Bài giảng Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (tiếp theo) sẽ giúp các em vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các bài tập có liên quan đến hệ thống kiến thức mà các em đã học ở tiết trước. Đồng thời bài giảng cũng sẽ giúp các em có thêm kiển thức về mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân. Mong rằng bài giảng sẽ giúp các em có thêm kĩ năng và kiến thức bổ ích!
Để vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các bài tập có liên quan đến hệ thống kiến thức mà các em đã học ở tiết trước, các em có thể tham khảo bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Đọc đoạn trích: Ngoài khung cửa sổ, trời xanh ngắt ánh sáng, là cây rung động dưới làn gió nhẹ. Một thân cây vút cao lên trước mặt. Cùng một lúc, chàng lẩm bẩm: "cây hoàng lan", mùi hương thơm thoang thoảng đưa vào. Thanh nhằm mắt ngửi hương thơm và nhớ đến cải cây ấy chàng hay chơi dưới gốc nhặt hoa. Đã từ lâu lắm, ngày mỏi có căn nhà này, ngày cha mẹ chàng hãy còn. Rồi đến ngày một bà một cháu quẩn quýt nhau. Thanh ra tình làm rồi đi về hàng năm, các ngày nghỉ. Bây giờ cây đã lớn, Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm tươi mát như vừa tắm ở suối. Chàng tắm trong cái không khi tươi mát này. Những ngày bận rộn ở tỉnh giờ xa quá. Khu vườn với các cây quen đã nhận biết chàng rồi. Nghe thấy bà đi vào. Thanh nằm yên giả và ngủ. Bà lại gần săn séc, buông mãn, nhìn châu và xua đuổi muỗi. Giả quạt đưa nhẹ trên mái tóc thẳng. Thanh vẫn nằm yên nhắm mắt nhưng biết bà ở bên mình. Chàng không dám động đầy, yên lặng chở cho bà lại đi ra. Bà xuống bếp làm cơm hẳn. Tiếng đẹp nhỏ dần. (Trích Dưới bóng hoàng lan - Thạch Lam, NXB Văn hóa Thông tin, 2007, tr. 165-166)
TỪ ĐOẠN TRÍCH TRÊN TÁC GIẢ THÔNG ĐIỆP GÌ VỀ VIỆC XÂY DỰNG VÀ GIỮ GÌN TÌNH CẢM GIA ĐÌNH
Câu trả lời của bạn
Các thành ngữ nói về hình ảnh người phụ nữ, tầm từ 6-10 câu. Và 1 điển tích về hình ảnh người phụ nữ, mọi người phân tích ra từng ý giùm em nha
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Dấu ấn cá nhân của tác giả khá rõ trong cách đặt ca từ.
Câu trả lời của bạn
Sự vận dụng lời nói cá nhân không đúng.
Câu trả lời của bạn
Có 1 tiếng Việt chung cho mọi người Việt Nam.
Câu trả lời của bạn
Từ xuân vốn mang nghĩa phổ quát là: "Mùa chuyển tiếp từ đông sang hạ, thời tiết ấm dần lên, thường được coi là mở đầu của năm" (Từ điển tiếng Việt - Hoàng Phê chủ biên) nhưng xuất hiện trong văn chương, từ xuân lại mang nhiều nghĩa khác nhau:
- Trong câu thơ: Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại (Hồ Xuân Hương). Từ xuân thứ nhất chỉ tuổi xuân, còn từ xuân thứ hai lại chỉ mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân càng khiến cho nhà thơ thêm buồn tủi, chán chường…
- Trong câu thơ sau của Nguyễn Du: Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay. Từ xuân trong cành xuân chỉ vẻ đẹp, tuổi xuân của người con gái.
- Từ xuân (bầu xuân) trong câu thơ của Nguyễn Khuyến: Chén quỳnh tương ám ắp bầu xuân, có nghĩa chỉ chất men say nồng của rượu ngon, đồng thời cũng có nghĩa bóng chỉ sức sống dạt dào của tuổi trẻ, chỉ tình cảm bạn bè thắm thiết.
- Trong câu thơ của Hồ Chí Minh: Mùa xuân là tết trồng cây,/ Làm cho đất nước càng ngày càng xuân. Từ xuân thứ nhất có nghĩa gốc chỉ mùa xuân, mùa đầu tiên của năm, trong khi đó từ xuân thứ hai chỉ sức sống mới và sự tươi đẹp
Câu trả lời của bạn
- Từ nách trong câu thơ trên của Nguyễn Du chỉ góc tường.
- Trong câu thơ này, Nguyễn Du đã chuyển nghĩa cho từ nách từ mang nghĩa chỉ vị trí trên thân thể con người sang nghĩa chỉ vị trí giao nhau giữa hai bức tường tạo nên một góc. Như thế từ nách trong câu thơ của Nguyễn Du được dùng theo nghĩa chuyển. Nó được chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ. Nếu thay từ nách tường bằng góc tường thì giá trị của câu thơ sẽ giảm đi rất nhiều.
Câu trả lời của bạn
Ca ngợi cách nói nửa chừng, không “nói toạc móng heo” mà nói 1 cách ý nhị.
Câu trả lời của bạn
- Quan hệ giữa giống loài (chung) và từng cá thể động vật. Mỗi cá thể động vật, chẳng hạn một con cá cụ thể, là sự hiện thực hoá của loài cá, đồng thời mỗi con cá có thể có những nét riêng (về kích thước, về màu sắc,...) so với những đặc trưng chung của loài cá.
- Quan hệ giữa một mô hình thiết kế chung với một sản phẩm cụ thể được tạo ra, chẳng hạn một kiểu áo sơ mi, là cơ sở chung để may ra những cái áo cụ thể (có thể khác biệt nhau về chất liệu vải, về màu sắc,...).
Câu trả lời của bạn
- Ngôn ngữ (các đơn vị và qui tắc kết hợp) tồn tại hiện thực, nhưng ở dạng tiềm năng, trừu tượng. Nó vừa có mặt trong mọi lời nói của các thành viên trong xã hội, nhưng lại vừa không cụ thể. Hàng ngày, chúng ta chỉ lĩnh hội những lời nói cá nhân với tất cả nội dung ý nghĩa cụ thể lẫn sắc thái cá nhân cụ thể của người nói.
- Thực tế giao tiếp cho thấy, khi ta nghe một câu ca, một lời nói, một âm thanh (tiếng hỏi, lời chào…) của anh A hoặc chị B mà ta đã quen biết (dù không trông thấy người đó), nhưng ta vẫn nhận ra đó là tiếng của anh A hoặc chị B.
- Như vậy, tính cụ thể của nội dung, đặc điểm tâm sinh lý cá nhân của người nói là đặc trưng nổi bật giúp ta nhận hiểu lời nói. Thực tế ấy buộc ta phải tìm hiểu quan hệ giữa ngôn ngữ (cái chung, cái trừu tượng) và lời nói (cái riêng, cái có tính cụ thể, tính cá nhân).
- Trong lịch sử hình thành và phát triển của ngôn ngữ học không phải ngay từ đầu người ta đã tìm thấy sự khác nhau nhưng rất biện chứng giữa hai sự kiện ngôn ngữ và lời nói. Người ta hoặc là chỉ thừa nhận sự tồn tại của ngôn ngữ hoặc là sự tồn tại của lời nói cá nhân Ngay cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, để khắc phục chủ nghĩa phổ niệm và chủ nghĩa giáo điều của phái tự nhiên chủ nghĩa, nhiều nhà ngôn ngữ học đã nghiên cứu các hiện tượng ngôn ngữ riêng và lời nói cá nhân. Nhưng họ dẫn đến cực đoan, phủ nhận ngôn ngữ là tài sản của tập thể, nghi ngờ sự tồn tại của ngôn ngữ chung, như O. Sakhmatốp đã phát biểu: "Ngôn ngữ của từng cá nhân mới tồn tại thực sự, còn ngôn ngữ của làng mạc, thành thị, tịnh khu dân tộc chỉ là những giả định khoa học".
Câu trả lời của bạn
- Giữa ngôn ngữ chung của cộng đồng xã hội và lời nói của cá nhân có mối quan hệ ahi chiều.
- Ngôn ngữ chung là cơ sở để sản sinh ra lời nói cụ thể của mình đồng thời để lĩnh hội lời nói cá nhân khác. Muốn tạo ra lời nói (khi nói, khi viết) để thỏa mãn nhu cầu biểu hiện và giao tiếp trong những tình huống cụ thể, mỗi cá nhân phải huy động các yếu tố ngôn ngữ chung và vận dụng các quy tắc hoặc phương thức chung.
- Mặt khác, khi nghe, khi đọc, mỗi cá nhân cần tiếp nhận, lĩnh hội nội dung và mục đích giao tiếp trong lời nói của người khác, lúc đó cá nhân cũng cần dựa trên cơ sở những yếu tố chung, những quy tắc và phương thức chung thuộc ngôn ngữ của cộng đồng xã hội.
- Ngược lại lời nói cá nhân vừa là biểu hiện của ngôn ngữ chung, vừa có những nét riêng. Hơn nữa, cá nhân có thể sáng tạo góp phần làm biến đổi và phát triển ngôn ngữ chung.
Câu trả lời của bạn
Từ "mặt trời" trong từ điển có nghĩa là: "Thiên thể nóng sáng, ớ xa Trái Đất, là nguồn chiếu sáng và sưởi ấm chủ yếu cho Trái Đất". Trong khi đó ở những câu thơ dưới đây, nó lại được dùng đế chỉ những hàm nghĩa khác nhau:
a) Trong hai câu thơ của Huy Cận:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng dã cài then, đêm sập cửa.
Từ mặt trời được dùng với nghĩa gốc.
b) Trong khi đó, ở hai câu thơ của Tố Hữu:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,
Mặt trời chân lí chói qua tim.
Từ mặt trời lại mang ý nghĩa chỉ chân lí, lí tưởng cách mạng.
c) Trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, Nguyễn Khoa Điềm viết:
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng.
Trong hai câu thơ này, từ mặt trời thứ nhất cũng được dùng với nghĩa gốc, từ mặt trời thứ hai được dùng với nghĩa ẩn dụ, chỉ đứa con của người mẹ. Đối với người mẹ, đứa con là cả một niềm hạnh phúc, niềm tin, mang ánh sáng cho cuộc đời của mẹ.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *