Qua bài học, giúp các em nắm vững và hệ thống hóa được những tri thức cơ bản về văn học Việt Nam hiện đại và văn học nước ngoài đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 11 (học kì II) trên cả hai phương diện lịch sử và thể loại. Bên cạnh đó, giúp các em vận dụng tốt những tri thức đó vào việc tìm hiểu và phân tích những tác phẩm văn học hiện đại. Bồi dưỡng cho các em năng lực phân tích tác phẩm theo từng mức độ: sự kiện, tác phẩm, hình tượng, ngôn ngữ văn học.
Giai đoạn/ biểu hiện | Đầu thế kỉ XX- 1920 | 1920- 1930 | 1930- 1945 |
Thi pháp trung đại, ngôn ngữ trung đại: tư tưởng đổi mới, chí làm trai |
| ||
Thi pháp trung đại có những yếu tố đổi mới; ngôn ngữ hiện đại, cái tôi ngông của nhà nho tài tử, chán đời, muốn thoát ly lên Hầu trời, bán văn. |
| ||
Thi pháp hiện đại: ngôn ngữ hiện đại, có cái tôi ham sống, khát khao giao cảm với đời, quan điểm mới mẻ về thiên nhiên và lẽ sống, cái tôi cá nhân buồn, bơ vơ về cuộc đời ngắn ngủi. |
|
Tên tác phẩm | Điểm chung |
Luân lí xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh) |
|
Tiếng mẹ đẻ- nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (Nguyễn An Ninh) |
Thơ | Truyện | Nghị luận |
|
|
|
Câu 1: Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối thể hiện như thế nào trong thơ Huy Cận, Xuân Diệu.
Câu 2: Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình của nhà văn Sê-khốp qua hình tượng Bê-li-cốp trong tác phẩm "Người trong bao".
Để nắm được toàn bộ kiến thức về phần văn học, các em có thể tham khảo thêm bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Thơ văn Đồ Chiểu là kết tinh cao nhất của nền văn học yêu nước sôi sục ở miền Nam vào thời kì bấy giờ.
Tính hiện thực trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu rất sâu sắc. Ở giai đoạn trước - cuối thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX - miền Nam đã có một số thơ văn chữ Hán, chữ Nôm của nhóm “Chiêu anh các” Hà Tiên, của nhóm “Gia Định tam gia thi”, của “Bạch Mai thi xã”, nhưng nói chung những tác phẩm này chưa có tiếng vang lớn. Đến khi nổ ra cuộc kháng chiến chống Pháp, thơ văn miền Nam có một bước tiến bộ khổng lồ, đặc biệt là thơ văn chữ Nôm. Nó phản ánh một cách chân thực và sinh động con người Đồng Nai đầy ý chí bất khuất, sôi nổi, chân thành, thẳng thắn, không văn hoa, hình thức. Đặc biệt, Nguyễn Đình Chiểu đã vượt qua được một trở ngại là tính chất hạn chế trong việc miêu tả hiện thực của thơ văn chữ Hán. Hầu hết thơ văn Nguyễn Đình Chiểu được viết bằng chữ Nôm. Tiếng nói của nhân dân được đưa vào rất nhiều, điều đó cũng tăng thêm sức biểu hiện và tính chiến đấu của nó.
Phạm vi hiện thực được phản ánh trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu khá rộng rãi và khá tập trung. Cảnh lầm than, tang tóc của nhân dân, tội ác của quân xâm lược và bọn tay sai đã được miêu tả một cách khá cụ thể. Ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu đã ghi lại được những biến động, những hình ảnh về công cuộc kháng chiến Nam Bộ trong nhiều năm dài chống Pháp. Trong lúc bọn Pháp nói về tinh thần chiến đấu của quân ta khi đánh đồn Thuộc Nhiêu (Mĩ Tho):
“Người An Nam với vũ khí thô sơ chống với súng ca-ra-bin, họ cứ việc nhào vô đánh với một nghị lực mù quáng, chứng tỏ rằng họ can đảm và quyết tâm một cách phi thường”. (Trần Văn Giàu)
Nguyễn Đình Chiểu đã viết về người nông dân chiến đấu ấy như sau:
“Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm giao tu, nón gõ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kìa; Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỉ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, đạp cửa xông vào, liều mình như chẳng có”. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Qua đoạn văn trên đây, chúng ta cũng thấy được tính chất hiện thực trong thơ văn của ông. Đồ Chiểu đã ghi lại nhiều nét cụ thể, sinh động và đẹp đẽ làm sao về người nông dân ứng nghĩa ấy.
Nguyên tuần phủ Đỗ Quang có chép trong bản sớ gửi về triều đình Huế lời nói đầy khí khái của Phan Văn Đạt trước lúc bị hành hình:
“Chúng bay (giặc Pháp) lấy mê đạo dụ người, nay dám xông vào đất nước ta cướp bóc, hiếp dâm, làm điều vô đạo. Ta căm hận vì lúc sống không ăn thịt được bọn bây, lúc chết sẽ ngầm giúp mọi người ứng nghĩa giết hết lũ bay, mới toại nguyện ta”.
Nguyễn Đình Chiểu chắc đã nhớ câu nói anh hùng ấy khi cầm bút viết: Sống đánh giặc, thác cũng cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…
Trong tác phẩm của mình, cũng có lúc Nguyễn Đình Chiểu dùng bút pháp tượng trưng (ta thấy rõ điều này trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp). Nhưng tác giả đã vận dụng nhiều chất hiện thực, rút ra từ cuộc sống thực. Đối với tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp mà bề ngoài tưởng chừng như chỉ bàn về cách làm thuốc, ta thấy Đồ Chiểu đã gởi gắm niềm tâm sự tha thiết, xót xa của mình trước cảnh Tổ quốc bị xâm chiếm, chia sẻ.
Tính hiện thực trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đã được nâng lên một mức. Tính hiện thực đó gắn liền với tính chiến đấu. Tác giả đã cất cao tiếng thét căm thù đối với quân cướp nước cũng như đối với bọn mọt nước, sâu dân: "Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ." (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc).
Nền xã tắc là nơi báo bổ, can chi mi đào lỗ, đào hang; chốn miếu đường là chỗ thanh tân, cớ chi mi cắn màn cắn sảo? (Thảo thử hịch)
Đề cao, ca ngợi hết lời những thủ lĩnh kháng chiến, những người nông dân “áo vải” không hề đắn đo, suy tính trước cái chết khi Tổ quốc lâm nguy, văn thơ Nguyễn Đình Chiểu rất xa lạ với tính chất phù phiếm, hư văn. Mỗi dòng, mỗi chữ của ông đều có sức nặng: nó bao hàm những tư tưởng, tình cảm tiêu biểu nhất của thời đại. Đồ Chiểu có một lối nhìn hết sức mới mẻ về người nông dân. Ông không tô vẽ, phóng đại, mà chỉ nói lên những điều xác thực, rất điển hình về những con người đó. Thế mà hình ảnh lại rất sống, rất đẹp! Điều đó càng nói lên cuộc sống gần gũi và tâm hồn gắn bó của nhà thơ đối với nông thôn, đối với nhân dân lao động biết bao!
Bên cạnh tính chất hiện thực và tính chất chiến đấu, chúng ta cần nói đến tính chất trữ tình trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Ngày nay, khi đọc thơ văn ông, chúng ta còn bị kích thích, rung động đến cực độ. Tình cảm thiết tha của tác giả đã truyền qua người đương thời và đến với các thế hệ sau một cách mãnh liệt. Yêu nước non, nói về nhân dân, thời bấy giờ ai nói lên được như Nguyễn Đình Chiểu?
"Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân."
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Nỡ khiến anh hùng rơi giọt lụy
Trên trại đồn điền hoa khóc chủ.
Ôi trời Bến Nghé, mây mưa sùi sụt.
(Văn tế Trương Định)
Chạnh lòng trăm họ khóc quan Phan.
(Thơ điếu Phan Tòng)
Nhưng ở đây không phải là những giọt nước mắt rơi xuống vì khóc thương số phận cá nhân, mà đó là tiếng khóc nước nhà trong cơn bấn loạn, tiếng than bờ cõi lúc qua phân. Đó là những giọt lệ rơi xuống vì các tướng lĩnh, nghĩa quân bỏ mình vì đại cuộc. Cao quý làm sao, đẹp đẽ làm sao tâm hồn đầy xúc cảm rộng lớn của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu!
Đặc biệt khi nói về đất nước bị chia cắt, thơ văn Đồ Chiểu làm cho chúng ta đau tận đáy lòng:
Ôi sự thế hãy bên Hồ bên Hán, bao giờ về một mối xa thư; phong cương còn nửa Tống Nửa Liêu, đâu nỡ hại một tay tướng soái..!
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Dân tộc Việt Nam đã trải qua bốn nghìn năm với bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, người nông dân cũng đứng lên chống giặc. Trong văn học, phải đến thế kỉ XIX khi Nguyễn Đình Chiểu – một nhà nho yêu nước dùng con mắng yêu thương và kính phục để viết nên “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì hình ảnh người nông dân mới thực sự xuất hiện. Đó là hình tượng đẹp, rất đỗi chân thực và đầy chất bi tráng, vừa hào hùng, vừa đau thương trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do của đất nước.
Những người nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung… Họ chỉ là những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu của đất, bình dị và lam lũ. Nhưng họ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại:
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ
Họ đâu đã quen nghe tiếng súng. Âm thanh ấy đã phá tan cuộc sống bình lặng của họ. Một cuộc sống từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một cuộc sống chật vật với những lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã làm họ thật nhỏ bé suốt ngày “cui cút làm ăn”.. Chỉ một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn không lối thoát của người dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ, bắt đầu với cui cút, vật lộn làm ăn để cuối cùng vẫn kết thúc trong nghèo khó. Đằng sau luỹ tre làng ấy, họ biết sao được những “cung ngựa”, “trường nhung”.. trong cái nhìn của họ chỉ có “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đến việc cuốc, việc cày, bừa, khiên đã quá quen thuộc thì giờ tập khiên, tập súng.. thật lạ lẫm.
Những tưởng họ mãi cam chịu như thế. Nhưng không, khi quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, chúng đang giày xéo lên từng mảnh ruộng, từng đám đất quê hương ruột thịt của họ. Giờ đây, trong những “lo toan” không chỉ có đói nghèo mà còn là những thấp thỏm, lo âu:
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa…”
Thấy “mùi tinh chiên vấy vá” không thể chống mắt đứng nhìn, không thể ngồi yên mà đợi. Triều đình đã “bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng nàn ở họ. Bọn xâm lăng kia đã cướp đi những gì máu thịt của họ, chúng phá vỡ giấc bình yêu nơi thôn quê, làm sao không căm cho được. Nỗi uất hận đến tột cùng ấy đã biến những con người nhỏ bé tầm thường thành chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức. Lòng yêu nước đã biến thành lòng căm thù giặc đến sôi sục:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan.
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó”
Lòng yêu Tổ quốc tha thiết xuất phát từ trái tim đã khiến họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh… Dòng máu Lạc Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của lòng yêu nước mạnh hơn yếu hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, mặc việc “đợi tập rèn”, “ban võ nghệ”, “bày bố binh thư”, không màng tới trên mình chỉ có “một manh áo vải”. Các chàng Gióng của thế kỉ XIX đã đến, “đạp rào lướt tới”, coi giặc cũng như không.
Hỡi ôi, “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”, “rơm con cúi”, liệu có thể thắng được “tàu chiến tàu đồng”,” đạn nhỏ đạn to”. Đó là bi kịch của nghĩa sĩ Cần Giuộc hay chăng là tấn bi kịch của thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nông dân nhưng lại làm kinh ngạc cả chiến trường. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất lên trong tiếng nấc lòng. Có thể trận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ, nhưng tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lượng, chênh lệch với kẻ thù
“Chi nhọc quan quản Gióng trống kì trống giục…. súng nổ”
Hình tượng của người nghĩa sĩ áo vải được khắc nổi trên cảnh u ám khói bom ấy: những âm thanh vang động, những động tác quyết liệt (đốt, chém). Những người nghĩa sĩ áo vải đã trở thành đấng anh hùng của một thời kì đáng nhớ. Trong tư thế quật cường ấy, lấp lánh chân dung của những con người gánh trên vai vận mệnh của non sông. Họ biết rằng mình chỉ là vô danh trong dân tộc anh hùng nhưng điều cao cả nhất họ để lại là triết lý sống phù hợp đến muôn đời:
“Thà thác mà đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà chịu chữ đầu Tây ở với man di rất khổ”
Tinh thần ấy, ý đồng chí vẫn chói lòa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống để chịu nô lệ, tay sai của Tây thì thà một lần chiến đấu hết mình mà đem vinh quang cho dân tộc.
“Ôi thôi thôi!” Một tiếng khóc đầy ai oán, tiếng khóc đến quặn lòng, tiếng khóc để tiễn biệt những người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. Họ ngã xuống nơi chiến trường khói lửa. Vẫn còn đó nghiệp nước chưa thành, thấp thoáng nơi đây bóng mẹ già với ngọn đèn le lói trong đêm
“Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu chạy tìm chống, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”
Người tử sĩ đã về chốn thiên cổ để lại giữa trần gian mẹ già, vợ yếu, con thơ… Mai đây họ sẽ ra sao khi cái nghèo vẫn còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả chưa xong..
“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo thương vì hai chữ thiên dân, cây hương nghĩa sĩ thắp đèn thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”
Nguyễn Đình Chiểu đã bằng tấm lòng đồng cảm để nhìn thấy, nghe thấy và dựng nên một tượng đài hoành tráng mà mộc mạc, yêu thương. Xuyên suốt trong nền văn học nước nhà hình ảnh người nông dân đã được đề cập khá nhiều lần. Nhưng trước Đồ Chiều thì chưa một ai công khai vẽ lên và ngợi ca hình ảnh người anh hùng “chẳng qua là dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Hơn thế nữa, việc thổi vào văn chương chất dân gian đã khiến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ trở thành áng văn vừa hào hùng, bi tráng mà cũng rất gần gũi, giản dị.
Cụ Đồ Chiểu chỉ là nhà thơ mù – “người hát rong của nhân dân”. Nhưng hình ảnh người nông dân khởi nghĩa trong bài văn tế đã cho ta cái nhìn về cả một thời đại. Tự hào thay những con người nhỏ bé nhưng vẫn hiên ngang trước thế lực bạo tàn. Tự hào thay những người dân, người lính, nghĩa sĩ vô danh trùng trùng điệp điệp ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn cho non sống. Họ là bức tượng đài bất tử, lưu mãi tới muôn đời.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Đó là những bài thơ thể hiện rõ quan niệm cá nhân qua chữ tôi.
Câu trả lời của bạn
Chiều tối, Lai Tân
Câu trả lời của bạn
Lưu biệt khi xuất dương – hầu trời – Vội vàng
Câu trả lời của bạn
Tản Đà
Câu trả lời của bạn
Tôi yêu em, Bài thơ số 28
Một trong những người bạn của tôi trên Facebook vừa chia sẻ kèm theo ảnh chụp về hoàn cảnh của một cụ già trên 80 tuổi hàng ngày vẫn phải mưu sinh bằng công việc bán bánh bò. Ngay lập tức rất nhiều bạn trẻ vào bình luận xin địa chỉ chỗ bán của bà cụ để giúp đỡ, mua bánh ủng hộ… Vậy đấy, cuộc sống trong thế giới ảo này vẫn luôn tồn tại những điều tử tế.
Cách đây chưa lâu, một người bạn của tôi hoạt động trong ngành Báo chí cũng thông qua mạng xã hội đã quyên góp được một số tiền khá lớn giúp cho trường hợp của 2 học sinh mồ côi vững bước đến trường. Và câu chuyện thời sự nhất hiện nay là chuyện các bạn trẻ trong cả nước thực hiện chiến dịch giải cứu hành tăm và dưa cho bà con nông dân. Những câu chuyện đầy tính nhân văn như thế đã và đang lan tỏa trong cộng đồng như củng cố thêm niềm tin về lòng tốt của con người luôn hiện hữu quanh ta. Có nhiều ý kiến cho rằng đó là những việc mà lương tâm, trách nhiệm của một con người cần phải làm, không có gì phải tung hô, khen ngợi. Đành là như vậy, nhưng chẳng lẽ vì mải mê tìm kiếm những điều lớn lao mà ta lại lãng quên những điều dung dị nhưng hết sức ý nghĩa quanh mình. Cái tốt cần được biểu dương, khen ngợi dù đó là những hành động nhỏ. Không góp nhặt từ những điều nhỏ làm sao ta có được những điều lớn lao. Bạn hãy thử nghĩ xem nếu mỗi người trong xã hội ai ai cũng có ý thức hướng về cộng đồng từ những điều nhỏ nhặt như không xả rác bừa bãi thì có lẽ mỗi năm lực lượng đoàn viên - thanh niên, các ban ngành, đoàn thể không phải ra quân hàng trăm buổi nhặt rác làm vệ sinh môi trường? Vì vậy, dù là hành động nhỏ hay to miễn xuất phát từ lòng tốt thì đều đẹp và đáng được ghi nhận.
Cuộc sống "màu hồng" hay "màu đen" đều xuất phát từ góc nhìn và hành động của mỗi người. Để nhìn đúng và tích cực, cách chọn lọc thông tin để tiếp nhận đong vai trò quan trọng. Thay vì cập nhật những thông tin về các vấn đề tiêu cực, chúng ta hãy chia sẻ thông tin về những điều tử tế trong cuộc sống. Đó là cách "lan tỏa yêu thương" để mọi người củng cố niềm tin và có thái độ sống tích cực.
Câu 1: Xác định nội dung và đặt nhan đề cho văn bản
Câu 2: Xác định biện pháp tu từ và nêu tác dụng của nó trong câu sau: "Cuộc sống "màu hồng" hay "màu đen" đều xuất phát từ góc nhìn và hành động của mỗi người."?
Câu 3: Thông điệp nào trên văn bản trên có ý nghĩa nhất với anh (chị)?
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Phân tích đoạn thơ từ câu Không học được tiên ông phép ngủ... đến hết bài trong Sa hành đoản ca.
Câu trả lời của bạn
Đây là những câu thơ nói về hình ảnh khác, những con người khác, được đặt trên nền cảnh của bức tranh bãi cát dài và người đi trên cát dài, nhằm thể hiện một tâm sự, một tâm trạng khác của tác giả.
Đối lập với hình ảnh cô độc, trơ trọi của người đi tìm chân lý trên con đường mờ mịt, gian khổ là hình ảnh của đông đảo phường danh lợi đang tất tả ngược xuôi trên đường đời để mưu sinh, để tranh giành quyền lợi để hưởng thụ rượu ngon, thịt béo, để say sưa quên đi trách nhiệm cuộc đời. Tác giả chua xót nhận thấy người tỉnh thì ít, kẻ say thì nhiều và giống nhau, có ai cùng mình đi trên con đường cát bụi mờ mịt kia?
Trong lòng tác giả hiện lên một khối mâu thuẫn lớn. Ông rất khinh bỉ những phường danh lợi tầm thường kia, nhưng ông cũng chợt nhận ra sự cô độc của mình. Phải chăng con đường mà ông dấn thân vào, lý tưởng mà ông đang theo đuổi và tìm kiếm là điều vô ích, chẳng ai thèm để ý quan tâm? Ông không có người ủng hộ, đồng cảm, đồng hành. Nỗi niềm ấy làm xao xác lòng ông, bóp chặt trái tim ông, giục ông trở về với hiện tại vô vị, cay đắng.
Người đi trên cát dài bỗng nhiên dừng lại. Nỗi băn khoăn choán đầy tâm hồn. Và lần đầu tiên, người ấy đã phân vân tự hỏi, vậy là thế nào có nên đi tiếp hay từ bỏ nó, biết tính với nó sao đây? Nếu đi tiếp cũng không biết phải đi thế nào. Bởi vì, đường phẳng lì mờ mịt - đường ghê sợ thì nhiều. Có lẽ đã đến bước đường cùng? Nỗi bế tắc và tuyệt vọng phủ trùm lên cả người đi, cả bãi cát dài. Người đi chỉ còn có thể cất lên tiếng hát về con đường cùng của mình.
Trong cô độc, tuyệt vọng, người đi chỉ còn biết đứng lại trên bãi cát dài, vừa bất lực, vừa nuối tiếc. Bất lực vì không thể đi tiếp được, cũng chưa thể hay không thể quyết định sẽ làm gì dây. Trở thành phường danh lợi? Không được rồi. Đi hay ở ẩn ở núi phía Bắc, ờ biển phía Nam, độc thiện kỳ thân, giữ riêng mình trong sạch giữa cuộc đời ô trọc? Cũng không thể được. Nuối tiếc vì con đường gian khổ, mờ mịt nhưng đẹp đẽ quá, cao quý quá, đáng sống quá. Thì đành đứng chôn chân trên bãi cát. Đó là cả một khối mâu thuẫn lớn đè nặng lên tâm hồn tác giả.
Trong tác phẩm, chúng ta thấy Cao Bá Quát đã sử dụng các đại từ nhân xưng khác nhau như khách, quân, ngã. Tất cả đều để chỉ bản thân tác giả.
Tác giả muốn đặt mình vào các vị trí khác nhau để có cách khác nhau bộc lộ tâm trạng của chính mình trong tâm trạng mâu thuẫn.
Trong bài ca, hình tượng người đi trên bãi cát dài được tác giả thể hiện không đơn nhất mà đa chiều. Khi thi được miêu tả như một khách thể, khi lại như một người đối thoại, khi lại như một chú thể tự thể hiện. Thậm chí có khi tác giả cho ẩn chủ thể. Mục đích là nhằm có những trình bày khác nhau về tâm trạng, thái độ khi đứng trước các hoàn cảnh khác nhau. Hay để trình bày những suy nghĩ khác nhau của người đi trên bãi cát dài - tác giả trước những vấn đề bức bối đặt ra.
Tác phẩm đã thể hiện những mâu thuẫn tư tưởng hết sức sâu sắc và tiêu biểu của thời đại lúc bấy giờ một cách nghệ thuật. Đó là xung đột giữa khát vọng sống cao đẹp với hiện thực đen tối, mờ mịt; giữa tinh thần xông pha, hỷ xả và lý tưởng của kẻ sĩ với thói đời cầu an hưởng lạc của người đời và những khó khăn gian khổ trên con đường đi tìm chân lý.
Chủ đề tác phẩm là ca ngợi, những con người hi sinh quên mình vì lý tưởng, đề cao phẩm chất và trách nhiệm cao quý của kẻ sĩ đối với cuộc sống; đồng thời bộc lộ sự hoang mang, tuyệt vọng của con người không tìm ra lối đi.
Bài ca khắc họa hình tượng cô độc, nhỏ nhoi nhưng lại hết sức kỳ vĩ của con người vừa quả quyết vừa tuyệt vọng trên con đường đi tìm chân lý đầy gian truân, mờ mịt. Lời ca vừa có âm thanh hết sức bi tráng, vừa mang những âm điệu hết sức u buồn. Nó chứa đựng sự phản kháng âm thầm đối với trật tự hiện hành, cảnh báo một sự thay đổi tất yếu trong tương lai.
Lời văn của Vũ Trọng Phụng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia đậm chất trào phúng. Hãy chứng minh.
Câu trả lời của bạn
Cách đặt tên nhân vật, gọi tên đồ vật; so sánh ví von hài hước: cảnh sát không được phạt vi cảnh "buồn như nhà buôn vỡ nợ". "Hai cụ (ông lang Tỳ và ông lang Phế) đã từ chối chạy chữa cũng như những vị danh y biết tự trọng"; cách đặt câu chứa đựng mâu thuẫn trào phúng như: thuốc Thánh Đền Bia chừa ho lao, thương hàn "công hiệu đến nỗi họ mất mạng"; cách dựng đoạn bằng những câu văn mở đầu "Đám cứ đi" ở cuối đoạn trích, hay: "Cả một thành phố đã nhốn nháo lên khen đám ma to, đúng với ý muốn của cụ cố Hồng. Thiên hạ chú ý đặc biệt vào những kiểu quần áo tang của tiệm may u hóa như ý ông Typn và bà Văn Minh"; giọng văn châm biếm bằng lối xen vào những lời nhận xét, bình luận hài hước, những lối nói ngược thâm thúy như: "thật là một đám ma to tát có thế làm cho người chết phải mỉm cười vì sung sướng"; hoặc: "Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm" ...
Về cách dùng từ, tác giả đã tạo ra cách gợi lên sự vật rất hài hước như: lợn quay đi lọng, kèn bú dích, lốc bốc xoảng, Bắc đểu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh...; cách đặt tên nhân vật như; Typn, Min Đơ, Min Toa, ông Phán dây thép (Phán mọc sừng), Xuân Tóc Đỏ...; cách diễn đạt vừa vô lý, vừa có lí: "phải chết một cách bình tĩnh", "hai cái tội nhỏ" (tội tố cáo và tội quyến rũ), "một cái ơn to" ("vô tình gây ra cái chết của ông già đáng chết")...
Về cách so sánh, tác giả có những so sánh liên tưởng bất ngờ: "buồn như nhà buôn vỡ nợ", "hai cụ đã từ chối chạy chữa cũng như những danh y biết tự trọng".
Về cách đặt câu: tác giả đã dùng những câu văn chứa đựng trong nó những mâu thuẫn, nghịch lý, lộn sòng thật - giả, tốt - xấu như: "bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của Cụ Tổ. Hoặc: "Họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma".
Về cách dựng đoạn: đoạn trích miêu tả viễn cảnh (tả "'đám cứ đi") với cận cảnh (đặc tả, phóng to những chi tiết về người, về lễ vật, nhạc khí, những câu nói ý nhị với tất cả cái nhố nhăng, bát nháo, rởm đời của đám tang ở phần cuối đoạn trích.
Về cách tạo giọng văn, đáng chú ý là lối xen vào những lời nhận xét, bình luận hài hước, những lối nói ngược thâm thúy như: "Thật là một đám ma to tát có thể làm cho..." hoặc: "Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm". "Tang gia ai cũng vui vẻ cả". Nhiều đoạn có giọng văn hài hước sâu sắc, thú vị: "Những việc trắc trở như thế đã làm cho ông già hơn tám mươi tuổi phải chết một cách bình tĩnh. Trong lúc gia đình nhốn nháo, thằng bồi tiền đã đếm được đúng một nghìn tám trăm bảy mươi hai câu gắt: "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!" của cụ Cố Hồng"; hoặc: "Ông chỉ phiền nỗi không biết xử trí với Xuân Tóc Đỏ ra sao cho phải... Xuân tuy phạm tội quyến rũ một em gái ông, tố cáo cái tội trạng hoang dâm của một em gái khác nữa của ông, nhưng tình cờ đã gây ra cái chết của ông cụ già đáng chết. Hai cái tội nhỏ, một cái ơn to... Làm thế nào? Ông phân vân, vò đầu bứt tóc, lúc nào mặt cũng đăm đăm chiêu chiêu, thành thử lại càng ra hợp trang, vì mặt ông dũng cái mặt một người lúc gia đình đương là tang gia bối rối" ...
Tất cả những thủ pháp nghệ thuật ấy đã mang lại hiệu quả rất lớn: Đả kích sự lố lăng, đồi bại, sự bất nhân, giả dối của xã hội tư sản thành thị thuở trước.
Cảm nhận về Bài ca ngắn đi trên bãi cát.
Câu trả lời của bạn
Cao Bá Quát - một nhà nho chân chính, nhà thơ có tài năng và bản lĩnh, các sáng tác của ông thường bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ, đồng thời chứa đựng tư tưởng khai sáng có t/c tự phát, phản ánh một nhu cầu đổi mới của xã hội lúc bấy giờ. Và Bài ca ngắn đi trên bãi cát chính là một thi phẩm đặc sắc tiêu biểu cho những suy nghĩ ấy. Thông qua tác phẩm này, Cao Bá Quát thực sự đã cho độc giả những nhận định đúng đắn về nhân cách nhà nho chân chính từ chính con người ông.
Thật vậy, cũng như bao sĩ tử khác, ông chọn cho mình con đường hành đạo của của người trí thức xưa, đó là học hành - khoa cử - làm quan để phò vua giúp nước. Thế nhưng trong bối cảnh nhà Nguyễn đang đi vào giai đoạn suy sụp, thối nát, bảo thủ, lạc hậu, ông đã nhận ra cái con đường ấy là con đường gian nan, đường cùng thể hiện chính bằng hình ảnh "bãi cát dài" trong tác phẩm và ông đang rơi vào sự bế tắc của con đường tiến thân như người "lữ khách đi trên bãi cát" trong tác phẩm.
Bãi cát dài, lại bãi cát dài
Đi một bước lùi một bước
Ông bắt đầu có cái nhìn mới về con đường khoa cử. Ông đưa ra hiện thực luôn tồn tại nhan nhản trong xã hội:
Cổ lai danh lợi nhân
Bôn tẩu lộ đồ trung.
Phong tiền tửu điếm hữu mĩ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu tuý giả đồng
(Xưa nay phường danh lợi
Tất tả trên đường đời
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?)
Sắc sảo trong cách nhìn và tỉnh táo trong phán xét, thi sĩ họ Cao đã cho người đọc thấy được bức tranh đời thực. Đó là phần đông con người - tầm thường, hám danh hám lợi, phải khốn khổ, phải vội vã, chạy ngược, chạy xuôi, xô bồ trên con đường danh lợi "Xưa nay phường danh lợi/ Tất tả trên đường đời". Cũng chính vì cái hám danh hám lợi ấy mà họ dễ bị dụ dỗ, mê hoặc bởi bao nhiêu thứ "mĩ tửu" dậy hương đưa, họ như người đời thấy quán rượu ngon thì đổ xô tới "Đầu gió hơi men thơm quán rượu/ Người say vô số, tỉnh bao người?"
Những câu thơ của Cao Bá Quát như chiếu một góc nhìn trong tâm hồn vừa cô đơn, vừa kiêu hãnh. Một con người không muốn và không thể hòa cùng đám người hám danh lợi, luôn muốn bon chen mưu cầu danh lợi. Ta thấy được sự đối lập giữa cái tầm thường với cái thanh cao, giữa cái ồn ã sục sôi từ thiên hạ với cái bình lặng, cao ngạo từ con người. Ông thể hiện thái độ bất hợp tác, nỗi chán trường, thất vọng trước sự xuống cấp của khoa cử nhà Nguyễn. Vậy Cao Bá Quát đã chán ghét cái danh lợi tầm thường ấy, đã nhận ra sự vô nghĩa trong lối khoa học cử, con đường danh lợi đã cũ nát,. Phải chăng đó chính là biểu hiện cho nhân cách của nhà nho chân chính?
Hơn thế, bầu cảm xúc dần được nâng lên:
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?
Nỗi trăn trở, băn khoăn trước hiện trạng như bế tắc, bần cùng khi con người đi đường mà chưa tìm ra đường. Chỉ thấy trước mắt là đường thật nhiều ám ảnh, ghê sợ mà bước đường bằng phẳng thì mờ mịt, không biết nên đi đâu, về đâu?
Nghệ thuật miêu tả tương phản trong Hai đứa trẻ.
Câu trả lời của bạn
Là một thành viên trụ cột trong bút nhóm tự lực văn đoàn, Thạch Lam đã tự khẳng định mình bằng một hướng đi riêng, đặc biệt là những tác phẩm viết về nông thôn, những người dân nghèo nơi phố huyện. Hai đứa trẻ rút trong tập nắng trong vườn là một truyện ngắn hay, thấm đẫm tinh thần nhân văn nhân đạo, tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật miêu tả tương phản của ông.
Giống như hầu hết các truyện ngắn khác của Thạch Lam Hai đứa trẻ là truyện không có chuyện. Câu chuyện như một bài thơ, cốt chuyện tình tiết, tâm trạng, biến cố đều nhẹ nhàng, dịu êm... Truyện là tâm trạng thao thức đợi tàu, là những cảm xúc, những mảnh ghép cuộc sống, là cảnh vật xung quanh của hai đứa trẻ Liên và An. Truyện chỉ có vậy nhưng qua ngòi bút của Thạch Lam, những điều ấy trở nên sống động, làm cảm động lòng người. Thủ pháp nghệ thuật tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, giữa bầu trời và mặt đất, giữa quá khứ và hiện tại... đã gọi nên nhiều suy nghĩ thấm thía, sâu xa về những cảnh đời, những kiếp người nhỏ bé, sống vô danh vô nghĩa và héo mòn cùng những hi vọng mỏng manh và mơ hồ trong xã hội cũ.
Con người luôn khao khát và luôn cần ánh sáng, thế nhưng với chuyển động của thời gian, chuyển động của trái đất quay quanh trục của nó, mặt trời chỉ có thể chiếu sáng cho chúng ta một nửa thời gian trong ngày. Bởi vậy, cái khoảnh khắc thao thức, cái sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối cùng xuất hiện, thời khắc chiều tà và đêm khuya bên cạnh nhau, tương phản nhau, cùng soi tỏ cho nhau. Ánh sáng và bóng tối đã xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện, ánh sáng yếu ớt của mặt trời "như hòn than sắp tàn" và xen vào đó là những hình ảnh đầu tiên của bóng tối "dãy tre làng trước mặt đen lại". Nhưng ám ảnh và có khơi gợi nhiều hơn cả là một không gian tối- sáng lúc phố huyện vào đêm: "Liên ngồi lặng im bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị". Trong sự đối lập sáng- tối đó, bóng tối là gam màu chủ yếu. Bóng tối dày đặc, mênh mang, bao phủ khắp một vùng còn ánh sáng thì mờ nhạt, nhỏ nhoi, leo lét không đủ để xua đi bóng tối. Thạch Lam thường miêu tả bóng tối nhưng chỉ trong hai đứa trẻ, bóng tối mới đủ hình hài, cung bậc: "đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối", bóng người làm cong lung lay bóng dài, bóng bác phổ Siêu mênh mang ngã xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ". Phố xá thì tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sạm đen hơn nữa. Đêm ở phố huyện tĩnh mịch và đầy bóng tối". Trong cái thế giới ngập tràn bóng đêm, dưới một bầu trời thăm thẳm bao la đầy bí mật của phố huyện, ánh sáng lại quá yếu ớt, mà nhạt, nhỏ bé, leo lét. Ánh sáng của các cửa hiệu chỉ là những khe sáng, lọt ra ngoài, hắt xuống mặt đường gồ ghề khiến mặt đất dường như nhấp nhô hơn vì những hòn đá nhỏ vẫn còn một bên sáng một bên tối. Ánh đèn của bác phở Siêu chỉ là những chấm nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối. Ánh sáng ngọn đèn của chị em Liên thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa... Có lẽ trong văn học xưa nay, ánh sáng cũng đã từng xuất hiện nhiều nhưng không mấy ai miêu tả ánh sáng là khe, là vệt, là chấm, là hột, là quầng... Một cách riết róng như Thạch Lam. Đặc biệt là hình ảnh ngọn đèn chị Tí, một quầng sáng nhỏ nhoi, chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ, xuất hiện hai lần trong tác phẩm, tạo nên sức ám ảnh và khơi gợi về cảnh đời, những kiếp sống nhỏ bé, lay lắt trong đêm đen, trong bóng tối cuộc đời.
Điều Liên, An và những người dân nơi phố huyện mong chờ là thứ ánh sáng nơi bàn tay con người từ chuyến tàu cuối cùng của đêm " các toa đèn sáng trưng, đồng và kền lấp lánh"... Giữa đêm, thời điểm tưởng như bóng tối nặng nề, đông đặc nhất lại chính là thời điểm ánh sáng bừng lên rực rỡ, sáng lóa cả không gian và tâm hồn con người. Bầu trời bao la và mặt đất cũng có sự đối lập. Mặt đất sau buổi chợ tàn chỉ còn lại rác rưởi, bụi bẩn và mùi của đất, là mặt đất bụi bặm, khổ đau, chứa đầy bóng tối. Còn bầu trời thì khắc, nó đỏ rực lúc chiều tà, là hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, là sự kì diệu, thuộc về ước mơ, khao khát, là những kỉ niệm của một thời nay chỉ còn là vang bóng. Ánh sáng và bầu trời thuộc về ước mơ, là để thắp lên, đợi chờ, khát khao. Bóng tối và mặt đất là cái thực tại, là cái hằng chiều, là bóng đêm con người phải sống, phải đối mặt.
Với việc sử dụng nghệ thuật đối lập tương phản trong thiên truyện. Thạch Lam đã làm nổi bật lên cuộc sống buồn bã, tẻ nhạt, tối tăm của những con người nơi phố huyện đang héo mòn vì bóng tối. Qua đó Thạch lam đã bộc lộ rõ được tinh thần nhân đạo, trong niềm day dứt, dằn vặt, thể hiện cái tài và cái tâm của tác giả, tạo nên cả đẹp lãng mạn, nhẹ nhàng đầy thi vị cho tác phẩm.
Lòng nhân ái của Thạch Lam qua truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Câu trả lời của bạn
Thạch Lam (1910 - 1942) là cây bút có tài nhất trong Tự lực Văn đoàn. Hàng loạt những truyện ngắn của ông ghi dấu ấn của một tấm lòng nhân ái , như làn gió đầu mùa se lạnh, thấm đẫm niềm cảm thông trước những số phận bất hạnh, những cuộc đời chìm trong bóng tối. Thấp thoáng trong những câu chuyện của ông bóng hình kỷ niệm của những ngày tháng đã hằn sâu trong ký ức tuổi thơ Thạch Lam. Hai đứa trẻ, tác phẩm thấm đượm tình người, như minh chứng tiêu biểu cho một tấm lòng nhân ái.
Có người đã nhận xét, mỗi truyện ngắn Thạch Lam như một bài thơ trữ tình. Thế Lữ, một người bạn của ông đã nhận xét: "Sự thực của tâm hồn mà Thạch Lam diễn trong lời của văn chương phức tạp nhiều hình nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương". Tình thương với con người trong Hai đứa trẻ hình thành trên nền không gian phố huyện nghèo đầy bóng tối, với những cuộc đời lầm lũi, vất vả mưu sinh: mẹ con chị Tí, bác phở Siêu, gia đình bác Xẩm. Nhưng những nhân vật được ông dành cho "chút lệ thầm kín", yêu thương chân thành nhất có lẽ là hai chị em Liên và An. Bởi hai đứa trẻ chính là một mảng đời nghèo túng của hai chị em Thạch Lam tại phố huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Thế giới phố huyện hiện ra qua góc nhìn trẻ thơ chứa đựng những bí mật mơ hồ. Hơn ai hết, Thạch Lam hiểu rõ tâm trạng của những em bé không có tuổi thơ khắc khoải, đau đớn thế nào, bởi đó chính là những gì nhà văn đã từng trải nghiệm. Tất thảy những gì nhà văn đem đến trong câu chuyện không có cốt truyện này: không gian đìu hiu phố huyện, thời gian đi dần vào đêm khuya, đến những khoảnh khắc sống của Liên và An chờ đợi chuyến tàu cuối cùng băng qua phố huyện... mang ý nghĩa thông điệp của một tấm lòng chân thành : đừng bao giờ lãng quên những cuộc đời trong bóng tối! Và chính ông là người đã khơi dậy những nguồn sáng lạ kỳ để mỗi người đọc chúng ta thấm thía vẻ đẹp bình dị và sâu sắc của con người.
Thạch Lam là người ý thức rõ hơn hết về thiên chức của người cầm bút chân chính trong lời tựa Gió đầu mùa: "Văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên. Mà trái lại văn chương là một thứ khí giới đắc lực và thanh cao mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác; vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn lên". Quan niệm ấy đã thể hiện trên từng trang văn, từng dòng cảm xúc ở Hai đứa trẻ, làm nên phẩm chất hàng đầu ở văn Thạch Lam, làm người đọc được sống cùng thế giới của lòng nhân ái. Tấm lòng ấy giúp ông tạo dựng được không khí thắm đượm tình người, đi sâu khai phá những vẻ đẹp rất người và nói lên những tâm tình khát vọng con người. Người đọc có dịp thẩm thấu những nét đời thường một cách tinh tế mà nếu vô tình chúng ta rất dễ bỏ qua, trong một câu chuyện đan xen những yếu tố hiện thực - thi vị trữ tình, với những ấn tượng và cảm giác không thể phai mờ về cuộc sống và con người phố huyện.
Đó là cuộc sống đã được nhà văn tái hiện bằng tất cả những ấn tượng đậm nét nhất của một thời dĩ vãng. Không gian được dựng lên bằng hồi tưởng giúp ta suy tưởng sâu sắc hơn về cuộc sống của con người trong những hoàn cảnh đầy ám ảnh bóng tối phủ chụp lên cuộc đời. Mỗi một chi tiết của phố huyện như khơi dậy bao nỗi niềm con người. Từ một nhịp sống chậm chạp, nặng nề, rời rạc mở đầu với "tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều", một cảm giác lắng buồn cứ tăng dần cùng âm thanh "ếch nhái" đến "tiếng muỗi vo ve". Sự yên tĩnh không đem lại cảm giác êm ả cho lòng người mà tiếp liền đó là những hình ảnh hiện lên qua ánh nhìn của cô bé Liên, một đôi mắt đầy bóng tối. "Cái giờ khắc của ngày tàn" cũng mở ra những cuộc đời tàn héo.
Những cuộc đời ấy thấp thoáng trong quang cảnh chợ vãn: "Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất", "mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại". Những nét phác họa đơn sơ ấy làm tăng nét hiện thực điển hình của phố huyện. Những chi tiết ấy không chỉ chứng tỏ năng lực quan sát tinh tường của nhà văn mà còn cắt nghĩa cụ thể cho độ nhạy cảm của một tâm hồn không bỏ qua bất cứ một biểu hiện nhỏ nhặt bình thường của cuộc sống để từ đó khơi ln những liên tưởng về thân phận con người. Để rồi, ông hướng sự quan tâm của người đọc về những số phận cụ thể: mẹ con chị Tý ngày đi mò cua bắt tép, tối dọn hàng nước, chiều nào cũng thế, theo một chu kỳ đều đặn "từ chập tối cho đến đêm", một bà cụ Thy nửa điên nửa tỉnh thoáng hiện nhưng khó quên, một gánh phở bác Siêu với chấm lửa nhỏ và vàng hiện lên từ đêm tối, một gia đình bác Xẩm... những con người ấy đã tô đậm cuộc sống phố huyện về đêm, hoà cùng gian hàng tạp hoá của chị em Liên và An.
Cuộc sống ấy chìm trong bóng tối, ảm đạm và buồn tẻ. Ánh sáng cứ bị lấn át dần. Thạch Lam đã xây dựng bức tranh phố huyện bằng thủ pháp đối lập ánh sáng và bóng tối rất quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn. Những ngôn ngữ giàu sức gợi của nhà văn đã đem đến ý nghĩa hiện thực đậm nét cho tác phẩm. Ánh sáng và Bóng tối không phải là những ý niệm tượng trưng trong văn Thạch Lam mà hiện hình cụ thể trong từng khung cảnh , từng mảnh đời, ẩn chứa những xung đột ngấm ngầm của cuộc sống tưởng như bình lặng. Viết về bóng tối, nhưng thực chất nhà văn muốn hướng người đọc về ánh sáng. Ông dùng ánh sáng để soi tỏ từng bí ẩn của tâm hồn con người. Ấn tượng về bóng tối, ánh sáng gắn với cảm nhận của một cô bé Liên - bóng dáng người chị thân yêu của chính tác giả, dẫn dắt người đọc khám phá những góc khuất của tâm hồn con người phong phú và sâu sắc. Thông qua đó, nhà văn cũng nói lên đầy đủ sự thông cảm thương yêu đối với con người bé nhỏ.
Phân tích tính nghệ thuật trong Hai đứa Trẻ của Thạch Lam.
Câu trả lời của bạn
Mỗi lần đọc Thạch Lam trong tâm trí tôi lại hiện lên hình ảnh cánh cổng gỗ của khu vườn êm ả được miêu tả trong truyện Dưới bóng hoàng lan. Phía ngoài cánh cổng là một thế giới ồn ào, phồn tạp, nắng nôi, nhưng bên trong là bầu không khí mát rười rượi thoảng mùi hương thật thích hợp cho tâm trạng suy tư và cảm nhận, lắng nghe những điều tế nhị của sự sống.
Văn Thạch Lam cũng như khu vườn bên trong cánh cổng ấy, ít sự kiện, hành động nhưng đầy ắp những bâng khuâng. Nó cho ta cơ hội hiểu thấu sâu xa những cuộc đời giản dị, qua sự chiêm nghiệm lặng lẽ.
"Hai đứa trẻ" là truyện ngắn rất Thạch Lam. Chất liệu của nó vẫn là cuộc sống tù đọng, mòn mỏi nơi những phố huyện nghèo nàn xơ xác. Nhưng từ thứ chất liệu rất "văn xuôi" đó, nhà văn đã đưa lại cho chúng ta những trang viết hết sức thi vị, không có gì chung với sự thi vị hoá cuộc sống một cách tầm thường. Thi vị (hay chất thơ) của tác phẩm gắn liền với dụng công của nhà văn muốn khêu gợi trí tưởng tượng nơi người đọc và đánh động khả năng cảm nhận của các giác quan bằng lối hành văn hoặc cách tổ chức lời văn khá riêng biệt. Đây chính là chiều sâu của một nghịch lý tưởng chừng khó giải thích: viết về các sự vật, sự việc tầm thường, đơn điệu mà văn vẫn lôi cuốn đến thế. Điều này phá vỡ một ngộ nhận (chí ít là của người đọc) về tính quyết định của vật liệu. Thực ra nghệ thuật chính là một sự chế ngự vật liệu, vật liệu thông qua những phương thức, phương tiện diễn tả đặc thù.
Câu văn của Thạch Lam tả rất sát sự thật, sự việc. Nhưng điều đó không có nghĩa ở đây chỉ có sự khớp đúng đến nghẹt thở. Tiết điệu buông chùng của câu mở đầu thiên truyện chứng tỏ điều đó: "Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều". Cái lõi ngữ pháp của câu chỉ được nhận ra ở vế sau, nhưng sự cảm nhận của người đọc đã thực sự được khởi hành từ trước cùng cụm danh từ được đảo lên trên. Trong câu này cái đáng chú ý còn có từ "gọi". Nó xác lập một tương quan mới (dù vô hình) giữa các sự vật mà từ báo hiệu chẳng hạn không nói lên được. Dĩ nhiên câu văn vừa nêu không chỉ Thạch Lam mới viết nổi. Nhưng điều quan trọng là nó xuất hiện có quy luật chứ không ngẫu nhiên, nhằm nhấn mạnh một điều gì khác hơn những sự kiện nổi trên bề mặt. Xin chú ý thêm hai câu văn khác đứng kề nhau: "Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào". Trong câu đầu dường như thừa một chữ "chiều", xét theo góc độ thông tin bình thường. Nhưng thực ra ở đây còn có thông tin về tâm trạng mà riêng hai chữ "chiều rồi" chưa truyền tải được (do thiếu vắng nhịp điệu). Mặt khác, nếu không có chữ chiều "thừa ra" ấy, sự buông lơi êm đềm của câu sau sẽ ít có hiệu quả. Tính chất thừa tiếp hô ứng của mạch văn cũng thiếu trọn vẹn. Rõ ràng đọc giả đang bị dẫn dắt bởi văn chứ không phải cái gì khác.
Suốt truyện ngắn, nhà văn nhiều lần nhấn mạnh sự "ngây thơ" của hai nhân vật chị em qua các nhận xét như: "Liên không hiểu sao...", "Liên tưởng là...", "tâm hồn Liên... có những cảm giác mơ hồ không hiểu", "vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ...","Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết...". Rất có thể nhân vật của truyện "không biết", không hiểu thật, nhưng điều đáng nói là tác giả đã mượn chính tâm trạng nhân vật để ám thị người đọc. Các phủ định từ "không" đã "bẫy" họ sa vào một không khí bất định, mông lung. Độc giả cứ ngỡ mình đang cùng nhà văn theo dõi nhân vật, nhưng thật sự họ đã bị lây nhiễm chính cảm giác của nhân vật và không thôi thao thức. Càng cố gắng hiểu những điều nhân vật "không hiểu" để phân biệt với nó, anh ta càng rơi sâu vào không khí của truyện đến nỗi mất cả đường ra, trong khi tác giả vẫn không ngừng tả, kể để trói anh ta chặt hơn vào câu chuyện mà ông "bịa" ra.
Truyện tuy rất ít hành động nhưng vẫn thấp thoáng những lời đối thoại. Chúng được phân bố rất đều trong tác phẩm và xuất hiện giữa những đoạn miêu tả cảnh vật - một khung cảnh lặng lẽ, êm đềm, có phần hiu hắt, buồn bã. Chính không khí ấy quy định sắc điệu của lời đối thoại, trong khi bản thân lời đối thoại cũng mang tính chất lơ lửng, không gây nên sự đột biến nào của mạch truyện. Những câu hỏi nêu ra có thể trả lời cũng được mà không cũng được. Nó không nhằm mục đích tìm biết mà chỉ chờ đợi một sự phụ hoạ, xác nhận điều người nói nghĩ và thậm chí cả sự hiện tồn mờ nhạt của họ nữa:
- Em thắp đèn lên chị Liên nhé!
- Cái chõng này sắp gãy rồi chị nhỉ?
- Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế?
- Còn cô chưa dọn hàng à?
- Có phải buổi trưa em bán cho bà Lực hai bánh xà phòng không?
- A, cô bé làm gì thế?
- Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?
- Tàu hôm nay không đông, chị nhỉ?
Trước những câu hỏi ấy người đối thoại thường là "mãi rồi mới chép miệng trả lời", ngẫm nghĩ rồi đáp hoặc có đáp cũng "đáp vẩn vơ", thậm chí "không đáp", "không cần ngoảnh mặt ra". Một số người khi muốn chứng minh luận điểm nói rằng cảnh đời được miêu tả trong truyện thật nghèo nàn buồn tẻ, đã viện đến các chi tiết như đám trẻ con nhặt nhạnh những thứ rơi vãi trên nền chợ, chị Tý dọn hàng đến khuya mà không bán được bao nhiêu, hai chị em Liên xem phở bác Siêu như một thứ quà xa xỉ, một người mua hàng đến nửa bánh xà phòng cũng phải mua chịu... Thật ra cần chú ý hơn đến những mẩu đối thoại rời rạc đã nói ở trên. Dụng công của Thạch Lam cũng như hồn văn của truyện chính toát lên từ đấy. Nó đưa tới cho người đọc không phải chuyện này chuyện nọ mà là một ấn tượng buồn nản, xót thương, thậm chí bực bội trước các câu hỏi tủn mủn, bâng quơ, không cần thiết phải trả lời và những lời đáp quá chừng nhạt nhẽo, phẳng lặng. Những ấn tượng đó khó gây dựng hơn nhiều so với các nhận xét kết luận "đóng bao"sẵn thường thấy ở nhiều truyện thừa giọng giáo huấn mà thiếu tính nghệ thuật.
Trong truyện cũng vài lần nổi lên tiếng reo chứa đựng niềm hân hoan mong đợi:
- Kìa, hàng phở của bác Siêu đã đến kia rồi.
- Đèn ghi đã ra kia rồi.
Nhưng những tiếng reo đó đã nhanh chóng phô ra tính chất tội nghiệp của chúng, niềm vui mới nhóm lên đã bị triệt tiêu bởi lời kể nhẩn nha vô tình mà thật "ác nghiệt": " An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu bán là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền , hai chị em không bao giờ mua được " và "chuyến tàu hôm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn". Đúng là mong đợi chỉ để mà mong đợi, reo lên chỉ để rồi buồn tiếc và thất vọng hơn. Cảm giác thất vọng của nhân vật chắc chắn là sâu sắc. Nhưng đâu chỉ nhân vật, độc giả cũng thất vọng không kém. Bị trói chặt bởi nhịp cầu lê thê của câu chuyện, họ đã chờ đợi bao nhiêu ở những tiếng reo kia. Thật ra, niềm thất vọng này chính là hiệu quả nghệ thuật của truyện. Sau sự hụt hẫng này, độc giả sẽ vỡ ra những ý nghĩa của đời sống mà truyện muốn hướng tới. Nghệ thuật không phải là nói thẳng mà nói vòng, còn độc giả thì có được cảm giác thật như người trong truyện. Cùng với nhân vật, họ tự nghiệm sinh các giá trị của đời.
Hình ảnh thiên nhiên trong truyện đã gây cho người đọc những ấn tượng sâu đậm. Sự êm ả đượm buồn mà ta nhận thấy một phần là của thiên nhiên với tư cách là chất liệu, vật liệu, một phần là của văn. Những bức tranh nho nhỏ được gài xen kẽ với những mẩu đối thoại rời rạc, không hoàn chỉnh. Chúng lấp đầy những khoảng trống của lời nói và cầm giữ nhịp điệu của thiên truyện. Giả sử tác giả viết khác đi, dồn hẳn những đoạn miêu tả thiên nhiên về một phía, và phía kia là hình ảnh sinh hoạt của con người, hẳn giọng điệu điều hoà của truyện sẽ biến mất và chủ đề của chuyện sẽ khác đi. Ở đây thiên nhiên không thu hút toàn bộ thần trí con người để họ mê man trong đó. Nó gần gũi, vỗ về, khơi gợi những cảm xúc dịu dàng và bâng khuâng. Nó trồi lên đánh lạc hướng tâm trạng buồn chán của nhân vật (và của độc giả) thông qua mùi âm ẩm của đất bụi, vẻ lung lay của bóng đèn, bóng người, ánh nhấp nháy của ngàn sao và đom đóm, tiếng động mơ hồ, khe khẽ của loạt hoa bàng rụng xuống vai...Tuy nhiên, việc đánh lạc hướng kia chỉ diễn ra từng lúc một, và nhân vật của truyện lại trở về với thực tại túng thiếu, lam lũ, để tiếp đó rơi vào trạng thái chập chờn nửa mơ, nửa thức, khắc khoải chờ mong, hi vọng (dẫu chẳng biết hi vọng ở cái gì). Truyện sở dĩ không rơi vào nhàm tẻ dù đối tượng hàm chứa sự tẻ nhàm, chính một phần nhờ lối tả, kể xen kẽ, chắp nối đó.
Hai đứa trẻ là truyện ngắn giàu tính nghệ thuật. Tác giả đã rất ung dung, thoải mái khi xử lí chất liệu hiện thực. Tất cả chất liệu đã được tổ chức lại nhằm khơi dậy ở người đọc những cảm xúc nghệ thuật thuần khiết . Nhà văn đưa họ vào thế giới của ông, thôi miên họ, sau đó tự để họ ngẫm nghiệm và rút ra những bài học cần thiết. Ở trên có nhắc tới "khu vườn Thạch Lam". Thực ra "khu vườn"ấy không chỉ có nghĩa là đề tài. Đó là "khu vườn" của nghệ thuật - một nghệ thuật biết vượt thoát khỏi sự trói buộc của đề tài để làm vang dậy tiếng nói riêng của nhà văn.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *