Nhằm giúp các em học tốt hơn, vững vàng kiến thức hơn, Học 247 giới thiệu đến các em bài giảng Chí Phèo: Tác giả Nam Cao trước khi học về văn bản Chí Phèo. Mong rằng qua bài giảng, các em sẽ nắm được những kiến tức trọng tâm về tác giả Nam Cao (cuộc đời và sự nghiệp). Chúc các em có một bài giảng hay và ý nghĩa.
Đề: Tư tưởng chi phối các tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao
Gợi ý làm bài:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Để hiểu hơn về tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nam Cao, các em có thể tham khảo một số văn mẫu dưới đây:
---------------------(Đang cập nhật)--------------------
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Nghệ thuật vị nhân sinh.
Câu trả lời của bạn
Nông dân nghèo và trí thức tiểu tư sản nghèo.
Câu trả lời của bạn
Chí Phèo.
Câu trả lời của bạn
Từ trái tim tràn đầy tình yêu thương đồng loại của chính Nam Cao.
Câu trả lời của bạn
Trần Hữu Tri.
Câu trả lời của bạn
Làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, Lí Nhân, Hà Nam.
Câu trả lời của bạn
Sinh năm 1917, mất năm 1951.
Câu trả lời của bạn
a. Ở mảng để tài người trí thức tiểu tư sản:
Ở mảng đề tài này, đóng góp nổi bật trước hết của Nam Cao là đã phán ánh một cách chân thực thực trạng buồn thảm, cơ cực của những người trí thức tiểu tư sán nghèo, đồng thời phần nào nhà văn cũng phác hoạ được bức tranh đen tối, u ám của xã hội Việt Nam đang đứng trước bờ vực thẳm của sự khủng hoảng trước Cách mạng.
Thông qua những bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản nghèo, Nam Cao kết tội xã hội vô nhân đạo đã bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào tình trạng chết mòn, tàn phá tâm hồn con người. Đồng thời nhà văn thể hiện cuộc đấu tranh kiên trì của những người này trước sự cám dỗ của lối sống ích kí, sự đầu độc của môi trường dung tục, từ đó ca ngợi lẽ sống nhân đạo và tình thương yêu.
b. Ở mảng đề tài người nông dân, Nam Cao cũng thường lấy nguyên mẫu từ những người quen biết, thân thuộc trong cái làng Đại Hoàng lam lũ của ông để xây dựng nên những dì Hảo, lão Hạc, lang Rận, Chí Phèo,...
Qua những sáng tác ở mảng đề tài này, Nam Cao đã phản ánh chân thật cuộc sống tối tăm, cực nhục của người nông dân sau lũy tre. Nhà văn thường quan tâm đến số phận khốn khổ của những người nông dân thấp cổ, bé họng, thường xuyên bị đè nén, áp bức nặng nề nhất. Đấy là những người cố cùng, lép vế, những người phụ nữ bất hạnh lấy phải chồng vũ phu,... Thông qua những số phận của họ, ông nêu lên tình trạnbất công ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng.
Ngoài những nhân vật nói trên, Nam Cao thường viết về những người chí vì đói quá nên đã bị lăng nhục, bị xúc phạm một cách tàn nhẫn, bất công (Một bữa no, Tư cách mõ, Lang Rận,...). Đấy là những người cằn cỗi, u mê, thậm chí dị hình dị dạng, đầy thú tính, có khi gây nên những chuyện nhục nhã, xấu xa. Viết về quá trình tha hoá của những con người này, nhà văn đã có những phát hiện sâu sắc: Xã hội tàn bạo đã huỷ diệt cả thể xác lẫn tâm hồn của những người nông dân lương thiện, đẩy họ vào cuộc sống không lối thoát. Đồng thời, nhà văn cũng khắng định nhân cách và bản chất lương thiện của những con người này ngay cả khi họ dã bị xã hội độc ác cướp mất cả hình hài và tính cách con người.
Ngoài ra, với tư cách là một cây bút hiện thực nghiêm ngặt, Nam Cao cũng không ngần ngại chỉ ra những thói hư, tật xấu của người nông dân, phần do môi trường nghèo đói, phần do chính những con người này gây ra (Đòn chồng, Trẻ con không dược ăn thịt chó,...). Tất cả những điều đó chứng tỏ chiều sâu hiện thực và nhân đạo trong ngòi bút của Nam Cao.
=> Có thể nói, dù viết về đề tài người nông dân hay người trí thức, vượt lên trên ý nghĩa cụ thể của đề tài, sáng tác của Nam Cao thường chứa đựng những nội dung triết học sâu sắc, có khả năng khái quái những quy luật chung của đời sống như vật chất và ý thức, hoàn cảnh và con người, môi trường và tính cách,... Nam Cao luôn trăn trở, day dứt về vấn đề nhân phẩm, về thái độ khinh trọng đối với con người, luôn day dứt tới mức đau đớn trước tình trạng xã hội vô nhân đạo dã đầy đoạ con người vào trong sự nghèo đói, vùi dập những ước mơ, làm chết mòn đời sống tinh thần và lẽ sống cao đẹp của họ; đồng thời cũng đau đớn vô hạn trước tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí huỷ diệt mất nhân tính.
Câu trả lời của bạn
- Ông không chạy theo cái đẹp, cái thơ mộng, quay lưng lại với hiện thực rồi viết ra những lời giả dối, phù phiếm. Có thế nói, Nam Cao là người phê phán tính chất thoát li tiêu cực của văn học lãng mạn đương thời một cách toàn diện và sâu sắc nhất. Theo ông, đó là thứ nghệ thuật "lừa dối", âm hưởng chủ đạo của nó toàn là cái "giọng sướt mướt của kẻ thất tình". Lên án văn học lãng mạn thoát li cũng có nghĩa là Nam Cao lên án quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật, khẳng định văn học hiện thực, khẳng định nghệ thuật vị nhân sinh. Nam Cao yêu cầu nghệ thuật phải gắn bó với đời sống của nhân dân lao động, "nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than" và nhà văn phải "đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời".
- Văn chương chân chính là văn chương thấm đượm lí tưởng nhân đạo, vừa mang nỗi đau nhân thế vừa có thể tiếp sức mạnh cho con người vươn đến cuộc sống nhân ái, công bằng.
- Cuộc sống phải đặt trên văn chương, văn chương phải vì con người. Nhà văn chân chính trước hết phải là con người chân chính, tức là phải có nhân cách, tấm lòng nhân đạo cao cả.
- Bản chất văn chương là sáng tạo, không chấp nhận sự rập khuôn và sự dễ dãi, không tìm tòi, sáng tạo thì không có văn chương.
Câu trả lời của bạn
a) Tiểu sử Nam Cao:
- Nam Cao, tên khai sinh là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lí Nhân), tỉnh Hà Nam. Làng này xuất hiện nhiều trong những sáng tác của Nam Cao với cái tên Vũ Đại. Nam Cao sinh ra trong gia đình trung nông, đông con, theo đạo Thiên Chúa. Tuy không thuộc những gia đình nghèo nhất ở làng Đại Hoàng và ông thân sinh Nam Cao có thời kì làm chủ một cửa hàng gỗ ở Nam Định, nhưng gia đình Nam Cao vẫn luôn túng bấn. Trong số bảy anh em, chỉ Nam Cao là được ăn học tới nơi tới chốn. Gia đình này cũng được mô tả nhiều trong các sáng tác của Nam Cao mà rõ nét hơn cả là trong tiểu thuyết Sống mòn.
- Học hết bậc Thành chung, năm 1935, Nam Cao theo người cậu vào Sài Gòn và có ý định ra nước ngoài học tập, nhưng không thành. Sau khoảng hơn ba năm, do đau ốm, ông phải về quê. Từ đó, Nam Cao phải sống vất vưởng, khi làm ông giáo trường tư, khi viết văn, làm gia sư, lúc thì phải về quê sống nhờ vợ.
- Nam Cao gia nhập Hội Văn hoá cứu quốc năm 1943, khi hội này vừa được thành lập. Từ đó tới lúc hi sinh (1951), ông một lòng tận tuỵ phục vụ cách mạng và kháng chiến. Năm 1946, Nam Cao có mặt trong đoàn quân Nam tiến vào đến Nam Trung Bộ. Năm 1947, ông lên chiến khu Việt Bắc làm công tác văn nghệ và được kết nạp vào Đáng tại Bắc Cạn. Năm 1950, tham gia chiến dịch Biên Giới,... Nam Cao cùng Nguyễn Huy Tưởng đi công tác khu Ba, tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp vào vùng địch hậu. Ông có ý định thu thập thêm tài liệu để viết cuốn tiểu thuyết dang thai nghén. Nhưng Nam Cao và đoàn công tác bị địch phục kích. Nam Cao hi sinh trong chuyến đi đó.
b) Con người Nam Cao
- Nam Cao là con người có bề ngoài lạnh lùng, ít nói nhưng đời sống nội tâm phong phú. Ông luôn nghiêm khắc đấu tranh với mình để thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ hẹp, vươn tới cuộc sống cao đẹp xứng đáng với danh hiệu con người. Nam Cao thường hổ thẹn với những gì mà ông cảm thấy tầm thường, thấp kém của mình.
- Nam Cao là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa tình thương, đặc biệt có sự gắn bó sâu nặng với quê hương và những người nông dân nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt trong xã hội. Vì thế, không ít tác phẩm của Nam Cao viết về người lầm than là những thiên trữ tình đầy sự đồng cảm, xót thương. Ông hay suy nghĩ về nhiều vấn đề trong đời sống để rút ra những nhận xét có tầm triết lí sâu sắc và mới mẻ.
- Tâm trạng bất hòa sâu sắc với xã hội đương thời -> xã hội tàn bạo, bất công, bóp nghẹt sự sống --> Nỗi phẫn uất của người tri thức có ý thức về sự sống mà không được sống.
Câu trả lời của bạn
- Nam Cao là một trong những nhà văn có nguyên tắc sáng tác nghệ thuật rất rõ ràng. Những nguyên tắc ấy được ông thể hiện trong mỗi tác phẩm của mình.
- Ông đánh giá cao văn chương, xem đó là một hình thái lao động cao quý, đầy trách nhiệm xã hội. Văn chương là một hoạt động sáng tạo, nó chỉ “dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo ra những gì chưa có”. Văn học phải phản ánh hiện thực, phê phán cái xấu xa, phản nhân văn.
- Nhà văn phải có trách nhiệm với ngòi bút của mình. Trung thực, thân trọng trong khi viết, không dối trá, cẩu thả.
- Ông nhìn nhận hiện thực với con mắt cảm thông chia sẻ. Ông quan niệm con người là sản phẩm của hoàn cảnh (Tư cách mõ) song con người cũng có khả năng cải tạo hoàn cảnh (Đôi mắt). Mỗi tác phẩm của Nam Cao đều thể hiện những triết lí sâu sắc về cuộc sống, về nghệ thuật.
- Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao có sự thay đổi giữa hai giai đoạn: Trước và sau Cách mạng tháng Tám:
+ Trước Cách mạng tháng Tám:
+ Sau Cách mạng: Ông nêu cao lập trường, quan điểm của nhà văn: Nhà văn phải có con mắt nhìn đời, nhìn người, đặc biệt là người nông dân kháng chiến một cách đúng đắn.
=> Nam Cao xứng đáng là một nhà văn hiện thực sâu sắc, có quan điểm nghệ thuật tiến bộ, mới mẻ so với nhiều nhà văn đương thời.
Câu trả lời của bạn
Các sáng tác của Nam Cao có thể chia thành hai giai đoạn như sau:
- Trước cách mạng tập trung hai đề tài chính:
+ Người tri thức nghèo:
+ Người nông dân nghèo:
-> Dù ở đề tài nào ông luôn day dứt đớn đau trước tình trạng con người bị bị xói mòn về nhân phẩm, bị huỷ diệt về nhân tính.
- Sau Cách mạng:
+ Sau cách mạng, Nam Cao là cây bút tiêu biểu của văn học giai đoạn kháng chiến chống Pháp (Nhật kí ở rừng, Đôi mắt, tâp kí sự Chuyện biên giới…).
+ Ông tham gia kháng chiến, tự nguyện làm anh tuyên truyền vô danh cho cách mạng. Các tác phẩm của ông thể hiện tình yêu nước và cách nhìn cuộc sống của giới văn nghệ sĩ với nhân dân và cuộc kháng chiến của dân tộc. Tác phẩm của ông luôn luôn là kim chỉ nam cho các văn nghệ sỹ cùng thời.
=> Tác phẩm của Nam Cao xoay quanh hai mảng đề tài chính: người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Với cả hai đề tài, nhà văn đều chú ý đến việc thể hiện tấn bi kịch tinh thần của con người, đó là tấn bi kịch bị tha hoá. Nhân vật của Nam Cao dù là ai cũng đều rơi vào tình trạng bị tha hoá, tất cả vì miếng cơm manh áo, vì bị áp bức, dồn ép đến đường cùng. Nhà văn luôn trăn trở day dứt đến đau đớn trước tình trạng con người bị tha hoá.
Câu trả lời của bạn
Trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, Nam Cao là một cây bút có phong cách nghệ thuật độc đáo.
- Nam cao đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần của con người, luôn có hứng thú khám phá con người trong con người.
- Nam Cao có khuynh hướng tìm về nội tâm, đi sâu vào thế giới nội tâm của con người. Ông có biệt tài về phân tích, diễn tả tâm lí nhân vật.
- Xuất phát từ việc hiểu tâm lí nhân vật, Nam cao đã tạo được những đoạn đối thoại, độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động.
- Nam Cao là nhà văn có giọng điệu riêng: buồn thương, chua chát, dửng dung, lạnh lùng mà đầy thương cảm, đằm thắm yêu thương.
Câu trả lời của bạn
- Nam Cao có tài đặc biệt trong việc phân tích và diễn tả tâm lí nhân vật. Nhà văn thường chú ý khai thắc những biến đổi trong thế giới nội tâm nhân vật, vì vậy sáng tác của ông có chiều sâu và rất hiện đại.
- Tác phẩm của Nam Cao có tính triết lí sâu sắc. Triết lí ấy được thể hiện một cách rất giản dị qua hình tượng nhân vật.
- Giọng điệu kể chuyện rất hiện đại. Giọng điệu luôn thay đổi rất linh hoạt, khi dửng dưng lạnh nhạt đến tàn nhẫn, khi băn khoăn day dứt. Tác phẩm của Nam Cao luôn có sự đan cài nhiều giọng điệu.
- Nhân vật của Nam Cao đều đạt đến trình độ điển hình, giọng điệu kể chuyện đạt trình độ cao của ngôn ngữ văn xuôi hiện đại.
- Nam Cao là nhà văn có tâm huyết và tài năng. Ông đã đưa văn học hiện thực phê phán Việt Nam đến trình độ phát triển mới, góp phần hoàn thiện thể truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trên con đường hiện đại hoá.
- Là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo:
+ Đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần của con người.
+ Biệt tài phát hiện, miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật.
+ Rất thành công trong ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm.
+ Kết cấu truyện thường theo mạch tâm lí linh hoạt, nhất quán và chặt chẽ.
+ Cốt truyện đơn giản, đời thường nhưng lại đặt ra vấn đề quan trọng sâu xa, có ý nghĩa triết lí về cuộc sống và con người xã hội.
=> Ngòi bút của ông lạnh lùng, tỉnh táo, nặng trĩu ưu tư và đằm thắm yêu thương. Nam Cao được đánh giá là nhà văn hàng đầu trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX.
Câu trả lời của bạn
- Tóm tắt truyện ngắn "Cái mặt không chơi được" của Nam Cao: Nhân vật Sen chẳng biết ý nghĩ nào xui khiến khi nhìn Tri, đã thốt lên: Này! Tri ạ, cái mặt anh trông thế nào ấy. Quả thực không chơi được!. Câu nói mở đầu tác phẩm là một chủ điểm để kết cấu tác phẩm, theo dòng suy tưởng của nhân vật Tri, đã tái hồi những kỷ niệm quá khứ trước đó khi Tri còn thơ ấu và tiếp tục với cả những sự kiện đến trong tương lai với nhiều người khác đã đi qua cuộc đời Tri, và rất nhiều con người đó cũng từng nhìn thấy ở khuôn mặt Tri một cái gì đó thật khó tả, khó chơi.
Sau những câu mở đầu tác phẩm của nhân vật Sen, thêm một lần nữa khi Sen kể lại những câu nói của Đa, một họa sĩ cùng quận với Tri, đã nói như một sự khẳng định: Tôi vừa gặp anh Đa. Tôi rủ anh Đa đến chơi với anh. Nhưng Đa từ chối. Anh ấy bảo tôi: anh ấy sợ Tri lắm. Trông cái mặt Tri... không chơi được. Đa hỏi tôi mãi: Tri làm sao thế? Hay là Tri không thích đùa? Mặt hắn có một cái gì khó tả!.
Ký ức dội về đối với Tri còn đi xa hơn, quay trở lại lần lượt với chuyện khi 7- 8 tuổi đầu trọ học tại nhà dì, con dì tên là Đức đã truyền đạt lại lời của một cậu bạn tên Kình nhận xét về Tri: Nhưng nó bảo trông mày... làm sao ấy. Nó không thích mày. 10 năm về sau, khi Tri đã gần ở tuổi đôi mươi, nhân vật Đức lại truyền đạt lời của một cô gái hàng xóm, tên Nhung, con bà Thụy Thành, bạn của bà dì Tri, là người mà Tri thầm yêu trộm nhớ: Không hiểu sao Nhung nó sợ Tri lắm nhé. Nó bảo nó không dám hỏi Tri. Trông Tri... thế nào!
Rồi một năm nữa, khi Tri đã tốt nghiệp thành chung, vào Nam kiếm việc làm ở một hiệu may. Trải qua vài mối tình không may mắn khiến Tri trở nên chín chắn hơn, mong muốn tìm người xe tơ kết tóc. Trong nỗ lực "chiếm lòng" một người con gái tên Bình, Tri đã dự định thổ lộ tình cảm và "có ý dùng cái nhìn thay lời nói". Nhưng Bình đã sửng sốt nhìn khuôn mặt Tri và thốt lên với nhân vật tên Bảy Huế: Ăn Bảy, ăn Bảy! Nè. Dậy coi ăn Ba Trí, ăn ngó tôi nè! Coi kỳ góa heng!. Câu nói của Bình đã khiến mặt Tri nóng rực, hổ thẹn và chạy trốn, nhưng không biết về đâu.
Những ám ảnh vì nhận xét của mọi người đối với khuôn mặt Tri khiến nhân vật tưởng như suốt đời không gặp được thiện cảm của người đời. Tuy vậy, khi trở ra Bắc, Tri đã lấy vợ theo lời mẹ. Theo nhận xét của Tri về thái độ của vợ trong những năm tháng đầu tiên chung sống cho thấy hình như y cũng nhận thấy cái mặt tôi làm sao ấy. Bởi mấy tháng đầu tôi thấy y buồn bã. Tôi cũng buồn. Nhưng rồi cũng quen đi. Cái gì lâu mà lại chẳng quen? Kể cả một cái mặt không chơi được, và khi cô gái nhà quê mà Tri gọi là vợ ấy mỉm cười, thì Tri đã gần như ngất đi vì cảm nhận được sự hiện hữu của tình yêu và hạnh phúc giản dị đến bất ngờ. Tri đã muốn vừa chạy vừa kêu lên như một nhà bác học: Tôi đã thấy! Tôi đã thấy, tôi đã thấy người tình của tôi đây rồi.
Câu trả lời của bạn
- Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, có đóng góp quan trọng đối với quá trình hiện đại hóa truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Ông có quan điểm nghệ thuật sâu sắc, tiến bộ, đạt được thành tựu xuất sắc về đề tài người trí thức nghèo và người nông dân cùng khổ.
- Ông đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần của con người, luôn đau đớn trước tình trạng con người bị rơi vào thảm cảnh sống mòn, bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí bị hủy hoại cả nhân tính.
- Nam Cao là nhà văn có phong cách độc đáo: luôn hướng tới thế giới nội tâm của con người; có biệt tài trong việc miêu tả và phân tích tâm lí, viết về cái nhỏ nhặt hằng ngày mà đặt ra được những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, có tầm triết lí sâu sắc và có giọng văn đặc sắc.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *