Ông cùng gia đình chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Cũng tại nơi đây, ông đã sáng tác áng văn bất hủ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ngợi ca chiến công anh hùng của những người "dân ấp dân lân" trong trận tấn công đồn Tây Dương, mà người bạn đồng khoa với ông là Đỗ Trình Thoại đã hy sinh cùng với 7 nghĩa quân khác. Tác phẩm Dương Từ - Hà Mậu dài 3.448 câu thơ mang nội dung phê phán âm mưu lợi dụng tôn giáo của kẻ địch, lên án những người thờ ơ, vô trách nhiệm trước cảnh nước mất nhà tan cũng được sáng tác tại đây
Khi 3 tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, không chịu sống trong vùng chiếm đóng của giặc, Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình xuôi thuyền về làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Tại đây, ông tiếp tục dạy học trò, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, đồng thời vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với những sĩ phu yêu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông và lực lượng kháng chiến. Khi được tin Trương Định hy sinh (19-8-1864), nhà thơ xúc động, viết bài Văn tế và Mười hai bài thơ liên hoàn điếu người anh hùng. Mười bài thơ điếu Đốc binh Phan Tòng hy sinh trong trận Giồng Gạch (1868) vốn gốc là hương sư, bạn bè thân thiết với ông, lời lẽ rất thống thiết, có những câu thơ tâm huyết như lời thề tạc vào đá: "Tinh thần hai chữ pha sương tuyết, khí phách ngàn thu rỡ núi non". Khi Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử sau khi để mất 3 tỉnh miền Tây, ông làm thơ điếu họ Phan với ít nhiều ngụ ý phê phán.
Thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác nhiều thơ văn bi tráng nhất, tiếc thương những đồng bào, bạn bè, đồng chí đã ngã xuống vì sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc. Nổi bật là thiên hùng bút Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh. Tất cả tâm huyết của nhà thơ như dồn vào những câu đau xé lòng người: "Dân sa nước lửa bấy chầy, giặc ép mỡ dầu hết sức". Đồng bào ở đây kể lại rằng chính ông đứng ra làm lễ tế những nghĩa sĩ Lục tỉnh ngay tại chợ Ba Tri. Khi đọc xong bài điếu, nước mắt chảy ràn rụa và ông lăn kềnh ra nằm bất tỉnh.
Tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp được viết vào giai đoạn cuối đời với một bút pháp già dặn hơn và một niềm tâm sự sâu lắng, xót xa hơn trước cảnh đất nước bị "dưa chia, khăn xé", nhưng không hề tuyệt vọng.
Bến Tre không phải là nơi sinh của nhà thơ, nhưng lại là nơi vinh hạnh được ông chọn để sống, hoạt động trong suốt 26 năm đầy biến cố phức tạp vào giai đoạn cuối đời và đã vĩnh viễn gởi xương cốt tại đây. Người ta kể lại rằng ngày đưa đám ma ông, cả cánh đồng An Bình Đông, nay là An Đức, trắng xóa khăn tang của những bạn bè, học trò, con cháu xa gần, những thân chủ được ông chữa khỏi bệnh và những đồng bào quanh vùng hoặc đã chịu ơn ông, hoặc vì mến mộ, cảm phục một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
Hơn một phần tư thế kỷ, sống trên đất Bến Tre, Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho nhân dân ở đây một ảnh hưởng to lớn và một di sản tinh thần vô cùng quý báu, góp phần tạo nên truyền thống kiên cường, bất khuất của một vùng đất anh hùng. Thơ văn của ông đã thấm sâu vào tâm hồn của nhiều thế hệ con người Bến Tre và ngưng đọng lại ở đó, biến thành một sức mạnh vật chất giúp họ có thể chiến thắng được mọi gian nguy, thử thách gay go và khốc liệt nhất.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của nên văn học Việt Nam. Song cuộc đời ông không hề êm đẹp, năm 1849 ông phải bỏ thi để về chịu tang mẹ. Trên đường đi ông bị đau mắt rồi bị mù, về sau ông ra dạy học và bốc thuốc cho dân, cuối cùng tham gia chống Pháp. Chắc bởi có nhiều thời gian ở gần người dân nói chung và nông dân nói riêng nên ông thấu hiểu sự khổ cực, vất vả nhưng lại mang vẻ đẹp bi tráng, sẵn sàng hi sinh vì dân tộc của nông dân Nam Bộ mà ông đã viết nên một trang văn hào kiệt "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" theo yêu cầu của Đỗ Quang.
Bài tế gồm bốn phần: Lung khởi, thích thực, ai vãn và kết. Với bố cục như vậy, Nguyễn Đình Chiểu dựng lên trong mắt người đọc, người nghe một bức tượng đài bất tử về người nông dân.
Ở phần lung khởi, Nguyễn Đình Chiểu đã nêu lên lí lẽ sống chết. Đó là đứng lên chống lại ngoại xâm bởi súng giặc làm đất rền, còn lòng dân thì trời sẽ tỏ. Bằng phép đối, ông đã nói lên sự căm phẫn của nhân dân trước việc nước nhà bị xâm lăng. Bên cạnh đó, ông còn so sánh cái danh về việc làm ruộng và đánh giặc việc bỏ sức mười năm dở công vỡ ruộng, đối với một trận đánh tây, và cái danh mang lại của mười năm chưa thể nào nổi như phao của trận đánh tây đó, danh tiếng hào hùng vang xa như tiếng mõ vang hào hùng, khí thế.
Cũng bởi lẽ sống chết đó, cùng với lòng yêu nước và sự căm thù giặc, căm thù những thói mọi nó giống như kiểu nhà nông ghét cỏ và sự phẫn nộ đó tột độ đến mức muốn ăn gan, muốn cắn cổ bọn giặc ngoại và một nỗi thấu hiểu "nước mất, nhà tan" làm sục sôi và giai cấp nông dân đã đứng lên khởi nghĩa. Đó là những người nông dân côi cút làm ăn trước giờ chuyên cuốc, chuyên cày, bừa, còn việc quân sự như tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, họ chưa từng ngó lấy, chưa từng nhìn ấy thế mà nào phải đợi ai đến, ai bắt, họ đã tự xin ra sức đoạn kình đấu tranh tự nguyện ngay cả khi chưa trở thành người lính. Họ là những người nông dân dũng cảm, chiến đấu không màng sống chết với hình ảnh hùng dũng không ngại sắt thép đang chĩa ra mà đạp rào lướt tới, coi giặc như không hiện hữu; không biết sợ thằng Tây nào đang bắn những đạn nhỏ đạn to, mà xô cửa xông vào liều mình với tất cả nhưng như chẳng có. Mặc dù vũ khí của họ rất thô sơ chỉ là ngọn tầm vông, những chi nài, dao tu, nón gõ nhưng vẫn lao vào địch mà đâm ngang, chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kê tàu thiếc, tàu đồng súng nổ. Họ chiến đấu vì tổ quốc, vì dân tộc nên sẵn sàng bỏ lại gia đình của riêng. Đây chính là nội dung của phần thích thực.
Trong phần ai vãn, Nguyễn Đình Chiểu thể hiện lòng tiếc thương đối với những người nông dân mang vẻ đẹp bi tráng và lòng yêu nước bất khuất không sợ hi sinh, trong cuộc chiến Cần Giuộc. "Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ", bởi thế "già, trẻ hai hàng lụy nhỏ", "mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn kia leo lét trong lều", "vợ yêu chạy tìm chồng". Đó là sự xót xa, đau khổ, thương tình đối với các chiến sĩ của Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và toàn thể nhân dân Cần Giuộc nói chung.
Đối với phần kết, một lần nữa tác giả nhấn mạnh việc sống ở đời thì phải thờ vua, giặc đến thì phải ra sức bảo vệ nước nhà như những nghĩa sĩ Cần Giuộc. Những nghĩa sĩ dù đã hi sinh vẫn sẽ mãi tiếp bước cùng dân tộc trong công cuộc gìn giữ đất nước.
Tóm lại, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc bi tráng của một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tường đai bất tử về những người nông dân Cần Giuộc nói riêng và toàn thể người dân Nam Bộ nói chung đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì đất nước trong thời chiến. Bài văn cũng là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật tạo hình tượng nhân vật kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực; ngôn ngữ bình dị, trong sáng, và sinh động.
Câu trả lời của bạn
Người nông dân Việt Nam yêu nước chống ngoại xâm đã xuất hiện từ rất lâu, ít nhất cũng trên mười mấy thế kỷ nay. Nhưng trong văn học, hình ảnh người nông dân ấy chỉ thực sự xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX với bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật đầu tiên về người nông dân – nghĩa sĩ Việt Nam. Đó là hình tượng rất đẹp, rất chân thực đầy tính bi tráng, bi thương mà hào hùng như cuộc chiến đấu bi tráng mà nhân dân Việt Nam đã tiến hành suốt nửa sau thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, vì cuộc sống, vì độc lập, tự chủ của Tổ quốc mình.
Nguyễn Đình Chiểu đã rất có lý, rất sâu sắc khi mở đầu khúc bi ca văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của mình:
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền: lòng dân trời tỏ.
Quả là, qua cuộc đấu tranh này, qua cái thử thách khắc nghiệt này, bản chất tốt đẹp, tấm lòng yêu nước của những nông dân bình thường này, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn họ được bộc lộ một cách trọn vẹn. Họ vẫn có đấy, vẫn sống đấy, nhưng sống trong thầm lặng của sự quên lãng. Nguyễn Đình Chiểu, với sự cảm thông cao độ, nhận ra rằng cuộc sống của họ đã từng vất vả xiết bao:
Nhớ linh xưa:Côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó.
Bao nhiêu lượng thông tin chứa đựng trong tám tiếng ngắn ngủi ấy đã nói với chúng ta rất đầy đủ về tình cảnh của người nông dân Cần Giuộc, người nông dân lục tỉnh, cũng là người nông dân Việt Nam ngày đó. Bóng dáng của họ nhỏ bé và cô đơn trong cuộc sống, sự khắc nghiệt và những tai họa trong thiên nhiên, từ xã hội, như hiện lên rõ mồn một qua từng chữ. Tưởng như, chỉ chừng ấy lo toan vất vả cũng quá đủ đối với họ, tưởng như họ, những người nông dân vất vả ấy, chẳng còn có thể nghĩ gì thêm, lo toan gì thêm ngoài những “toan lo nghèo khó” vốn đã quá lớn lao ấy.
Thế mà không, quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, đã đến tận xóm làng, đã đến tận ngôi nhà của họ. Và, những con người đang cúi xuống ấy bỗng đứng phắt dậy vươn vai, và họ chợt trở thành người khổng lồ như chú bé làng Gióng mấy nghìn năm xưa khi chợt nghe lời truyền của sứ giả. Nhưng có một điều cơ bản rất khác xưa là tiếng rao truyền cứu nước không phải phát đi từ cung điện nhà vua mà đã được phát đi từ chính trái tim của những người nông dân Cần Giuộc. Nó chính là lòng căm thù sôi sục vì hành động cướp nước:
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp: muốn tới ăn gan: ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Như một phản ứng hạt nhân tất yếu, lòng căm thù giặc cao độ đã làm nảy sinh một khát vọng cao độ: khát vọng đánh giặc. Đó là ước muốn hoàn toàn tự nhiên và hoàn toàn tự nguyện:
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình: Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu thật đã khác hoàn toàn với người nông dân chỉ trước đó không bao lâu. "Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” khi phải sung làm lính đi biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua. Tự nguyện chiến đấu, ấy là nét bản chất nhất trong hành động của người nghĩa sĩ thực sự. Phải chăng đó là sự tiếp tục giữa nghĩa sĩ Cần Giuộc đánh ngoại xâm với chàng tráng sĩ Lục Vân Tiên đánh cướp mà động cơ duy nhất:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Trong việc nghĩa, không có việc nào lớn hơn việc cứu nước. Thấy việc nghĩa thì phải làm, làm một cách vô tư, không vụ lợi, không chần chừ, không cần đợi có đủ điều kiện mới làm. Đó là chỗ bi kịch của người nông dân Cần Giuộc, đó cũng là chỗ hùng ca của người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bi kịch vì:
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin qua như trời hạn trông mưa.
Họ bắt đầu cuộc chiến đấu vào lúc lẽ ra triều đình phong kiến cùng quan quân của họ đã phải tiến hành cuộc chiến đấu ấy từ lâu nhưng lại “án binh bất động” một cách khó hiểu. Bi kịch còn cho họ là những người:
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm: tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Bước vào chỗ sống chết của chiến trường mà những con người ấy chỉ mang theo những trang thiết bị chỉ đủ để làm những người cày ruộng.
Trước giặc dữ là những tên lính nhà nghề có đủ “tàu sắt tàu đồng”, đạn to, đạn nhỏ, họ chỉ là những người nông dân không có kiến thức gì về trận mạc, chỉ có “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”. Cuộc chiến đấu mới chênh lệch làm sao! Kết cục cuộc chiến đấu ấy như thế nào thì đã rõ ràng rồi. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kỳ nghiệt ngã ấy, tấn bi kịch đã đưa đến cái họa mất nước kéo dài cả thế kỷ.
Nhưng chính trong cái bi kịch ấy, bản hùng ca của cuộc sống đã cất lên. Hùng ca trước hết là sự ngoan cường của những con người quyết chiến thắng, vượt lên trên nỗi lo thất bại để chiến thắng, lấy tinh thần xả thân vì nghĩa để bù đắp hết mọi sự thiếu hụt, chênh lệch của mình so với kẻ thù:
Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không, nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có,
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.
Thật là phấn chấn, thật là hào hùng, thật là hả dạ. Đúng là họ đã chiến đấu như những người lính tuyệt vời dũng cảm. Ở đây, sức mạnh tinh thần đã phát huy đến mức tối đa và trong một chừng nào đó, đã tỏ rõ hiệu quả của nó trước sức mạnh của chiến thuật, của vũ khí, trang bị:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia: gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rơi đầu quan hai nọ.
… Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh…
Trong văn chương Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, quả chưa hề có một bức tranh hào hùng như thế về tư thế chiến đấu của người lính áo vải. Hình ảnh người nông dân ở đây là sự kết tinh và thăng hoa ở mức độ cao nhất những gì vốn là bản chất của họ. Trong những giây phút tuyệt vời ấy, người nông dân Cần Giuộc đã đi vào vĩnh cửu.
Quả Nguyễn Đình Chiểu đã tạc nên một bức tượng đài của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhưng đây không phải là tượng đài của một người, mà của nhiều người, của một tập thể anh hùng. Không có cái tập thể ấy, không làm sao có được sự hòa hợp tuyệt đẹp, cái khí thế bừng bừng áp đảo hiểm nghèo, áp đảo cái chết, với những “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, với những “kẻ đâm ngang người chém ngược”, bọn hè trước, lũ ó sau như thế được.
Bức tượng đài của Nguyễn Đình Chiểu chỉ có một tên gọi chung là “nghĩa sĩ Cần Giuộc”, còn mỗi người nghĩa sĩ trên đó đều vô danh. Họ không hề tìm cho mình một điều gì riêng mình khi chiến đấu. Cái duy nhất họ gửi lại cho đời, điều mà Nguyễn Đình Chiểu nêu lên như là một tiêu chí chung bên dưới bức tượng đài của họ, ấy là triết lý sống. Chết vinh hơn sống nhục.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh: hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Hoàn thành bức tượng của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã để một phần cuối cho những lời ca ngợi, thương tiếc và thắp những nén hương kính trọng:
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân: cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Cuộc tấn công của mấy chục nghĩa quân vào đồn Cần Giuộc của thực dân Pháp năm 1863 là cuộc tấn công đầu tiên của quân dân Việt Nam mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Số lượng thiệt hại mà quả thực họ tạo nên cho cuộc kháng chiến, cho lịch sử dân tộc, bằng lòng yêu nước thiết tha vô tư của họ, thì to lớn vô cùng. Họ xứng đáng được tạc thành tượng đài để đi vào bất tử. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ của người nghệ sĩ nhân dân tạc nên bức tượng đài ấy.
Năm 1859, giặc Pháp đánh chiếm Gia Định, Pháp đánh úp Cần Giuộc, một thị trấn cách Gia Định 23 km về phía Tây Nam. Ngày 16 tháng 12 năm 1861, nghĩa quân tập kích đồn giặc, hy sinh vài mươi người. Nguyễn Đình Chiểu dùng ngòi bút của của mình truy điệu những nghĩa quân hy sinh. Qua bài tế văn này, lần đầu tiên hình ảnh người nông dân Việt Nam đi vào văn học thành văn với tất cả vẻ đẹp và tầm vóc lịch sử vốn có của mình.
Ta hãy cùng phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu – một hình tượng nông dân bình thường mà vĩ đại, vì nước hy sinh, rực rỡ nét sử thi, làm rung động tâm hồn người đọc mọi thế hệ.
Những người nghĩa sĩ ấy xuất thân là nông dân nghèo khó. Câu văn mở đầu giới thiệu cuộc đời họ là cui cút, khép lại là nghèo khó.
Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó.
Trọn vẹn trong đó là hình ảnh những người làm ăn cần mẫn với những lo toan nhọc nhằn. Họ cũng chất phác, thật thà.
Chưa quen cùng ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Những con người ấy suốt cuộc đời tầm mắt chưa nhìn qua khỏi lũy tre làng, quanh năm cặm cụi với ruộng đồng, con trâu lưỡi cày. Câu kế tiếp liệt kê những công việc nặng nhọc phủ vây con người lam lũ này:
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm:
Họ không biết chút gì về chiến trận: Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tuy nhiên, khi giặc Pháp đánh chiếm quê hương Nam Bộ, những người nông dân hiền lành, tăm tối ấy, dù hoàn toàn xa lạ với trận chiến binh đao, bỗng chốc trở thành người chiến sĩ anh hùng đánh Tây. Đó là sự phi thường với bản thân họ, nhưng cũng là lẽ bình thường khi chứng kiến cảnh nước mất nhà tan.
Thực dân Pháp tiến công Nam Bộ đã hơn mười tháng. Người dân mong chờ triều đình đánh giặc, nhưng trông tin qua như trời hạn trông mưa. Lúc đầu nghe thấy kẻ thù hôi tanh, mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, nên họ ghét thói xâm lăng mọi rợ đó như nhà nông ghét cỏ, thấy cỏ ở ruộng lúa là phải nhổ cho sạch. Khi kẻ thù hiện hình cụ thể trước mắt, toàn màu gay gắt, các lều trại của chúng che trắng lốp, những tàu thuyền của chúng nhả khói đen xì, lòng căm ghét chuyển thành căm thù, nên họ muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ. Những động từ mạnh mẽ “muốn ăn”, "muốn cắn” diễn tả mức độ căm thù lên đến tột đỉnh.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan, ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Bên cạnh sự căm thù của tình cảm là sự căm thù của lý trí. Giặc Pháp lộ nguyên hình là những kẻ mượn chiêu bài truyền đạo, khai hóa ở nước ta nhưng thực chất là xâm lược, là một lũ dê bán chó. Đất nước văn hiến của ta không phải là vùng đất vô chủ mà chúng giành giật, mặc tình chém rắn đuổi hươu, cho nên dân ta há để chúng yên, thiên lý chói lòa đâu dung tha bọn xâm lược. Cả tình cảm lẫn lý trí đều nổi giận, và do ý thức trách nhiệm, người nông dân tự nguyện đứng lên đánh giặc. Họ ra sức, ra tay với khí thế hào hùng, đoạn kinh, bộ hổ.
Trong trận tập kích đồn Cần Giuộc này, họ là những người dũng sĩ công đồn. Họ không đợi tập rèn mười tám ban võ nghệ, cũng không chờ bày bố chín chục trận binh thư. Những người nông dân ấy cũng không chuẩn bị quân trang, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi, chi nài sắm dao tu nón gõ. Vũ khí chỉ là ngọn tầm vông vạt nhọn, con cúi làm mồi lửa, lưỡi dao phay, vốn là những vật dụng trong sinh hoạt hàng ngày: nhưng khi ở trong tay người chiến sĩ, tất cả đều trở thành vũ khí vô cùng lợi hại, đốt xong nhà dạy đạo kia, chém rơi đầu quan hai nọ. Biện pháp đối lập (giặc thì đạn nhỏ, đạn to, tàu sắt, tàu đồng, còn ta thì ngọn tầm vông, lưỡi dao phay) đã cực tả quyết tâm chiến đấu của người nông dân nghĩa sĩ, dù kẻ thù có sức mạnh quân sự hơn ta gấp nhiều lần.
Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không, nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào liều như mình chẳng có.
Kẻ đâm ngang người chém ngược, làm chi mã tà, ma ní kinh hồn, bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.
Nhiều cụm động từ diễn tả những động tác liên tục chống đỡ, công thủ mọi hướng, đạp rào lướt tới, xô cửa xông vào, đâm ngang, chém ngược, hè trước, ó sau. Từng vế câu đối nhau chan chát, quyết liệt. Hình ảnh những người nghĩa quân trong giờ phút căng thẳng cao độ của trận đánh được mô tả cực kỳ sinh động, thể hiện lòng dũng cảm tuyệt vời, sự hy sinh gan dạ của người nghĩa sĩ.
Sự hy sinh của họ là một bi kịch, và tác giả vô cùng cảm kích: Những lăm lòng nghĩa lâu dùng: đâu biết xác phàm vội bỏ!
Nhưng đây là một bi kịch cao cả thiêng liêng của những người chiến sĩ da ngựa bọc thây, những anh hùng vô danh nào đợi gươm hùm treo mộ. Cái chết của nghĩa quân gieo khắp không gian một vẻ u sầu, nơi người người một nỗi tiếc thương đau xót. Biện pháp ẩn dụ này cỏ cây mấy dặm sầu giăng và hình ảnh tả thực già trẻ hai hàng lụy nhỏ đã nói lên tình cảm bi thương đó. Càng thương hơn khi người ta hiểu được động cơ hy sinh vô cùng cao quý của nghĩa quân. Vì nghĩ tới tấc đất ngọn rau của quê hương, hạt cơm manh áo của nhân dân, không chịu làm nô lệ, nên quyết tâm đánh giặc, dù phải hy sinh.
Thà thác mà đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh.
Cũng cần phân tích rõ trách nhiệm về cái chết của nghĩa quân. Dĩ nhiên là do giặc xâm lược, mắc mớ chi ông cha nó, nhưng cũng do triều đình hèn nhát, do bọn người theo dân tả đạo, ở lính Mã tà… Người nghĩa sĩ hy sinh thì bớt được mối hờn được trả, tấm lòng son sáng mãi như ánh trăng rằm và phận bạc của họ cũng sẽ phôi pha, trôi theo dòng nước đổ. Nhà thơ còn nghĩ đến số phận của quê hương Nam Bộ mà nhỏ lệ đau thương.
Tiếng khóc của tác giả có bi thương nhưng không bi lụy. Đây là dòng nước mắt khóc người anh hùng như đang long lanh hình ảnh những con người nghìn năm tiết rỡ. Và sống đánh giặc thác cũng đánh giặc nên hồn thiêng nghĩa sĩ hay theo giúp cơ binh để đánh đuổi giặc thù ra khỏi bờ cõi. Lời khấn nguyện như đang thôi thúc những người đang sống hãy tiếp tục đứng lên chiến đấu diệt thù.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen, ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứ đặng một phường con đỏ.
Tóm lại, qua bài văn tế này, người nông dân đã trở thành người anh hùng chân đất làm nên lịch sử. Một mặt họ vẫn lam lũ bé nhỏ, côi cút làm ăn, nhưng mặt khác, họ rất anh hùng. Anh hùng vì họ dám đánh giặc, dù chỉ với ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, manh áo vải. Họ còn anh hùng hơn nếu so với thái độ sợ giặc, hàng giặc của triều đình. Quả thật người nông dân nghĩa sĩ đã gánh trên vai cả gánh nặng lịch sử “một thời khổ nhục nhưng vĩ đại”.
Câu trả lời của bạn
Hoàn cảnh sáng tác: đêm 16 – 12 – 1861, 20 nghĩa quân đã hi sinh trong trận chiến tấn công đồn Cần Giuộc. Chính vì thế Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn tế này để ghi nhận công lao của những người nông dân áo vải trở thành những anh hùng đó.
Câu trả lời của bạn
- Xuất thân: Đều xuất thân từ những người nông dân chất phác cần cù làm ruộng, là những người dân ấp nhưng ở trong họ là tình yêu quê hương đất nước cao đẹp.
- Vẻ bề ngoài chỉ là những người nông dân nhưng họ lại có những phẩm chất rất đáng ngợi khen, có những chiến công vang dội cho dân cho nước.
- Tình cảm: Xuất hiện trong họ lòng căm thù giặc, có một tấm lòng rất đáng quý dám xả thân vì đất nước, tuy tay cày tay bừa nhưng khi có chiến tranh họ sẵn sàng cầm súng để chiến đấu, không một kẻ thù nào có thể đánh bại ý chí kiên cường.
- Thấy tàu giặc chạy trên sông: “muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ.”
- Họ nhận thức đất nước là một dải giang sơn gấm vóc, không thể để kẻ thù thôn tính.
- Trang bị khi ra trận rất thô sơ và mộc mạc: Manh áo vải, ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay. Những công cụ đó rất quen thuộc đối với nhân dân thì nay nó lại trở thành những công cụ chiến đấu đắc lực của những người chiến sĩ Cần Giuộc.
Câu trả lời của bạn
Tiếng khóc trong bài tuy đau thương vô hạn nhưng không bi lụy, vì trong nỗi đau vẫn có niềm cảm phục và tự hào đối với người nghĩa sĩ. Đó là những người dân bình thường đã dám đứng lên bảo vệ từng tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo của mình chống lại kẻ thù hung hãn, lây cái chất để làm rạng ngời một chân lí cao đẹp của thời đại - thà chết vinh còn hơn sống nhục.
Câu trả lời của bạn
- Tiếng khóc xót thương cho người đã mất: Nghĩa sĩ, nhân dân. Đó là tiếng khóc của tác giả, của gia đình thân quyến, của nhân dân Nam Bộ và cả nước. Nguyễn Đình Chiểu đã nhân danh vận nước, nhân danh lịch sử mà khóc những người dân anh hùng xả thân cho Tổ quốc. Đấy là tiếng khóc có tầm vóc sử thi, tầm vóc thời đại.
- Khóc cho người còn sống: Mẹ già, vợ yếu con thơ. Giờ đây những người mẹ già đêm đến khóc con những người vợ yếu chạy đi tìm. Câu văn này cũng cho ta thấy được sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với các gia đình liệt sĩ.
- Khóc cho quê hương, đất nước. Nhiều niềm cảm thương cộng lại thành nỗi đau sâu nặng, không chỉ ở trong lòng người mà dường như còn bao trùm khắp cỏ cây, sông núi, tất cả đều nhuốm màu tang tóc, bi thương.
Câu trả lời của bạn
- Tác phẩm không chỉ thể hiện sự bi tráng của dân tộc, mà qua đó nó thể hiện những anh dũng, kiên cường, bất khuất của cả dân tộc, khi mất mát đi những tài sản to lớn đó là tính mạng của những nghĩa sĩ anh dũng.
- Tiếng khóc trong tác phẩm, thể hiện sâu sắc qua những giọt nước mắt của dân tộc Việt Nam, trước sự hy sinh của toàn thể những chiến sĩ anh dũng vì độc lập tự do của dân tộc, những người chiến sĩ, kiên cường, bất khuất, luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ độc lập tự do cho dân tộc, chiến đấu kiên cường, vượt qua mọi khó khăn, gian nan để nắm chắc tay súng để bảo vệ đất nước.
Câu trả lời của bạn
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu).
Câu trả lời của bạn
- Bài văn tế mang đậm chất trữ tình, với những hình ảnh và giọng điệu xót thương, ca ngợi những người nghĩa sĩ nông dân
- Thủ pháp tương phản và cấu trúc của thể văn biền ngẫu đã tạo cho bài văn tế một sự trang trọng khi soi chiếu cuộc đời của những người nông dân Cần Giuộc trước đây với những nghĩa sĩ Cần Giuộc bây giờ.
- Ngôn ngữ vừa trân trọng, vừa dân dã, gần gũi mang đậm sắc thái Nam Bộ.
Câu trả lời của bạn
- Tác giả đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực, ngôn ngữ của bài văn tế giản dị gần gũi mang đạm chất Nam Bộ, những hình ảnh người chiến sĩ thật sinh động qua những tấm áo rách, những công cụ chiến đấu thô sơ nhưng tinh thần chiến đấu vẫn rất kiên cường.
- Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương những vĩ đại cho cả một dân tộc.
Câu trả lời của bạn
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử bi thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Câu trả lời của bạn
Bố cục bài văn tế thường có các phần:
- Lung khởi: cảm tưởng khái quát về người chết
- Thích thực: hồi tưởng công đức của người chết
- Ai vãn: than tiếc người chết
- Kết: nêu lên ý nghĩa và lời mời của người đứng tế đối với linh hồn của người chết.
Câu trả lời của bạn
Thể loại của Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là văn tế (ngày nay còn gọi là điếu văn). Văn tế là thể văn thường dùng để đọc khi tế, cúng người chết, nó có hình thức tế - tưởng.
Câu trả lời của bạn
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *