Qua bài học, giúp các em nắm vững và hệ thống hóa được những tri thức cơ bản về văn học Việt Nam hiện đại và văn học nước ngoài đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 11 (học kì II) trên cả hai phương diện lịch sử và thể loại. Bên cạnh đó, giúp các em vận dụng tốt những tri thức đó vào việc tìm hiểu và phân tích những tác phẩm văn học hiện đại. Bồi dưỡng cho các em năng lực phân tích tác phẩm theo từng mức độ: sự kiện, tác phẩm, hình tượng, ngôn ngữ văn học.
Giai đoạn/ biểu hiện | Đầu thế kỉ XX- 1920 | 1920- 1930 | 1930- 1945 |
Thi pháp trung đại, ngôn ngữ trung đại: tư tưởng đổi mới, chí làm trai |
| ||
Thi pháp trung đại có những yếu tố đổi mới; ngôn ngữ hiện đại, cái tôi ngông của nhà nho tài tử, chán đời, muốn thoát ly lên Hầu trời, bán văn. |
| ||
Thi pháp hiện đại: ngôn ngữ hiện đại, có cái tôi ham sống, khát khao giao cảm với đời, quan điểm mới mẻ về thiên nhiên và lẽ sống, cái tôi cá nhân buồn, bơ vơ về cuộc đời ngắn ngủi. |
|
Tên tác phẩm | Điểm chung |
Luân lí xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh) |
|
Tiếng mẹ đẻ- nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (Nguyễn An Ninh) |
Thơ | Truyện | Nghị luận |
|
|
|
Câu 1: Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối thể hiện như thế nào trong thơ Huy Cận, Xuân Diệu.
Câu 2: Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình của nhà văn Sê-khốp qua hình tượng Bê-li-cốp trong tác phẩm "Người trong bao".
Để nắm được toàn bộ kiến thức về phần văn học, các em có thể tham khảo thêm bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Hy vọng là một thứ rất tuyệt diệu, hi vọng hình cong xoắn, thỉnh thoảng nó khuất đi nhưng hiếm khi nó tan vỡ. Hi vọng duy trì cuộc sống của chúng ta mà không có gì có thể thay thế được. Hãy hi vọng! Hi vọng cho chúng ta có thể tiếp tục, cho chúng ta can đảm để tiến lên phía trước khi chúng ta tự nhủ là mình sắp bỏ cuộc. Hi vọng đặt nụ cười lên gương mặt chúng ta khi mà trái tim không chủ động được điều đó. Hi vọng đặt lên đôi chân chúng ta lên con đường mà mắt chúng ta lên con đường mà mắt chúng ta k nhìn thấy được. Hi vọng thúc giục chúng ta hành động khi tinh thần chúng ta không nhận biết được phương hướng nữa. Hi vọng là 1 điều kì diệu cần nuôi dưỡng và ấp ủ đổi lại nó làm cho chúng ta luôn sống động...
CÂU 1: Xác định ptbđ chính
CÂU 2: Tìm câu cầu khiến và nêu chúc năng của câu ấy trong đoạn văn sau:
Hãy hi vọng! Hi vọng cho chúng ta có thể tiếp tục, cho chúng ta can đảm để tiến lên phía trước khi chúng ta tự nhủ là mình sắp bỏ cuộc....
CÂU 3: Hi vọng là 1 điều kì diệu cần nuôi dưỡng và ấp ủ đổi lại nó làm cho chúng ta luôn sống động... em có đồng ý câu nói trên không vì sao?
CÂU 4: Từ đoạn văn trên em rút ra được bài học gì cho bản thân trong cuộc sống hiện nay?
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Cần tìm trong đoạn trích những từ như quê mùa mà Lê Hữu Trác tự nói về mình. Quê mùa có sắc thái đối lập vói thành thị. Đây là cách dùng từ của một nhà nho ẩn dật lánh đòi có thái độ xem thường danh lợi. Tìm những từ ngữ tác giả trực tiếp nói về danh lọi, ví dụ như nỗi bãn khoăn của ông khi đưa ra phương án chữa bệnh cho thế tử, lo rằng nếu ông chữa khỏi bệnh cho thế tử thì sẽ bị danh lọi ràng buộc, bởi lẽ người ta sẽ phong chức tước cho ông và ông không được sống cuộc sống tự do, không được “về núi” nữa. Ông đưa ra phương thuốc điều trị cho thế tử sau khi nghĩ đến truyền thống gia đình : “Cha ông mình đòi chịu ơn của nước, ta phải dốc hết cả lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình” chứ không hề nhằm được thăng thưởng.
Câu trả lời của bạn
Ý nghĩa nhan đề Vũ trung tùy bút: tùy bút viết trong những ngày mưa. Những ngày mưa không nên chỉ hiểu theo nghĩa đen (mưa gió nhàn rỗi), mà tác giả muốn hàm ẩn một ý nghĩa sâu xa: thời kì nhân dân phải chịu cảnh loạn lạc, vất vả nghèo đói, đất nước liên miên, ngập chìm trong các cuộc nội chiến của các tập đoàn phong kiến. Đây là thời kì mưa gió, đen tối của lịch sử nước ta, và cũng đã đến lúc tan rã.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
- Tính chất giao thời trong nghệ thuật của hai bài thơ trên:
+ Bài “Lưu biệt khi xuất dương”: Viết bằng chữ Hán, sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật và thi pháp truyền thống. Nét mới của nằm ở tư tưởng mới mẻ chống lại lối học sáo mòn của Nho học và khát vọng hành động sôi trào của người chí sĩ thời đại mới.
+ Bài “Hầu trời”: Hình ảnh và thể thơ còn mang dấu ấn của văn học trung đại nhưng thể hiện nét mới mẻ là bộc lộ cái tôi ngông, phóng túng với sự tự ý thức cao, bài thơ viết bằng chữ quốc ngữ.
Câu trả lời của bạn
Quá trình hiện đại hoá của thơ ca thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 được thể hiện khá rõ qua các bài thơ như Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu, Hầu Trời của Tản Đà, Vội vàng của Xuân Diệu
- Giai đoạn thứ nhất (từ đầu thế kỉ XX đến khoảng năm 1920), thành tựu chủ yếu của văn học là thơ của các chí sĩ cách mạng, tiêu biểu là Phan Bội Châu. Trong sáng tác của Phan Bội Châu cũng như của nhiều cây bút Hán học yêu nước và cách mạng khác, nội dung tư tưởng đã khác với thơ ca thế kỉ XIX, nhưng về nghệ thuật vẫn thuộc phạm trù văn học trung đại, các tác giả vẫn viết theo thi pháp của thơ trung đại. Điều đó thể hiện rất rõ trong bài thơ Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu. Trong bài này, Phan Bội Châu đã thể hiện lẽ sống mới, quan niệm mới về "chí làm trai" nhưng bài thơ vẫn được viết bằng thi pháp và ngôn ngữ của văn học trung đại.
- Giai đoạn thứ hai (khoảng từ 1920 đến 1930), công cuộc hiện đại hoá văn học đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Văn học giai đoạn này đã đổi mới, có tính hiện đại, nhưng những yếu tố của thi pháp văn học trung đại vẫn tồn tại khá phổ biến, nhất là trong sáng tác thơ.
- Bài Hầu Trời của Tản Đà thể hiện rất rõ tính chất nói trên. Trong Hầu Trời, đã thấy xuất hiện "cái tôi" cá nhân phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực cùa mình và khao khát được khẳng định mình. Qua Hầu Trời, Tản Đà cũng bộc lộ rõ một quan điểm khá hiện đại về nghề văn. Cách chia khổ thơ như Tán Đà đã làm trong bài này chưa từng thấy trong thời kì trung đại. Nhưng "cái tôi" cá nhân phóng túng của Tản Đà vẫn phảng phất tinh thần cái ngông của nhà nho tài tử của thơ ca cuối thời trung đại kiểu Nguyễn Công Trứ, Tú Xương,... Vì vậy, Hầu Trời chưa thể xem là thực sự hiện đại. Tản Đà, qua Hầu Trời và những bài thơ khác của ông, "có thể xem như cái gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc".
- Giai đoạn thứ ba (từ khoảng 1930 đến 1945), nền văn học nước nhà đã hoàn tất quá trình hiện đại hoá với nhiều cuộc cách tân sâu sắc trên mọi thể loại. Phong trào Thơ mới (được khởi lên từ năm 1932) được xem là "một cuộc cách mạng thơ ca" (Hoài Thanh). Bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Tương tư của Nguyễn Bính,... là những bài thơ tiêu biểu, thể hiện rõ những đặc trưng của thơ mới. Đó là tiếng nói nghệ thuật của "cái tôi" cá nhân tự giải phóng hoàn toàn ra khỏi hệ thống ước lệ của thơ ca thời kì trung đại, trực tiếp quan sát thế giới và lòng mình bằng con mắt của cá nhân, đồng thời cảm thấy bơ vơ, cô đơn trước vũ trụ và cuộc đời.
Câu trả lời của bạn
a) Vội vàng của Xuân Diệu
- Vội vàng, đúng như cái tiêu đề của nó, là lời giục giã hãy sống hết mình, hãy yêu say từng phút giây của tuổi trẻ, hãy thưởng thức bằng tất cả khát khao những ngon ngọt của cuộc đời.
- Vội vàng là một bài thơ rất Xuân Diệu. Xuân Diệu ở trái tim sôi sục, ở cặp mắt xanh non háo hức, ở sự khẳng định "cái tôi" trong quan hệ gắn bó với đời, ở nhịp thơ hăm hở, cuống quýt, ở hình ảnh rất táo bạo đầy rẫy cảm giác và có tính sắc dục, ở cú pháp "rất Tây" và lối qua hàng hết sức thoải mái.
b) Tràng giang của Huy Cận
- Tràng giang thấm đẫm một nỗi buồn. Mỗi khổ thơ thực chất là một sự triển khai khác nhau của nỗi buồn đó và thường được gợi lên bằng cách đối lập giữa cái mênh mông cao rộng như vô hạn với cái nhỏ bé, mong manh, ơ bài thơ này, có lẽ Huy Cận không miêu tả cảnh vật theo một trật tự nhất định. Dường như tác giả không có ý định khắc hoạ một bức tranh đầy đủ, hài hoà qua các khổ thơ, mà tất cả chỉ nhằm tô đậm ở người đọc ấn tượng về nỗi buồn đìu hiu, xa vắng trải dài vô tận theo không gian và thời gian.
- Tràng giang có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật.
+ Thể thơ thất ngôn trang nghiêm, cổ kính với cách ngắt nhịp quen thuộc (4/3) tạo nên sự cân đối, hài hoà. Thủ pháp tương phản được sử dụng triệt để: hữu hạn / vô hạn; nhỏ bé / lớn lao; không / có,...
+ Sử dụng thành công các loại từ láy: láy âm (tràng giang, đìu hiu, chót vót, lơ thơ,...), láy hoàn toàn (điệp điệp, song song, lớp lớp,...). Các biện pháp tu từ: nhân hóa, ẩn dụ, so sánh,...
c) Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Nội dung bài thơ thể hiện nỗi buồn, niềm khao khát của một con người tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu con người. Bài thơ đẹp như thế, trên thực tế lại được sáng tác khi nhà thơ ở trong một hoàn cảnh thật tối tăm, tuyệt vọng (bệnh tật giày vò, nồi ám ảnh về cái chết, về sự xa lánh của người đời). Điều đó khiến ta thêm thương xót và cảm thông với số phận của tác giả, thêm cảm phục một con người đầy tài năng và nghị lực, con người đã dũng cảm vượt lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã để sáng tác ra những vần thơ tài hoa về tình đời, tình người.
Có thể nói, Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ về tình yêu - tình yêu của Hàn Mặc Tử với Hoàng Thị Kim Cúc. Xuyên qua sương khói hư ảo của tình yêu mơ mộng là tình quê, là tình yêu thiết tha đằm thắm với đất nước, quê hương. Với việc khơi gợi lên tình cảm yêu thương chung của nhiều người như thế, bài thơ diễn tả tâm trạng riêng của tác giả lại tạo được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong tâm hồn của bao thế hệ người đọc.
- Ở bài thơ này, tứ thơ bắt đầu với cảnh đẹp thôn Vĩ bên dòng sông Hương, từ đó khơi gợi liên tưởng thực ảo và mở ra bao nhiêu nỗi niềm cảm xúc, suy tư về cảnh và người xứ Huế với phấp phỏng những mặc cảm, uẩn khúc, niềm hi vọng, niềm tin yêu.
Bút pháp của nhà thơ sử dụng trong bài thơ này kết hợp hài hoà điệu tả thực, tượng trưng, lãng mạn và trữ tình. Cảnh đẹp xứ Huế đậm nét tả thực mà lại có tầm cao tượng trưng. Sự mơ mộng làm tăng thêm sắc thái lãng mạn. Nét chân thực của cảm xúc làm đậm thêm chất trữ tình.
d) Tương tư của Nguyễn Bính
Bài thơ thể hiện nỗi nhớ thương đơn phương da diết của một tình nhân. Từ đó, bài thơ gợi sự đáng yêu, đáng quý của tình yêu, đồng thời cũng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người.
Thơ Nguyễn Bính có một điệu riêng. Bài thơ này cũng vậy. Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian, thơ Nguyên Bính đa đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương cùa quê hương đất nước và một tình người đằm thắm, thiết tha.
e) Chiều xuân của Anh Thơ
Bài thơ là một bức tranh mùa xuân vào buổi chiều - tiêu biểu cho cảnh xuân nơi đồng quê miền Bắc nước ta. Bài thơ mạnh ở lối tả. Không tả tỉ mỉ chi tiết mà quan sát rộng, măc dù thê vẫn muốn thâu tóm từ linh hồn của cảnh. Có thể nhận xét chung rằng bức tranh buổi chiều xuân khá yên ả. Thậm chí có phần hơi vắng lặng nữa.
Bài thơ tả cảnh nhưng lại gợi ra rất rõ cái không khí và nhịp sống muôn đời, ở nông thôn ta thời trước, đó là sự bình yên. Con đò nằm biếng lười, quán vắng, những cánh bướm rập rờn, những đàn trâu thong thả...tất cả đều có dáng khoan thai. Trong bài thơ, thi sĩ đã sử dụng rất nhiều từ láy để dựng cảnh, hay nói đúng hơn là để gợi cái trạng thái tinh thần của cảnh: mưa thì êm êm, quán tranh đứng im lìm, hoa xoan rụng tơi bời, đàn sáo mô vu vơ, mấy cánh bướm rập rờn, những trâu bò thong thả,... Trong các từ láy đã nêu, trừ từ tơi bời, các từ láy còn lại đều là những từ láy có tính chất giảm nhẹ: êm êm, vu vơ, rập rờn, thong thả,... và hoặc thì diễn tả trạng thái thụ động hoặc thì diễn tả trạng thái thụ động thì diễn tả trạng thái đều đều của chủ thể. Rõ ràng trong tổng thể bài thơ, chính sự kết hợp của những từ láy này đã giúp thể hiện nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, yên ả, thanh bình của cảnh chiều xuân cũng như nhịp sống khoan thai nơi đồng quê của tác giả.
Câu trả lời của bạn
- Bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương”:
+ Nội dung: Khắc họa vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỉ XX với bầu tư tưởng mới mẻ, táo bạo, bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước.
+ Nghệ thuật: giọng thơ tâm huyết, sôi trào; hình ảnh thơ kì vĩ, hào hùng.
- Bài thơ “Hầu trời”:
+ Nội dung: Biểu hiện cái tôi cá nhân ngông, phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời.
+ Nghệ thuật: thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, giọng điệu thoải mái, tự nhiên, ngôn ngữ giản dị, sống động, hóm hỉnh.
Câu trả lời của bạn
- Bê-li-cốp là "người trong bao" cả trong sinh hoạt và trong tư tưởng
+ Trong sinh hoạt: Bê-li-cốp mang ô, kính râm, áo bành tô dựng cổ lên, đi ủng cả khi trời đẹp. Buồng ngủ của Bê-li-cốp chật như cái hộp, cửa đóng kín mít, khi ngủ kéo chăn trùm kín đầu,... Đồ dùng của hắn như: chiếc đồng hồ quả quýt, chiếc dao con,... tất cả đều để trong bao.
+ Trong tư tưởng: Bê-li-cốp chỉ làm theo chỉ thị, mệnh lệnh. Hắn không làm gì để phải động chạm đến ai. Hắn luôn thoả mãn, luôn hài lòng với lối sống cổ lỗ, hủ lậu, kì quái của mình.
- Những "cái bao" chụp lên mọi hành động và suy nghĩ của Bê-li-cốp cho thấy hắn là một con người nhỏ bé, yếu đuối và thảm hại. Y cứ nhởn nhơ, tự nhiên đắm chìm trong quá khứ, trong những xác tín cực kì lạc hậu, đen tối. Bê-li-cốp không hiểu mọi người xung quanh, không hiểu xã hội, cuộc sống đương thời. Đó thực là một kẻ hèn nhát, cô độc, máy móc, giáo điều, thu mình trong bao, trong vỏ ốc và cảm thấy yên tâm, sung sướng, hạnh phúc, mãn nguyện trong đó.
- Điều đáng lo sợ là lối sống và con người Bê-li-cốp đã ảnh hưởng mạnh mẽ và dai dẳng đến lối sống và tinh thần của anh chị em trong trường nơi y làm việc, trong cả thành phố nơi y sống như một thứ dịch hạch. Ngay cả khi Bê-li-cốp chết, tính cách và lối sống ấy vẫn tiếp tục tồn tại và gây ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống hiện tại và tương lai của cả dân thành phố, không tài nào thoát ra được. Chính bởi thế mà, thực chất hình tượng Bê-li-cốp không phải là một hiện tượng cá biệt. Toàn bộ hình ảnh con người và tính cách của y là điển hình cho một kiểu người, một hiện tượng xã hội đã và đang tồn tại trong cuộc sống của một bộ phận trí thức Nga cuối thế kỉ XIX.
Câu trả lời của bạn
a) Chiều tối của Hồ Chí Minh
Bài thơ rất tiêu biểu cho thơ trữ tình Hồ Chí Minh: nhà thơ không trực tiếp bộc lộ cảm nghĩ nội tâm mà biểu hiện qua cách cảm nhận hình ảnh, cảnh vật khách quan. Qua bức tranh cảnh vật, ta thấy được những nét đẹp tâm hồn của một nhà thơ - chiến sĩ: lòng yêu thiên nhiên, con người, yêu cuộc sống, phong thái ung dung tự chủ và niềm lạc quan, nghị lực kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, tối tăm.
- Nghệ thuật tả cảnh trong bài thơ vừa có những nét cổ điển (bút pháp chấm phá, ước lệ với những thi liệu cũ) vừa có nét hiện đại (bút pháp tả thực sinh động với những hình ảnh dân dã, đời thường). Bài thơ chủ yếu là gợi tả chứ không phải là miêu tả, vì thế mà có thể cảm nhận tính chất hàm súc của thơ rất cao.
- Ngôn ngữ trong bài thơ được sử dụng rất linh hoạt và sáng tạo. Một số từ ngữ vừa gợi tả lại vừa gợi cảm (quyện điểu, cô vân). Biện pháp láy âm vắt dòng ở câu 3 và câu 4 tạo nhịp thơ khoẻ khoắn. Ngoài ra bài thơ có những chữ rất quan trọng, có thể làm "sáng" lên cả bài thơ, ví như chữ "hồng" trong câu thơ cuối chẳng hạn.
b) Lai Tân của Hồ Chí Minh
- Bài thơ cho thấy hiện trạng đen tối, thối nát của một xã hội tưởng là yên ấm, tốt lành.
- Bài thơ có một cách cấu tứ bất ngờ. Ba câu thơ đầu chỉ thuần kể việc. Điểm nút chính là câu thơ thứ tư. Nó làm bật ra toàn bộ tư tưởng của bài. Nó làm bung vỡ tất cả cái ý châm biếm mỉa mai hướng đến sự thối nát đến tận xương tuỷ của cái xã hội Tưởng Giới Thạch.
- Bài thơ cũng in đậm cái bút pháp chấm phá của thơ Đường. Lời thư ngắn gọn, súc tích. Không cầu kì câu chữ, nhưng có thể nói: chỉ với bốn câu thơ ngắn, nhà thơ đã vẽ nên cái bản chất của cả một chế độ xã hội mục nát đến vô cùng. Sức chiến đấu, chất "thép" của bài thơ nhẹ nhàng mà quyết liệt chính là ở đó.
c) Từ ấy của Tố Hữu
Bài thơ là niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cách mạng. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bàng' những hình ảnh tươi sáng, bằng các biện pháp tu từ gợi cảm (nhất là biện pháp tu từ ẩn dụ) và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.
Nhạc điệu của bài thơ trước hết được tạo ra từ thể thơ thất ngôn - vốn mang âm điệu trang trọng. Cách ngắt nhịp trong bài thơ liên tục thay đổi qua các câu thơ, ví dụ: Từ ấy trong tôi/bừng nắng hạ... Hồn tôi/là một vườn hoa lá... Gần gũi nhau/thêm mạnh khối đời... Hệ thống vần cuối của các câu thơ cũng rất phong phú, có sức vang ngân, bởi nó chủ yếu là các âm mở, như: hạ - lá; người - nơi - đời ; nhà - pha,...
d) Nhớ đồng của Tố Hữu
- Bài thơ là niềm yêu quý thiết tha và nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với quê huơng, đồng thời thể hiện niềm say mê lí tưởng và khát khao tự do, khát khao hành động của nhà thơ.
- Bài thơ dùng nhiều hình ảnh ẩn dụ, nhiều biện pháp điệp (điệp từ, điệp cú pháp), điệu thơ nhẹ nhàng, ngôn từ trong sáng, thiết tha, giàu sức lôi cuốn.
Câu trả lời của bạn
- Tình huống éo le: Giăng Van-giăng bị đặt vào hoàn cảnh kịch tính. Phăng-tin đang trong tình trạng nguy kịch, Giăng Van-giăng không muốn Phăng-tin biết sự thật ông là tù khổ sai và muốn tìm Cô-dét để cứu giúp cô nhưng Gia-ve đã đến để bắt ông.
- Hình tượng Giăng Van-giăng:
+ Trước khi Phăng-tin qua đời:
> Với Gia-ve: Giăng Van-giăng chịu nhún nhường, xưng hô kính trọng ông-tôi, xin Gia-ve cho thêm thời gian, cúi đầu, thì thầm khi nói…
> Với Phăng-tin: trấn an, tìm mọi cách che chở và giúp đỡ.
+ Sau khi Phăng-tin qua đời:
=> Giăng Van-giăng là con người nhân hậu, giàu lòng yêu thương và hi sinh vì người khác. Sức mạnh và uy quyền của Giăng Van-giăng chính là sức mạnh và uy quyền của tình yêu thương cao cả.
Câu trả lời của bạn
Cái đẹp, cái hay và sức hấp dẫn của bài thơ Tôi yêu em (Pu-skin)
- Về nội dung: Tinh yêu là một trong những chủ đề quan trọng trong sáng tác của Pu-skin. Thơ tình yêu của Pu-skin, mà Tôi yêu em là một bài thơ tiêu biểu, thường bắt nguồn từ những cảm xúc cụ thể, chân thực với những trải nghiệm tình cảm sâu xa, do đó, đã thể hiện được những vẻ đẹp đa dạng, tinh tế của thế giới tâm hồn con người. Viết Tôi yêu em, Pu-skin chạm vào mảng đề tài đã trở thành vĩnh cửu, thế nhưng, bài thơ vẫn hay, vẫn đẹp và có sức hấp dẫn không ngờ, ấy là vì qua bài thơ, những cung bậc tình cảm phức tạp, những sắc thái cảm xúc phong phú, những rung động sâu xa và những ấn tượng khó nắm bắt của tình yêu đã được nhà thơ diễn tả một cách hết sức tinh tế, chân thực và cụ thể. Sức hấp dẫn của Tôi yêu em còn thể hiện ở sự chân thành, cao thượng và nhân ái của con người trong tình yêu đôi lứa.
- Về nghệ thuật: Đặc điểm nghệ thuật nổi bật của bài thơ Tôi yêu em là cách sử dụng từ ngữ điêu luyện, ngôn từ giản dị, trong sáng. Bài thơ giàu cảm xúc nhưng lại được thể hiện một cách lắng đọng, suy tư. Bên cạnh đó, các chi tiết cụ thể, sống động và cách nhịp câu thơ cũng được Pu-skin triệt để phát huy sức mạnh, đem lại cho thơ ông sự giàu có, quyến rũ về âm điệu và cảm xúc.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong một gia đình nhà nho. Khi thực dân Pháp tiến hành đánh chiếm quê hương, trong thời điểm đó ông đã bị mù nhưng nỗi đau đớn của một người dân yêu nước chứng kiến cảnh nước mất nhà tan nên ông đã hình dung tưởng tượng ra thảm cảnh thê lương ấy. Ông đã vẽ lên bức tranh đầy máu và nước mắt ở một thời điểm đen tối của dân tộc. Bài thơ "Chạy giặc" là bức tranh hiện thực của những ngày đất nước rơi vào nạn xâm lăng và đây cũng là một tấm lòng của Nguyễn Đình Chiểu đối với đất nước.
Nhân vật trữ tình đã thể hiện nỗi đau của người dân trong cảnh nước mất nhà tan với những cung bậc khác nhau.Hai câu thơ đầu là lời kể lời tả của nhà thơ về bức tranh hiện thực của cảnh chạy tây.
"Tan chợ vừa nghe tiếng súng tây
Một bàn cờ thế phút sa tay".
Hai câu thơ đã diễn tả hoàn cảnh bi thảm của nhân dân Nam bộ lúc bấy giờ. Hai câu thơ cho thấy thời gian diễn ra tình ảnh éo le ấy thật nhanh chóng chỉ chốc lát khi mà bọn tay sai lùng sục khi đi qua khu chợ. Đó là thời điểm mới tan chợ, đây là một thời điểm khá vắng vẻ hiu quạnh. Không gian lúc này như đang chìm vào trong vẻ tĩnh mịch lặng lẽ mọi người còn đang chìm vào trong giấc ngủ trưa thế nhưng tiếng súng đột ngột khiến cho khung cảnh thanh bình đó bỗng chốc tan biến vào quá khứ và một cảnh tượng chạy giặc kinh hoàng và cực kì đau xót. Đó là nỗi đau cũng là nỗi kinh hoàng của nhân dân thành Gia Định Và cũng là của chính tác giả khi mà cảnh tượng đau thương ấy diễn ra.Cảnh chiến trận đã bắt đầu "một bàn thế cờ" là hình ảnh ẩn dụ nói về cuộc chiến và thế giằng co giữa quân triều đình và quân giặc. Ba tiếng "phút sa tay" thể hiện sự thất thủ của quân triều đình tại thành Gia Định diễn ra quá nhanh chóng. Đằng sau hia câu thơ là nỗi lo lắng và kinh hoàng của nhà thơ trước thảm họa về quê hương đất nước mình bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo.
Hai câu tiếp theo là cảnh chạy giặc chạy loạn trong nỗi kinh hoàng của nhân dân trước thảm cảnh:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất tổ bầy chim dáo dác bay
Nếu viết "Lũ trẻ bỏ nhà lơ xơ chạy" và "Đàn chim mất ổ dáo dác bay" thì ý vị câu thơ và giá trị biểu cảm sẽ không còn gì nữa! Cặp từ láy "lơ xơ" và "dáo dác" gợi tả sự hoảng loạn và kinh hoàng đến cực độ. Cảnh trẻ con lạc đàn, chim vỡ tổ là hai thi liệu chọn lọc điển hình theo cách nói của dân gian tả cảnh chạy giặc vô cùng thảm thương.
Hai câu thực của bài thơ là một bức tranh cụ thể sinh động thể hiện lại tình cảnh tan tác bi thương của nhân dân khi ấy. Sự xuất hiện của giặc thù quá đột ngột, sự chống chọi của quân ta lại thất bại quá nhanh chóng khiến cảnh dắt dìu gồng gánh nhay chạy loạn càng thật đau lòng. Đang sống hạnh phúc êm ấm bên những người thân, bất chợt giặc thù từ đâu ập đến bắt giết, mọi gia đình đều chưa chuẩn bị gì, chỉ biết hốt hoảng dắt nhau trốn chạy. Nhà thơ đặc tả cảnh tượng ấy bằng hai chữ hình ảnh lũ trẻ lơ xơ chạy và bầy chim dáo dác bay. Lối đảo ngữ lơ xơ, dáo dác lên trước trong trường hợp này làm nổi bật lên trước mắt người đọc dáng vẻ xơ xác, tan tác của lũ trẻ và bầy chim nhưng cũng khắc họa được tâm trạng hoang mang và ngơ ngác của chúng. Hai câu tiếp theo là cảnh tan thương của một vùng đất bị giặc chiếm đóng.
"Bến Nghé của tiền tan nước bọt
Đồng Nai tranh ngói nhuộm mầu mây".
Một vùng đất vốn được coi là trù phú và khá là sầm uất mà bỗng chốc roi vào cảnh nhà tan cửa nát, một cảnh tượng tan thương. Bến Nghé và Đồng Nai vốn là một vựa lúa sầm uất trên bến dưới thuyền mà chỉ trong phút chốc đã bị thực dân Pháp phá tan tiền của, tài sản của nhân dân ta bị giặc cướp phá sạch "tan bọt nước". Nhà cửa xóm làng quê hương nhà thơ bị đốt cháy, lửa khói nghi ngút "nhuốm màu mây". Hai hình ảnh so sánh "tan bọt nước" và "nhuốm màu mây" là cách nói cụ thể của dân gian đặc tả cảnh điêu tàn do giặc Pháp gây ra. Hai câu cuối bài thơ thể hiện niềm đau đớn lo toan cho số phận của đất nước dân tộc ta trước cảnh mất nước.
"Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng
Lỡ để dân đen mắc loạn này"
"Trang dẹp loạn" cũng là trang anh hùng hào kiệt. "Rày đâu vắng": hôm nay, bữa nay đi đâu mà không thấy xuất hiện? Nhà thơ vừa trách móc quan quân Triều đình hèn yếu, thất trận để giặc chiếm đóng quê hương, vừa mong đợi người anh hùng tài giỏi ra tay đánh giặc để cứu nước, cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than. Câu kết chứa đựng biết bao tình yêu thương của Nguyễn Đình Chiểu đối với nhân dân đang quằn quai với bom đạn giặc.
Bài thơ "Chạy giặc" được viết bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân dã đậm đặc màu sắc Nam bộ. Phép đối, phép đảo ngữ, ẩn dụ so sánh là những biện pháp nghệ thuật được tác giả vận dụng sáng tạo để viết nên những vần thơ hàm súc, biểu cảm. "Chạy giặc" là bài thơ mang giá trị lịch sử to lớn. Nó ghi lại sự kiện đau thương của đất nước ta cuối thế kỷ 19. Nó là bài ca yêu nước căm thù giặc và cũng là khát vọng độc lập, tự do.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Thơ văn Đồ Chiểu là kết tinh cao nhất của nền văn học yêu nước sôi sục ở miền Nam vào thời kì bấy giờ.
Tính hiện thực trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu rất sâu sắc. Ở giai đoạn trước - cuối thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX - miền Nam đã có một số thơ văn chữ Hán, chữ Nôm của nhóm “Chiêu anh các” Hà Tiên, của nhóm “Gia Định tam gia thi”, của “Bạch Mai thi xã”, nhưng nói chung những tác phẩm này chưa có tiếng vang lớn. Đến khi nổ ra cuộc kháng chiến chống Pháp, thơ văn miền Nam có một bước tiến bộ khổng lồ, đặc biệt là thơ văn chữ Nôm. Nó phản ánh một cách chân thực và sinh động con người Đồng Nai đầy ý chí bất khuất, sôi nổi, chân thành, thẳng thắn, không văn hoa, hình thức. Đặc biệt, Nguyễn Đình Chiểu đã vượt qua được một trở ngại là tính chất hạn chế trong việc miêu tả hiện thực của thơ văn chữ Hán. Hầu hết thơ văn Nguyễn Đình Chiểu được viết bằng chữ Nôm. Tiếng nói của nhân dân được đưa vào rất nhiều, điều đó cũng tăng thêm sức biểu hiện và tính chiến đấu của nó.
Phạm vi hiện thực được phản ánh trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu khá rộng rãi và khá tập trung. Cảnh lầm than, tang tóc của nhân dân, tội ác của quân xâm lược và bọn tay sai đã được miêu tả một cách khá cụ thể. Ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu đã ghi lại được những biến động, những hình ảnh về công cuộc kháng chiến Nam Bộ trong nhiều năm dài chống Pháp. Trong lúc bọn Pháp nói về tinh thần chiến đấu của quân ta khi đánh đồn Thuộc Nhiêu (Mĩ Tho):
“Người An Nam với vũ khí thô sơ chống với súng ca-ra-bin, họ cứ việc nhào vô đánh với một nghị lực mù quáng, chứng tỏ rằng họ can đảm và quyết tâm một cách phi thường”. (Trần Văn Giàu)
Nguyễn Đình Chiểu đã viết về người nông dân chiến đấu ấy như sau:
“Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm giao tu, nón gõ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kìa; Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỉ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, đạp cửa xông vào, liều mình như chẳng có”. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Qua đoạn văn trên đây, chúng ta cũng thấy được tính chất hiện thực trong thơ văn của ông. Đồ Chiểu đã ghi lại nhiều nét cụ thể, sinh động và đẹp đẽ làm sao về người nông dân ứng nghĩa ấy.
Nguyên tuần phủ Đỗ Quang có chép trong bản sớ gửi về triều đình Huế lời nói đầy khí khái của Phan Văn Đạt trước lúc bị hành hình:
“Chúng bay (giặc Pháp) lấy mê đạo dụ người, nay dám xông vào đất nước ta cướp bóc, hiếp dâm, làm điều vô đạo. Ta căm hận vì lúc sống không ăn thịt được bọn bây, lúc chết sẽ ngầm giúp mọi người ứng nghĩa giết hết lũ bay, mới toại nguyện ta”.
Nguyễn Đình Chiểu chắc đã nhớ câu nói anh hùng ấy khi cầm bút viết: Sống đánh giặc, thác cũng cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…
Trong tác phẩm của mình, cũng có lúc Nguyễn Đình Chiểu dùng bút pháp tượng trưng (ta thấy rõ điều này trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp). Nhưng tác giả đã vận dụng nhiều chất hiện thực, rút ra từ cuộc sống thực. Đối với tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp mà bề ngoài tưởng chừng như chỉ bàn về cách làm thuốc, ta thấy Đồ Chiểu đã gởi gắm niềm tâm sự tha thiết, xót xa của mình trước cảnh Tổ quốc bị xâm chiếm, chia sẻ.
Tính hiện thực trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đã được nâng lên một mức. Tính hiện thực đó gắn liền với tính chiến đấu. Tác giả đã cất cao tiếng thét căm thù đối với quân cướp nước cũng như đối với bọn mọt nước, sâu dân: "Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ." (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc).
Nền xã tắc là nơi báo bổ, can chi mi đào lỗ, đào hang; chốn miếu đường là chỗ thanh tân, cớ chi mi cắn màn cắn sảo? (Thảo thử hịch)
Đề cao, ca ngợi hết lời những thủ lĩnh kháng chiến, những người nông dân “áo vải” không hề đắn đo, suy tính trước cái chết khi Tổ quốc lâm nguy, văn thơ Nguyễn Đình Chiểu rất xa lạ với tính chất phù phiếm, hư văn. Mỗi dòng, mỗi chữ của ông đều có sức nặng: nó bao hàm những tư tưởng, tình cảm tiêu biểu nhất của thời đại. Đồ Chiểu có một lối nhìn hết sức mới mẻ về người nông dân. Ông không tô vẽ, phóng đại, mà chỉ nói lên những điều xác thực, rất điển hình về những con người đó. Thế mà hình ảnh lại rất sống, rất đẹp! Điều đó càng nói lên cuộc sống gần gũi và tâm hồn gắn bó của nhà thơ đối với nông thôn, đối với nhân dân lao động biết bao!
Bên cạnh tính chất hiện thực và tính chất chiến đấu, chúng ta cần nói đến tính chất trữ tình trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Ngày nay, khi đọc thơ văn ông, chúng ta còn bị kích thích, rung động đến cực độ. Tình cảm thiết tha của tác giả đã truyền qua người đương thời và đến với các thế hệ sau một cách mãnh liệt. Yêu nước non, nói về nhân dân, thời bấy giờ ai nói lên được như Nguyễn Đình Chiểu?
"Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân."
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Nỡ khiến anh hùng rơi giọt lụy
Trên trại đồn điền hoa khóc chủ.
Ôi trời Bến Nghé, mây mưa sùi sụt.
(Văn tế Trương Định)
Chạnh lòng trăm họ khóc quan Phan.
(Thơ điếu Phan Tòng)
Nhưng ở đây không phải là những giọt nước mắt rơi xuống vì khóc thương số phận cá nhân, mà đó là tiếng khóc nước nhà trong cơn bấn loạn, tiếng than bờ cõi lúc qua phân. Đó là những giọt lệ rơi xuống vì các tướng lĩnh, nghĩa quân bỏ mình vì đại cuộc. Cao quý làm sao, đẹp đẽ làm sao tâm hồn đầy xúc cảm rộng lớn của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu!
Đặc biệt khi nói về đất nước bị chia cắt, thơ văn Đồ Chiểu làm cho chúng ta đau tận đáy lòng:
Ôi sự thế hãy bên Hồ bên Hán, bao giờ về một mối xa thư; phong cương còn nửa Tống Nửa Liêu, đâu nỡ hại một tay tướng soái..!
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *