Qua bài học, giúp các em nắm vững và hệ thống hóa được những tri thức cơ bản về văn học Việt Nam hiện đại và văn học nước ngoài đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 11 (học kì II) trên cả hai phương diện lịch sử và thể loại. Bên cạnh đó, giúp các em vận dụng tốt những tri thức đó vào việc tìm hiểu và phân tích những tác phẩm văn học hiện đại. Bồi dưỡng cho các em năng lực phân tích tác phẩm theo từng mức độ: sự kiện, tác phẩm, hình tượng, ngôn ngữ văn học.
Giai đoạn/ biểu hiện | Đầu thế kỉ XX- 1920 | 1920- 1930 | 1930- 1945 |
Thi pháp trung đại, ngôn ngữ trung đại: tư tưởng đổi mới, chí làm trai |
| ||
Thi pháp trung đại có những yếu tố đổi mới; ngôn ngữ hiện đại, cái tôi ngông của nhà nho tài tử, chán đời, muốn thoát ly lên Hầu trời, bán văn. |
| ||
Thi pháp hiện đại: ngôn ngữ hiện đại, có cái tôi ham sống, khát khao giao cảm với đời, quan điểm mới mẻ về thiên nhiên và lẽ sống, cái tôi cá nhân buồn, bơ vơ về cuộc đời ngắn ngủi. |
|
Tên tác phẩm | Điểm chung |
Luân lí xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh) |
|
Tiếng mẹ đẻ- nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (Nguyễn An Ninh) |
Thơ | Truyện | Nghị luận |
|
|
|
Câu 1: Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối thể hiện như thế nào trong thơ Huy Cận, Xuân Diệu.
Câu 2: Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình của nhà văn Sê-khốp qua hình tượng Bê-li-cốp trong tác phẩm "Người trong bao".
Để nắm được toàn bộ kiến thức về phần văn học, các em có thể tham khảo thêm bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Trong một bữa tiệc, Mark Twain ngồi đối diện với một người phụ nữ. Theo lẽ lịch sự, ông đã nói với người này: Cô thật là xinh đẹp!
Người phụ nữ đó lại không hề cảm kích, mà còn cao ngạo nói: Rất tiếc là tôi không có cách nào để nói lời khen tương tự như thế với ông!
Mark Twain rất bình thản, nói: Không sao cả, cô có thể giống như tôi vậy, nói một lời nói dối là được rồi .
Người phụ nữ nghe xong, xấu hổ quá , phải cúi gầm mặt xuống mà không nói được lời nào.
Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích
Câu 2: Anh, chị hiểu câu nói thứ hai của Mark Twain như thế nào? Nêu nhận xét về cách đối đáp của Mark Twain?
Câu 3: ý nghĩa rút ra từ văn bản trên là gì?
Câu trả lời của bạn
1.
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
Phương thức tự sự.
2. Câu nói thứ 2 của Mark Twain có hàm ý: cô gái không hề xinh đẹp, ông ấy chỉ khen theo phép lịch sự.
=> Cách đối đáp của ông rất khôn khéo, thông minh.
3. Ý nghĩa, bài học từ câu chuyện: Trong giao tiếp cần tế nhị, lịch sự và thể hiện sự tôn trọng với người đối diện.
giúp em vs mấy anh (chị ), thầy cô nha ''-'' :)
Câu trả lời của bạn
Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phương pháp tổng phân hợp làm rõ thói ăn chơi sa sỉ của chúa Trịnh và các quan hầu cận qua đoạn trích. Trong đoạn có sử dụng phép thế và câu ghép.
đoạn trích trên là: " Mỗi khi đêm thanh.... triệu bất tường"
Câu trả lời của bạn
Cảnh được miêu tả là cảnh thực nhưng âm thanh lại gợi cảm giác ghê rợn trước một cái gì tan tác, đau thương như không phải trước cảnh đẹp yên tĩnh, phồn thực. “triệu bất tường” tức là điềm gở, điềm chẳng lành. Hình ảnh ẩn dụ tả cảnh bất thường của đêm thanh cảnh vắng như báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ biết chăm lo đến chuyện ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của dân lành. Cảm xúc chủ quan của tác giả đến đây mới được bộ lộ.
1.Quá trình hiện đại hóa văn học và đặc điểm thơ mới qua các bài thơ: Hầu trời, Vội Vàng, Đây thôn vĩ dạ, Tràng giang} So sánh cái tôi cá nhân trong các bài thơ
2.Hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong thơ ca giai đoạn đầu TK XX qua các bài thơ Lưu biệt khi xuất dương, Từ ấy, Chiều tối-->So sánh các bài thơ
Câu trả lời của bạn
1:
- Giai đoạn thứ nhất (từ đầu TK XX đến khoảng năm 1920), thành tựu chủ yếu của văn học là thơ của các chiến sĩ cách mạng, tiêu biểu là Phan Bội Châu. Trong sáng tác của Phan Bội Châu cũng như nhiều cây bút Hán học yêu nước và cách mạng khác, nội dung tư tưởng đã khác với thơ ca thế kỉ XIX, nhưng về nghệ thuật vẫn thuộc phạm trù văn học trung đại, các ông vẫn viết theo thi pháp của thơ trung đại. Điều này thể hiện rõ nhất trong Xuất dương lưu biệtcủa Phan Bội Châu.
- Giai đoạn thứ hai (từ 1920 đến 1930), công cuộc hiện đại hóa văn học đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Văn học giai đoạn này đã đổi mới, có tính hiện đại, nhưng những yếu tố của thi pháp văn học trung đại vẫn tồn tại khá phổ biến, nhất là trong sáng tác thơ. Bài Hầu trời của Tản Đà thể hiện rõ tính chất trên.
- Giai đoạn thứ 3 (từ khoảng 1930 đến 1945), nền văn học nước nhà đã hoàn tất quá trình hiện đại hóa với nhiều cuộc cách tân sâu sắc trên mọi thể loại. Phong trào Thơ mới được xem là "một cuộc cách mạng thơ ca" (Hoài Thanh). Bài Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng Giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Tương tư của Nguyễn Bính, ... là những bài thơ rất tiêu biểu, thể hiện rất rõ những đặc trưng của Thơ mới.
Mọi người lập dàn ý cho các đề bài sau giúp mình với ! mình sắp có tiết rồi ạ!!
-Phân tích bức tranh phố huyện lúc chiều tối qua bài 2 đứa trẻ
-Phân tích bức tranh phố huyện lúc về đêm qua bài 2 đứa trẻ
-Phân tích bức tranh phố huyện lúc đoàn tàu qua bài 2 đứa trẻ
-Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao Bài Chữ Người Tử Tù
-Phân tích cảnh cho chữ Bài chữ người tử tù
-Phân tích cảnh đám tang gương mẫu bài Hạnh Phúc Một Tang gia
-Phân tích cảnh tang gia tối rồi bài Hạnh Phúc Một Tang gia
-Phân tích bi kịch bị tha hóa của Chí Phèo
p/s:mọi người giúp mình với chỉ lập dàn bài thôi ạ ..Cám ơn mọi người nhiều!!
Câu trả lời của bạn
phân tích tha hóa của chí phèo
luận điểm 1: trước hết, chí phèo từ người nông dân hiền lành lương thiện trở thành thằng lưu manh
- chí vố là người nông dân nghèo lương thiện như nhưng ng nông dân khác. Hắn mồ côi cha mẹ, được dân làng Vũ đại đem về nuôi. năm 20t làm canh điền cho nhà Lý Kiến nhưng hắn'khỏe như trâu'
- chí từng có ước mơ giản dị như hàng ngàn người nông dân khác là có' một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn, cày thuê. vợ dệt vải.chúng lại bỏ một con lợn àm vốn liếng. khá giả thì mua giăm ba xào ruộng là'
-chí là người có lòng tự trọng.Vì có lòng tự trọng nên chí cảm thấy nhục khi Bà Ba Bá Kiến sai làm những việc' không chính đáng'
-chí bị Bá Kiến ghen đấy vào tù. đây là nguyên nhân sâu sa dẫn tới bước ngoặt đau thương của cuộc đời Chí.
*) Sau khi ra tù:
-về làng 7,8 năm, chí đã thay đổi cả về nhân hình lẫn nhân tính
+nhân hình: hình dáng của tên lưu manh' đầu cạo trọc lóc, răng cạo trắng hớn, cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng
+nhân tính: không còn' hiền như đất '. Hành động và lời nói của hắn là của một tên đầu bò chính cống.
- Chí bộc lộ tính lưu manh: ' đập vỏ chai vào cột cổng, lăn lộn dưới đất ..cào cào vào mặt'.
*) Nói với Bá Kiến: tao chỉ liều chết với bố con nhà mày thôi đấy.Chí đang say nhưng vẫn ý thức được về kẻ thù của mk.Điều đó chình là hệ thức về giai caassp bị thống trji và giai cấp thống trị. Thế nhưng von cáo già Bá Kiến đã dùng lời ngon ngọt và cách ướng xử khôn khéo làm cho 'Chí Phèo mềm nhũn'. Chí đã trở thành tay sai cho Bá Kiến
luận điểm 2: không dừng ở đó, Chí đã rượt dài trên con đường ttojoi lỗi và trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại
-sau lần ăn vạ t2, chí đã bị bọn cường hào, ác bá lợi dụng làm công cụ, tay sai . Chí lại triền miên trong cơn say.' Hắn đã phá nát bao nhiêu cơ nghiệp,đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đập tan bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu baonhieeu hạnh phúc gia đình' để rồi trờ con quỷ dữ của dân làng vũ ddajji từ khi nào không hay.
- cái mặt' không biết bao nhiêu là sẹo'
HẠNH PHÚC
Đừng nói cuộc đời mình tẻ nhạt nhé em
hạnh phúc ở trong những điều giản dị
trong ngày, trong đêm
đừng than phiền cuộc sống nhé em
hạnh phúc ngay cả khi em khóc
bởi trái tim buồn là trái tim vui
hạnh phúc bình thường và giản dị lắm
là tiếng xe về mỗi chiều của bố
cả nhà quây quần trong căn phòng nhỏ
chị xới cơm đầy bắt phải ăn no
hạnh phúc là khi đêm về không có tiếng mẹ ho
là ngọn đèn soi tương lai em sáng
là điểm mười mỗi khi lên bảng
là ánh mắt một người lạ như quen
hạnh phúc là khi mình có một cái tên
vậy đừng nói cuộc đời tẻ nhạt nhé em
tuổi mười tám còn khờ khạo lắm
đừng tô vẽ một chân trời xa toàn màu hồng thắm
hạnh phúc vẹn nguyên giữa cuộc đời thường
Câu trả lời của bạn
Nhà thơ Thanh Huyền trong bài thơ đã từng viết:Hạnh phúc ở trong những điều giản dị . Và đến khi lớn lên, họ bước vào cuộc hành trình đi tìm và khám phá giá trị của hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Làm thế nào để có hạnh phúc?... Xung quanh vấn đề này có rất nhiều câu hỏi được đặt ra và nhiều người đã trăn trở đi tìm câu trả lời cho mình.
Trong cuộc sống, dường như ai cũng mơ ước mình có cuộc sống hạnh phúc, đầy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần. Trên bước đường đi tìm giá trị của hạnh phúc, có người đã tìm được câu trả lời và không ít người tìm mãi mà không thấy, dần dần đi vào bế tắc, tuyệt vọng như đi vào con đường không tìm thấy lối ra. Một chàng trai từ lúc sinh ra đã bị nhiễm chất độc màu da cam do người cha di truyền sang, hai chân bị teo không thể đi lại được. Vậy theo các bạn cuộc sống của chàng trai này liệu có được hạnh phúc không? Ngỡ tưởng anh sẽ sống như vậy đến hết cuộc đời. Một điều kì diệu đã đến với anh, một cô gái còn lành lặn đã hiểu, thông cảm, yêu thương và nguyện được gắn bó suốt đời với anh. Câu hỏi được đặt ra, liệu đôi vợ chồng này có sống với nhau hạnh phúc không? Hằng ngày, chồng chở vợ trên chiếc xe ba bánh đi bán rau. Cuộc sống thật bình yên cứ thế trôi qua với những điều giản dị. Nhìn cảnh vợ ôm chồng trên chiếc ghế ba bánh, ai bảo cuộc sống của họ không hạnh phúc. Hạnh phúc đâu phải ở nơi nào đó xa xôi mà nhiều người phải vất vả đi tìm, nó ở ngay những niềm vui rất đỗi bình dị trong đời sống thường nhật của mọi người.
Mọi người thường nói là đi tìm và khám phá giá trị của hạnh phúc, cứ ngỡ rằng hạnh phúc là một cái gì đó cao siêu mà không nhận ra rằng hạnh phúc có ở quanh ta. Hạnh phục không phải trên trời rơi xuống hay được ai ban phát mà nó nằm ngay trong cảm nhận, suy nghĩ và hành động của mỗi ngầm. Tôi hỏi một người bạn, hạnh phúc là gì và bạn tôi đã trả lời: “Hạnh phúc là khi được ôm đứa cháu và cảm thấy ấm áp bình yên trong lòng, hạnh phúc là khi về nhà trò chuyện cùng bố...”. Hạnh phúc thật gián dị phải không các bạn. Nó rất gần gũi với chúng ta, có thể diễn ra ngay trước mắt chúng ta, chỉ tùy thuộc vào cảm nhận của bạn mà thôi. Một cụ già sang đường, bạn chạy tới và đưa cụ qua đường. Sang bên đường cụ già nói cảm ơn, bạn cảm thấy vui vui, ấm áp trong lòng khi làm được một việc tết. Đó chẳng phải là một hạnh phúc nho nhỏ ở ngay trong cuộc sống, bạn đâu phải đi tìm.
Hạnh phúc là những điều giản dị, bạn hãy mở lòng mình với mọi người, với cuộc sống, khi đó bạn sẽ thật sự nhận ra được giá trị của hạnh phúc. Cho dù bạn có gặp nỗi buồn lớn đến đâu bạn sẽ có lòng tin để vượt qua vì bạn biết tằng hạnh phúc luôn ở quanh ta. Hạnh phúc chúng ta không thể tóm lấy hay bắt được nó mà chúng ta chỉ có thể cảm nhận được nó mà thôi. Có thể ở cùng một sự việc bạn cảm thấy hạnh phúc, còn người khác thì không. Con người là một sinh vật kì diệu được tạo ra trên thế gian này, chỉ riêng việc được sinh ra trên đời này đối với mỗi người cũng là niềm hạnh phúc lớn lao rồi. Nhưng nhiều người lại không nhận ra được điều này, không biết trân trọng nó. Hạnh phúc là điều chúng ta muốn vươn tới để có cuộc sống tết đẹp nhưng bạn cũng động nên mơ mộng hãy ảo tưởng về một hạnh phúc toàn mỹ hay xa xôi nào đó mà hãy sống thật với con người mình, biết nâng niu trân trọng những gì mình có biết cảm thông và chia sẻ với mọi người và hãy mở lòng mình đón nhận. Đó chính là hạnh phúc thật sự mà bạn không phải đi tìm.
Giúp em trả lời câu hỏi với ạ !
Em hãy chỉ ra cái độc đáo trong tiếng chửi của chí phèo
Câu trả lời của bạn
Viết về xã hội cũ, Nam Cao đã không ít lần mượn hoàn cảnh của nhân vật để phản ánh hoàn cảnh thật của nhân dân, của những tàn dư trong chế độ phong kiến lạc hậu, lỗi thời. Càng xót thương số phận của những người cùng khổ bao nhiêu, ông lại càng căm phẫn, oán giận những kẻ cầm quyền tàn ác bất nhân bấy nhiêu. Đỉnh điểm, ông đã đẩy Chí Phèo lên trang đầu của truyện ngắn cùng tên với những tiếng chửi rủa xót xa, chua chát. Dù cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm để ý đến tiếng chửi của Chí, nhưng ẩn chứa bên trong những tiếng chửi não nề tưởng chừng như vô nghĩa ấy chính là những thông điệp mang ý nghĩa sâu sắc mà Nam Cao đã gửi gắm vào.
Chí vốn hiền lành, chất phác, nhưng sau khi trải qua kiếp sống tù đày, Chí trở về với nỗi uất hận trong lòng. Hận vì bị nhà Bá Kiến đẩy vào tù mà không làm sao chống cự lại được. Một người nông dân hèn mọn, một kiếp người cỏ rác như Chí trong xã hội ấy làm gì có tiếng nói và bản lĩnh để chống lại được cả một thế lực cường hào ác độc. “Hắn vừa đi vừa chửi, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả lãng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa ***** nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa ***** nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết…”. Tiếng chửi của Chí có lẽ đã trở nên quen thuộc với dân làng Vũ Đại, nên chẳng ai thèm để ý tới hắn.
Tiếng chửi thật chua chát và xót xa làm sao. Nhưng ngay cả khi chửi, Chí cũng không được một người nào đáp lại. Bởi chẳng còn ai coi Chí là người nữa. Thế nên, người ta làm ngơ, người ta bâng quơ và bỏ ngoài tai những lời Chí chửi. Trong lời chửi ấy, Chí hận tất cả, hận vu vơ, hận vô cớ, hận bất cứ cái gì mà Chí còn nhận thức được. Ngay cả trời cả đất Chí cũng chửi. Rồi Chí chửi cả làng Vũ Đại, chửi để mong có ai đó đáp lại tiếng chửi của mình, để Chí biết rằng, Chí vẫn còn được nhìn nhận là một con người. Nhưng thật đáng thương, chỉ có lũ chó chạy theo Chí sủa ầm ĩ. Tiếng chửi nhưng cũng là tiếng kêu gào thảm thiết thê lương của một con người đã bị cự tuyệt quyền làm người. Vậy tại sao Chí không làm hòa với mọi người? Tại sao thay vì chửi, Chí không ăn nói tử tế đàng hoàng để xem có ai đáp lại lời Chí không? Nhưng Chí đã không làm vậy. Thời gian gần chục năm sống trong kiếp tù đày, con người Chí đã bị tha hóa, bị mất nhân tính. Đồng thời, trong Chí lúc này cũng chỉ toàn là sự uất hận với niềm đau khổ. Với tâm trạng rối bời như vậy, làm sao Chí có thể ăn nói nhẹ nhàng, hòa thuận với ai được?
Bởi thế, trong tiếng chửi của Chí dồn nén biết bao nhiêu cảm xúc. Xót thương có, tủi hờn có, hận thù cũng có. Nhưng xót xa hơn cả là khi Chí chửi không biết đứa ***** nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này. Tiếng cười “A ha” như một sự bữ bàng đến tột độ. Được sinh ra làm người, nhưng lại không được ai công nhận là người. Cuộc đời này còn có ý nghĩa gì với Chí nữa? Chí không khóc, nhưng tiếng chửi còn mặn chát hơn cả nước mắt. Chí thật bất hạnh. Đã mồ côi cha mẹ, không được một lần bú mớm, cũng không một lần biết mùi hơi mẹ là gì. Chí lớn lên nhờ dân làng truyền tay nhau nuôi nấng. Cuộc sống lẽ ra rất yên ổn với Chí. Nhưng Chí đã không thoát khỏi nanh vuốt của bọn cường hào thống trị gian ác. Chí cũng không thể đủ sức lực để chống lại bọn chúng. Giờ đây, Chí đã bị đẩy vào bước đường cùng, đến ngay cả bản thân Chí cũng muốn chối bỏ cuộc sống này. Bởi sống mà không được sống, là người mà không được làm người thì còn nỗi đau nào hơn? Ai có thể trả lời cho Chí biết Chí phải sống như thế nào trong những chuỗi ngày dài cay đắng trước mắt không? Chí không biết, và cũng không một ai biết. Chí chỉ biết chìm vào trong cơn say, say rồi lại chửi. Chửi triền miền, chửi hết tất cả những gì Chí nghĩ đến.
Người ra thường nói, lúc say là lúc sống thật lòng nhất. Trường hợp của Chí cũng không ngoại lệ. Dân làng Vũ Đại không ai thèm chấp hắn nữa. Nhưng lòng người đọc không khỏi xót thương khi hình dung ra cảnh một con người lếch thếch lang thang trong cơn say dài với những tiếng chửi não nề, thê lương. Không biết, bên ngoài làng Vũ Đại, trong cái xã hội ấy còn biết bao nhiêu anh Chí nữa?
Trong những tiếng chửi chua chát nồng nặc mùi rượu ấy còn có cả tiếng lòng của Nam Cao. Ông xót thương cho Chí, nhưng chính bản thân ông cũng không thể làm gì giúp Chí được. Ông chỉ là một thầy giáo nghèo trong cái xã hội tồi tàn, thối nát. Bản thân ông cũng chưa thể lo nổi, làm sao có thể gánh vác được thêm ai? Bởi thế, tiếng chửi của Chí cũng chính là tiếng chửi của ông. Ông chửi bọn làm quan bất nhân bất nghĩa, bọn địa chủ giàu có tham lam bạc tình. Điều độc đáo ở đây là ông lồng tiếng chửi vào một nhân vật đã bị tha hóa cả đạo đức và nhân cách, hắn chính là sản phẩm của sự tàn bạo. Thế nên, tiếng chửi ấy rất xứng đáng, rất hợp lý.
Giá như, ai đó có một chút đồng cảm, một chút đồng tình, một chút cảm xúc với tiếng chửi của Chí, có lẽ sự xót xa và tủi hổ sẽ được giảm bớt phần nào. Chí say nhưng tiếng chửi ấy hoàn toàn nằm trong tiềm thức tỉnh táo của một kẻ bị đàn áp quá nhiều. Chí ý thức rất rõ về thân phận của mình khi chửi mẹ cha đứa nào đẻ ra mình. Cuộc sống này không phải là phép màu, cũng phải là món quà vô giá mà “đứa chết mẹ” kia đã ban cho hắn. Mà ngược lại, sự có mặt của hắn trên cuộc đời này là một nỗi tủi hờn cùng cực, một sự sỉ nhục và đớn đau vô cùng.
Tiếng chửi thảm thiết của Chí được Nam Cao đặt ngay trong phần đầu câu truyện, để mở ra đằng sau đó là cả một chuỗi những sự kiện đầy bê bối của Chí, của những người đã làm Chí trở thành con ác quỷ như bây giờ. Ngập chìm trong tiếng chửi ấy, còn có bao nhiêu cuộc đời khác bên ngoài làng Vũ Đại cũng đang cùng chung số phận giống Chí. Không biết, có ai chửi đời, chửi trời như Chí không nhưng dẫu sao đó cũng là tiếng gào thét khẩn cầu cho niềm khát khao được quay trở lại làm người, làm một con người đích thực, một con người lương thiện và bình thường.
CHO MÌNH HỎI TRƯỜNG NÀO THI HKI MÔN NGỮ VĂN RỒI BẠN NÀO CÓ ĐĂNG LÊN CHO MÌNH THAM KHẢO MAI MÌNH THI ĐƯỢC KHÔNG ?!!! CẢM ƠN TRƯỚC NHỮNG BẠN GIÚP MÌNH .
Câu trả lời của bạn
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Hãy sống như đời sông để biết yêu nguồn cội
Hãy sống như đồi núi vươn tới những tầm cao
Hãy sống như biển trào, như biển trào để thấy bờ bến rộng
Hãy sống như ước vọng để thấy đời mênh mông.
(TríchKhát vọng – Phạm Minh Tuấn)
Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo phong cách ngôn ngữ nào?
Câu 2. Nêu chủ đề của đoạn trích trên.
Câu 3. Chỉ ra các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 4. Đoạn trích đem đến cho anh/chị cảm xúc gì?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Bằng một đoạn văn (khoảng 100 chữ), anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về quan niệm sống được nêu trong đoạn trích phần Đọc hiểu “sống để biết yêu nguồn cội”.
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Tú Xương.
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
(Thương vợ, Tú Xương, SGK Ngữ văn 11, Tập 1, NXB Giáo dục, 2007,tr.29,30)
Một hôm ông già đốn củi và gánh về nhà. Đường thì xa, gánh củi thì nặng, ông già kiệt sức, đặt bó củi xuống và nói:
- Chà, giá thần chết mang ta đi có phải hơn không!
Thần Chết đến và bảo:
- Ta đây, lão cần gì nào?
Ông già sợ hãi bảo:
- Lão muốn ngài nhấc hộ bó củi lên cho lão.
Anh/chị suy nghĩ gì về vấn đề chứa đựng trong câu chuyện trên?
mk đang cần gấp lắm ai giúp mk vs ạ :))Câu trả lời của bạn
I. Mở bài:
- Giới thiệu những hiểu biết về Lep Tôn- xtôi(1828 – 1910), là một trong những nhà văn Nga thế kỉ XIX có ảnh hưởng lớn đến văn học thế giới và văn học Việt Nam. Uy tín và tiếng tăm của nhà văn này luôn được các nhà phê bình nghiên cứu và đánh giá rất cao.
- Dẫn dắt đến câu chuyện “Ông già và thần chết”.
II. Thân bài:
a. Nội dung câu chuyện:
- Câu chuyện “Ông già và thần Chết” đã đặt con người bên vực thẳm và buộc họ lựa chọn giữa cái chết nhẹ nhàng và sự sống vất vả.
b.Ý nghĩa câu chuyện:
- Qua câu trả lời của ông lão “Lão muốn ngài nhắc hộ bó củi lên cho lão” , Lep Tôn-xtôi muốn khẳng định: sự sống là đáng quý; con người dù lâm vào hoàn cảnh bất hạnh đến đâu, dẫu có gần kề với cái chết, vẫn mong muốn được sống. Nó khẳng định một chân lí: Hãy giữ gìn cuộc sống đến khi nào có thể, đừng dại dột, bởi vì không ai có thể chết hai lần.
c. Suy nghĩ của bản thân:
- Câu chuyện đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa nhân sinh lớn lao, đó là tư tưởng bi quan và lòng ham sống tồn tại song song trong con người. Nhưng, như một quy luật sự sống luôn giành chiến thắng, chí ít là sự chiến thắng diễn ra trong tư tưởng con người.
- Cuộc sống luôn có muôn vàn khó khăn thử thách. Do đó, con người cần có bản lĩnh vượt qua chông gai trên hành trình đi tìm hạnh phúc vì chỉ một phút nản lòng cũng có thể đánh mất cả cuộc đời mình.
- Mỗi con người cần phải quý cuộc sống của bản thân. Đó là một quan niệm sống cao đẹp mà mỗi người cần phải hướng tới trong cuộc đời mình.
III. Kết bài:
- Rút ra bài học về cách sống cho bản thân. Hãy yêu sự sống. Dù ở trong hoàn cảnh nào, con người ta cũng phải luôn hướng về phía cuộc sống, dù có lúc sẽ tuyệt vong.
em có cảm nhận gì sau khi đọc đoạn thơ sau:
Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi
Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạc bến nước Bình Ca
e
Câu trả lời của bạn
Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!
Rừng cọ, đồi chè. đồng xanh ngào ngạt.
Nắng chói sông Lô, hò ô! tiếng hát
Chuyến phà rào rạt, Bến nước Bình ca
Quả thật vậy, thiên nhiên sông núi, con người VN rất đẹp! Thiên nhiên đẹp với những "rừng cọ", những "đồi chè", với những cánh "đồng xanh" bát ngát...Với thể thơ tự do đầy ngẫu hứng và điêu luyện, tác giả cho người đọc chiêm ngưỡng cả một bức tranh quê hương Việt Nam xinh đẹp, sống động! Và đó cũng là niềm kiêu hãnh của tác giả với sự tự hào, yêu mến tổ quôc khi đặt dấu chấm cảm cuối câu thứ nhất: " đẹp vô cùng tổ quôc ta ơi!", từ "ơi" cho thấy sự thân thương, thân thiết; coi đó như một phần máu thịt của ta....nghệ thuật dùng câu cảm thán đã bộc lộ tài năng thực sự của tác giả.
cái hay nữa là tác giả biết lựa chọn những hình ảnh rất...Việt nam, đó là những cảnh rất bình dị, gần gũi với mỗi người dân ta, từ nông thôn tới thị thành, từ anh kỷ sư tới bác nông dân...có lẻ ai cũng biết: rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt,
với tài dùng từ láy "ngào ngạt" nhà thơ như thổi hồn vào bức tranh thơ mọng ấy, bức tranh là một khung cảnh động với những hình ảnh và gam màu xanh của sự sống xen lẫn hương vị lan toả như đang vẫy chào chúng ta!
bức tranh đã đẹp, lại càng như đẹp hơn với nghệ thuật dùng động từ "chói" của tác giả khi đưa hình ảnh nắng vào đoạn thơ, thắp thêm ánh sáng cho bức tranh thêm hoàn hảo:
"nắng chói sông Lô...."...
cuối cùng cái vế thứ hai của non nước Việt Nam đẹp cũng xuất hiện trong bức tranh, đó là hình ảnh con người!
con người dù quanh năm vất quả lao động, song họ vẫn lạc quan yêu đời, vẫn mãi vang vọng lời ca dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào: trong lao động,cũng như trong chiến đấu...."hò ô tiếng hát".
câu kết đó là hình ảnh một chuyến phà băng băng rẽ sóng nơi bến nước BÌnh Ca cho thấy nghị lực vượt qua mọi thử thách, gian khổ của con người. dù hoàn cảnh nào cũng "ta đi tới". nghệ thuật dùng từ láy "rào rạt", một lần nữa cho thấy bức tranh đầy sống động,mềm mại, hài hoà, uyển chuyển...như một dãi lụa đào!
Đây là một bức hoạ đồng quê tuyệt vời, ở đó không chỉ có thiên nhiên đẹp mà con người cũng đẹp, quả thật là:
"có nơi đâu đẹp tuyệt vời,
như sông như núi như người Việt nam"!
Viết tham luận về chủ đề " Mẹ Việt Nam Anh hùng"
Câu trả lời của bạn
Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng làm bằng chất liệu đá sa thạch, được Hội đồng Nghệ thuật chọn từ phác thảo của họa sĩ Đinh Gia Thắng và kiến trúc sư Nguyễn Luận. Quần thể tượng đài tọa lạc trên đỉnh núi Cấm, thôn Phú Thạch, xã Tam Phú, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, với tổng diện tích 150.000m².
Từ ý tưởng: “Mẹ là suối nguồn bao la vô tận, Mẹ là linh hồn của Đất nước. Mẹ sinh ra từ mảnh đất anh hùng, sinh ra những người con anh hùng và sẽ lại hoá thân vào đất, vào non nước Việt Nam. Mẹ sẽ sống mãi ngàn đời với các thế hệ con cháu hôm nay và mai sau. Mẹ vẫn tiếp thêm nguồn sức sống mạnh mẽ cho các thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam vững chắc, giàu mạnh" tác giả Đinh Gia Thắng đã xây dựng Tượng đài về Mẹ là trung tâm của quần thể ở vị trí có cao độ là 15.0m (so với mực nước biển) với chiều cao của tượng là: 18.37m, chiều rộng: theo đường thẳng: 84.7m, đường cong: 117m, bề dày khối tượng chỗ lớn nhất là 24.3m, chỗ mỏng nhất ở 2 đầu vách đá là 8.0m.
Khối tượng đài chính gắn kết với một hồ nước lớn: Khoảng 981m2 (có hình dáng hồ bán nguyệt). Toàn khối tượng đài có hình dáng của một ngọn núi nhô cao ở giữa và thoải dần ở hai bên. Hai bên khối tượng mẹ là hai vách đá được tạo hình giống như những khối đá tự nhiên kết nối liên tục với nhau, nhưng được cách điệu khéo léo bằng những hình khối đa dạng, đa chiều theo một nhịp điệu uyển chuyển nhưng khúc triết mạch lạc, với các cung bậc của tiết tấu và giai điệu từ thấp đến cao, như một bản giao hưởng hùng tráng, được biểu đạt bằng ngôn ngữ điêu khắc đá. Hai bên vách đá thể hiện gương mặt những người con thấp thoáng theo phương pháp nghệ thuật gợi tả, chấm phá để làm tôn vinh thêm hình tượng bà mẹ và gợi mở cho người xem nhiều suy tưởng sâu sắc, đẹp đẽ về mẹ, về đất nước, về con người Việt Nam cả trong quá khứ, hiện tại, tương lai. Hình tượng này cũng gợi cho ta hình ảnh hoành tráng về một đất nước hoà bình thống nhất, các con cháu mọi miền Bắc- Trung- Nam sum vầy quanh mẹ hiền Tổ quốc, luôn hướng về mẹ với tình cảm trìu mến, thương yêu nhất.
Sự kết hợp giữa tượng đài chính với hồ nước lớn, tạo nên một hình ảnh hoà quyện của Sơn- Thủy. Những làn nước trong vắt chảy lặng lẽ từ các vách đá xung quanh thân mẹ xuống các tầng hồ thể hiện sự hiến dâng âm thầm của mẹ hiền đối với các con, đối với Tổ quốc. Tình cảm đó như bát nước đầy không bao giờ vơi cạn.
Hai bên tượng đài là hai thảm hoa lớn với diện tích 600m2 được trang trí với nhiều hoạ tiết, với sắc thái của 54 dân tộc Việt Nam, tượng trưng cho những cánh hoa của các con thuộc 54 dân tộc Việt Nam dâng lên Mẹ.
Bên trong tượng đài là Bảo tàng Mẹ Việt Nam Anh hùng, có tổng diện tích 950m2. Đây là nơi ghi danh gần 50 ngàn bà mẹ Việt Nam anh hùng của cả nước và lưu giữ những ảnh tư liệu về những bà mẹ Việt Nam anh hùng, hình ảnh về những người phụ nữ Việt Nam tiêu biểu qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Bên cạnh những hình ảnh tư liệu đó là hiện vật gắn liền với đời sống, gắn liền với những câu chuyện, kỳ tích của những bà mẹ và những người phụ nữ Việt Nam anh hùng. Hình ảnh của những người phụ nữ Việt Nam tiêu biểu cho 54 dân tộc Việt Nam được thể hiện qua các tác phẩm hội hoạ, phù điêu, ảnh nghệ thuật.
Hệ thống không gian công viên tượng đài được tổ chức theo hình thức không gian nghi lễ truyền thống: Có quảng trường - cổng - đường dẫn chính - sân hành lễ - đài và hậu đài. Hai bên là các vườn, đường dẫn chính có các bậc cấp cao dần từ cổng đến đài theo trình tự như sau:
-Tiếp cận công viên tượng đài " Mẹ Việt Nam anh hùng " là một quảng trường tiền môn. Đây là nơi đón tiếp du khách trong dịp lễ hội hay thường nhật đến thăm quan tìm hiểu về Mẹ anh hùng, có 30 ô thảm cỏ tượng trưng cho 30 năm kháng chiến trường kỳ giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc của nhân dân ta.
- Tiếp theo quảng trường là 8 trụ biểu chia làm hai bên, mỗi trụ có chiều cao 9m, đường kính 1.65m, con số 8 ở đây theo quan niệm của người phương Đông là con số biểu tượng cho sự phồn vinh, sự sung túc, sự đoàn tụ tốt đẹp. Các trụ biểu này khắc chạm các huyền thoại về Mẹ anh hùng, những hình ảnh về các bà mẹ Bắc Bộ, bà mẹ Trung Bộ, bà mẹ Nam Bộ, bà mẹ Tây Nguyên. Huyền thoại về những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Đan xen với những biểu tượng đó là những chạm khắc huyền thoại về suối nguồn, huyền thoại về lời ru của mẹ phảng phất câu dân ca Bắc bộ, điệu hò Trung bộ, điệu lý Nam bộ cùng với những nét văn hoá đặc trưng của vùng miền.
-Phía sau Tám trụ biểu là hai hồ lớn tượng trưng bằng hai thảm hoa với màu sắc đan xen tạo cảm giác nước chảy. Hai hồ nước là nơi hội tụ của " suối nguồn " như muốn nói lên ý nghĩa sâu nặng từ trong câu ca dao Việt Nam: "Cha mẹ thương con biển hồ lai láng" .
- Tiếp theo là đường dẫn chính dài 200m, được phân thành 4 đợt cấp với các bậc thang: Gồm 5+5+8+ 9 bậc, tạo sự tôn vinh khối Tượng mẹ. Hai bên đường dẫn chính là 2 suối nước, cũng tượng trưng bằng thảm hoa, được trồng đan xen màu sắc và cách điệu như nước chảy: Dài 150m, rộng 3.6m. Dòng nước trong xanh chảy mãi như " suối nguồn vô tận " . Dọc theo suối nước hai bên đường dẫn chính là 30 ngọn đèn bằng đá, tượng trưng cho 30 năm mẹ đợi ngày đất nước hoà bình, thống nhất, 30 năm mẹ đón chờ các con cháu Bắc - Trung - Nam về sum họp một nhà. Ở cao độ + 12,150m hai bên có hai thác nước cao từ 2,4m đến 3m đổ xuống, tượng trưng bằng thảm hoa đan xen màu sắc, tạo cảm giác như thác nước, khởi nguồn cho dòng nước động như sức sống mãnh liệt của đất nước, của thế hệ con cháu luôn được mẹ tiếp thêm nguồn sức mạnh vô biên.
- Hai bên đường dẫn chính là hai khu vườn truyền thống và hiện đại :Thể hiện sự giao hoà giữa bản sắc văn hoá dân tộc với xu thế hiện đại trong tương lai. Là sự hoà nhập tình cảm giữa thế hệ đi trước với thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Ở các vườn hiện đại, chủ yếu là các thảm cỏ rộng, điểm xuyết các cây trồng địa phương.
-Trên các thảm cỏ có các phiến đá trắng nổi lên, trên các phiến đá có khắc các vần thơ hay về mẹ. Trước khi đến với tượng đài ta bắt gặp câu thơ " Con ơi lòng mẹ như sông cả, chảy mãi nào ai lấp được nguồn" . Chắc sẽ cho ta cảm nhận sâu sắc hơn cái lớn lao vô hạn của tình mẫu tử. Ngôn ngữ giúp tình cảm đi sâu hơn, trực tiếp hơn và lắng đọng hơn. Ngôn ngữ giúp cho hình tượng tạo hình đến với lòng người sâu sắc hơn.
- Ở vườn truyền thống là các dòng suối nhỏ, cây cảnh, cầu đá, bờ ao, các chòi nghỉ và các trường lang. Các chòi nghỉ và trường lang vừa để che nắng, vừa để khuôn định hình thức vuông, tròn của không gian vườn trong không gian tự nhiên và thoáng mở. Một mai, khi có điều kiện, các trường lang sẽ là nơi trưng bày các tác phẩm hội hoạ và phù điêu về Mẹ, như một ước định nữa về cái đẹp của Mẹ.
- Cuối đường dẫn chính là quảng trường nghi lễ, nơi có thể tổ chức các lễ, các hội để tưởng nhớ và tôn vinh Mẹ.
- Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng là trung tâm của tổ hợp không gian.
- Phía sau tượng đài là một vườn đá. Những tảng đá lớn có khắc những bài thơ về mẹ như một vần kết về khúc tráng ca Mẹ anh hùng. Hình tượng tạo hình, hình thức không gian kiến trúc và hình ảnh cảnh quan được khép lại với ngôn ngữ thơ ca làm cho ta ngập trong một tổng hoà nghệ thuật ngợi ca về Mẹ Việt Nam anh hùng. Lòng ai không lắng đọng, buâng khuâng và da diết với một tình yêu Mẹ khi đã đến đây.
Vì sao Nguyễn Trãi lại viết thư dụ Vương Thông đầu hàng ?
Câu trả lời của bạn
Thư dụ Vương Thông lần nữa là bức thư số 35, có nội dung và nghệ thuật hay nhất, sau này được in trong Quân trung từ mệnh tập. Bằng cách thuyết phục này, Nguyễn Trãi đã đạt được mục đích: Ta không đánh mà giặc cũng tan.
Lúc bấy giờ, quân giặc trong thành Đông Quan (tức Hà Nội ngày nay) bị nghĩa quân Lam Sơn vây hãm, đang lâm vào tình cảnh khốn đốn. Nguyễn Trãi viết bức thư này vào khoảng tháng 2-1427 thì đến tháng 10 năm ấy, sau khi tướng giặc Liễu Thăng bị giết ở gò Mã Yên, Vương Thông sợ hãi, không đợi lệnh vua Minh đã tự ý rút quân về nước.
Với lập luận chặt chẽ, sắc bén, qua Thư dụ Vương Thông lần nữa, Nguyễn Trãi đã thể hiện ý chí quyết chiến quyết thắng và tinh thần yêu chuộng hòa binh của quân dân Đại Việt.
Bố cục bức thư gồm ba đoạn:
Đoạn 1: Từ đầu đến… Sao đủ để cùng nói việc binh được?: Tác giả nêu lên nguyên tắc của người dùng binh là phải hiểu biết thời thế.
Đoạn 2: Từ Trước đây các ông… đến… bại vong đó là sáu: Nguyễn Trãi phân tích thời và thế bất lợi của đối phương.
Đoạn 3: Phần còn lại: Tác giả khuyên các tướng giặc đầu hàng, hứa hẹn những điều tốt đẹp. Đồng thời thách đấu và sỉ nhục tướng giặc.
Muốn hiểu rõ nội dung bức thư, việc đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của hai từ thời và thế.
Thời là khoảng thời gian nhất định. Thế là tổng thể các mối quan hệ tạo thành điều kiện chung có lợi hoặc không có lợi cho một hoạt động nào đó của con người. Không chỉ riêng các nhà quân sự mà những người làm kinh tế hoặc ngoại giao cũng phải hiểu thời và thế thì mới đạt được kết quả tốt trong công việc.
Thời thế trong một cuộc chiến là hoàn cảnh chung, là vị trí, vai trò của trận đánh, là sự tương quan lực lượng giữa hai bên… Trên cơ sở đó, các tướng lĩnh sẽ đưa ra cách đánh hợp lí nhất để đạt mục đích của từng trận đánh nói riêng và của cả chiến dịch nói chung.
Mở đầu bức thư, tác giả chỉ cho tướng giặc biết thuật dùng binh:
Người giỏi dùng binh là ở chỗ hiểu biết thời thế. Được thời và có thế thì biến mất thành còn, hóa nhỏ thành lớn; mất thời và không thế, thì mạnh hóa ra yếu, yên lại thành nguy, sự thay đổi ấy chỉ ở trong khoảng trở bàn tay. Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại che đậy bằng lời dối trá, thế chẳng phải là hạng thất phu đớn hèn ư? Sao đủ để cùng nói việc binh được?
Đây là đoạn văn có vai trò nêu chủ đề, mở ra hướng lập luận cho toàn bài. Ở các đoạn sau, tác giả nêu ra những luận điểm, luận chứng hết sức chặt chẽ và chính xác để làm nổi bật chủ đề.
Mục đích viết thư của Nguyễn Trãi là dụ giặc ra hàng và rút quân về nước. Mục đích này được nói rõ trong các câu: “Các ông là những người xét rõ sự cơ, hiểu sâu thời thế, vậy nên chém đầu Phương Chính, Mã Kì đem đến cửa quân dâng nộp. Như vậy, trong thành sẽ tránh được nạn cá thịt, trong nước sẽ khỏi vạ đau thương, hoà hiếu lại thông, can qua xếp bỏ. ”.
các tác phẩm nói về lòng yêu nước trong lớp 11
Câu trả lời của bạn
hịch tướng sĩ,bình ngô đại cáo,..
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *