Bài học hôm nay sẽ giúp các em củng cố kiến thức về văn nghị luận đã học ở THCS và hướng dẫn các em viết một bài văn nghị luận một cách trung thực, phản ánh đúng thực tế cuộc sống và học tập. DapAnHay mời các em cùng tham gia bài học!
"Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp."
Đề 1: Anh (chị) hãy trình bày quan điểm, suy nghĩ của mình về ý kiến trên "Người hạnh phúc nhất là người đem đến hạnh phúc cho nhiều người nhất"
Đề 2: Trình bày suy nghĩ, ý kiến của anh (chị) về hiện tượng tỉ lệ thanh thiếu niên vi phạm an toàn giao thông ngày càng tăng.
Đề 1:
a. Mở bài
b. Thân bài
Nêu một cách chân thực và gần gũi với cá nhân bản thân mỗi người.
c. kết bài
Khẳng định lại vấn đề và mở rộng vấn đề.
Chú ý: để làm rõ vấn đề cần tìm dẫn chứng phù hợp, rõ ràng, có ý nghĩa rõ ràng....
Đề 2:
a. Mở bài
b. Thân bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động chân thực, phù hợp với bản thân người viết.
c. Kết bài
Để củng cố kiến thức về văn nghị luận đã học ở THCS, các em có thể tham khảo thêm bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Cuộc sống của mỗi một con người luôn gắn liền với cộng đồng, với tập thể, trong đó, sự gắn kết bởi tình bạn là sự gắn kết cao đẹp và nhiều ý nghĩa. Tình bạn đem lại sự chia sẻ, sự hợp tác rất cần để con người phấn đấu vượt qua mọi trắc trở, thử thách. Chính vì thế, không thể thiếu tình bạn trong cuộc sống của mỗi chúng ta.
Vậy tình bạn là gì? Có thể định nghĩa tình bạn là sự gắn kết của những người có chung hoàn cảnh, sở thích, lý tưởng... Họ trao gửi tình bạn cho nhau bởi sự yêu mến và cảm thông một cách vô tư, không vụ lợi. Tình bạn chân thành là cùng nhau chia sẻ mọi vui buồn, và giúp đỡ kịp thời mỗi khi bạn mình cần đến. Có thể nói, tình bạn là một tình cảm thật cao cả, thật đẹp đẽ!
Con người không thể sống thiếu tình bạn, bởi tình bạn là nguồn cội của rất nhiều niềm vui. Có bạn có nghĩa là có thêm đồng đội trong mọi hoạt động, có người đem lại cho ta sự mạnh mẽ hơn về tinh thần để ta có thêm can đảm thực hiện những điều mình muốn. Niềm vui mà tình bạn mang lại thật đáng quý, nó nâng đỡ con người về mặt tinh thần, xua tan nỗi cô đơn, muộn phiền mà người ta thường gặp phải. Khi ta có một người bạn chân thành, có nghĩa là chúng ta sẽ luôn được nghe những lời thẳng thắn, đáng tin, có được những ý kiến đúng đắn. Tình bạn chân thành vì thế mà quý giá còn hơn ngọc ngà.
Từ xưa, đã có nhiều điển tích kể về sự cao đẹp của tình bạn. Chẳng hạn như câu chuyện về Lưu Bình, Dương Lễ: Lưu Bình đùm bọc Dương Lễ cho ăn học thành tài, đến khi Lưu Bình sa cơ, Dương Lễ lúc đó đã thi đậu là quan lớn lại xua đuổi Lưu Bình. Ngờ đâu, đó là việc làm có thâm ý sâu xa của Dương Lễ, muốn đánh thức ý chí phấn đấu của Lưu Bình. Chàng còn nhờ người bạn đời là Châu Long đến giúp đỡ, nhắc nhở Lưu Bình ăn học rồi thành công. Tình bạn cảm động đó cho chúng ta thấy rằng: người bạn chân chính luôn mong mỏi thành quả tốt đẹp, lâu bền cho bạn của mình, chẳng quản hiểu lầm, hay sự trách móc nhất thời. Có được người bạn như Dương Lễ, ấy là kho báu của cuộc đời. Ngược lại, trong cuộc đời, nếu con người thiếu đi những người bạn thân thì sẽ thật đáng buồn biết bao. Vì khi vui, ai sẽ chia vui cho niềm hạnh phúc nhân lên? Và khi buồn, ai sẽ là người san sẻ để nỗi sầu vơi đi? Thiếu tình bạn, con người như cỏ cây thiếu đi ánh mặt trời ấm áp, sẽ luôn ủ dột, đơn độc, khó có được niềm vui và chỗ dựa trong cuộc sống.
Tình bạn quý giá như thế, nên chúng ta phải luôn trân trọng nó. Sự trân trọng tình bạn thể hiện ngay trong cách ứng xử của mỗi chúng ta với bạn của mình. Trung thực với bạn là cách để gây dựng niềm tin, là sự vun đắp cho tình bạn thêm vững bền. Những người bạn tốt luôn thẳng thắn với nhau, có thể nói với nhau những điều không thể nói với người khác. Khi bạn có điều chưa đúng, ta cần chỉ ra cho bạn thấy để sửa chữa, để bạn ngày một hoàn thiện bản thân mình. Tình bạn chân thật thể hiện rõ nhất trong những hoàn cảnh nguy nan, khó khăn. Đó là lúc người ta sẵn sàng chìa tay ra để giúp đỡ bạn vượt qua gian khổ. Tình bạn được thử thách bởi gian nan là tình bạn vững bền nhất. Sự cổ vũ mà tình bạn đem lại thể hiện ở mọi mặt: cả vật chất lẫn tinh thần, trong khả năng của bản thân. Bạn giúp ta, rồi ta lại giúp bạn, Sự chân thành trong ứng xử chính là điều cốt lõi nhất của một tình bạn tốt đẹp. Một câu thơ khuyết danh đã từng ngợi ca tình bạn là:
Sống trong bể ngọc kim cương
Không bằng sống giữa tình thương bạn bè.
Ấy vậy mà cũng có một số ít người chưa trân trọng tình bạn, còn xem nhẹ tình cảm đẹp này, thậm chí vụ lợi, thiếu trung thực trong cách đối xử với bạn bè. Họ không biết rằng ích kỷ và gian dối trong tình bạn là điều rất đáng tiếc. Bởi khi ta không biết xây đắp tình bạn đẹp, cũng có nghĩa là ta khó mà có được những niềm vui to lớn do tình bạn mang lại.
Từ bao đời nay, con người luôn trân trọng và đề cao tình bạn, và không ai có thể sống mà thiếu bạn bè. Đặc biệt, tình bạn của lứa tuổi học sinh càng trong sáng và đáng quý làm sao. Mỗi chúng ta hãy luôn giữ gìn và vun đắp để tình cảm bạn bè luôn đẹp đẽ tuyệt vời, tô điểm cho niềm hạnh phúc của ta và của bạn.
Câu trả lời của bạn
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Nhân dân ta vốn có truyền thông nhân đạo. "Thương người như thể thương thân", "Lá lành đùm lá rách" không chỉ là những câu nói cửa miệng mà chính là tấm lòng sâu thẳm và hành động chí tình của những người con Lạc cháu Hồng trên dải đất hình chữ s từ bao đời nay đã cưu mang, đùm bọc lẫn nhau. Ngày xưa đã thế, ngày nay lại càng như thế. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã gặp ánh sáng khoa học của thời đại để tạo nên những hiệu quả to lớn đẩy lùi cái đói nghèo và những cuộc đời bất hạnh vẫn còn trong xã hội trên bước đường đi lên của đất nước.
Đất nước đang đổi mới, phát triển, đi lên nhưng cái đói nghèo và những cuộc đời bất hạnh vẫn còn hiện hữu trong xã hội - chua xót và nhức nhối! Vì sao như vậy và cần nhìn nhận hiện tượng đó như thế nào? Đi lên từ một đất nước nông nghiệp lạc hậu hàng ngàn năm nay, không thể một sớm một chiều có thể xóa bỏ ngay được cái đói nghèo ấy. Lại nữa, và đây mới là nguyên nhân chủ yếu, đất nước ta đã trải qua ba mươi năm chiến tranh ác liệt, hậu quả của nó để lại không chỉ là cái đói nghèo mà còn là những cuộc đời bất hạnh của bao nhiêu con người tàn tật do chiến tranh, đặc biệt là những di chứng khôn lường của chất độc da cam đi-ô-xin mà kẻ thù đã rải xuống trên nhiều vùng đất nước và nhiễm độc vào hàng triệu con người. Nhìn nhận như vậy mới thấy được tội ác tày trời của kẻ thù xâm lược, càng nhận rõ sự đau khổ ghê gớm của "nạn nhân chiến tranh" mà nhân dân ta phải hứng chịu, càng thương yêu, chia sẻ và có trách nhiệm hơn đối với những cuộc đời bất hạnh đó. Đói nghèo và bất hạnh không còn là của riêng ai mà đã trở thành một vấn đề nhức nhối của toàn xã hội đòi hỏi mọi người phải chung lưng đấu cật để cùng giải quyết. Ở đây vừa là tình thương, vừa là trách nhiệm. Tinh thương giữa những con người với nhau "thương người như thể thương thân", nhưng cũng là trách nhiệm của "người trong một nước phải thương nhau cùng". Chính vì thế, chúng ta phải chống bệnh vô cảm, phải lên án những người dửng dưng, không quan tâm đến cái đói nghèo và những cuộc đời bất hạnh vẫn còn trong xã hội nước ta. Vì chất độc da cam, nhiều cặp vợ chồng không thể có con hoặc chỉ sinh ra những quái thai; vì chất độc da cam, những em bé mới ra đời đã bị tật nguyền, không nhìn thấy ánh sáng, không nghe được âm thanh, không sinh hoạt như con người bình thường, trở thành gánh nặng và nỗi ám ảnh suốt cuộc đời của gia đình và xã hội... Những con người như thế, lẽ nào ta có thể dửng dưng, vô cảm được, trong khi ta được sống đầy đủ, sung sướng, được ăn ngon, mặc đẹp, được vui chơi, học hành thoải mái ? Theo tôi, dửng dưng, vô cảm trước những con người này là một sự thất đức, chưa nói là có quan tâm đến họ, có giúp đỡ họ không? Bởi, không là họ hàng, nhưng họ cũng là đồng bào, cùng dân tộc, và chí ít, họ cũng là con người, là đồng loại của ta; và quan trọng hơn, họ chính là "nạn nhân" của một cuộc chiến tranh tàn khốc do kẻ thù gây ra trên đất nước ta, trên quê hương của họ. Lẽ nào lại có thể vô cảm, nhẫn tâm như thế!
Đương nhiên, số người vô cảm,- dửng dưng, nếu có, cũng chỉ là số ít và đó là điều đáng tiếc. Dòng máu thương người của dân tộc Việt Nam không cho phép như vậy. Và trong thực tế, cả nước đã đến với họ - những người nghèo, tàn tật, bất hạnh - để cùng sẻ chia, đùm bọc họ trong cánh tay yêu thương của mình. Nhiều tổ chức được thành lập - cấp Nhà nước, cấp tỉnh, cấp hội, đoàn thể,... - để cứu trợ; nhiều cơ quan, công ty, nhà máy, thậm chí không hiếm những cá nhân đã trở thành những "Mạnh Thường Quân" của người nghèo, người tàn tật, người bất hạnh; nhiều bà mẹ, người chị,... đã trở thành những "bà Tiên", "bà Phật" của người nghèo ngày nay như trong cổ tích xưa, và nhiều câu chuyện đã trở thành huyền thoại như chàng thanh niên Nguyễn Hữu Ân vừa tự học đại học vừa nuôi hai người mẹ ruột và mẹ nuôi trong bệnh viện, cô sinh viên Nguyễn Thị Oanh tự kiếm sống để vừa học vừa nuôi ba chị em nghèo khiếm thị,...
Những nghĩa cử ấy, những tấm lòng ấy chắc chắn sẽ sưởi ấm, động viên nhiều cho những người nghèo, người bất hạnh vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống. Sự giúp đỡ về vật chất (tiền của, nhà cửa) là rất cần để tạo dựng cuộc sống cho họ. Đó là yếu tố cần thiết ban đầu. Nhưng điều quan trọng hơn là phải truyền cho họ nghị lực, niềm tin và cách sống tự lập trên chính đôi chân và bàn tay của họ. Ai đó đã nói rất đúng: "Cho con cá đã quý, nhưng cho cái cần câu để câu cá còn quý hơn". Phải tạo cho họ một nghề nghiệp ổn định để họ tự sông và chính họ sẽ tự xóa bỏ cái đói nghèo và đẩy lùi sự bất hạnh của mình từng bước. Điều này mang ý nghĩa nhân văn lớn lao khi chính họ sẽ tự định đoạt lấy cuộc đời và hạnh phúc của họ. Trong thực tế đã có nhiều tấm gương người nghèo, người tàn tật, bất hạnh tự đi lên bằng nghị lực, niềm tin, sức mạnh của mình và họ đã trở thành những người hữu ích cho xã hội, được xã hội tôn vinh và yêu quý. Đó cũng là một tiền đề quan trọng giúp cho đất nước xóa bỏ đói nghèo, tiến lên xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như mong muốn của Đảng và nhân dân ta.
Với những ý nghĩa đã phân tích trên đây, trong giai đoạn hiện nay, tình cảm, thái độ và sự quan tâm đôi với cái đói nghèo và những cuộc đời bất hạnh vẫn còn trong xã hội nước ta chính là phẩm chất, lương tâm và thước đo giá trị của mỗi con người chúng ta.
Câu trả lời của bạn
Một trong những đức tính cần có của chúng ta là vui tính, yêu đời. Có vui tính, yêu đời mới cảm thấy cuộc đời là đẹp và đáng yêu, mới tìm được bao niềm vui và sự lí thú.
Vậy, vui tính là gì? Yêu đời là gì? - Luôn luôn vui vẻ là vui tính. Yêu cuộc sống của bản thân mình, yêu cuộc đời của bản thân mình là yêu đời. Vui tính và yêu đời là biểu hiện của tinh thần lạc quan. Một con người yêu đời, vui tính là con người biết nuôi dưỡng trong tâm hồn mình một ngọn lửa lạc quan, sống say sưa, tìm thấy bao nguồn vui, sự say mê trong học tập, trong lao động sáng tạo, trong vui chơi giải trí.
Cuộc đời là một trường tranh đấu vô cùng sôi động, con người phải vật lộn, phải lao tâm khổ tứ để tồn tại,... Ngoài chuyện cơm ăn áo mặc, những nhu cầu của đời sống vật chất và đời sống tinh thần, mỗi con người phải tìm thấy ý nghĩa tốt đẹp của cuộc sống. Không thể sống yếm thế trong nỗi buồn cô đơn, trong bao sự dằn vặt bi kịch. Mà phải mặt mũi luôn tươi vui. Nụ cười luôn rạng rỡ trên môi. Có lúc ngâm lên một vài câu thơ về trăng thanh gió mát, hát lên một điệu dân ca, một khúc tình ca,... để nâng bổng tâm hồn mình:
“Hồ Tình Tâm giàu sen bạch diệp,
Đất Hương Cần ngọt quýt, thơm cam.
Ai về cầu ngói Thanh Toàn,
Đợi đây về với một đoàn cho vui”...
(Dân ca Huế)
Vui tính, yêu đời giúp ta có thêm sức mạnh vượt qua mọi khó khăn, trắc trở. Vui tính, yêu đời để nâng cao niềm tin và hi vọng hướng về tương lai tươi đẹp và hạnh phúc.
Vui tính để gắn kết và hòa hợp với mọi người. Có lúc để san sẻ chia vui. Có lúc để động viên nhau vượt lên phía trước. Vui tính, lạc quan, yêu đời nhưng phải biết tự kiềm chế, làm chủ bản thân và làm chủ hoàn cảnh, không lạc quan tếu. Mọi sự thái quá trong cuộc sống chẳng hay ho gì, Có lúc phải trả giá quá đắt cho sự đam mê. Vui tính, yêu đời nhưng không bao giờ được vượt qua ngưỡng - cái ngưỡng đó là đạo lí, là đạo đức, luân lí xã hội.
Có vui tính, yêu đời mới có tiếng cười. Tiếng cười là viên thuốc quý để sống lạc quan, để xua đi bao nỗi phiền muộn. Không còn tiếng cười thì đời người bị tàn úa, khô héo. Tiếng cười trong truyện tiếu lâm, truyện Trạng Quỳnh,... Tiếng cười trong thơ ca trào phúng. Qua đó, ta càng thấy rõ, cuộc đời cần tiếng cười, xã hội cần tiếng cười. Và mỗi thành viên trong xã hội, từ em bé đến cụ già đều cần tiếng cười. Tuổi thơ cần vui tính, yêu đời, cần có nụ cười như con chim non cất tiếng hót. Các cụ già cần có nụ cười để “sống khỏe, sống vui, sống có ích”.
Tại sao, hiện nay có nhiều thơ tình (được giao lưu trong các câu lạc bộ thơ, được đăng tải trên báo)? Có nhớ, có thương, có yêu đời, có đa tình thì mới viết nhiều thơ tình như Xuân Diệu trước đây! Như Xuân Quỳnh thuở ấy!
Tóm lại, vì cuộc đời còn có tiếng thở dài và tiếng khóc nên cần có nhiều tiếng cười. Và trong cuộc sống nhiều nhọc nhằn, mỗi con người cần vui tính, yêu đời, sống lạc quan. Có vui tính, yêu đời mới có “bài ca hi vọng”.
Câu trả lời của bạn
Sức khỏe là thứ quý báu nhất của môi người, của đời người. Không mang dị tật bẩm sinh, không ốm đau bệnh tật là có sức khỏe. Người khỏe mạnh là người có thân thể cường tráng, ngực nở nang, chân tay dẻo dai, gân cốt cứng cáp, da dẻ hồng hào
Có sức khỏe mới vui sống yêu đời. Có sức khỏe mới có thể nấu sử sôi kinh, mới có thể thức khuya dậy sớm, cuốc bẫm cày sâu, bán lưng cho trời, bán mặt cho đất để cày cấy, trồng lúa trồng ngô khoai sắn đậu... mới được ăn no mặc ấm. Những công việc nặng nhọc như đào đất cất gỗ, bơi lội chèo thuyền... đều cần có sức khỏe. Muốn trở thành người lính vận động viên thể thao, muốn trở thành phi công nhà thám hiểm leo núi... thì cần có đầu tiên là sức khỏe.
Sức khỏe thật vô cùng quan trọng. Vì thế có người đã nói: "Sức khỏe là mẹ hạnh phúc","Có sức mạnh như mọc cánh bay xa". Tục ngữ có câu: "Chẳng ốm chẳng đau làm giàu mấy chốc". Còn có câu: "Ăn được ngủ được là tiên| Không ăn không ngủ lo phiền quanh năm", "Ăn được ngủ được là tiên| Không ăn không ngủ vứt tiền đi tong"
Giàu có nhà cao cửa rộng, vàng bạc đầy kho mà ốm đau bệnh tật quanh năm thì làm sao có hạnh phúc? Chức trọng quyền cao có kẻ hầu người hạ, mà ốm đau quặt quẹo thì cũng không có hạnh phúc! "Sức khỏe là của trời cho| Bạc vàng châu báu một kho chất đầy"(Ca dao)
Có bị ốm đau phải uống thuốc chữa trị, có đến bệnh xá, có ghé qua bệnh viện mới thấy sức khỏe vô cùng quý báu. Phải biết sống điều độ, sống hợp vệ sinh. Phải vận động thường xuyên tập thể dục. Không cờ bạc rượu chè, không nghiện hút… Có sống như thế mới có sức khỏe, mới giữ gìn được sức khỏe
Người mẹ nào cũng phấn đấu: "Nuôi con khỏe, dạy con ngoan". Các vị cao niên thì ước ao"Sống khỏe sống vui sống có ích". Ai cũng ước mong có nhiều sức khỏe. Tuổi trẻ cần rèn luyện và giữ gìn sức khỏe để học tập và lao động, để được sống hạnh phúc, lâu dài và cống hiến cho xã hội.
Câu trả lời của bạn
Đi-đơ-rô là nhà văn, nhà lí luận, phê bình nghệ thuật, nhà triết học duy vật vĩ đại của nước Pháp trong thế kỉ XVIII. Hình ảnh Đi-đơ-rô, hình ảnh nhà tư tưởng lớn, hơn hai thế kỉ được đông đảo độc giả vô cùng hâm mộ. Khi nói về lẽ sống, mục đích của cuộc đời, ông từng nhắc nhở độc giả gần xa, đặc biệt là tuổi trẻ trong các học đường câu nói bất hủ: "Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả, anh cũng không làm được cái gì nếu như mục đích tầm thường".
Mục đích là gì? Mục đích là chỗ người ta nhằm tiến tới, cái mà người ta nhằm thực hiện cho bằng được.
Tầm thường nghĩa là nói dưới mức trung bình. Mục đích trung bình, mục đích tầm thường là mục đích chẳng có gì cao xa, chỉ nhỏ bé, nhạt nhẽo.
Mục đích cuộc sống thường gắn liền với lẽ sống và ý tưởng của mỗi người. Phải sống như thế nào, học tập và làm việc như thế nào thì mới thực hiện được mục đích, ước mơ của mình. Có mục đích gần mà cũng có mục đích xa, có mục đích cao cả nhưng cũng có mục đích tầm thường, nhỏ bé. Mục đích thường gắn với ước mơ, hoài bão. Có mục đích cao cả, đúng đắn mới tạo thành động lực, sức mạnh, giúp ta vươn tới làm nên sự nghiệp, giúp ích cho đời.
Câu nói của Đi-đơ-rô không chỉ nói lên tầm quan trọng của mục đích sống mà còn nhắc nhở mọi người phải sống với mục đích cao cả, không nên sống với mục đích tầm thường.
Câu nói của Đi-đơ-rô là một lời giáo huấn hàm chứa tư tưởng sâu sắc, tiến bộ. Nếu không có mục đích, anh chẳng làm nên công trạng gì. Và anh chỉ sống cho hiện tại, không hề nghĩ tới ngày mai. Cuộc đời anh trở nên nhỏ nhoi, thấp hèn, chật hẹp, chỉ là phường giá áo túi cơm. Sống không có mục đích thì người ta chỉ nhìn thấy những lợi ích vặt vãnh, ti tiện hàng ngày, lãng phí thời gian, phí hoài tuổi trẻ. Cuộc sống trở nên tẻ nhạt vì không biết tu dưỡng đạo đức, học hành mở mang trí tuệ, trau dồi nhân cách, tài năng. Sống không có mục đích là sống thừa, sống theo bản năng. Sống không có mục đích, không chỉ không có hạnh phúc mà còn là nguồn gốc của mọi điều xấu, điều ác trong xã hội.
Nếu mục đích tầm thường anh cũng không làm được cái gì vĩ đại. Sống bằng mục đích tầm thường, anh sẽ bị buộc chặt vào danh lợi, ham muốn tầm thường. Cuộc đời anh quẩn quanh, không bao giờ nghĩ tới chuyện cao xa, bay bổng; sống không có ước mơ, khát vọng. Con chim cánh nhỏ, sức yếu không thể bay cao, bay xa. Chí có đại bàng mới tung cánh gió bốn phương trời được. Sống với mục đích tầm thường, con người ta tự bằng lòng với mình, không chịu học tập nên không có tài năng. Không có tài năng thì chẳng làm được cái gì vĩ đại, phi thường như Đi-đơ-rô đã nói.
Xưa và nay, lịch sử loài người cũng như lịch sử dân tộc ta đã chứng minh một cách hùng hồn rằng, các anh hùng, các danh nhân... tên tuổi sáng ngời sử sách là những nhân vật vĩ đại đã sống và chiến đấu vì một mục đích cao cả, vĩ đại:
"Ngẫm thù lớn, há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống".
(Bình Ngô đại cáo)
Phan Bội Châu:
"Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi".
(Xuất dương lưu biệt)
Và Hồ Chí Minh:
"Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".
Có tâm hồn đẹp mới biết sống có mục đích. Có ý chí và bản lĩnh phi thường mới thực hiện được mục đích vĩ đại, cao cả. Tuổi trẻ chúng ta ngày nay phải phấn đấu trở thành người công dân tốt, người lao động chân chính, người lao động có kĩ thuật hiện đại và sáng tạo trong nền kinh tế thị trường, để góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Sống vì mục đích đúng đắn, cao cả, học sinh mới thực hiện được lời Bác Hồ dạy: "Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu".
Có được giáo dục, được học hành chu đáo, chúng ta mới sống có mục đích đẹp, đúng đắn, cao cả. Khi đã có mục đích sống đẹp, đúng đắn, chúng ta phải biết phấn đấu đến cùng để thực hiện ước mơ, hoài bão của mình. Mọi thành quả trên hành trình đi tới tương lai đâu dễ gặt hái? Phải bền chí và có quyết tâm cao để chiến thắng mọi trở lực trên đường đời. Chúng ta càng thấm thía bài thơ của Bác Hồ:
"Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non".
(Đi đường)
Câu nói của nhà văn Đi-dơ-rô thật sâu sắc và chí lí. Đã hơn hai thế kỉ qua, câu nói của ông vẫn sáng ngời chân lí, nó trở thành một danh ngôn, có sức cảm hóa kì diệu. Thực hiện đúng câu nói của nhà văn thế kỉ Ánh súng, cũng có nghĩa là chúng ta đã "Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại.
Câu trả lời của bạn
Ngày xửa ngày xưa, bên Ai Cập có một vị hiền triết tên là Zun-Nu. Ngày kia, một anh thanh niên đến và hỏi ông:
"Thưa ngài, tôi không biết tại sao những người đáng kính như ngài lại luôn ăn mặc theo một cách giống nhau và đơn giản như vậy. Chẳng lẽ không cần chưng diện một chút, không phải để khoe khoang, nhưng còn vì mục đích khác nữa chứ, thưa ngài? ".
Nhà hiền triết chỉ cười và cởi chiếc nhẫn ở tay ra, trao cho chàng trai và nói: "Này anh bạn trẻ, ta sẽ trả lời câu hỏi của anh, nhưng trước tiên anh phải giúp ta việc này đã. Hãy cầm lấy chiếc nhẫn này, đi đến khu chợ bên kia đường và đổi nó lấy một đồng vàng ".
Cầm chiếc nhẫn đen đúa của Zun-Nun trên tay, chàng thanh niên tỏ vẻ nghi ngại: "Một đồng vàng? Tôi không chắc là chiếc nhẫn có thể bán được với giá đó”.
Câu trả lời của bạn
Đã bao giờ bạn nhìn một con thuyền bơi ngược nước trên sông? Người lái phải gò mình sải cánh bơi mạnh mái chèo thì con thuyền mới tiến lên được. Nếu dừng tay chèo thì con thuyền không đứng lại mà lùi theo dòng nước chảy mạnh. Sự học cũng như vậy, có khác gì việc bơi thuyền ngược nước: không tiến sẽ phải lùi.
Có người nghĩ rằng việc học là dễ dàng và đơn giản. Cứ cắp sách đến trường, nghe thầy giảng, thu nhận kiến thức và đọc thêm trong sách vở là hoàn tất việc học. Có người lại kì công mời thầy giỏi đến tận nhà dạy riêng cho con mình, tưởng như thế con sẽ giỏi, sẽ thành tài. Nghĩ như vậy là chưa hiểu hết bản chất của việc học. Học cũng gian khổ như bơi thuyền ngược nước. Con thuyền phải đối mặt với dòng nước chảy ngược lại, liệu có dễ dàng đủ sức mạnh để vượt qua thử thách ấy không? Và quan trọng nhất là có đủ kiên trì để chiến thắng nó không? Bởi dòng nước thì lúc nào cũng chảy, còn con thuyền chỉ cần lơ là một chút (ngừng tay chèo) là có thể không tiến lên được mà ngược lại phải lùi lại ngay theo sức nước chảy. Việc học cũng gian nan và đầy thử thách như thế. Không tiến sẽ phải lùi. Đó chính là bản chất và quy luật của việc học đối với tất cả mọi người, không trừ riêng ai.
Học là một hoạt động khám phá và sáng tạo của con người, bao gồm hai khâu chủ yếu: khám phá, tiếp cận và chiếm lĩnh tri thức của nhân loại thành tri thức của mình (thu nhận kiến thức) rồi vận dụng kiến thức đó vào cuộc sống để biến thành kiến thức mới (vận dụng và sáng tạo kiến thức mới). Hiểu như vậy thì việc học không đơn giản chút nào, trái lại rất khó khăn và gian khổ. Nguyễn Cư Trinh từng nói: "Có một chữ mà nghĩ ba năm chưa xong, giảng ngàn năm chưa hết". Còn Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác thì tâm niệm: "Xem một câu, phải suy ra trăm câu; thấy một việc đời, phải ngẫm ra trăm việc. Có thế học mới hay". Ở phương Tây, nhờ khổ luyện học vẽ trứng gà mấy chục ngày liền theo cách dạy của thầy Vê-rô-ki-ô mà về sau Lê-ô-na đơ Van-xi đã trở thành danh họa nổi tiếng thời Phục hưng. Không khổ luyện, không kiên trì, không quyết tâm thì làm sao thu nhận được kiến thức và rèn luyện được kĩ năng, nói chi đến việc sáng tạo, phát minh - cái đích cao nhất mà việc học phải vươn tới? Đó chính là lúc người học "ngừng tay chèo" và "con thuyền học tập" sẽ lùi lại theo dòng nước chảy. Dòng nước chảy chỉ là quy luật khách quan, ở đây yếu tố chủ quan của người học mới là điều quyết định. Chẳng thế mà, ngày xưa, Cao Bá Quát đã buộc búi tóc lên xà nhà để học, Châu Trí đã quét lá đa đốt lửa lên mà học,... Và ngày nay, hẳn không thiếu những con người tật nguyền đã vượt qua dòng nước chảy để đưa "con thuyền học tập" tiến lên đến bờ bến vinh quang, đạt tới đỉnh cao của tri thức và sáng tạo, như Nguyễn Ngọc Kí bị liệt cả hai tay, phải tập viết bằng chân mà vẫn tốt nghiệp đại học; các vận động viên khuyết tật điều khiển xe lăn bằng tay mà đạt huy chương vàng,...
Bản chất của việc học là gian khổ nhưng cũng là sáng tạo để chiếm lĩnh thành trì tri thức của nhân loại. Còn thực chất của việc học là sự vươn lên để chiến thắng bản thân mình như người chèo thuyền ngược nước chiến thắng dòng sông. Không chiến thắng được bản thân thì không thể học thành tài được. Cho nên phẩm chất quan trọng trước tiên của việc học là phải kiên trì và quyết tâm, không bao giờ thối chí nản lòng. Nhưng kiên trì phải đi đôi với say mê và sáng tạo thì mới làm cho việc học hưng phấn, thích thú và đạt kết quả tốt. Việc học là suốt đời, không ngừng, không nghỉ, giống như người đi đến "chân trời kiến thức", đến được chân trời này thì lại mở ra chân trời khác, cứ thế mà đi tới. "Hiểu biết là ngọn nguồn chảy mãi, cơn khát không hút cạn được nó và nó cũng không bao giờ giải xong cơn khát". (F. Ruc-ke). Tấm gương say mê học tập của các nhà khoa học trên thế giới như Các Mác, Ăng-ghen, Anh-xtanh, Niu-tơn, Ma-ri Quy-ri,... cho ta thấy chính sức mạnh của "cơn khát kiến thức" đã tạo nên những thiên tài của nhân loại, và ở đây, ngọn lửa của niềm say mê, sáng tạo đã tôi luyện thêm lòng kiên trì và quyết tâm của họ trên con đường khám phá, chiếm lĩnh và phát minh kiến thức mới cho loài người. Bản chất của việc học và bí quyết thành công của việc học cũng là như vậy.
Dĩ nhiên trong việc học còn có phương pháp học tập sao cho tốt, cho có hiệu quả, tức là phải biết cách chèo thuyền để vượt lên được dòng nước ngược. Nhưng quan trọng nhất là có can đảm chèo thuyền hay không và có kiên trì quyết tâm chèo con - thuyền - học - tập ấy trong suốt cuộc đời mình để đến được bến bờ vinh quang không? Bởi trong thực tế, biết bao người đã buông tay chèo giữa dòng để mặc cho con thuyền lùi lại. Và ngay cả học sinh sinh viên - mà nhiệm vụ trung tâm là học tập - vẫn còn không ít người như thế. Thật đáng buồn thay! Học mà còn như vậy thì vào đời sẽ thế nào đây? Ý nghĩa triết lí sâu xa của câu ngạn ngữ chắc không chỉ dừng lại ở việc học tập của con người.
Câu trả lời của bạn
Cùng với thăng trầm lịch sử phát triển của dân tộc, kho tục ngữ, ca dao dân ca luôn đầy ắp những câu khuyên nhủ răn dạy của người xưa. Trong dân gian có câu: “Một điều nhịn bằng chín điều lành” vậy câu ca dao đó đúng với mọi trường hợp hay không?
Nhịn là sự nhẫn nại, nhún nhường trong giao tiếp hay hành động trong cuộc sống hàng ngày. Lành là cuộc sống hay kết quả êm đẹp, tốt đẹp như mọi người mong muốn. Một là con số nhỏ hơn với chín rất nhiều. Hàm ý ở đây, chỉ cần nhẫn nhịn một phần trong một thời gian nhất định, sẽ nhận lại chín (nhiều phần ) lành – may mắn, êm đẹp trong cuộc sống. Như vậy câu nói “Một điều nhịn bằng chín điều lành” có ý nghĩa rằng hãy nên nhường nhịn chịu thiệt về mình để nhận lại những điều tốt lành cho bản thân và những người xung quanh mình.
Vậy tại sao ông cha ta lại răn dậy một điều nhịn bằng chín điều lành? Trong cuộc sống đôi khi có nhiều chuyện phát sinh, con người không phải ai cũng giữ được bình tĩnh cho bản thân để mọi chuyện có thể tiếp tục xảy ra êm đẹp. Khi bước chân ra ngoài cuộc sống, bạn tiếp xúc nhiều người hơn là những người thân như cha mẹ, anh em – những người vốn đã yêu thương và nhường nhịn bạn từ trước. Chúng ta cần có cái nhìn tổng quan mọi sự vật, sự việc để cư xử đúng đắn, không nên để suy nghĩ của bản thân để xảy ra tranh cãi hay xô xát không đáng có “ dĩ hòa vi quý”. Khi bạn làm việc với một tập thể mà không nhường nhịn người khác, luôn giữ quan điểm của bản thân, dù cho quan điểm đó đúng đi chăng nữa cũng sẽ tạo cho tập thể một tinh thần không đoàn kết, lục đục. Bạn chỉ cần nhẫn nhịn, lắng nghe và khuyên giải sẽ có một kết cục tốt hơn rất nhiều. Có những mối quan hệ trong cuộc sống cũng cần sự nhẫn nhịn từ một bên để tiếp tục mối quan hệ ấy. Vợ chồng cãi nhau mà không bên nào chịu nhường bên nào mà tiếp tục tranh cãi, không ai lắng nghe ai thì lời hứa đầu bạc răng long sẽ không bao giờ thực hiện được.
Chúng ta có thể lấy biết bao nhiêu ví dụ về những tấm gương sáng nhẫn nhịn để làm nên kì tích ví như Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn biết gạt bỏ tư thù, tư oán trong dòng họ để phò vua cứu nước, cùng Thái sư Trần Quang Khải lãnh đạo nhân dân mấy lần đánh tan quân xâm lược Mông – Nguyên. Các chiến sĩ cách mạng trong thời kì kháng Mỹ , Pháp liều thân nằm vùng địch, nhẫn nhịn địch để tìm được thông tin cho đất nước chống lại quân xâm lăng.
Thế nhưng, tất cả mọi thứ đều có giới hạn. Đừng đem câu nói của ông cha “ Một điều nhịn bằng chín điều lành” để giải thích cho sự chịu đựng vô lý của bạn thân. Nhẫn nhịn chứ không phải nhẫn nhục, nhu nhược, hèn nhát, khi cần vẫn phải biết đấu tranh để thắng cái ác, cái phi lí. Khi bị chồng đánh đập hay bạo hành thì phải biết đứng lên giành lại quyền lợi cho bản thân. Trong lớp học khi bị bắt nạt phải đi tìm công bằng. Chúng ta cứ chăm chăm suy nghĩ nhẫn nhịn cho cái vô lý thì không bao giờ tìm được một kết cục tốt đẹp.
Trong cuộc sống ngày nay có vô vàn áp lực làm con người dễ cáu giận, chúng ta nên biết kiềm chế và suy nghĩ tới lời của ông cha đã răn dạy để không mất đi những thứ quý giá hay kết cục không nên. Suy cho cùng, nên áp dụng lời răn dạy một cách đúng cách để có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) là nhà thơ nổi tiếng của đất nước ta trong nửa đầu thế kỉ XIX. Ông để lại nhiều bài thơ nôm, trong đó có nhiều bài hát nói tuyệt bút, với giọng điệu thơ hào hùng. Trong nền thơ ca trung đại, chưa có nhà thơ nào. viết hay và độc đáo về đề tài chí nam nhi, chí làm trai, chí anh hùng như Nguyễn Công Trứ.
Bài thơ “Đi thi tự vịnh " được Nguyễn Công Trứ viết từ thuở hàn vi, đầy chí khí hăm hở của kẻ sĩ. Trong bài có câu thơ từng được nhiều người yêu thích và truyền tụng:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông".
Câu thơ “Đã mang tiếng ở trong trời đất”, chủ thể trữ tình là ai? Đó là kẻ nam nhi, kẻ làm trai trong xã hội phong kiến. Câu thơ nêu bật vai trò và vị thế của kẻ làm trai, của đấng nam nhi trong cuộc đời, trong vũ trụ.
Câu thơ thứ hai “Phải có danh gì với núi sông” là một lời tuyên ngôn tự tin, tự hào. Hai tiếng “phải có” là sự khẳng định trách nhiệm, nghĩa vụ của kẻ làm trai. “Danh” ở trong câu thơ là danh tiếng, là công danh, sự nghiệp ở đời; “với núi sông" là với đất nước; “núi sông” trường tồn, vĩnh hằng thì “danh” cũng luôn truyền mãi mãi.
Có thể nói, hai câu thơ trên của Nguyễn Công Trứ đã thể hiện một quan niệm sống đẹp và tích cực của kẻ sĩ. Là chí nam nhi, là kẻ sĩ trong cõi đời phải làm nên sự nghiệp to lớn, để lại công đức, danh tiếng cho đất nước, quê hương.
Theo quan niệm của các nhà nho xưa kia, kẻ sĩ là phải lập thân bằng con đường khoa cử. Triều đình phong kiến chọn nhân tài bằng con đường khoa cử. Sĩ tử phải dấn thân vào con đường thi cử, thi thố tài năng với thiên hạ, mong ghi tên vào bảng vàng bia đá để làm quan. Làm quan là để thực hiện lí tưởng trung quân ái quốc. Gặp thời loạn thì giúp vua dẹp giặc đem lại thái bình cho quê hương. Trong thời bình thì đem tài kinh bang tế thế, trị nước cứu đời, làm cho đất nước cường thịnh. Là đấng trượng phu, là kẻ nam nhi không thể sống tầm thường, không thể ru rú nơi xó nhà, mang thân phận phường giá áo túi cơm.
Kẻ sĩ chân chính phải bằng tài đức, qua rèn luyện “thập niên đăng hỏa” ở cửa Khổng sân Trình, dùi mài kinh sử và bằng con đường thi cử, đỗ đạt, làm nên những công việc phi thường như dời non lấp bể, đội đá vá trời, ghi danh vào sử sách, làm rạng rỡ gia đình, dòng họ, làm vẻ vang cho đất nước, quê hương.
Quan niệm trên đây của Nguyễn Công Trứ rất đúng đắn và tích cực đối với một nhà nho, một kẻ sĩ hăm hở lập thân trong xã hội cũ. Cái “danh” mà nhà thơ nói đến không phải là danh hão, là hư danh, là thứ danh lợi vị kỉ tầm thường. Công danh sự nghiệp phải là tiếng thơm, là những công cuộc ích quốc lợi dân, là công danh sự nghiệp được đo bằng tầm vóc phi thường, là tài năng, đạo đức xuất chúng. Kẻ dốt nát, tham lam, loại hạ lưu... không thể nào có cái danh ấy. Câu thơ trên đây thể hiện một tâm thế tuyệt đẹp của kẻ tài trai, của đấng nam nhi mang khát vọng công danh, mang hoài bão tung hoành "Phải có danh gì với núi sông".
Hai câu thơ “Đã mang tiếng ở trong trời đất / Phải có danh gì với núi sông " rút trong bài thơ "Đi thi tự vịnh", vì thế “danh” phải gắn liền với bảng vàng bia đá. Nguyễn Công Trứ có lúc lại viết:
"Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
Không công danh thời nát với cỏ cây".
(Phận sự làm trai)
Như vậy có nghĩa là: muốn làm nên công danh thì phải có trung hiếu; kẻ sĩ không có công danh thì cuộc đời cũng mất hết ý nghĩa, trở nên vô nghĩa "nát với cỏ cây". Có danh là được ghi tên vào sử sách, để lại tiếng thơm cho đời:
"Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ
Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh".
Có tài mới có danh. Có đức mới có danh. Có chí nam nhi, có nợ tang bồng mới mong làm nên công danh sự nghiệp: Lập thân, lập công danh là khát vọng ở đời:
"Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc,
Nợ tang bồng vay trả trả vay.
Chí làm trai nam, bắc, đông, tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể..."
(Nợ tang bồng)
Theo Nguyễn Công Trứ thì công danh luôn luôn gắn liền với chí anh hùng. Có chí anh hùng mới lập nên công danh, để lại tiếng thơm cho muôn đời: "Túi kinh luân từ trước đến ngàn sau / Hơn nhau một tiếng công hầu" (Trên vì nước, dưới vì nhà).
Nguyễn Công Trứ là một tài năng đích thực, đi thi: đỗ giải nguyên. Cầm quân "Có lúc bình tây cờ đại tướng". Làm quan, lúc thì ‘Tổng đốc Đông", khi thì giữ chức "Phủ doãn Thừa Thiên". Ông đã di dân lập ấp, lấn biển, sáng lập ra hai huyện Tiền Hải và Kim Sơn trên miền Bắc nước ta. Đến nay vẫn được nhân dân ca ngợi và lập đền thờ.
Quan niệm về công danh, về chí nam nhi, nhân dân ta từng ca ngợi những con người mang khát vọng bay xa, bay cao, đi tới mọi chân trời mà làm nên sự nghiệp:
"Làm trai cho đáng nên trai,
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng"
(Ca dao)
Quan niệm công danh sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ rất gần gũi với quan niệm của nhân dân ta. Tuy tiến bộ và tích cực tuy hăm hở và giàu bản lĩnh, nhưng quan niệm về công danh sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ vẫn là lí tưởng anh hùng của kẻ sĩ thời phong kiến, bị hạn chế bởi tư tưởng “trung quân". Cuộc đời Nguyễn Công Trứ thăng trầm dữ dội, có lúc làm đại tướng, có lúc bị giáng chức làm lính thú,... Cuối đời ông ngao ngán thốt lên:
“Kiếp sau xin chớ hơn người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo"...
(Cây thông)
Hai câu thơ trên đây đã nêu một quan niệm, một bài học đẹp về cách sống, về lập thân, về nỗ lực phấn đấu làm nên công danh sự nghiệp ở đời. Có học tập tất phải có thi cử. Học sinh chúng ta tìm thấy ở hai câu thơ sự hăm hở trong đua tranh, thi thố tài năng về học tập, thi cử với bạn bè. Thế kỉ XXI đang vẫy gọi. Đất nước đang vẫy gọi. Thanh thiếu niên học sinh phải biết nỗ lực học tập, tiến quân vào con đường khoa học kĩ thuật, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, học giỏi, thành tài, để phục vụ đất nước vì mục tiêu “Dân giàu nước mạnh ". Chúng ta càng trân trọng Nguyền Công Trứ, trân trọng vần thơ nổi tiếng của ông: ... “Phải có danh gì với núi sông"... Công danh của tuổi trẻ chúng ta ngày nay luôn luôn gắn liền với lợi ích của Tổ quốc và cách mạng, vì hạnh phúc của nhân dân.
Câu trả lời của bạn
Khoa học là một lĩnh vực vô cùng kì diệu của con người từ xưa đến nay. Khoa học gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người trên những chặng đường văn minh. Đường đời vốn nhiều khó khăn, trắc trở và nguy hiểm. Con đường khoa học cũng vậy, đầy chông gai thử thách. Muốn trở thành một nhà khoa học chân chính có nhiều công trình khoa học, nhiều cống hiến thì cần phải có nhiều phẩm chất, nhiều điều kiện và một trong những phẩm chất, điều kiện ấy là tinh thần khoa học và dũng khí. Đúng như có ý kiến đã cho rằng: 'Tinh thần khoa học phải đi đôi với dũng khí".
Người làm công tác khoa học nhân văn hay công tác khoa học tự nhiên, trước hết phải có tinh thần khoa học. Thế nào là tinh thần khoa học? Tinh thần khoa học là óc nghiên cứu, là tinh thần tìm tòi sáng tạo, phát minh. Tinh thần khoa học đề cao chân lí, coi trọng thực tiễn, đúc rút lí luận, đi từ những cái cụ thể nhất đến những vấn đề trừu tượng để tìm ra những sáng kiến, những phát minh khoa học, đem lại lợi ích cho con người, thúc đẩy tiến bộ xã hội và nền văn minh nhân loại. Tinh thần khoa học không hướng tới danh lợi tầm thường. Cán bộ khoa học chân chính đem trí tuệ, khoa học phục vụ lợi ích của dân tộc, của đất nước và nhân loại làm lí tưởng. Tất cả vì hạnh phúc con người. Tinh thần khoa học ấy là thái độ trung thực, tinh thần khiêm tốn, là sự say mê nghiên cứu, tìm tòi, phát minh. Nói rằng, nhà bác học cũng phải học là vậy.
Tinh thần khoa học phải đi đôi với dũng khí, tức là tinh thần dũng cảm. Dám nghĩ, dám làm, không đi theo con đường mòn, trái lại, dám xông vào những lĩnh vực mới mẻ đầy khó khăn thử thách, chiến thắng mọi trở lực trên con đường nghiên cứu, hướng tới những phát minh, những công trình. Không nản lòng, nản chí mà say mê bền bỉ, nhẫn nại tìm ra phương pháp đúng đắn... ấy là dũng khí, là tinh thần khoa học. Có nhiều nhà khoa học hiến dâng cả cuộc đời cho khoa học, cam chịu mọi sự thiếu thốn vật chất. Tinh thần khoa học luôn luôn gắn bó với dũng khí khoa học, hỗ trợ nhau, bổ sung cho nhau. Thiếu một trong hai nhân tố ấy thì sẽ không có công trình khoa học, không có phát minh, sáng kiến, không thể trở thành nhà khoa học chân chính.
Mọi thành tựu khoa học đâu dễ một sớm một chiều mà gặt hái được? Nhà hàng hải vĩ đại Ma-gien-lang (1480-1521) phải mất 3 năm kém 12 ngày, với hàng trăm sĩ quan, thủy thủ bỏ mạng trên đại dương mênh mông mới phát kiến ra con đường hàng hải vòng quanh thế giới. Nhà bác học Bru-nô (1548-1600) dũng cảm bước lên giàn hỏa thiêu của Nhà thờ trung cổ với niềm tin khoa học là trái đất và cả mặt trời đều chuyển động xung quanh trục của nó. Tên tuổi của Niu-tơn, Đác-uyn, Nô-ben, E-đi-xơn về các lĩnh học vật lí, toán học, sinh học, thuốc nổ, về điện,... là những phát minh thúc đẩy văn minh nhân loại, vì hạnh phúc của loài người. Pa-xlơ nhà bác học vĩ đại đã vượt qua mọi khó khăn để chế ra vắc-xin chữa bệnh chó dại cứu sống bao người. Năm 70 tuổi, ông nhắn gửi thanh niên gần xa những lời tâm huyết: "Các bạn trẻ, các bạn hãy sống trong sự thanh bình của các phòng thí nghiệm, các thư viện. Lúc đầu các bạn hãy tự hỏi: 'Ta đã làm gì để trau dồi học vấn của ta?". Khi trưởng thành lên, các bạn lại hỏi: "Ta đã làm gì cho Tổ quốc ta?". Tinh thần khoa học phải đi đôi với dũng khí là vậy!
Ở nước ta hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển chưa cao. Trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần nhiều tài năng trẻ, nhiều công trình khoa học để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, chiến thắng nghèo nàn lạc hậu. Cải tạo vùng đồng bằng sông Cửu Long, lai tạo giống lúa mới, trồng cây rừng... là những đề tài khoa học cấp quốc gia vô cùng cấp thiết cần tinh thần khoa học và dũng khí. Trước đây, những nhà khoa học như Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng, Lương Định Của,... đã cống hiến cả cuộc đời cho Tổ quốc và nhân dân. Nhân dân ta mãi mãi biết ơn và tự hào về người thầy thuốc mổ tim tài ba, về nhà nông học lai tạo được nhiều giống lúa có năng suất cao, về người kĩ sư lỗi lạc đã sáng chế ra nhiều loại vũ khí hiện đại trang bị cho quân đội ta tiêu diệt lũ giặc xâm lược.
Nhân dân ta cần cù, giàu lòng yêu nước, rất hiếu học. Đó là những điều kiện thuận lợi để đất nước ta hình thành một đội ngũ cán bộ khoa học có thực tài và đồng đảo để hiện đại hóa và công nghiệp hóa đất nước. Khó khăn lớn nhất của ta hiện nay là còn thiếu những phòng thí nghiệm hiện đại, những trang bị khoa học kĩ thuật tối tân. Các cán bộ khoa học của ta còn phải làm việc trong điều kiện khó khăn thiếu thốn. Hiện tượng chảy máu chất xám là một sự thật chưa dễ khắc phục được.
Tinh thần khoa học và dũng khí là hai nhân tố quan trọng cần phải có của một người làm công tác khoa học. Muốn xây dựng một sự nghiệp khoa học cần có trí tuệ, sự thông minh hơn người, cần có thực tài. Cán bộ khoa học hiện đại phải được đào tạo bài bản, có chiều sâu, đào tạo ở những trung tâm khoa học lớn dưới sự giảng dạy và dìu dắt của những nhà bác học, những giáo sư tầm cỡ. Khoa học kĩ thuật hiện đại phát triển với tốc độ phi thường, kì diệu. Số nhà khoa học được nhận giải thưởng Nô-ben mỗi năm một nhiều. Sáng chế phát minh của những nhà khoa học thiên tài đã thúc đẩy văn minh nhân loại về tin học, về sinh học, về công nghệ, về du hành vũ trụ,... làm thay đổi bộ mặt các quốc gia, làm cho khoảng cách mênh mông giữa các vùng địa lí, giữa các châu lục trở nên "gần gũi". Cán bộ khoa học trong thời hiện đại phải biết sử dụng thành thạo hai, ba ngoại ngữ; như vậy mới có thể nghiên cứu chuyên sâu. Nước ta hiện nay còn thiếu phòng thí nghiệm hiện đại, thư viện hiện đại để các nhà khoa học trẻ có điều kiện tự học, phát triển tài năng. Hiện tượng phó tiến sĩ "rởm", tiến sĩ "rởm", giáo sư "rởm" mà các báo chí nói đến lâu nay là một sự thật đáng buồn, cần được khắc phục.
Tóm lại, khoa học là một lĩnh vực kì diệu của con người đưa nhân loại tiến bước trên con đường văn minh. Ánh sáng khoa học đã và đang chiếu rọi khắp mọi chân trời, mọi quốc gia. Nhờ khoa học mà con người được sống trong văn minh, hạnh phúc. Khoa học và nhà khoa học phải vì con người, hướng tới đất nước và nhân dân. Muốn làm chủ khoa học, thế hệ trẻ Việt Nam phải say mê học tập, nghiên cứu, phải có tinh thần khoa học và dũng khí. ở đời mọi việc đều khó. Con đường khoa học vô cùng rộng lớn, đầy gian nan thử thách và vô cùng vinh quang. Ý kiến "Tinh thần khoa học phải đi đôi với dũng khí" là một ý kiến sâu sắc, xác đáng đối với mỗi chúng ta trên con đường học tập và nghiên cứu khoa học.
Chúng ta đang sống trong thời đại khoa học. Trí tuệ, tài năng được đề cao, được coi trọng. Mỗi chúng ta phải nỗ lực học tập, tiến quân vào khoa học, phấn đấu đem trí tuệ, tài năng phục vụ Tổ quốc Việt Nam bước vào đệ nhị thiên niên kỉ Thăng Long hùng cường.
Câu trả lời của bạn
Chúng ta không còn lạ khi hằng ngày bắt gặp hình ảnh các em học sinh trung học cơ sở sử dụng xe gắn máy, thiếu an toàn, thậm chí thiếu ý thức trong tham gia giao thông, nghiêm trọng, như: không đội mũ bảo hiểm hoặc đội thì không đúng quy định (không cài quay nón), chạy hàng hai, hàng ba …trong cách hành xử khi tham gia giao thông trên đường của các em càng phải làm cho chúng ta suy nghĩ?
Khi có sự việc đáng tiếc, va quệt trên đường thì các các em xử lý với nhau làm chúng ta không khỏi ngỡ ngàng, thay vì “xin lỗi” vì sự cố thì các em lại chọn cách hành xử là dùng “nắm đấm” với nhau, có những vụ việc rất là nhỏ nếu các em xử lý với nhau một cách có “văn hóa”, đúng pháp luật thì không có chuyện gì? Nhưng cách hành xử không văn hóa, có những vụ việc chỉ vì va quệt giao thông nhẹ trở thành một vụ án nghiêm trọng xuất phát từ cách hành xử thiếu văn hóa như thế! Mỗi khi đánh xe ra đường, chúng ta không khỏi hoảng sợ khi một số thanh niên mới lớn phóng xe vô cùng bạt mạng. Họ đi nhanh như một tia chớp, chẳng cần đội mũ bảo hiểm, thậm chí đèo ba, bốn lạng lách đánh võng làm huyên náo cả một khu phố. Tối đến dạo chơi trên phố mới thấy nỗi kinh hoàng của giới trẻ hôm nay. Dọc đường Quang Trung, Hồ Tùng Mậu, Minh Khai, Trường Thi, Lê Duẩn, Quốc lộ 32… hàng trăm thanh thiếu niên đi xe tay ga, phân khối lớn tỏ vẻ “iêng hùng” lạng lách giữa bàn dân thiên hạ và chúng coi đó như là thể hiện “cá tính”. Ngoài ra, khi đi trên các tuyến đường trong thành phố, chúng ta cũng rất dễ bắt gặp vô vàn những chiếc xe gắn máy, do giới trẻ điều khiển dán nhãn mác, màu sắc nhem nhuốc khắp thân xe như các loại tem: rồng, phượng, hoa hoè… Thậm chí một số bộ phận còn tự ý thay đổi màu xe, lắp hệ thống đèn chiếu sáng quá kích cỡ, gắn còi ôtô, còi hú trái quy định lại còn đùa giỡn ngay gây mất trật tự trên các tuyến đường. Điều đáng báo động là khi giới trẻ tham gia giao thông đường bộ có ý thức chấp hành giao thông kém. Theo thống kê chưa đầy đủ trong 3 tháng đầu năm đã có gần 500 trường hợp thanh thiếu niên vi phạm Luật giao thông đường bộ. Đặc biệt, một số đối tượng vi phạm luật an toàn giao thông đường bộ khi bị thu xe thì tỏ thái độ thách thức lại đối với lực lượng công an…Thanh niên là một lực lượng đông đảo có một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã - hội của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Thanh niên là người chủ tương lai của đất nước, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần là do thanh niên”. Vậy là những học sinh các em hãy đóng một vai trò to lớn trong việc xây dựng “Văn hoá giao thông” bằng những việc làm cụ thể như: Chúng ta hãy bắt đầu từ những thói quen nhỏ nhất như đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy, dừng, đỗ đúng phần đường quy định, nghiêm chỉnh chấp hành tín hiệu giao thông. Không dàn hàng, dùng điện thoại, ô che khi điều khiển phương tiện giao thông …. Góp phần xây dựng nhiều “Tuyến đường văn hóa giao thông”; bảo vệ giữ gìn và xây dựng nhiều công trình giao thông công cộng.
Chúng ta không còn lạ khi hằng ngày bắt gặp hình ảnh các em học sinh trung học cơ sở sử dụng xe gắn máy, thiếu an toàn, thậm chí thiếu ý thức trong tham gia giao thông, nghiêm trọng, như: không đội mũ bảo hiểm hoặc đội thì không đúng quy định (không cài quay nón), chạy hàng hai, hàng ba …trong cách hành xử khi tham gia giao thông trên đường của các em càng phải làm cho chúng ta suy nghĩ?
Khi có sự việc đáng tiếc, va quệt trên đường thì các các em xử lý với nhau làm chúng ta không khỏi ngỡ ngàng, thay vì “xin lỗi” vì sự cố thì các em lại chọn cách hành xử là dùng “nắm đấm” với nhau, có những vụ việc rất là nhỏ nếu các em xử lý với nhau một cách có “văn hóa”, đúng pháp luật thì không có chuyện gì? Nhưng cách hành xử không văn hóa, có những vụ việc chỉ vì va quệt giao thông nhẹ trở thành một vụ án nghiêm trọng xuất phát từ cách hành xử thiếu văn hóa như thế! Mỗi khi đánh xe ra đường, chúng ta không khỏi hoảng sợ khi một số thanh niên mới lớn phóng xe vô cùng bạt mạng. Họ đi nhanh như một tia chớp, chẳng cần đội mũ bảo hiểm, thậm chí đèo ba, bốn lạng lách đánh võng làm huyên náo cả một khu phố. Tối đến dạo chơi trên phố mới thấy nỗi kinh hoàng của giới trẻ hôm nay. Dọc đường Quang Trung, Hồ Tùng Mậu, Minh Khai, Trường Thi, Lê Duẩn, Quốc lộ 32… hàng trăm thanh thiếu niên đi xe tay ga, phân khối lớn tỏ vẻ “iêng hùng” lạng lách giữa bàn dân thiên hạ và chúng coi đó như là thể hiện “cá tính”. Ngoài ra, khi đi trên các tuyến đường trong thành phố, chúng ta cũng rất dễ bắt gặp vô vàn những chiếc xe gắn máy, do giới trẻ điều khiển dán nhãn mác, màu sắc nhem nhuốc khắp thân xe như các loại tem: rồng, phượng, hoa hoè… Thậm chí một số bộ phận còn tự ý thay đổi màu xe, lắp hệ thống đèn chiếu sáng quá kích cỡ, gắn còi ôtô, còi hú trái quy định lại còn đùa giỡn ngay gây mất trật tự trên các tuyến đường. Điều đáng báo động là khi giới trẻ tham gia giao thông đường bộ có ý thức chấp hành giao thông kém. Theo thống kê chưa đầy đủ trong 3 tháng đầu năm đã có gần 500 trường hợp thanh thiếu niên vi phạm Luật giao thông đường bộ. Đặc biệt, một số đối tượng vi phạm luật an toàn giao thông đường bộ khi bị thu xe thì tỏ thái độ thách thức lại đối với lực lượng công an…Thanh niên là một lực lượng đông đảo có một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã - hội của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Thanh niên là người chủ tương lai của đất nước, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần là do thanh niên”. Vậy là những học sinh các em hãy đóng một vai trò to lớn trong việc xây dựng “Văn hoá giao thông” bằng những việc làm cụ thể như: Chúng ta hãy bắt đầu từ những thói quen nhỏ nhất như đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy, dừng, đỗ đúng phần đường quy định, nghiêm chỉnh chấp hành tín hiệu giao thông. Không dàn hàng, dùng điện thoại, ô che khi điều khiển phương tiện giao thông …. Góp phần xây dựng nhiều “Tuyến đường văn hóa giao thông”; bảo vệ giữ gìn và xây dựng nhiều công trình giao thông công cộng.
Câu trả lời của bạn
Hiện nay, đất nước ta đang xây dựng cuộc sống mới theo phương châm: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hàng triệu thanh niên, học sinh, sinh viên với lý tưởng, hoài bão cao đẹp đang ngày đêm miệt mài học tập, chuyên cần lao động, không ngừng rèn luyện bản thân. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là có một bộ phận thanh niên lại quá tin vào thần thánh phù hộ độ trì mà xem nhẹ sự cố gắng tu dưỡng, phấn đấu của bản thân. Nguyên nhân nào đã dẫn đến hiện tượng tiêu cực ấy?
Nền kinh tế hiện nay ở nước ta là nền kinh tế thị trường nhiều thành phần. Sự ưu việt của nó là tuân theo những quy luật đúng đắn như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, làm cho hàng hóa ngày càng phong phú, chất lượng không ngừng nâng cao, người có tài phát huy được khả năng sáng tạo, công sức được đền bù thỏa đáng. Cuộc sống vật chất của người dân sung túc hơn và đời sống tinh thần cũng phong phú, đa dạng hơn trước rất nhiều.
Bên cạnh những yếu tố tích cực, nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ mặt tiêu cực của nó. Đó là khoảng cách quá xa giữa giàu và nghèo; sự phân hóa xã hội phức tạp; các giá trị tốt – xấu, đúng – sai, chân thực – giả tạo, cao cả – thấp hèn… đan xen lẫn lộn. Tất cả những thứ đó đã ảnh hưởng tiêu cực đến một bộ phận thanh niên, làm lệch lạc nhận thức của họ, dẫn đến sai lầm trong việc chọn hướng đi. Do không nắm vững bản chất và quá trình vận động tất yếu của cuộc sống nên họ có lối sống thụ động, ỷ lại. Thay vì dựa vào sự nỗ lực của chính mình thì họ lại trông đợi vào thế lực siêu hình là thần thánh để hi vọng sẽ có được một kết quả tốt đẹp, một tương lai rực rỡ. Khi còn ngồi trên ghế nhà trường, họ không chịu chăm chỉ học hành, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng mà họ tự an ủi “học tài thi phận”. Họ thường lui tới các chùa chiền, nhà thờ, đền miếu… nổi tiếng linh thiêng để cầu xin phúc lộc, may mắn. Nếu như thành tâm thì ít nhất họ cũng nhận được một “liều thuốc an thần” từ Thần Phật, nhưng tham vọng và ý đồ không trong sáng đã khiến họ u mê. Họ thụ động, ỷ lại vào cơ hội may rủi, trông chờ vào các thế lực thần linh. Họ cầu xin, khấn vái thần thánh phù hộ độ trì cho họ đỗ đạt mà không cần tới một sự cố gắng tự thân nào cả.
Những động thái đó làm cho tinh thần tự chủ, tinh thần phấn đấu, khả năng sáng tạo bị triệt tiêu; kết quả học tập, lao động bị giảm sút nghiêm trọng. Cầu xin không được, họ vỡ mộng bởi những hậu quả nghiêm trọng đã đến với bản thân. Họ không giải thích nổi bằng các luận cứ khoa học, mà lại khăng khăng đổ cho sự may rủi của số phận, của thời vận… Tâm trạng buồn chán, thất vọng dễ đẩy họ đến các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, nghiện ngập… Hết vòng luẩn quẩn này đến vòng luẩn quẩn khác. Họ bắt đầu oán trách thần thánh, cha mẹ và những người xung quanh. Họ nhìn đời bằng con mắt tiêu cực và luôn than thở rằng sao số phận lại bất công với họ đến thế. Có một lời dạy sâu sắc, chí lý của người xưa thì họ lại không biết: Tiên trách kỉ, hậu trách nhân.
Một hiện tượng xấu khá phổ biến trong những năm gần đây là để có thể leo cao trên bậc thang danh vọng, không ít người đã dùng tiền bạc, quà cáp để luồn lọt mua bằng, mua chức, mua một vị trí nào đó trong xã hội. Nạn “học giả, bằng giả”, “học giả bằng thật”… tràn lan, gây nhức nhối trong dư luận xã hội. Việc làm tiêu cực đó của họ chẳng khác gì trò chơi trẻ em xây nhà trên cát. Sự nghiệp của họ thật bấp bênh, chông chênh, không biết sẽ sụp đổ bất cứ lúc nào vì không được xây dựng trên nền móng vững chắc là tài và đức. Họ không biết rằng những gì khởi đầu bằng sự dối trá đều chẳng bền lâu và không có sự thật nào che giấu được dưới ánh mặt trời.
Trước thực trạng nói trên, chúng ta cần giúp đỡ để các thanh niên đó dần dần tỉnh ngộ, quyết tâm làm lại cuộc đời. Các bạn hãy tin tưởng vào khả năng của bản thân, vào tương lai tươi sáng của dân tộc và đất nước. Nên nhớ rằng không có thần thánh nào cứu nổi chúng ta ra khỏi dốt nát, đói nghèo ngoài bộ óc năng động, sáng tạo và đôi bàn tay lao động cần cù, siêng năng của chính mình. Không có thần thánh nào có thể san bằng mọi áp bức, bất công trên cõi đời này chỉ bằng những lời nguyện cầu của tín đồ mà phải bằng sự đấu tranh quyết liệt và bền bỉ của nhân dân lao động.
Các Mác – vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản trên toàn thế giới đã khẳng định: Hạnh phúc là đấu tranh và đấu tranh để chiến thắng bản thân là gay go, vinh quang hơn cả. Thanh niên chúng ta hãy dũng cảm tuyên chiến và đẩy lùi những thói hư tật xấu ra khỏi con người mình; không ngừng phấn đấu vươn lên trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Hãy sống hết mình với bầu nhiệt huyết tràn đầy sức sống của tuổi thanh xuân, chúng ta sẽ gặt hái được những mùa vàng ấm no, hạnh phúc.
Trong thời đại mới, chúng ta đang có rất nhiều cơ hội để thể hiện tài năng, ước nguyện của mình. Tuổi trẻ hãy phấn đấu, vươn lên trong sản xuất, nghiên cứu, học tập. Hãy thắp sáng niềm tin bằng ngọn lửa trong khối óc, con tim của chính mình mà không cần phải nhờ cậy vào một sức mạnh siêu hình nào khác.
Câu trả lời của bạn
Xuân Diệu đã từng nói: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”. Trong bài thơ Vội Vàng của ông, với mong muốn giục giã mọi người sống hết mình,hãy trân trọng từng giây từng phút trong cuộc đời này, bởi con người thì chỉ có 60 năm cuộc đời, 60 năm ấy nếu ta không biết hưởng thụ thì nó sẽ qua đi rất nhanh. Mà thời gian đã qua đi thì không bao giờ quay trở lại được. Vậy chúng ta phải sống như thế nào mới đúng, mới có nghĩa đây? Có ý kiến cho rằng: “Một ngày so với một đời là rất ngắn nhưng một đời lại do mỗi ngày tạo nên” (Theo Nguyên lý của thành công của nhà xuất bản văn học thông tin).
Thật vậy, ý kiến trên nêu rõ sự đối lập giữa thời gian ngắn ngủi của một ngày với thời gian rất dài của một đời người. Nhận xét này nhấn mạnh giá trị của cuộc sống, ý nghĩa cuộc sống của một đời người. Điều này khẳng định thời gian là vô giá là vô cùng quý báu vậy nên chúng ta cần biết cách xử lý sao cho có ích, không nên lãng phí thời gian.
Nói “Một ngày so với một đời là ngắn ngủi”. Một ngày thì chỉ có 24 giờ vậy nên so với một đời thì nó quá ngắn ngủi. “Một đời lại do mỗi ngày tạo nên” nghĩa là, một đời người phải trải qua từng ngày, qua 24 giờ này đến 24 giờ kia. Ta cũng có thể hiểu theo hai nghĩa. Đơn giản để thấy điều ấy đó là, con người được mẹ sinh ra cất tiếng khóc chào đời, có quyền được yêu thương và hạnh phúc, thời khắc của cuộc sinh nở chỉ trong khoảng ngày. Hiểu theo nghĩa hai là: Con người ta làm việc cật lực suốt mấy năm tháng ròng rã, đến cuối cùng đạt được thành quả được đứng trên bục vinh quang, bù đắp cho bao nhiêu sự cố gắng. Thời khắc ấy cũng chỉ vẹn trong một ngày.
Nói đến sự ngắn ngủi của thời gian là ta lại nghĩ ngay đến sự ngắn ngủi của một đời người. Những sự tiếc nuối những gì không thể thể làm được nữa. Đời người ngắn lắm mà cái quý giá nhất của con người đó là đời sống. Đời người chỉ sống được một lần. Để có được một cuộc sống ấm no hạnh phúc thì điều đầu tiên là không được lãng phí thời gian. Vì thời gian là một trong những điều quan trọng tạo nên cuộc sống của con người. Vả lại là con người ai mà không muốn sống lâu sống trăm tuổi để tận hưởng hết cái thú vui của nơi trần thế. Nhưng thời gian lại được đem đo đong đếm theo đơn vị “một ngày”, “mỗi ngày”. Một ngày tuy ngắn ngủi nhưng đối với những người biết tận dụng thời gian thì trong một ngày họ có thể làm được rất nhiều việc có ích. Như chúng ta vẫn thường thấy hàng ngày: học sinh đến trường để học tập, nông dân ra ruộng để cày cấy, trồng trọt làm ra sản phẩm để nuôi sống đời. Các nhà khoa học phát minh ra những ý tưởng hay chỉ trong một giờ hoặc cũng có thể chỉ trong khoảnh khắc.
Thời gian là vô cùng quý giá thế nhưng có người họ không biết quý trọng. Con người ta chỉ biết lao đầu vào những thứ vô bổ, ỷ lại, ăn bám người khác không có trách nhiệm với bản thân mình. Họ sống ích kỷ, sống lạc loài, chỉ biết bản thân mà mặc kệ đến lợi ích của người khác. Và đó cũng là điều đáng chê trách. Chưa hết còn có nhiều kẻ biện minh cho sự lười biếng ấy thì lại dùng những lý lẽ cùn như: “Đời còn dài, hôm nay không làm thì để mai làm”. Có lẽ họ coi thời gian như một đoạn dây co giãn cắt đoạn này thì còn đoạn khác. Nhưng thực chất họ đâu biết hay là cố tình không biết. Thời gian đã qua thì không bao giờ kéo vớt lại được. Đó là quy luật tự nhiên.
Trong cuộc đời này có những khi chỉ cần một ngày hoặc chỉ là khoảnh khắc nào đó thôi người ta cũng có thể thay đổi được số phận của mình. Cuộc đời này đối với mỗi bản thân chúng ta thì sao? Trong khi có biết bao nhiêu người đang chạy đua với thời gian thì lại có không ít những người thậm chí là những chàng trai cô gái mới đôi mươi mà đã để cuộc đời mình bình thản lặng lẽ trôi qua vô vị.
Tóm lại, khi đã hiểu được ý nghĩa giá trị của thời gian. Thì điều ta cần chắc chắn là: sống tốt cho hiện tại là điều kiện để có một tương lai tươi sáng, hãy biến mỗi ngày thành những viên ngọc tỏa sáng cuộc đời này. Thế nên, một ngày tuy ngắn ngủi nhưng đừng nên để ý đến sự ngắn ngủi ấy chỉ cần ta cảm thấy hạnh phúc khi còn ngày để sống. Hãy sống một cuộc sống có ý nghĩa khi ấy ta sẽ cảm thấy rằng, chỉ cần có thời gian, nghĩa là chúng ta có tất cả.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *