Qua bài học, giúp học sinh củng cố kiến thức cơ bản của chương trình làm văn lớp 11. Biết cách lập luận và vận dụng các thao tác lập luận: bình luận, phân tích, so sánh, bác bỏ trong bài văn nghị luận. Bên cạnh đó, giúp các em rèn luyện kĩ năng tóm tắt một văn bản nghị luận, cách viết tiểu sử tóm tắt và bản tin.
Câu 1: Bác bỏ quan niệm “Lối sống trong bao của Bêlicôp chỉ là một nét tính cách riêng của một cá nhân, có thể chấp nhận được”.
Câu 2: Bình luận quan niệm của Huy-gô về tình thương.
Để củng cố kiến thức cơ bản của chương trình làm văn lớp 11, các em có thể tham khảo thêm bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Viết bài Chuyên đề: đặc điểm thơ Mới thông qua 3 tác phẩm: Tràng giang, Vội vàng, Đây thôn Vĩ Dạ
Câu trả lời của bạn
viết một đoạn văn khoảng 200 chữ nói về bệnh dịch vô cảm trong đời sống hiện tại
Câu trả lời của bạn
Vô cảm" là không có cảm giác, không có tình cảm, không xúc động trước một sự vật, hiện tượng, một vấn đề gì đó trong đời sống. Bệnh vô cảm là căn bệnh của những người không có tình yêu thương, sống dửng dưng trước nỗi đau của con người, xã hội, nhân loại...
Trải qua các cuộc chiến tranh chống quân xâm lược, những cuộc đọ sức với thiên tai khắc nghiệt, nhân dân ta đã có truyền thống đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Dường như càng qua gian khổ, đau thương, mất mát con người lại sống gần nhau, quan tâm, giúp đỡ nhau nhiều hơn. Tình làng nghĩa xóm, thương người như thể thương thân đã trở thành một đạo lí của dân tộc: "Bán anh em xa mua láng giềng gần".
Hiện nay, trong cuộc sống vật chất ngày càng được cải thiện hơn, đầy đủ hơn, người ta dễ có xu hướng lo vun vén cho bản thân và gia đình mình, ít quan tâm đến những vấn đề xã hội. Trước kia, ông cha ta đã phê phán lối sống chỉ biết vun vén cho riêng mình. Cuộc sống quanh ta hiện nay không thiếu những người như thế. Họ sống thờ ơ với mọi việc đang diễn ra, nhà nào nào đóng cửa biết nhà nấy. Nhà hàng xóm có hoạn nạn, có con cái bị rơi vào cạm bẫy của các tệ nạn xã hội họ cũng bàng quan như không biết. Đi đường gặp người bị tai nạn, họ cũng bỏ qua như không nhìn thấy. Thấy lũ trẻ cái nhau thậm chí đánh nhau họ cũng làm ngơ. Trước cảnh khổ đau của những người tàn tật, bất hạnh, họ cũng không mảy may xúc động...Bệnh vô cảm đã làm cho con người như vô tri, vô giác, không thể hòa nhập với cộng đồng.
Trong công việc, bệnh vô cảm làm cho con người chẳng khác nào một cái máy. Họ làm việc một cách đơn điệu, tẻ nhạt. Con người mắc bệnh vô cảm trong công việc, chắn chắc hiệu quả công việc sẽ không thể nào cao, thậm chí còn làm trì trệ, ảnh hưởng nghiêm trọng.
Là cán bộ, công chức của Nhà nước, mắc bệnh vô cảm sẽ dẫn đến xa rời nhân dân, tắc trách trong công việc. Một bác sĩ vô cảm không thể có tình thương người bệnh, nhất là những người bệnh nghèo. Không thiếu những trường hợp vì vô cảm mà người bệnh không được chăm sóc chu đáo, dẫn đến những cái chết đáng tiếc. Một kĩ sư vô cảm có thể dửng dưng trước những sinh mạng con người do công trình không đạt chất lượng của mình gây ra. Một tài xế vô cảm sẵn sàng xem thường tính mạng của người khác khi phóng nhanh vượt ẩu. Một thầy giáo vô cảm chỉ nghĩ bài giảng cho xong chuyện, còn nói gì đến tình nghĩa thầy trò, tận tâm dạy bảo, nhất là những học trò còn học kém, gia đình khó khăn. Cán bộ vô cảm sẽ không thể nhìn thấy hoàn cảnh của mỗi người dân, không thấy những nỗi bức xúc của nhân dân, giúp đỡ nhân dân tận tâm, tận tình.
Gần đây thôi, nếu bạn có tình cờ xem qua các trang báo sẽ ngỡ ngàng vô cùng với "sự nhẫn tâm" đến đáng sợ của con người: Một thanh niên gào khóc thảm thiết trên chuyến xe buýt khi kẻ gian lấy mất chiếc bóp của anh ấy nhưng đáp lại là sự im lặng đến xót xa. Và đau lòng hơn nữa khi xem cảnh bao người đi "hôi bia" khi chuyến xe định mệnh của người tài xế đáng thương lật trên đường. Đáp lại cho tiếng khóc của anh là tiếng cười hả hê của những người đi nhặt của "trên trời rơi xuống". Viết đến đây tôi lạnh cả người và tự hỏi lòng trắc ẩn, tình thương của con người hiện đại có còn hay không? Phải chăng khi xã hội phát triển con người lại đánh mất tình yêu thương?
Là bản thân học sinh chúng ta hãy ra sức chống bệnh vô cảm trong việc làm, học tập hằng ngày của mình. Hãy quan tâm giúp đỡ bạn bè. Hãy chia sẻ những gì mình có thể cho những cuộc đời bất hạnh quanh ta. Đừng để một ngày nào đó khi nhìn thấy bà lão ăn xin, một đứa bé côi cút bơ vơ, một người khách lỡ đường mà trái tim bạn không lên tiếng. Hãy thắp sáng, hãy gieo mầm cho những yêu thương trong trái tim bạn, trái tim tôi, trái tim tất cả chúng ta.
Tình thương là cái quí giá của con người; bệnh vô cảm đã làm mất phẩm chất ấy, không khác gì biến dòng máu hồng hào trở thành màu xanh. Trái tim mỗi người cần thắp sáng ước mơ, khát vọng, ý chí và sự sáng tạo gắn bó với cộng đồng. Điều đó sẽ chống được bệnh vô cảm và làm cho cuộc đời của con người
Xã hội ngày càng phát triển, con người ngày càng trở nên tất bật hơn với những công việc và những lo toan cuộc sống. Họ dần trở nên vô cảm trước cuộc sống, bệnh vô cảm là gì? Và nó có những tác hại như thế nào? vô cảm là căn bệnh trơ cảm xúc trước niềm vui, nhất là trước nỗi đau của người khác. Trong cuộc sống ta bắt gặp nhiều thanh niên trên xe buýt không nhường ghế cho những cụ già, nhiều người gặp tai nạn giao thông không những không cứu giúp mà còn đứng đó xem và bình luận, căn bệnh vô cảm khiến cho tâm hồn con người trở nên vơi cạn khô héo… dần làm cho con người trở nên xa cách với mọi người xung quanh. Và đặc biệt nghiêm trọng hơn là vô cảm chính là nguồn gốc của nạn bạo lực, vậy nguyên nhân nào dẫn đến căn bệnh vô cảm? Có lẽ do cuộc sống quá tất bật, vì những lo toan của công việc, vì phải lo lắng cho gia đình con cái mà con người dần trở nên mất đi những cảm xúc của cuộc sống. Một phần cũng xuất phát từ ý thức của con người, để khắc phục tình trạng của căn bệnh vô cảm này mỗi người cần phải tự rèn luyện phẩm chất cho mình. Bản thân, nhà trường và xã hội cần phải tuyên truyền cho học sinh, thanh niên hiểu được về tác hại của căn bệnh vô cảm để chung tay đẩy lùi căn bệnh này để cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
Sử dụng ngôi kể thứ nhất hãy kể về cuộc sống giản đơn nơi gia đình với những điều em cho là hạnh phúc nhất
Câu trả lời của bạn
Ba gọi điện chiều nay sẽ trở về sau chuyến công tác dài ngày, mẹ nhoẻn cười hiền lành, không giấu nổi cái khấp khởi của người phụ nữ đã hai con, xa chồng lâu ngày.
Cúp điện thoại là mẹ vội vàng gõ cửa phòng ồ ạt thông báo liền cho hai thằng nhỏ đang “chiến game” ở trong. Nói rồi, mẹ hào hứng cầm rổ ra sau vườn ngắt vài ngọn khoai cho vào tủ lạnh trước khi xách giỏ đi chợ.
Dù có chuẩn bị bữa tối tinh tươm đến đâu thì rau lang luộc vẫn không thể vắng mặt trong những dịp như thế này - món ăn kỉ niệm của cả nhà mình. Nhìn đĩa rau xanh hãy còn bốc khói trên bàn, nhớ quá đi thôi một thời xa lắc chính nó là món ăn cứu tinh cho cái gia đình bé nhỏ qua một thời đói khát, lo cho ba đi học tiếp, cũng chính những ngọn khoai ấy đưa chúng con vào giảng đường.
Khoảng đất trống ở góc vườn, mẹ thả mấy dây khoai lang hòng lấy ngọn cải thiện bữa ăn. Hết rau lang luộc chấm ruốc rồi lại ngọn lang xào tỏi, cứ đều đều ăn riết thành quen, đâm nghiện lúc nào không hay.
Mùi nhựa rau hăng hắc khi cho bắc chảo xào, rồi cái mùi ê ê của nước rau cho thêm tí mì chính, tí đường cũng thành món canh húp nước ngon lành. Nhìn dây khoai tốt ngọn óng mượt bò tràn lan trên mặt đất, ai cũng bảo “chắc lắm củ đấy”. Vậy mà, đến ngọn còn không đủ làm thức ăn cho cả nhà lấy đâu mà ra củ. Nhiều bữa thấy mẹ phải ngắt luôn cả hàng lá ở gần sát ngọn, rồi sợ lá già sẽ đắng và cứng, mẹ cho vào nước luộc trước khi đem xào dầu.
Dạo ấy, ba đi học tiếp trên thị xã, mẹ phải tăng ca làm thêm tất bật mới đủ sức nuôi “ba đứa học trò trong nhà”. Cứ mỗi chiều thứ Bảy ba lại đạp xe về. Ba cha con tự nhiên đến nỗi tự biết xách rổ ra sau vườn hái ngọn lang vào luộc làm bữa chính bởi cả cha cả con thừa hiểu nếu có về mẹ cũng chỉ đủ tiền mua mớ tép con con cho có cái gọi là tanh tanh một chút. Ấy vậy mà đấy được coi là bữa ăn xa xỉ nhất trong tuần.
Cơm chiều dọn ra, mẹ ân cần xúc bỏ vào chén ba, chén tụi nhỏ mấy con tép vàng vàng, còn ngọn rau luộc xanh xanh mẹ cẩn thận chấm nước cho vào chén mình, tươi cười mẹ ngồi lặng lẽ nhìn ba bố con ăn ngon lành. Cái vị bùi bùi, giòn giòn lại ê ê, vậy đó mà cả nhà vét đến hạt cơm cuối cùng, thấy thế là sướng rơn và vui vẻ không gì bằng.
Cuộc sống tằn tiện chắt chiu, song vẫn không thể bền bỉ như thế được lâu. Ba tự túc xin đi học thêm lên, kinh phí tự bỏ ra, tụi con lớn lên sách vở cũng phải tăng trang, mỗi bữa cơm dọn ra càng tố cáo nỗi eo hẹp của cái gia đình bé nhỏ ấy.
Đồ đạc trong nhà lần lượt đội nón ra đi theo từng đợt học phí, chỉ có mỗi đám dây khoai ở góc vườn là không ngừng được nới rộng đất trồng. Thực đơn của mẹ cũng vì thế mà thêm phần sáng tạo: Ngọn lang xào tỏi, rau luộc chấm ruốc, canh rau lang nấu dầu... Hiếm có bữa nào, mâm cơm lại thiếu đi màu xanh quen thuộc.
Thời gian tím sắc trôi theo từng đợt hoa lang nở rộ, bung cánh tím biếc cả một góc sân rộng. Nhà mình bây giờ khá hơn nhiều, cuộc sóng đã theo kịp nhịp của một gia đình phố thị. Bữa cơm không còn theo chủ nghĩa “độc tôn một món”, nhất rau xanh như trước đây nữa!
Chúng con mỗi đứa có được một phòng riêng, cũng chẳng còn cảnh cả nhà ba người đàn ông và một người khác giới phải trải chiếu dưới nền nhà ẩm mốc lăn đùng ra ngủ sau một ngày thở dốc. Song, dù có tiện nghi đến mấy, mỗi thành viên vẫn không khỏi thấy nhớ và thương đến đắng lòng từng đám ngọn lang xanh rì bò dọc ngang trong vườn nhà.
Ba trở về, mẹ khấp khởi mừng thầm. Chiều nay, cả nhà mình lại chung mâm cơm có món rau quen thuộc và có cả kí ức đầm ấm một thời bên nhau.
Vòng tay qua ôm trọn lấy vòng eo vốn đã không còn thon thả nhưng vẫn còn đủ sức cho cái mặn mà một thời đắm say của mẹ, bên bữa cơm chiều, giọng ba thỏ thẻ:
Anh đi anh nhớ vợ anh
Hết rau lang luộc, lại đem xào dầu...
Thương lắm từng đọt ngọn lang ơi...!
Đêm đã về khuya. Cảnh vật im lìm xung quanh khiến tôi bỗng cảm thấy nhớ nhà đến lạ. Sống xa nhà đã một năm nay, vì thế mà mỗi khi nhớ về gia đình, trong tôi lại trào dâng một nỗi nhớ da diết. Gia đình nhỏ của tôi có rất nhiều kỉ niệm bên nhau, nhưng tôi nhớ nhất, là mùa hè năm trước, khi nhà tôi gặp một biến cố.
Gia đình tôi vốn ít làm quen với bệnh viện và thuốc men. Ai cũng nghĩ rằng bản thân có một sức khỏe phi thường cho nên chẳng bao giờ có bệnh tật gì hết. Nhưng đúng là chẳng ai có thể thắng nổi tuổi tác và thời gian. Mẹ tôi cũng không còn trẻ nữa, công việc căng thẳng khiến bà trở nên yếu hơn, tới bệnh viện, bác sĩ nói mẹ tôi bị sỏi mật, chùm sỏi đã lớn lắm rồi, cần làm phẫu thuật cắt bỏ túi mật ngay. Những cơn đau bụng kéo dài khiến mẹ tôi cảm thấy mệt mỏi và đau đớn. Bố tôi quyết định đưa mẹ vào bệnh viện để làm phẫu thuật, tiến hành cắt bỏ túi mật như lời bác sĩ đã dặn dò.
Mẹ tôi luôn là người quán xuyến hết mọi việc gia đình. Từ ngày mẹ tôi vào viện, công việc nhà lại dồn cả vào tôi. Thế là tôi phải là người thanh mẹ quán xuyến hết việc nhà, cũng bởi từ bé tôi chưa quen nhiều việc, nên ban đầu tôi cảm thấy rất lúng túng. Con bé tôi của mùa hè năm trước còn vụng về hậu đậu, tôi loay hoay một mình mà cũng chẳng biết cầu cứu sự trợ giúp của ai. Trải qua những ngày tháng như thế tôi mới hiểu các bà, các mẹ đã vất vả như nào để có thể giữ gìn cho tổ ấm của mình luôn gọn gàng, ấm cúng. Hết dọn việc nhà, tôi còn phải nấu cháo, đưa bố mang vào viện cho mẹ. Nhiều lúc tôi chỉ muốn òa khóc lên vì mọi việc cứ dồn dập lên đầu, mẹ nhập viện, tôi phải ở nhà một mình, còn bao nhiêu việc trên đời lại đổ dồn hết vào tôi. Ở bệnh viện, mẹ tôi vẫn thường gọi điện cho tôi hỏi han, dặn dò. Tôi chỉ biết cố nhịn khóc để mẹ khỏi lo, rồi lại lặng lẽ khóc một mình.
Ngày mẹ phẫu thuật đã tới. Nhìn mẹ được đưa vào phòng mổ mà tim tôi thắt lại. Từ trước đến giờ chưa bao giờ tôi nhìn thấy mẹ phải nhập viện, nếu có người đi bệnh viện thì đó chính là tôi. Từ trước đến nay tôi luôn là người được chở che chăm sóc. Tôi đã quên rằng, bố mẹ tôi không còn trẻ, và người cần chăm sóc sức khỏe nhất, chính là bố mẹ của tôi.
Ca phẫu thuật thành công, mẹ tôi được đẩy vào phòng hồi sức. Ngồi trên băng ghế dài của bệnh viện, tôi không được gặp mẹ, lại càng lo lắng thêm bội phần. Mẹ đã vào viện điều trị được 2 tuần, chỉ có 2 tuần thôi mà sao tôi thấy thời gian trôi qua lâu đến thế. Nhà cửa, vườn tược vắng bóng người, sự lo lắng quây quanh tôi khiến lòng tôi bất an vô cùng. Liệu mẹ đã tỉnh chưa nhỉ? Liệu bao lâu nữa mẹ mới được xuất viện? Những câu hỏi dồn dập khiến tôi cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi khi ngồi chờ mẹ ở hành lang.
Mấy ngày sau, mẹ tôi được xuất viện. Vết mổ vẫn còn đau, mẹ tôi cũng không dám đi lại như người bình thường. Bố tôi lại trở về đi làm sau những ngày xin nghỉ phép để chăm sóc cho mẹ tôi. Tôi ở nhà, nấu cháo cho mẹ, dọn dẹp nhà cửa, cho gà vịt ăn. Tôi bưng một bát cháo đầy lên cho mẹ, mẹ ăn mà tôi thấy hình như mắt mẹ ươn ướt.
- Mẹ, sao mẹ lại khóc?
- Con gái của mẹ lớn thật rồi đấy nhỉ?
Tôi chợt sững sờ. Thì ra, khoảng thời gian mà mẹ nhập viện, tôi đã lớn hơn nhiều lắm. Không còn là cô nhóc thích làm nũng mẹ ngày xưa nữa, cũng không còn trẻ con hay lười biếng như xưa. Tôi đã trở thành người biết suy nghĩ hơn, biết cáng đáng mọi việc hơn, và cũng trở nên trưởng thành hơn nữa. Mẹ ốm, tôi đã biết chăm sóc mẹ như ngày xưa mẹ đã từng chăm sóc cho tôi. Lòng tôi chợt cảm thấy vui. Từ nay, tôi sẽ quan tâm và chăm sóc cho bố mẹ nhiều hơn nữa vì bố mẹ tôi cũng không còn trẻ nữa rồi. Đứa con như tôi, đã từng nhận được rất nhiều tình yêu và sự chăm sóc của bố mẹ, đến nay khi đã lớn khôn, bổn phận còn lại là phải phụng dưỡng cha mẹ cho thật tốt.
Một năm đã trôi qua. Tôi rời gia đình đi theo học ở ngoài tỉnh. Mỗi lần nhớ nhà, nhớ bố mẹ, tôi lại nghĩ đến kỉ niệm thuở nào mà tự nở một nụ cười. Trong hoạn nạn, khó khăn, mới thấy tình cảm gia đình quý giá biết nhường nào. Và chỉ khi có gian nan thử thách, con người ta mới thấy được giá trị của tình yêu mà cố gắng giữ gìn.
Tôi may mắn được sinh ra ở trên đời này thì đó không chỉ là sự tồn tại mà là sống có ý nghĩa. Ấy là khi tôi biết yêu thương và hi sinh cho người khác, biết trân trọng, nâng niu những điều xung quanh. Và gia đình- hai tiếng gọi thân thương mà trìu mến chính là tổ ấm mà tôi luôn ấp ủ một tình yêu tha thiết đến mãnh liệt. Giờ đây, khi đã đi một chặng đường 15 năm, nhìn lại quá khứ, tôi càng thêm trân trọng những kỉ niệm với các thành viên trong gia đình.
Tôi nhớ ngày ấy mình là một đứa con trai học lớp 5, mười tuổi- cái tuổi mà cũng không còn quá ngây thơ, trong sáng nhưng cũng không hoàn toàn trưởng thành. Ở độ tuổi ấy, tôi khá khó dạy bảo, thường xuyên không chịu nghe lời bố mẹ. Khi đó, gia đình tôi sống ở một vùng quê thanh bình yên ả, nhà chỉ có ba thành viên: tôi và bố mẹ. Hằng ngày, bố mẹ tôi thường bận bịu với công việc đồng áng và ruộng vườn nên tôi hay ở nhà chơi cùng bọn trẻ trong xóm. Tôi tự thấy mình lá một đứa trẻ hiếu động và nghịch ngợm. Buổi trưa, tôi trốn bố mẹ đi ra đường chèo thuyền ra sông bắt cá, vào vườn vặt trộm quả xoài chùm nhãn, thậm chí là còn nghịch tới mức đi trêu chó hay cắt mào gà của nhà người ta... Vài lần không may bị bắt được, tôi không chỉ bị mắng mà khi bố mẹ biết còn đánh cho một trận. Đau, khóc mếu là thế, tôi vẫn chứng nào tật đấy. Phải chăng khi ấy tôi là một đứa trẻ quá ư ương bướng và khó dạy bảo? Có những hôm đi học, tôi còn rủ vài thằng bạn trốn tiết để đi lên bãi cát chơi. Đôi lúc, cả thầy cô và bố mẹ cũng phải đến "bó tay" với tôi. Và có lẽ, tôi sẽ mãi hư đốn và khó dạy bảo như thế nếu không có kỉ niệm ấy- một kỉ niệm như một liều thuốc thần dược khiến tôi ngoan ngoãn và yêu thương bố mẹ nhiều hơn.
Kì nghỉ hè đến, tôi có một thời gian dài để nghỉ ngơi và thư giãn sau khi đã hoàn thành kì thi chuyển cấp đầy căng thẳng. Những ngày hè vui chơi cùng lũ bạn đồng quê thật vui vẻ. Bọn bạn tôi, đứa nào cũng sắm cho mình vài ba chiếc cần câu để đi câu cá hết từ ao này đến hồ nọ. Là một thằng con trai, tôi cũng ao ước được mua một cái. Thế nhưng tôi làm gì có tiền. Băn khoăn, nghĩ ngợi một lúc, trong đầu tôi đã nảy sinh ra ý tưởng. Chiều hôm ấy, tôi không đi chơi mà ở nhà dọn dẹp và nấu cơm từ rất sớm. Bố mẹ về thấy rất ngạc nhiên với tôi, vì từ trước tới giờ chưa bao giờ tôi tự giác đến thế. Trong bữa cơm, giọng nhỏ nhẹ và lễ phép cất lên:
- Bố mẹ cho con tiền mau chiếc cần câu giống thằng Hùng, thằng Khánh đi ạ. Với cả mua cho con một cái súng để chơi bắn trânn giả mới hay.
Gương mặt bố mẹ nhăn lại, tỏ vẻ không hài lòng, bố nói:
- Không mua mấy thứ đấy, tốn tiền lắm. Mày còn sắp vào trường mới, lớp mới nên bố mẹ đi làm bục mặt để kiếm tiền đây.
Mặt tôi tối sầm lại, buồn và ấm ức, thậm chí là giận dỗi. Với bản tính trẻ con, tôi bỏ bát đũa xuống, chạy lên phòng đóng rầm cửa lại. Trong đầu tôi thầm nghĩ "Không hiểu sao mà bố mẹ lại không cho tiền mình. Chỉ có một số tiền nhỏ thôi mà, bọn bạn mình nó có hết rồi". Vậy là cả ngày hôm ấy, tôi chỉ ở trong phòng, ai gọi cũng không chịu thưa. Với tính cách ương bướng, muốn có được những thứ mình thích nên tôi quyết định bằng mọi cách phải mua được cái cần câu với khẩu súng kia. Không có nó thì mùa hè này chán chết mất, khi đi chơi với lũ bạn lại thấy lạc lõng thế nào.
Nằm suy nghĩ một hồi lâu, tôi đã nghĩ ra một cách. Đợi bố mẹ đi làm hết, tôi nhẹ nhàng lén xuống phòng, cẩn thận mở chiếc tủ ra. Lục lọi khắp nơi, cuối cùng tôi cũng thấy chỗ mẹ để tiền. Trong đầu lóe lên ý nghĩ :"Thôi đã chót thì lấy nhiều nhiều tí, có gì mua thêm đồ chơi với đi ngao du cùng bọn bạn một tí chẳng hạn". Nghĩ vậy và chẳng hề băn khoăn, tôi lấy hai đồng là ba trăm nghìn. Có tiền rồi, tôi tung tăng rủ bọn bạn đi mua các thứ. Có tiền cái là tôi đi chơi cả buổi chiều không về nhà. Vui đùa, thích thú cùng chiếc súng, chiếc cần câu mới... tôi không hề suy nghĩ và băn khoăn về hành động mình vừa làm. Buổi tối về tới nhà cũng là lúc bố mẹ tôi đang dọn cơm. Khác mọi lần, bố mẹ không mắng tội đi chơi muộn mà im lặng khiến tôi phần nào thắc mắc. Trong đầu lại hiện lên bao câu hỏi :"hay bố mẹ biết chuyện rồi nhỉ?", " không biết mình có bị làm sao không nữa?"... Bố mẹ gọi tôi ngồi vào bàn, giọng đầy nghiêm túc:
- Có phải con lấy tiền trong tủ không,
- Không, con làm gì có lấy, con không biết tiền bố mẹ để đâu cả.
- Con có nói thật không. Vậy thì tại sao 300 nghìn đồng lại không cánh mà bay và con có súng mới, cần câu mới....
- Con không lấy, con không biết... mấy đồ kia con mượn của bạn.
Sự ương bướng và dối gạt của tôi làm bố tức giận không kìm nén nổi mình đã tát tôi 2 phát. Vừa đau vừa giận, tôi chạy một mạch ra đường. Đi lang thang, thơ thẩn khắp nơi. Đi mãi, đi mãi mà trời thì ngày càng tối, bụng thì sôi réo vì đói. Tôi lại muốn trở về nhà, ăn một bữa cơm cùng gia đình và xin lỗi. Bởi vì khi ấy tôi mới hiểu được giá trị của mái ấm gia đình, nơi duy nhất có những người luôn yêu thương, chở che và đùm bọc. Khi ấy, đi lang thang giữa đường phố nhộn nhịp và xa hoa, liệu có ai dừng lại mà hỏi rằng cháu đi đâu đấy, cháu có cần giúo gì không, bố mẹ cháu đâu? Tuyệt nhiên không có, bởi họ có cần quan tâm tôi là ai và tôi như thế nào đâu. Đi mãu như vậy, tôi nhận ra hình như mình đã lạc tới một nơi nào đó, nơi có những tòa cao ốc và con đường tráng lệ. Thế rồi, những giọt nước mắt vì sợ, vì đói, vì rét lăn dài trên má. Tôi thiếp đi tự lúc nào không biết. Và khi tỉnh dậy tôi đã thấy mình nằm ở nhà, trong vòng tay âu yếm của mẹ cha. Đôi mắt tôi vừa mở thì đã nhận ra đôi mắt thâm quầng vì thức đêm của bố và những giọt nước mắt của mẹ. Chỉ từng ấy thôi ít nhất cũng làm thay đổi một đứa trẻ như tôi. Hình ảnh đầy xúc động đã đánh thức trong tôi tình yêu thương, lòng biết ơn sâu sắc với bậc sinh thành. Cha mẹ luôn yêu thương con cái đến nhường nào!
"Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha"
Trong cả cuộc đời mình, con người ta đã gặp và kết bạn với hàng trăm người. Những mối quan hệ ấy là sợi dây gắn kết con người trong xã hội lại với nhau. Nhưng dù có hàng trăm, hàng nghìn sợi dây liên kết xã hội như thế, con người ta vẫn không thể từ bỏ gia đình - cái nôi nuôi dưỡng ta và những điều bình dị nhất.
Từ trước đến giờ tôi vẫn luôn là một đứa con ngoan của bố mẹ, một người chị tốt của thằng em trai, là học trò cưng của thầy cô giáo và là hình mẫu được dùng để bố mẹ lũ bạn mang ra dạy dỗ chúng. Nhưng chẳng ai biết, cuộc sống của tôi thật sự chỉ xoay quanh việc đi học và về nhà. Tôi không có bạn thân, không có những buổi tụ tập, hẹn hò lê la phố xá với lũ bạn như học sinh khác. Tan trường tôi sẽ trở về nhà để học bài và chơi với thằng em trai. Có lẽ vì thế mà tôi cũng không được trải nghiệm nhiều thứ. Những kỉ niệm thời cấp hai và cả học trò của tôi chỉ là những giờ lên lớp, những buổi đi học thêm. Chỉ là học và học.
Năm tôi học lớp 9, bài vở nặng hơn rất nhiều. Thời gian tôi đến trường và ở các lớp học thêm còn nhiều hơn thời gian tôi ở nhà. Đầu óc tôi luôn trong tình trạng căng như dây đàn. Tôi đã bắt đầu học với cường độ cao từ hè năm lớp 8. Vì bố mẹ và mọi người đều tin rằng tôi chắc chắn sẽ đỗ vào chuyên Anh của trường chuyên thành phố.
Càng đến ngày thi, tôi lại càng thấy căng thẳng và mệt mỏi. Những con số, những tờ đề cứ thế cuốn lấy tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy sợ hãi. Tôi sợ mỗi buổi sáng thức dậy tôi sẽ phải tiếp tục quay cuồng với đống bài vở và những lớp học nối tiếp nhau. Tôi sợ phải ngồi lì hàng giờ trong căn phòng kín với tiếng điều hòa ro ro mát lạnh để cắm đầu vào những con số. Tôi sợ những bữa ăn vộ vã trên đường khi đi từ lớp học này đến lớp học khác. Tôi sợ tiếng mở cửa của gia sư mỗi buổi tối. Tôi sợ những câu hỏi quan tâm của cha mẹ, về tình hình học tập của tôi bây giờ. Tất cả những hứng thú của tôi cho việc học đều bị năm học này phá hỏng hết rồi. Tôi không còn học vì thích thú, vì đam vmee và muốn tìm hiểu nữa. Tôi học vì tôi phải học. Tôi học vì bố mẹ tôi muốn thế. Chỉ đơn giản là thế thôi. Tôi thấy mệt mỏi vô cùng.
Một tháng trước ngày thi, tôi khủng hoảng thực sự. Bài vở càng lúc càng nhiều. Thời gian ngủ của tôi cũng không không cón nhiều nữa. Tôi gầy đi trông thấy. Bố mẹ cũng lo lắng, nhìn tôi và bảo:
- Mệt quá thì thôi con ạ. Nghỉ ngơi đi!
Những ngày gần thi, bố mẹ tôi tự nhiên không còn quá áp lực với tôi về việc điểm số, trường thi nữa. Bố mẹ nhẹ nhàng và nhắc nhở tôi nghỉ ngơi nhiều hơn. Có lẽ thấy việc học của tôi vất vả và áp lực quá nên bố mẹ không muốn gây thêm áp lực cho tôi nữa. Những ngày cuối cùng, tôi dồn hết sức để ôn tập và bước vào phòng thi thật tự tin. Thật may mắn, năm tôi thi, trường chuyên của thành phố cho phép học sinh có thể đăng kí thi hai chuyên một lúc. Tức là tôi vừa có thể thi chuyên Anh, vừa thi chuyên Văn như tôi mong muốn.
Hôm tôi đi thi là một ngày trời nắng nóng. Cái nắng hè gay gắt đổ xuống khiến mặt đường bốc lên từng đợt hơi nóng thật khó chịu. Tôi thi môn Văn vào buổi sáng, Toán vào buổi chiểu và hai môn chuyên sẽ thi vào ngày hôm sau. Tôi làm bài các môn đều ổn, kể cả hai môn chuyên. Ra khỏi phòng thi, bố mẹ và em trai tôi đã chờ sẵn. Khuôn mặt mọi người đều lo lắng. Mẹ nhìn thấy tôi, đi nhanh đến hỏi:
- Có mệt không con? Làm bài thế nào?
- Ổn mẹ ạ! - tôi đáp
Mẹ tôi mỉm cười thật tươi, lấy chiếc khăn trong túi lau mồ hôi trên trán cho tôi. Chúng tôi lên xe trở về nhà. Kết thúc những tháng ngày ôn thi căng thẳng và vất vả. Tôi trở về nhà với tâm lí thật thoải mái. Mẹ đưa cho tôi một tờ kế hoạch. Đó là kế hoạch mẹ đã chuẩn bị từ trước, khi thấy tôi quay cuồng với lịch học, ôn. Tôi nhìn bản kế hoạch chi tiết, tỉ mỉ của mẹ, thấy mắt mình cay cay. Tôi là một con bé nhút nhát. Mẹ cũng biết cuộc sống của tôi thực đơn giản. Chỉ đi học rồi về nhà. Có lẽ bố mẹ lo lắng tôi không có bạn. Tôi sẽ buồn. Nhưng quả thực, bố mẹ không biết, chỉ cần có mọi người là đủ.
Lúc nhận kết quả thi, tôi đủ điểm đỗ cả hai chuyên, cả lớp chọn của trường. Đó là kết quả xứng đáng cho những nỗ lực suốt một năm qua của tôi. Không cần tôi báo, chắc bố mẹ cũng đã biết rồi. Vì bố mẹ còn hồi hộp hơn tôi nhiều lần. Tôi thấy bố mẹ xem kết quả với một khuôn mặt mãn nguyện. Nụ cười của mẹ lúc này thật hạnh phúc. Tôi còn để ý thấy trong bữa tối, mẹ len lén lau nước mắt. Tôi biết mọi cố gắng của mình lúc này đều xứng đáng. Bữa tối gia đình thật đơn giản. Nhưng ai cũng cảm thấy vui vẻ và hạnh phúc. Thằng em trai gắp cho tôi một miếng sườn và bảo:
- Cho chị Bống, chị giỏi. Em cũng muốn học giỏi như chị!
- Bin còn giỏi hơn chị cơ - tôi cười, xoa đầu nó.
Gia đình là điều quan trọng nhất đối với tôi. Bởi lẽ, ở đó bố mẹ sẽ yêu tôi vô điều kiện. Mọi người sẽ chăm sóc và lo lắng cho tôi mỗi khi tôi mệt mỏi. Và quan trọng nhất, gia đình sẽ không bao giờ quay lưng và bỏ tôi lại một mình.
Trong cuộc đời mỗi người chắc hẳn ai cũng đều có người để yêu thương và quý mến nhưng đã có ai từng nghĩ: “Ai là người mình yêu nhất và ai là người để lại cho mình những kỉ niệm không thế phai mờ?”. Đối với mọi người có thể người ấy là bạn thân, ông bà hay anh, chị, em nhưng riêng đối với tôi, người mà tôi luôn yêu mến và mãi sẽ yêu là Mẹ - người đã trao cho tôi cuộc sống.
Mẹ tôi năm nay đã gần bốn mươi tuổi. Mọi người vẫn khen mẹ tôi trẻ và xinh nhưng đôi khi tôi gần mẹ, tâm sự với mẹ, tôi thấy mẹ như đã già đi nhiều. Đôi mắt mẹ ánh lên vẻ ấm áp, trìu mến, giờ đây đã xuất hiện nhĩíng vết chân chim. Vầng trán mẹ đã có nhiều nếp nhăn. Nổi bật nhất trên khuôn mặt mẹ là chiêc mũi cao dọc dừa và đôi môi đỏ. Tôi vẫn còn nhớ như in những nụ hôn ấm áp mẹ trao cho khi tôi còn bé. Làn da mẹ mềm mại, trắng hồng nhưng đã điểm những nốt tàn nhang của tuổi bốn mươi. Trước đây, khi tôi còn nhỏ, mẹ có mái tóc dài, mượt mà, mái tóc đen của mẹ như một đoạn của dải của Ngân Hà, đen mượt và óng ả. Khi tôi học lớp Năm, mẹ tôi đã thay đổi kiểu tóc, mẹ đã cắt mái tóc dài và thay vào đó là mái tóc xoăn. Mái tóc ngắn, xoăn, màu nâu đỏ thả bồng bềnh trên vai có lẽ hợp với khuôn mặt trái xoan của mẹ hơn, nhưng tôi vẫn thích mẹ để tóc dài như trước.
Tôi còn nhớ như in ngày đầu tiên tôi đi học. Tối hôm đó, sau bữa tối, mẹ đã mang vào phòng tôi một bọc quà rất to. Tôi cứ nghĩ là được mẹ mua cho đồ chơi hay là một bộ lego mà tôi hằng mong muốn. Tôi háo hức mở bọc quà, thì ra đó toàn là sách, vở, đồ dùng học tập và có cả một chiếc cặp sách in hình siêu nhân mà tôi rất thích. Bộ đồng phục đã được mẹ là phẳng phiu. Mọi thứ đã sẵn sàng, tôi rất thích thú đợi đến ngày mai — ngày đầu tiên tôi gấp thành nêp và được xếp lại ngay ngắn bước vào lớp Một. Sáng hôm sau, mẹ âu yếm dắt tôi đến trường. Tôi vẫn nhớ cảm giác hồi hộp và lo sợ lúc đó, tôi không biết mình sẽ làm gì và mình sẽ như thế nào khi không có mẹ ở bên. Rời tay mẹ, tôi bước vào cổng trường, tôi thấy mình thật bơ vơ và lạc lõng. “Cố lên con, rồi con sẽ quen với cô giáo và các bạn, đừng lo!”. Đi được mấy bước tôi vẫn nghe thấy tiếng mẹ ở đằng sau. Tôi vội quay lại ôm mẹ rồi khóc thật to.
Mẹ ôm tôi vào lòng âu yếm: “Con lớn rồi mà, từ hôm nay con đã là học sinh lớp Một rồi. Hãy tự tin lên nào!”. Tôi nghe lời mẹ, vào lớp học. Ngày hôm đó đối với tôi thật dài, tôi rất nhớ mẹ, chưa bao giờ tôi lại thấy yêu mẹ và cần mẹ hơn lúc này.
Đã tám năm trôi qua kể từ ngày đầu tiên đi học nhưng tôi không thể nào quên được hình ảnh thân thương của mẹ và những cảm xúc của mình trong cái ngày đáng nhớ ấy. Mẹ đã giúp tôi tự tin, vững vàng bước những bước đi đầu tiên trên con đường tri thức.
Đã có lần, tôi vô lễ với mẹ và tôi nhớ mãi để không bao giờ tái phạm nữa. Tôi còn nhớ như in, đó là một ngày mưa, khi tôi còn là một cậu học sinh lớp Sáu. Tôi đi học về với một vẻ mặt buồn bã. Mẹ rất quan tâm, mẹ hỏi han rất nhiều. Nhưng vi quá bực bội nên tôi đã gắt lên với mẹ: “Con ghét mẹ lắm, mẹ đừng nói nữa!”. Nói rồi tôi bật khóc và chạy lên phòng, đóng sập cửa lại. Tôi khóc rất to, mắt đã đỏ hoe. Chỉ vì thằng bạn thân hiểu nhầm tôi mà chúng tôi cãi nhau to. Cả ngày hôm nay, tôi không có tâm trí nào mà tập trung vào việc học được nữa và hậu quả là tôi đã không làm được bài kiểm tra môn Toán. Nghĩ đến những việc đó, đầu óc tôi lại như phát điên. Tôi nằm bẹp suốt một giờ đồng hồ. Cảm giác cô đơn và lạnh lẽo khiến tôi tỉnh táo hẳn. Tôi nghĩ đến mẹ, nghĩ đến câu mình vừa nói với mẹ. Trời ơi, tôi đã mắc phải một sai lầm lớn! Tại sao mình lại có thể nói vô lễ với người luôn yêu thương, chăm sóc mình được chứ? Tôi ân hận lắm! Chỉ vì bị bạn hiểu lầm mà tôi đã trút giận lên mẹ. Tôi bật dậy, định chạy ra ngoài xin lỗi mẹ thì mẹ tôi đã mở cửa phòng bước vào. Như đoán được suy nghĩ của tôi, mẹ nhìn tôi bằng ánh mắt trìu mến và ngồi xuống bên tôi. “Mẹ ơi, con xin lỗi, con sai rồi!”. Tôi nói trong tiếng nấc nghẹn ngào. Mẹ nhẹ nhàng vuốt tóc tôi rồi nói thật nhẹ nhàng: “Mẹ cũng có lỗi vì đã không thông cảm và hỏi han con”. Tôi rất ân hận vì đã làm mẹ — người tôi luôn yêu thương bấy lâu nay, phải buồn. Chính những lời nói nhẹ nhàng, cử chỉ âu yếm của mẹ làm tôi thêm day dứt vì lỗi lầm của mình hơn. Tôi đã kể cho mẹ nghe mọi chuyện. Mẹ đã an ủi và động viên khiến tôi phấn chấn hơn nhiều. Từ lần đó, tôi luôn tự hứa phải suy nghĩ kĩ trước khi nói và không được làm mẹ buồn nữa.
Có những lần tôi bị ốm, mẹ đã chăm sóc tôi tận tình và dành cho tôi tình yêu thương nồng ấm để tôi mau khỏi bệnh. Những đêm tôi ôn thi, mẹ đã thức cùng tôi, ở bên động viên và giúp tôi học.
Với tôi, mẹ như một làn mây che cho tôi mưa nắng, mẹ là ngọn lửa thôi thúc con tim tôi để vững bước trên đường đời. Dù mai đây nếu mẹ có mất đi thì trong tôi, mẹ luôn sống và theo tôi suốt cuộc đời.
Đã bao giờ bạn tin rằng sau một giấc mơ những điều bạn hằng mong ước bấy lâu sẽ trở thành sự thật? Đã có lúc tôi rất tin vào điều đó và luôn nhớ khoảnh khắc kỳ diệu mà giấc mơ đã đem đến cho tôi.
Hôm ấy là một buổi tối cuối tuần, trời đầy sao và gió thì dịu nhẹ. Tôi nằm trên trần nhà mơ mộng đếm những vì sao. Bỗng nhiên tôi thấy cả không gian như bừng sáng. Trong vầng hào quang sáng lấp lánh, ông tôi cười hiền từ bước về phía tôi. Tôi sung sướng đến nghẹt thở ngắm nhìn gương mặt phúc hậu, hồng hào và mái tóc bạc phơ của người ông yêu quí. Ông tôi vẫn thế: dáng người cao đậm, bộ quân phục giản dị và cái nhìn trìu mến! Tôi ngồi bên ông, tay nắm bàn tay của ông,tận hưởng niềm vui được nâng niu như thuở còn thơ bé... Tôi muốn hỏi những ngày qua ông sống như thế nào? Ông ở đâu? Ông có nhớ đến gia đình không... Tôi muốn hỏi nhiều chuyện nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu cả.
Ông kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích mà ngày xưa ông vẫn kể. Giọng ông vẫn thế: rủ rỉ, trầm và ấm. Ông hỏi tôi chuyện học hành, kiểm tra sách vở của tôi. Đôi mày ông nhíu lại khi thấy tôi viết những trang vở cẩu thả. Ông không trách mà chỉ ân cần khuyên nhủ tôi cố gắng học tập chăm chỉ hơn. Ông nhìn tôi rất lâu bằng cái nhìn bao dung và khích lệ. Ông còn bảo những khát vọng mà ông làm dang dở,cháu hãy giúp ông biến nó thành hiện thực. Những khát vọng ấy ông ghi lại cả trong trang giấy này. Muốn làm được điều ấy chỉ có con đường học tập mà thôi...
Ông dẫn tôi đi trên con đường làng đầy hoa thơm và cỏ lạ. Hai ông cháu vừa đi vừa nói chuyện thật vui. Ông bảo đến chợ hoa xuân, ông muốn đem cả mùa xuân về căn nhà của cháu. Ông chọn một cành đào, cành khẳng khiu nâu mốc nhưng hoa thì tuyệt đẹp: màu phấn hồng, mềm, mịn và e ấp như đang e lệ trước gió xuân. Nụ hoa chi chít, cánh hoa thấp thoáng như những đốm sao. Tôi tung tăng đi bên ông, lòng sung sướng như trẻ nhỏ. Ông cầm cành đào trên tay. Có lẽ mùa xuân đang nấp cả trong những nụ đào e ấp ấy... Xung quanh ông cháu tôi, kẻ mua, người bán, ồn ào và náo nhiệt. Họ cũng đang chuẩn bị đón xuân về!
Tôi đang bám vào tay ông, ríu rít trò chuyện về những ngày xuân mới sắp đến, chợt nghe tiếng mẹ gọi rất to. Tôi giật mình tỉnh dậy, thấy mình vẫn đang nằm trêm trần nhà. Lòng luyến tiếc nhận ra tất cả chỉ là một giấc mơ thôi...
Giấc mơ chỉ là khoảnh khắc kỳ diệu đáp ứng niềm mong nhớ của tôi. Tôi nuối tiếc song cũng học được nhiều điều từ giấc mơ đó. Và quan trọng nhất là tôi được gặp ông, được ông truyền cho niềm tin và sự nỗ lực cố gắng thực hiện những ước mơ của chính mình.
Những ngày mùa hạ rả rích, khi ôm sách và lắng nghe vài giai điệu phát ra từ cái radio cũ mèm, tự dưng tôi nghe thấy mấy lời da diết vang lên: “Người thầy... vẫn lặng lẽ đi về sớm trưa/Từng ngày, giọt mồ hôi rơi nhòe trang giấy…”. Tiếng Cẩm Ly tha thiết, chiều mùa hạ như đang rơi xuống, vỡ tan và xoáy vào lòng những kí ức tươi đẹp. Đột nhiên, có cảm giác như đang lạc vào một thế giới nào đó, một thế giới không phải của mình, thế giới của quá khứ. Và tự nhiên, tôi nghĩ, dường như mình đang được xem lại cuộc đời bốn năm trước, qua vài cảnh quay được trích ra từ cái máy quay có lẽ là đời từ những năm 1980.
Máy quay có lẽ đã cũ lắm rồi, cảnh được cảnh mất, nhưng cũng đủ để tôi thấy tôi - mười một tuổi - đứng trong sân trường cấp II lộng gió, và bóng một người thấp bé lặng lẽ đạp chiếc xe khung, đi trong nắng vàng. Bất chợt, người ấy quay lại. Ánh mắt hiền từ được máy quay ghi lại rõ ràng không sai. Tim tự dưng thấy hẫng một nhịp.
Kia rồi! Thầy tôi...
Người đàn ông đi trong nắng vàng hôm ấy là người tôi kính trọng nhất trên đời. Có lẽ biết thế nên mọi cảnh quay về người ấy đều rõ nét và chân thực đến kì lạ. Tôi nhìn rõ cái bóng liêu xiêu, đổ dài trên con đường dài dằng dặc, cùng với cây thước kẻ nửa mét kẹp trong chiếc cặp da sờn cũ, hộp phấn bằng thép chỉ chực rơi ra, cùng mái tóc đã bạc lắm rồi. Bỗng nhiên, tôi thấy nước mắt đang dâng lên, đầy tràn hai khóe mắt.
Nhiều người vẫn miêu tả: Các thầy cao to, vạm vỡ, có đôi mắt sáng quắc uy nghiêm. Nhưng không! Thầy tôi thấp lắm, nếu so với chuẩn 1,8 m, chỉ chừng 1,6 m, tóc bạc trắng và lúc nào cũng lọc cọc đi trên chiếc xe khung han rỉ. Mắt thầy sáng, nhưng sáng bởi ánh sáng dịu hiền, ấm áp khiến chúng tôi rất an tâm. Mọi thứ thuộc về thầy cũ kĩ đến mức hoài cổ. Chúng tôi, thời những năm lớp 6, đã từng trêu thầy nhiều lần vì điều ấy. Tôi vẫn nhớ thầy chỉ cười hiền và bảo, thầy già rồi, có cần gì hiện đại.
Máy quay chuyển cảnh. Từng hình ảnh nhảy nhót. Cứ như bị lỗi, những hình ảnh ấy cứ nháy đi nháy lại, nhưng lại rõ đến từng chi tiết.
Mùa đông lạnh thê lương. Khi mà gió vuốt những ngón tay trên mái nhà, tôi nhìn thấy thầy đạp xe đến trường. Những vòng quay xe đạp cứ thế quay đều, quay đều. Pê đan cũ lắm rồi, xích kêu lạch cạch tựa như đang đòi nghỉ ngơi. Thầy vẫn cần mẫn đạp xe, cần mẫn xách chiếc cặp sờn cũ đến lớp. Tháng qua, tôi thấy thầy khẽ run. Không chỉ mùa đông ấy, mà còn nhiều mùa đông sau này nữa. Tôi vẫn luôn nhìn thấy hình ảnh đó. Luôn nhớ mình đứng trên tầng 2, vẫy tay “Em chào thầy” mà láo xược chế thành “Em thầy!”, và thầy, trên chiếc xe đạp cũ đi ngược gió, vẫy tay cười lại.
Hiền như tiên.
Tự dưng, cảnh quay tiếp theo hiện ra. Tôi thấy...
Đêm tối. Trong một căn bếp lụp xụp, có mỗi một bóng đèn mù mịt. Bảng đen viết đầy những công thức loằng ngoằng. Có hai đứa học sinh ngồi quây quần cắt cái bánh trung thu nhân thập cẩm, và một người tóc bạc phơ ngồi cạnh, mỉm cười nhấm nháp ngụm trà nóng trong đêm thu mong manh.
Thầy ơi, thầy không ăn thập cẩm à, thế phải làm sao bây giờ. Tiếng đứa con gái cất lên lo lắng. Thằng con trai ngồi cạnh im lặng ăn miếng bánh nướng thơm lừng, còn người đó chỉ cười, bảo, ừ, hai đứa cứ ăn đi, còn lại để vào tủ lạnh, lúc nào cô về thì cô ăn.
Tôi nhận ra, đấy chính là mình, với Âu Sơn, và thầy.
Tôi thấy mình lúng túng, rồi cũng ngồi xuống, cầm con dao cắt bánh ra thành nhiều miếng nho nhỏ. Sau nhiều lần từ chối, cuối cùng thầy cũng ăn, và hai đứa học sinh cười thành tiếng. Căn bếp lụp xụp như sáng thêm. Sáng thêm. Mãi đến sau này tôi mới biết thầy không ăn được thịt mỡ, cứ đến cổ họng lại bị nôn ra, thế mà hôm ấy thầy vẫn ăn miếng bánh Trung thu, có lẽ chỉ để chúng tôi vui lòng.
Đột nhiên muốn khóc. Thầy của tôi, vĩ đại như thế đấy.
Có lẽ nhiều người không hiểu nổi từ vĩ đại. Tại sao lại vĩ đại? Tôi không thể diễn tả được cảm xúc của tôi khi nghe việc thầy không ăn được thịt mỡ, rồi liên tưởng đến miếng bánh trung thu ngày hôm ấy. Chỉ để chúng tôi vui, thầy đã ăn hết miếng bánh mà có thể làm thầy khó chịu suốt những ngày sau đó. Ai đó từng nói, tấm lòng người thầy vĩ đại lắm, và cũng trong sáng lắm, y như pha lê không bao giờ bị vấy bẩn. Đúng, đúng lắm.
Những tháng ngày đó, bất kể nắng hay mưa, bất kể nóng nực hay lạnh giá, thầy, vẫn cặm cụi đi trên chiếc xe đạp cũ xỉn, dạy chúng tôi học. Tôi nhớ những ngày tháng 1, năm tôi lớp 7. Lúc ấy gió trời còn mạnh, và nắng thì hong hanh lắm. Tôi, với ba thằng con trai khác, ngồi trong lớp nghe thầy giảng Toán. Sơn đùa, bảo thầy sao không làm hiệu trưởng mà lại chấp nhận làm giáo viên quèn. Ôi, làm hiệu trưởng thì không quát được giáo viên đâu, còn làm giáo viên, học sinh không nghe thì tống nó ra khỏi lớp. Thầy bảo, như thế. Chúng tôi cứ cười mãi về câu nói ấy. Đến tận hai năm sau, tôi mới biết, thầy chấp nhận làm giáo viên là để dìu dắt thêm nhiều lớp học trò trước khi bước vào tuổi già.
Sau này mới biết, tình cảm thầy dành cho học sinh chúng tôi còn nhiều hơn gấp tỉ tỉ lần những thứ công danh lợi lộc tầm thường.
Năm lớp bảy, có thầy, có những kì vọng và quyết tâm từ biết bao ngày trước, tôi đạt giải Nhất toán. Biết tin, thầy chỉ cười thật tươi. Nhưng trong mắt tôi, đó là nụ cười ấm áp nhất tôi từng biết. Nụ cười ấy khiến bao mệt mỏi, khó nhọc trở về số 0. Nụ cười khiến cho tất cả học sinh an lòng. Năm ấy, có lẽ là năm tôi hạnh phúc nhất.
Không biết đã đi qua bao nhiêu ngày nắng, mưa? Chỉ biết, thầy đã đồng hành cùng chúng tôi trong suốt hai năm rưỡi. Hai năm rưỡi lọc cọc đạp chiếc xe cũ ấy, hai năm rưỡi dạy dỗ lũ học sinh lớp A nghịch như quỷ. Thầy chẳng hề than vãn lấy một lời.
Các em là lứa học sinh cuối cùng của thầy, chỉ mong dạy được thật tốt, không muốn ai bị chửi mắng cả. Thầy trả lời cho câu hỏi của tôi về việc, tại sao chúng em mất trật tự mà thầy không nhắc.
Lúc ấy, tôi không hiểu. Sau này ngẫm nghĩ lại mới ngộ ra. Hóa ra, chúng tôi chính là những kẻ vô ơn bậc nhất, không hiểu nổi tâm ý của thầy giấu trong từng con chữ.
Mười ba tuổi, chỉ biết nghịch ngợm, vô ưu vô lo. Đâu biết người thầy vẫn cặm cụi chiến đấu với tuổi già và sức khỏe, ngày ngày lên lớp dạy dỗ cho những học sinh cuối cùng trong cuộc đời dạy học của mình.
Hết học kì I năm tôi lớp 8, thầy có quyết định nghỉ hưu.
Quyết định không hề vội vã, nhưng lại gây bất ngờ trong tập thể lớp. Tất cả xôn xao, và dường như có gì đó nghẹn ở trong tim, rất lạ. Dù biết, nhưng cuối cùng vẫn đến lúc phải chia tay rồi.
Ngày chia tay, tôi tặng thầy một bó hoa kẹo mút. Chính tay dính từng bông hoa, chính tay ghim từng bó mút. Có lẽ đó là bó hoa xấu nhất tôi từng làm, nhưng cũng là bó hoa mang nhiều tình cảm nhất. Cũng là bó hoa đầu tiên tôi tặng cho sự chia ly.
Thầy nghỉ rồi...
Giáo viên mới dạy thay. Bài giảng sôi động, súc tích vô cùng. Nhưng thỉnh thoảng đột nhiên ngẩn ngơ. Vẫn ngỡ thầy còn ở đây, ngay trên bục giảng, viết những con số vốn bị chê “xấu mèm” nhưng thật rất rõ ràng. Ngỡ rằng thầy vẫn sẽ đi cùng chúng tôi qua những năm tháng còn lại. Không, không còn nữa rồi!
Đó là những tháng ngày khó khăn nhất. Không có thầy ở bên cạnh dạy dỗ, không có ai cười hiền từ động viên trong những ngày khó khăn. Năm đó, tôi tụt hạng, chỉ đạt giải Ba. Đề rất dễ. Thế mà, điểm cũng chỉ đạt “nhì non”. Lúc ấy, tôi mới biết hóa ra thầy ảnh hưởng đến tôi nhiều như thế.
Lên lớp 9, ông nội dẫn tôi xuống nhà thầy. Từ đó, tôi chính thức học thêm với thầy. Chính thức bắt đầu một năm học tuy vất vả nhưng tràn đầy niềm vui. Ngôi nhà mà chúng tôi học, cũng chính là ngôi nhà thầy đã sống suốt mấy chục năm qua. Cả một đời người vất vả chỉ có một khoảnh sân nho nhỏ để phơi nắng, một căn bếp tối, lụp xụp, cái nhà xây lợp lá cọ mát rượi trong những ngày nóng bức, và cả một cây trứng cá lúc nào cũng bị lũ học sinh nhăm nhe chọc quả. Thầy bảo, như thế đã là hạnh phúc lắm rồi.
Đôi khi tôi nghĩ thầy sống sao mà giản đơn quá. Thầy chỉ cười. Không, thế đã là quá đủ rồi. Tôi không biết đủ là gì, không biết tại sao thầy có thể hài lòng. Sau đó nhiều tháng, tôi mới được nghe thầy kể về biết bao ngày khó khăn thầy đã trải qua. Đấy là những năm tháng vất vả đến bần hàn. Thầy là sinh viên nghèo, không có đủ đồ ăn nên ốm nhom ốm nhách. Trải qua một thời khó nhọc, con người luôn có khuynh hướng hài lòng với hiện tại, dù cho hiện tại ấy chỉ hơn thời khó khăn ngày xưa một chút xíu. Chính thế, thầy sống giản dị, tiết kiệm vô cùng. Từ lúc học thêm chỗ thầy, nghe thầy nói về những điều thầy đã trải qua, bất giác tôi cũng sống tiết kiệm đi nhiều lần. Không còn phung phí tiền bạc và đồ dùng như trước đây nữa.
Người ta bị ảnh hưởng bởi những người mà được coi là quan trọng. Tôi nghĩ, tôi cũng vậy.
Đôi khi tôi nghĩ, có phải thầy đã ảnh hưởng đến tôi theo một cách đặc biệt nào đó? Nghĩ nhiều lần, rồi mới phát hiện ra, thầy chính là một hình tượng mà tôi luôn khát khao muốn vươn tới, một tượng đài vĩ đại, một người mà tôi luôn mong mỏi đạt được thành công như vậy. Không chỉ là một người thầy, thầy còn là người cha, người anh, người bạn luôn lắng nghe, luôn cho những lời khuyên bổ ích nhất khi tôi cần. Thầy không chỉ dạy tôi môn Toán, thầy còn dạy tôi cách làm người, cách sống và phấn đấu để càng ngày càng tốt đẹp hơn.
Máy quay dường như đang chậm lại, từng cảnh từng nét hiện lên rõ ràng. Tôi thấy thầy đang lụi hụi trồng rau, chăm sóc con chó lông trắng đen già khụ, thấy cả chúng tôi ngày đó, trong những ngày vất vả nhưng yên bình. Tôi nghĩ, có lẽ đó là những ngày hạnh phúc và vui vẻ nhất tôi từng có. Sau này, khi bước đi trên đường đời chông gai, có thể sẽ chẳng còn ai chỉ bảo, dạy dỗ tôi tận tình như thầy đã từng, có thể sẽ chẳng có ai lo tôi liệu có ngủ đủ giấc, liệu có stress khi nhồi nhét quá nhiều. Nhưng, cố nhân từng nói, cuộc đời chỉ cần một người khiến ta ngưỡng mộ, để cả đời noi gương, cả đời thương mến. Vậy là quá đủ rồi.
Khi viết những dòng này, tôi đã là học sinh cấp III. Không chỉ hôm nay, mà còn cả ngày mai, ngày kia, nhiều ngày sau nữa, nhất định tôi sẽ tiếp tục cố gắng. Để mỗi khi gặp ai, trò chuyện cùng ai, có thể tự hào nói, tôi, là học sinh của thầy Nguyễn Văn Tâm. Có những lúc nhớ thầy, phóng vụt xe đi, tìm về ngôi nhà nhỏ cuối phố cũ với cây trứng cá xum xuê, ngồi nghe thầy nói về những điều thầy tâm đắc, về những điều thầy mong mỏi và răn dạy tôi cho đến mãi sau này. Tìm về nơi duy nhất khiến tâm hồn thanh thản, khiến cho mọi thứ phức tạp của cuộc đời trở nên dễ dàng và trong sáng hơn.
Vẫn là những ngày mùa hạ đã cũ, tôi cảm giác như mình đang xốc ba lô lên vai, đạp cái xe đạp của mình, lao đi trong nắng vàng.
Đến nơi tràn đầy kiến thức mà tôi hằng yêu kính".
Cảm nhận của em về niềm vui lớn, lẽ sống lớn và tình cảm của Tố Hữu qua bài Từ ấy.
Câu trả lời của bạn
Chế Lan Viên từng nói "Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính... anh là con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp". Không ai khác, Chế Lan Viên đang nói đến Tố Hữu- một nhà thơ của lí tưởng cộng sản, một nhà cách mạng yêu nước. Thơ ông luôn gắn liền với cách mạng, tiêu biểu là bài thơ Từ Ấy trích tập thơ cùng tên được ông sáng tác năm 18 tuổi, năm ông ra nhập đảng với niềm vui khôn xiết:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói trong tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
"Từ ấy" là tên bài thơ, là tên tập thơ cũng là thời điểm trong đời Tố Hữu. Những năm trước cách mạng là "những ngày bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước, chọn một dòng để nước trôi" nhưng vào năm 1938, gặp đảng là lúc tìm được ánh sáng. "Từ ấy" không còn chỉ là thời điểm vô danh trôi chìm trong quên nhớ đời người mà đã trở thành thời khắc thiêng liêng không thể lãng quên phai nhạt. Vào thời khắc ấy , trong hồn thi sĩ "bừng nắng hạ" . Hình ảnh nắng hạ thật chói chang khác cái nắng nhợt nhạt của mùa xuân, cái nắng hanh của mùa thu. Những tia nắng hạ làm lá thêm xanh, hoa thêm ngát, trái thêm ngọt, đất trời thêm cao. Không những vậy, "nắng hạ" trong bài thơ cho ta nguồn sáng rất ấm, rất tươi của tinh thần, của linh hồn. Nó làm "bừng" sáng tâm hồn, bừng lên niềm vui, bừng dậy cả nguồn sống, bừng thức cả một miền kí ức thật đẹp đẽ. Ánh sáng ấy chỉ có thể là của mặt trời, đó là sự sống, hơi ấm bao la bất biến của vũ trụ. Đó là ánh sáng của "mặt trời chân lí" là ánh sáng của đảng.
Niềm vui ấy không hề dừng lại, mà ngày càng tăng lên với các hình ảnh "vườn hoa lá", "tiếng chim ca",.. mở ra cho người độc đó là khu vườn xuân tươi mới tràn ngập sắc xanh của cây, hương thơm của hoa và những tiếng chim hót ríu rít tràn đầy sức sống. Vẻ đẹp tâm hồn, niềm vui của tác giả đã thoát khỏi ước lệ tượng trưng, nó tươi sáng trẻ trung có chút bồng bột say mê của chàng trai xanh tuổi trẻ lòng. Câu thơ với kiểu định nghĩa rất mới mẻ viết bằng cảm xúc dạt dào mãnh liệt với các hình ảnh rất cụ thể khiến cho ta cảm nhận được niềm vui và say mê khi tác giả được kết nạp đảng.
Nếu khổ thơ thứ nhất cho ta cảm nhận được niềm vui, sự say mê của tác giả thì đến khổ hai chính là những nhận thức mới về lí lẽ sống:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Khổ thơ với điệp ngữ kết hợp với nhịp thơ nhanh, trôi chảy, hơi thở liền mạch, giọng thơ sôi nổi thiết tha tràn đầy nhiệt tình nhiệt huyết. Việc sử dụng động từ "buộc" thể hiện một lòng tự nguyện chan hòa lòng mình cùng mọi người, tác giả dường như muốn mình trải lòng cùng quần chúng nhân dân cần lao của bao kiếp người đau khổ. Đó là những trẻ em bán dạo, người ở, đầy tờ, những người nông dân khổ cực sớm hôm,... Tố Hữu với mong muốn đồng cảm, xót thương đoàn kết với những người dân ngoài kia mà mở hồn "trang trải" với "khối đời". Có lẽ đó là một lẽ sống lớn, tình cảm lớn với mọi người.
Tiếp tục mạch cảm xúc là những biến chuyển trong tâm hồn thi sĩ và mong muốn tột cùng hòa mình với đời:
Ta đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ
Khổ thơ cuối là sự xuất hiện của tập thể với các cụm từ chỉ số lượng lớn "vạn nhà", "vạn kiếp" "vạn đầu" và đại từ "ta", tác giả một lần nữa khẳng định tình cảm gắn bó của mình với mọi người, những người sống nghèo khổ , tuổi cao nhưng còn gánh nhiều nỗi cơ cực, những trẻ em thời ấy không có cơm ăn áo mặc, lang thang không nhà và tất cả mọi người trên thế gian này. Đây là bước chuyển từ cái tôi sang cái ta rõ rệt nhất, tình cảm thay đổi cũng bắt nguồn từ nhận thức về lẽ sống, nó ập đến trong lòng tác giả như một mối duyên , có thể nói là mối duyên giữa thi sĩ và ánh sáng chân lý của đảng. Đặt tác phẩm vào thời đại và bối cảnh bấy giờ năm 1938, thời điểm mà các nhà trí thức tiểu tư sản đang đề cao cái tôi cá nhân thì Tố Hữu đã có thể buông bỏ cái tôi để hòa mình cùng cái ta của thế gian. Điều này cho thấy sức mạnh to lớn của lí tưởng cách mạng đã cảm hóa con người, soi sáng đường đi cho họ, hướng họ về phía mặt trời.
Với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn, và chất trữ tình chính trị sâu sắc, thơ Tố Hữu đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho những thế hệ thanh niên yêu nước. Và bài thơ Từ ấy của ông truyền cho ta ngọn lửa, nhiệt huyết và khát vọng tuổi trẻ lớn lao.
Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương.
Câu trả lời của bạn
Người phụ nữ đã đi vào văn học khá nhiều và trở thành một trong những hình tượng lớn của văn chương kim cổ. Tuy nhiên viết về người phụ nữ với tư cách là một người vợ bằng tình cảm của một người chồng thì quả thật rất hiếm. Thương vợ của Tú Xương nằm trong số những trường hợp hiếm hoi đó. Bài thơ là chân dung bà Tú, người bạn đời của Tú Xương, được tái hiện bằng tất cả tấm lòng chân thành của một người chồng dành cho vợ.
Hình ảnh bà Tú hiện lên trước hết gắn liền với bao nỗi gian truân khó nhọc. Thân đàn bà chân yếu tay mềm nhưng bà Tú vẫn phải một mình làm lụng buôn bán, một mình xông pha, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ để lặn lội kiếm sống. Cái gian truân khó nhọc được cụ thể hoá bằng thời gian quanh năm, bằng không gian ven sông, quãng vắng, buổi đò đông. Nghĩa là triền miên suốt năm suốt tháng không ngơi không nghỉ, lúc nào cũng đầu tắt mặt tối. Đặt trong những không gian, thời gian trên hình ảnh bà Tú dường như lại càng trở nên nhỏ bé, cô đơn, tội nghiệp hơn. Cái vất vả nhọc nhằn còn được hiện rõ trong gánh nặng mà bà Tú phải gánh trên vai: Một gia đình với năm con và một chồng. Năm đứa con với biết bao nhu cầu, bao đòi hỏi hàng ngày, bên cạnh đó đức ông chồng giàu chữ nghĩa đã không giúp vợ được gì lại còn trở thành một mối bận tấm lo lắng của vợ, mà nhu cầu của ông chồng ấy nào có ít ỏi gì, nó đủ làm thành một phía để cân bằng với phía năm đứa con. Thế mới biết cuộc sống hằng ngày của bà Tú là như thế nào. Lo cho con, lo cho chồng, mà phải lo làm sao cho đủ tức là không thừa nhưng cũng không được thiếu. Bằng chừng ấy nỗi lo trĩu nặng trên đôi vai gầy của người vợ, người mẹ ấy. Chính vì vậy mà phải bươn chải nắng mưa khuya sớm, bất kể hiểm nguy hay đơn độc. Nói sao cho xiết những nhọc nhằn cơ cực mà bà Tú phải gánh trong suốt cuộc đời của mình. Hình ảnh bà Tú gợi cho ta nghĩ tới hình ảnh của những người đàn bà đảm đang, lam lũ, lặn lội kiếm sống nuôi chồng, nuôi con đã lặng lẽ đi qua trong cuộc sống dân tộc.
Cuộc đời nhiều gian truân vất vả đó là sự thiệt thòi của bà Tú. Thế nhưng cũng chính cuộc đời đó đã làm nổi bật bao vẻ đẹp đáng quý ở người phụ nữ này, vẻ đẹp đầu tiên là vẻ đẹp của sự tảo tần, chịu thương chịu khó. Gánh cả một gánh nặng gia đình trên vai với bao khó khăn cơ cực, lại cô đơn thui thủi một mình, không người sẻ chia giúp đỡ, ấy vậy mà vẫn cần mẫn, không một chút chểnh mảng, bỏ bê công việc. Bà Tú cứ vậy, chăm chỉ, miệt mài, chịu thương, chịu khó, không nề hà khó khăn nguy hiểm, không quản ngại nắng mưa khuya sớm. Hình ảnh thơ không chỉ diễn tả bao nỗi vất vả mà còn làm nổi bật sự nhẫn nại, kiên trì kiếm sống chu tất cho chồng, cho con của bà Tú. Diễn tả đầy đủ nhất điều này có lẽ không câu thơ nào hơn hai câu:
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông."
Con cò, thân cò là hình ảnh quen thuộc trong văn học truyền thống, là biểu tượng cho người nông dân nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Dùng hình ảnh "lặn lội thận cò", Tú Xương đã khái quát được bao phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam truyền thống mà đức tính nổi bật chính là sự tần tảo, chịu thương chịu khó.
Bà Tú còn đẹp ở sự đảm đang tháo vát, ở sự chu đáo với chồng, với con. Cảnh làm ăn kiếm sống của bà Tú thật không dễ dàng gì, nhưng không lúc nào ta thấy bà Tú bó tay chùn bước, lúc thì một mình lặn lội nơi quãng vắng, khi lại đua chen giành giật chốn đò đông. Tất cả đều để chu tất cho gia đình: nuôi đủ năm con với một chồng. Sức vóc một người đàn bà giữa thời buổi cơm cao gạo kém mà vẫn đảm bảo cho chồng cho con một cuộc sống dẫu chưa phải là sung túc nhưng không đến nỗi thiếu thốn như vậy thì quả là giỏi giang hiếm có. Đó là minh chứng cho cái tháo vát đảm đang ở bà Tú, cũng là biểu hiện thuyết phục về tấm lòng hết mực dành cho con cho chồng của người phụ nữ này.
Không chỉ có vậy, qua sự thể hiện của nhà thơ, bà Tú còn hiện lên với một đức hi sinh cao cả. Dẫu bao nhiêu khó khăn vất vả bà Tú vẫn không một lời kêu than phàn nàn, không một lời oán trách. Một mình bà âm thầm, lặng lẽ gánh trọn gánh nặng gia đình. Ngay cả khi ý thức một thực tế cay đắng trong quan hệ vợ chồng, một duyên hai nợ thì bà Tú vẫn chấp nhận tất cả sự vất vả nhọc nhằn về phía mình - Năm nắng mười mưa dám quân công. Đó là sự hi sinh quên mình, là tấm lòng vị tha hết mực của bà Tú dành cho ông Tú và những đứa con.
Được tái hiện bằng tấm lòng thương vợ chân thành, sâu sắc của Tú Xương, hình ảnh bà Tú trong bài thơ đã trở thành mội hình ảnh đẹp tiêu biểu, điển hình cho những người phụ nữ, những người vợ Việt Nam ngàn đời.
Phân tích chí làm trai trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu.
Câu trả lời của bạn
Lưu biệt khi xuất dương” khẳng định chí làm trai và quyết tâm xuất dương, làm nên sự nghiệp lớn cứu nước cứu dân. Đó là sự quyết tâm cao độ và những ý tưởng mới mẻ của nhân vật trữ tình buổi đầu ra nước ngoài tìm đường cứu nước.
Cái chí làm trai mà nhà thơ nói đến trong bài thơ trước hết là “phải lạ ở trên đời”. Đó là một lí tưởng sống, một khát vọng lớn lao. Đấng nam nhi phải làm được những việc lớn lao, phi thường, phải chủ động xoay chuyển trời đất, không để cho trời đất tự chuyển vần. Nhà thơ chuyển chữ ta thành chứ tớ . Tớ phản ánh được cái hăm hở, lạc quan, trẻ trung. Hai câu thơ trên dường như có chút ngông nghênh tự phụ nhưng thực ra là sự bộc lộ sâu sắc về cái tôi cá nhân tích cực. Cái tôi này chẳng những khẳng định trách nhiệm đối với hiện tại, với vận mệnh hôm nay của đất nước mà còn khẳng định nghĩa vụ với lịch sử. Đó là tư thế của người có chí khí lớn, muốn vươn tới những đỉnh cao của lịch sử.
Cái chí làm trai mà cụ Phan nói trong bài thơ chắc chắn khiến chúng ta thấy cảm phục về những con người sống ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với lịch sử.
Mỗi con người sống là phải gắn liền với đất nước, dân tộc, biết sống chết cùng dân tộc. Rõ ràng nhân vật trữ tình tuy đang nói về mình nhưng thực chất là tiếng nói đại diện cho cả một tầng lớp, một thế hệ và cao hơn là cả dân tộc. Cách nhìn nhận, suy nghĩ của tác giả là hướng về tương lai phía trước chứ không phải là lối sống hoài niệm. Đây cũng chính là một điểm rất tiến bộ mà thông qua bài thơ chúng ta không chỉ cảm nhận được ý nghĩa của chúng mà còn học tập được vào thực tế cuộc sống của mình. Lời thơ kết của bài thơ với hai câu tuyệt đẹp, đầy cảm hứng lãng mạn. Con đại bàng đã tung cánh bay ra biển khơi, bay vào thời đại “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”.
Bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bằng chữ Hán, với giọng thơ trang nghiêm hào hùng mạnh mẽ, lôi cuốn đã toát lên một chí lớn phi thường không cam tâm làm nô lệ, quyết đi tìm đường cứu nước. Đó không còn là lời nói mà đã biến thành hành động vượt bể Đông của ông. Bài thơ là một khúc anh hùng ca kêu gọi lên đường cứu nước mang giá trị khích lệ động viên, tuyên truyền cách mạng không chỉ đối với thế hệ thanh niên ở giai đoạn đó mà còn là lời nhắn nhủ chung đối với thanh niên các thế hệ sau.
Phan Bội Châu (1867 – 1940) là lãnh tụ kiệt xuất của các phong trào Duy Tân, Đông Việt Nam quang phục hội đầu thế kiX. Ông là “bậc anh hùng, vị thiên sứ, được 25 triệu đồng bào tôn kính” (Nguyễn Ái Quốc). Cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng hết lời ca ngợi Phan Bội Châu: “Miệng giọng cuốc vạch trời kêu giật một – giữa tầng không mù cuốn mây tan – tay ngòi lông vỗ án múa chầu ba – đầy mặt giấy mưa tuôn sấm nổ.”
Năm 1905, mở đầu phong trào Phan Bội Châu xuất dương sang Trung Quốc, Nhật Bản tìm đường cứu nước. Trong không khí chia tay với các đồng chí trong Hội Duy Tân, Phan Bội Châu sáng tác bài “Xuất dương lưu biệt” (Lời để lại khi chia tay để ra nước ngoài) bằng chữ Hán.
Mở đầu bài thơ, tác giả nêu lên quan niệm về chí nam nhi: “Sinh vi nam tử yếu vi kỳ, Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”. Tôn Quang Phiệt dịch là:
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
Phan Bội Châu nêu lên quan niệm về chí làm trai mà các nhà nho trứ danh đều đồng tình. Nguyễn Công Trứ, trong bài thơ “Chí nam nhi” cũng từng nói: “Thông minh nhất nam tử, Yếu vi thiên hạ kỳ”. Làm đấng nam nhi trên đời này phải làm điều kì lạ, kỳ tích để giúp đời, giúp dân, giúp nước. Làm trai là phải tung hoành ngang dọc, dời non lấp bể:
“Há để càn khôn tự chuyển dời”
Phải là bậc hào kiệt trên đời này thì mới phát ngôn như vậy. Nội lực mạnh mẽ phi thường. Con người muốn tham gia vào sự vận động của vũ trụ. “Há để càn khôn tự chuyển dời” là câu hỏi tu từ vừa khẳng định vừa muốn đối thoại với hết thảy các đấng mày râu trên đời này. Nhận thức về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ về sự tác động của con người đối với vũ trụ như vậy thật là tích cực, thật là cách mạng. Câu thơ làm thức dậy nội lực của mỗi con người để họ tham gia cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Sau khi tỏ bày quan niệm về chí nam nhi, về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, tác giả nói về trách nhiệm của chính mình với thời đại của mình: “Ư bách niên trung tu hữu ngã, Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”. Hai câu thơ đó được Tôn Quang Phiệt dịch là:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?”
Trong một nền văn học phi ngã (tôi) mà hiện lên một chữ “ngã” sừng sững, phải nói là “kì” (lạ)!
“Ư bách niên trung tu hữu ngã”
Nhận thức về sự hiện hữu của cái “tôi”, trách nhiệm của cái “tôi” đối với thời đại như vậy chẳng khác nào một ngọn lửa giữa đêm đông, một cây tùng giữa băng tuyết. Không phải là cái “tôi” hưởng lạc mà là cái “tôi” hành động, cái “tôi” tham gia vào sự “chuyển dời” của “càn khôn”. “Giữa cuộc sống tối tăm của đất nước lúc đó, có được một ý thức về cái “tôi” như thể, quả là cứng cỏi, là đẹp vô cùng, cũng như có được một ý thức lưu danh thiên cổ bằng sự cứu nước quả là cần thiết, là cao cả vô cùng” (Nguyễn Đình Chú).
Còn mối quan hệ giữa con người với muôn thuở thì tác giả lại đặt ra câu hỏi “Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy?” (Sau này muôn thuở há không ai?) Hỏi nhưng thật ra là để khẳng định. Tác giả có niềm tin vào chính mình, lại càng có niềm tin vào cộng đồng, vào dân tộc. Thơ Phan Bội Châu xói vào tâm can người ta, kích thích vào ý thức trách nhiệm của mỗi con người, giục giã con người hành động, chuyển dời tự nhiên, chuyển dời xã hội. Đấy chính là thơ của một nhà cách mạng.
Sang hai câu luận, tác giả càng riết róng hơn về mối quan hệ giữa con người với non sông đất nước, giữa cuộc sống thực tại với sách vở của thánh hiền:
“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”
(Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.)
Tác giả sử dụng thủ pháp nhân hóa “non sông đã chết” khiến ta cảm thấy “giang sơn” (non sông) như một sinh mệnh, thật đau lòng.
“Non sông đã chết sống thêm nhục”
Nhiều nhà Nho thức thời cũng đã nói lên nỗi nhục mất nước, nhưng chưa có nhà Nho nào nói một cách triệt để, thống thiết như vậy. Đem sự sống chết của cá nhân mà gắn liền với sự vinh nhục của non sông đất nước thì không còn nghi ngờ gì nữa, Phan Bội Châu là nhà ái quốc vĩ đại.
Sách vở của thánh hiền cũng chẳng rửa được vết nhơ nô lệ:
“Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”
Câu thơ nguyên tác trực cảm mãnh liệt hơn “Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”, (Hiền thánh đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi). Viết như vậy thì đúng như cụ Huỳnh Thúc Kháng nói “đầy mặt giấy mưa tuôn sấm nổ”. Không nên hiểu là cụ Phan phủ định sách của thánh hiền, mà nên hiểu cụ Phan đã hành cái đạo của thánh hiền một cách sáng suốt, cái sáng suốt của một nhà cách mạng. Mà có ông Khổng, ông Mạnh, ông Lão nào dạy các đệ tử ngồi “tụng” sách của quý vị trong khi nước mất dân nô lệ đâu?
Tóm lại, từ quan niệm sống “ư bách niên trung tu hữu ngã”, trong hai câu luận, tác giả tự dồn mình vào cái thế phải xuất dương cứu nước.
Hai câu kết, tác giả thể hiện trọn vẹn chủ đề “xuất dương lưu biệt”
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”,
(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).
Hình ảnh đẹp, lãng mạn. “Muốn vượt biển Đông theo cánh gió”, không gian rộng lớn của biển Đông sánh với chí lớn của nhà cách mạng. Câu thơ dịch hay, xứng với tinh thần của nguyên tác. Nhưng câu kết “Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” thì được cái tình của non nước đối với người ra đi, chứ không sát với nguyên tác.
“Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”
(Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên)
Hình tượng thơ làm hiển hiện trước mắt ta hàng ngàn đợt sóng sôi réo trắng xóa, lạ là không vỗ vào bờ mà “nhất tề phi” (cũng bay lên). Hình tượng vừa kì vĩ vừa thơ mộng thể hiện được tinh thần phơi phới, nhiệt huyết, thăng hoa của nhà thơ mà cũng là nhà cách mạng.
Muốn hiểu được nhà ái quốc vĩ đại Phan Bội Châu mà chưa đọc được hàng ngàn trang trước tác của cụ thì tốt hơn hết là đọc bài thơ “Xuất dương lưu biệt”. Một bài thơ nhỏ cũng cho ta thấy được chí nam nhi của người anh hùng, thấy được chí lớn muốn dời non lấp bể, thấy được ý thức trách nhiệm của cái “tôi” đối với lịch sử, với dân tộc, thấy được quan niệm sống chết, vinh nhục, thấy được hoài bão lớn lao của một nhà chi sĩ muốn cứu dân cứu nước.
“Mượn Đông du thăm hỏi bạn đồng tâm, Hương Cảng, Hoành Tân, lỏi len đường mới.
Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cầm quyền trông gió cũng gai ghê.
Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, của dân chủ khêu đèn thêm sáng chói.”
Đấy là mấy dòng Phan Bội Châu viết về Phan Châu Trinh, nhưng ta thấy hình ảnh của cả hai cụ Phan, hai tâm hồn yêu nước lừng danh trong lịch sử đấu tranh của dân tộc, giai đoạn đầu của thế kỉ này.
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ này là những năm đầu thế kỷ XX, đất nước ta đã mất chủ quyền, hoàn toàn lọt vào tay thực dân Pháp. Tiếng trống, tiếng mõ Cần Vương đã tắt, báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. Phan Bội Châu lúc này mới ba mươi tám tuổi, là hình ảnh tiêu biểu của một thế hệ cách mạng mới, quyết tâm vượt mình, bỏ qua mớ giáo lý đã quá lỗi thời của đạo Khổng để đón nhận tư tưởng tiên phong trong giai đoạn, mong tìm ra bước đi mới cho dân tộc, nhằm tự giải phóng mình. Phong trào Đông du được nhóm lên cùng với bao nhiêu hy vọng…
Bài thơ đã thể hiện rất sinh động tư thế, ý nghĩ của Phan Bội Châu trong buổi xuất dương tìm đường cứu nước. Hai câu đề nói rõ nhận thức của nhà thơ về chí làm trai – một nhận thức làm cơ sở cho mọi hành động:
Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Thực ra chí làm trai chẳng phải đến bây giờ mới được Phan Bội Châu khẳng định. Trước đó, trong thơ trung đại, ta vẫn thấy Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Công Trứ nhắc đến (ở các bài Thuật hoài, Chí nam nhi). Nhưng điều đó không có nghĩa là ở bài thơ của Phan Bội Châu, lý tưởng nhân sinh kia đã mất đi sự mới lạ, thôi thúc. Nó chính là điều nung nấu bao năm của tác giả bây giờ được nói ra, trước hết như lời tự vấn, tự nhủ, tự mình nâng cao tinh thần mình: đã làm trai là phải làm nên chuyện lạ, đó là trời đất không để “tự chuyển dời”. Đây là một tư tưởng táo bạo, cách mạng đối với người xuất thân từ cửa Khổng sân Trình trong thời điểm ấy. Với hai câu thực, nhà thơ tiếp tục khẳng định tư thế của kẻ làm trai giữa vũ trụ và trong cuộc đời:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?
Ý thức về cái “tôi” đã hiện lên rõ ràng, không rụt rè, dè dặt. Đó là nhân vật trữ tình đang tự đứng giữa cuộc đời một cách can đảm, do ý thức được sứ mệnh của mình trong lịch sử và cũng do sự thôi thúc của khát vọng lập công danh. Hai câu luận nói về sự thực nhức nhối:
Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
Đến hai câu này, ta cũng thấy nổi lên ý chí làm trai với khát vọng lưu danh theo một nội dung mới, đó là ý thức về non sông đã mất chủ quyền, “hiền thánh” thần tượng một thuở giờ còn đâu nữa. Hai câu thơ nhận định thực trạng lịch sử bằng một cái nhìn dứt khoát. “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài” – đây quả là một câu thơ thể hiện khí thế sục sôi của Phan Bội Châu, cho thấy cái nhìn tỉnh táo của ông về thời cuộc.
Hai câu kết của bài thơ có cái khí thế gân guốc và ý thức được sự ra đi một cách sôi trào, đầy dũng khí:
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
“Vượt biển Đông” là cách nói có vẻ khoa trương nhưng đó là hành động sắp diễn ra. Người ra đi trong niềm hứng khởi vô biên “muôn trùng sóng bạc” tiễn chân như một yếu tố kích thích. Đó chính là bạn đồng hành trong cuộc ra đi hùng tráng này.
Xuất dương lưu biệt là một khúc hát lên đường. Đề tài có tính chất truyền thống, nhưng tư tưởng lại rất mới mẻ. Bài thơ mang âm hưởng lạc quan nên đã khiến cho cảm xúc thể hiện trong bài thơ có chiều sâu, có sức gợi cảm mạnh mẽ. Đây là tráng ca của một vị anh hùng mà suốt đời không hề biết mệt mỏi trong hành động cứu nước thương dân
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách Lê Hữu Trác qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh.
Câu trả lời của bạn
Lê Hữu Trác được biết đến là một danh y bậc nhất của thời trung đại. Ông không chỉ là một thầy thuốc giỏi mà còn là một nhà văn, nhà thơ tài ba. Tác phẩm nổi bật nhất ông để lại là “Thượng kinh kí sự”, với ngòi bút miêu tả sắc sảo, không chỉ phơi bày hiện thực cuộc sống xa hoa, tráng lệ nơi phủ chúa, mà đằng sau đó ta có thấy sáng lên tấm lòng, nhân đức cao đẹp của một con người đại tài.
“Thượng kinh kí sự” là tập kí sự được viết bằng chữ Hán, hoàn thành năm 1783. Tác phẩm ra đời nhân sự kiện chúa Trịnh Sâm cho mời Lê Hữu Trác ra kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm này đã phơi bày quang cảnh kinh đô, cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa quyền uy, đầy thế lực. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” tuy chỉ là một trích đoạn ngắn ngủi nhưng đã phần nào nói lên nhân cách, vẻ đẹp trong tâm hồn tác giả: Coi thường lợi danh và là người thầy thuốc lương thiện, có y đức.
Khi đang ở quê nhà Hương Sơn – Hà Tĩnh, sáng sớm tinh mơ đã có người đến gõ cửa rất gấp triệu ông vào cung bắt mạch, kê đơn, chữa bệnh cho thế tử Cán, ông ăn vận chỉnh tề và theo họ đến kinh đô. Trước khung cảnh phủ chúa nguy nga, sa hoa khiến cho một người vốn “con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết” cũng phải ngỡ ngàng “bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của phủ chúa thực khác hẳn người thường”. Những gì ông thấy trên đường vào nơi thâm cung khiến ông không khỏi ngỡ ngàng, với cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, trăm hoa đua sắc ở khắp mọi nơi, quang cảnh thực khác thường. Không phải ngẫu nhiên mà Lê Hữu Trác lại có nhã hứng ngâm thơ, mà qua những vần thơ ấy ông thể hiện sự giàu sang khác thường, một điềm báo chẳng lành ở nơi phủ chúa: Cả trời nam sang nhất là đây. Bao nhiêu cổ vật, chân cầm dị thú đều tập trung cả ở nhà phủ chúa, khiến cho những con người “quê mùa” như tác giả không khỏi ngỡ ngàng:
“Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào”.
Sự ngỡ ngàng, bất ngờ đó ngày một tăng lên khi ông đi sâu vào trong phủ chúa, những cái điếm lớn, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách xinh đẹp, hay những cái cây và hòn đá lạ lùng mà nhân gian chưa từng gặp đều tụ hội ở nơi phủ chúa. Những đồ vật được dùng trong phủ chúa đều là những đồ vật giá trị, sơn son thếp vàng: đồ nghi trượng, sập, võng điều,… cung cách sinh hoạt hết sức xa hoa. Nhìn những đồ vật đó tác giả “chỉ dám ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Hành động đó cho thấy tính cách coi thường danh lợi của tác giả. Trước sự sa hoa, quyền quý ở nơi phủ chúa ông không sợ hãi, không ham mê mà coi thường tất cả phường danh lợi đó. Ta có thể thấy trong đoạn trích này, giọng điệu mỉa mai, châm biếm của tác giả được ẩn giấu rất kĩ lưỡng, đó chỉ là cái cười khểnh rất nhẹ, rất kín đáo mà ta khó lòng nhận ra. Những lời nhận xét, bình luận mà dường như không phải: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường” hay “Tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Qua các lời nhận xét đó đã cho thấy thái độ coi thường danh lợi, một cách rất kín đáo Lê Hữu Trác đã cho người đọc thấy được cốt cách cao đẹp của bản thân.
Không chỉ vậy, ông còn là một người thẳng thắn, không sợ uy quyền. Trước khi trả lời câu hỏi của Quan Chánh đường, Lê Hữu Trác đã được quan Chánh đường rào đón trước về cách chữa bệnh nên “dùng thứ thuốc công phạt” để tác giả liệu điều kê thuốc theo đúng ý quan Chánh đường. Nhưng trước những lời nói đó, Lê Hữu Trác không hề sợ hãi, bằng sự chuẩn đoán của bản thân, ông vẫn kê đơn thuốc theo những gì mình cho là tốt nhất cho người bệnh: “Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên….”. Sự bộc trực, thẳng thắn này một phần xuất phát từ sự coi thường danh lợi của tác giả, đồng thời cũng là từ tấm lòng y đức, lương thiện của ông.
Bên cạnh đó, qua đoạn trích này ta còn thấy Lê Hữu Trác là một người thầy thuốc có y đức, có lương tâm với người bệnh. Vốn không cầu danh lợi, ông rời xa chốn kinh thành về tận Hương Sơn – Hà Tĩnh để bốc thuốc chữa bệnh cho người dân, khi được triệu vào cung chữa bệnh ông cũng mang hết tài năng và kiến thức của bản thân để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Nhưng sau khi khám xong, trong ông bị hai mâu thuẫn giằng xé, là chữa bệnh hay không chữa bệnh cho thế tử. Nếu chữa bệnh khỏi cho thế tử lại sợ “mình không ở lâu, nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không sao về núi được nữa. Chi bằng ta cứ dùng thứ phương thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”. Nếu làm như vậy ông sẽ được thỏa mãn cái thú điền viên, được chữa bệnh cho người nghèo và không bị phường lợi danh cuốn vào. Nhưng với y đức vốn có của một người thầy thuốc liệu ông có thể làm được như vậy hay không? Rất nhanh sau đó ông đã tự đưa ra câu trả lời cho chính mình: “Cha ông mình đời đời chịu ơn của nước, ta phải dốc hết cả lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Trước hết ông đưa ra lý do muốn tiếp nối lòng trung của cha ông, tổ tiên để không phụ lại công ơn cha ông để lại, nhưng đằng sau đó còn là cả tấm lòng, là cả nhân cách y đức sáng ngời của ông. Trước người bệnh, không kể đó là ai ông chỉ có một lòng chữa và giúp họ khỏi bệnh. Tấm lòng cao cả, y đức hơn người đó đã giúp ông chiến thắng những mong muốn, nhu cầu của bản thân. Lê Hữu Trác quả là con người giàu lòng y đức và thương người.
Chỉ trong một trích đoạn ngắn, nhưng người đọc đã phần nào thấy được vẻ đẹp nhân cách và tâm hồn của Lê Hữu Trác. Ông là người coi thường danh lợi, phú quý, là một vị lương y tài giỏi, nhân đức.
Nghị luận văn học về tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và niềm băn khoăn của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng.
Câu trả lời của bạn
Ngay từ buổi đầu bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu dường như đã tự chọn cho mình một lẽ sống: sống để yêu và tôn thờ Tình yêu! Phụng sự bằng trái tim yêu nồng cháy, bằng cuộc sống say mê và bằng việc "hăm hở" làm thơ tình! Nhắc đến Xuân Diệu, sẽ thật là thiếu sót nếu không kể tên "Vội vàng", "Đây mùa thu tới", và "Thơ duyên" trong tuyển tập "Thơ thơ" - đứa con đầu lòng mà "ông hoàng thơ tình" đã ban tặng cho nhân gian. Như một cái chạm tay khẽ nhẹ vào tâm hồn những người yêu thơ, thơ Xuân Diệu nhẹ nhàng và tinh tế như chính tác giả của nó, để lại trong tâm hồn người đọc một ấn tượng đậm nết và thật khó phôi pha về sự phóng túng, giàu có mà hết sức tinh tế trong đời sống nội tâm, tâm của hồn của cái "TÔI" trữ tình Xuân Diệu. Thơ Xuân Diệu như một khúc tình si say đắm ngọt ngào...thật đến từng hơi thở!
Những vẻ đẹp của mùa xuân đâu chỉ của riêng Xuân Diệu. Từ nghìn năm tước, các bậc tiền bối đã có những vần thơ tràn trề về tình yêu đói với mùa xuân và cuộc sống. Nhưng yêu đến mức có những ham muốn táo bạo và khác thường như Xuân Diệu, đó là điều thật mới mẻ, thật mãnh liệt. Đặc biệt là cái cách nói của nhà thơ. Trong thơ ca trung đại, nét nổi bật là tính phi ngã, cái tôi trữ tình thường ẩn náu sau những hình tượng thiên nhiên. Trong khi đó, Xuân Diệu bộc lộ ý thức về cái tôi trữ tình thật táo bạo:
"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi."
Nói Xuân Diệu là một nhà thơ mới, quả không sai! Nếu như trong thơ ca của những thi sĩ lãng mạn ngày xưa, thiên đường là chốn bồng lai tiên cảnh, là nơi mây gió trăng hoa, thì trong quan niệm thơ của Xuân Diệu, cuộc sống trần gian mới thực là nơi hạnh phúc nhất, là nơi xinh đẹp và căng mọng nhựa sống nhất! Thơ lãng mạn của ông luôn có một niềm say mê ngoại giới, khác giới, một niềm khát khao giao cảm với đời, một lòng ham sống mãnh liệt đến tràn đầy. Dường như lòng yêu đời, yêu cuộc sống của ông đã biến cái ham muốn "tắt nắng", "buộc gió" trở nên quá táo bạo, đến độ lo âu trước sự thay đổi của đất trời, cảnh vật… muốn ôm tất cả, muốn giữ lại tất cả thiên nhiên với vẻ đẹp vốn có của nó. Ước muốn níu giữ thời gian, chặn vòng quay của vũ trụ,đảo ngược quy luật tự nhiên, phải chăng là ông đang muốn đoạt quyền tạo hóa. Nhưng trong cái phi lí đó, vẫn có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn yêu cuộc sống. Với ông, sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kỳ diệu, sống là để tận hưởng và tận hiến. Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận như một thiên đường trên mặt đất, một bữa tiệc lớn của trần gian. Nhà thơ đã cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong "Vột vàng" vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khêu gợi.
Có ai đó đã nói rằng: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mây trời thanh sắc”:
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si."
Đó là niềm vui sướng của trái tim thi sĩ trẻ lần đầu tiên phát hiện ra 1 thiên dường trên mặt đất.Nếu thơ xưa, các nhà thơ chỉ sử dung thính giác và thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các thi sĩ thời Thơ mới lại huy động tất cả các giác quan từ nhiều góc độ để cảm nhân vẻ đẹp và sự quyến rũ đắm say hồn người của cảnh vật và đất trời lúc xuân sang. Trong đoạn thơ, điệp ngữ "này đây" được sử dụng 5 lần kết hợp với lối kiệt kê khiến nhịp thơ trở nên dồn dập, là một sự chỉ trỏ ngơ ngác, ngạc nhiên, lạ lẫm, như một tiếng reo vui sướng tột cùng để rồi chìm ngập đắm say trước trùng trùng điệp: Của ong bướm tuần tháng “mật” ngọt ngào, nào là hoa của đồng nội xanh “rì”, nào là lá của cành tơ “phơ phất”, của yến anh là khúc tình “si”; thể hiện sự phong phú bất tận của thiên nhiên. Tất cả mọi giác quan của thi sĩ như rung lên, căng ra mà đón nhận tất cả, cảm nhận tất cả. Sự sống ngồn ngột đang phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu như một sự gợi mở hấp dẫn đến lạ kì, một sự mời mọc mà thiên nhiên là những "món ăn" có sẵn. Những vẻ đẹp được liệt kê bằng những tính từ đậm nhạt khác nhau để thể hiện tài năng sử dụng từ ngữ của Xuân Diệu - cảnh vật trong thơ ông đã trở nên cuộn trào sắc màu, cuộn trào sức sống. Sự vật bình thường ở ngoài đời cũng được đặt cho một dáng vẻ rất kiêu, rất hãnh diện, được trực tiếp nhận ánh sáng rực rỡ của lòng yêu cuộc sống từ hồn thơ Xuân Diệu đã trở nên lung linh, đẹp đẽ, là biểu tượng của mùa xuân và tuổi trẻ ở giữa cuộc đời! Thi pháp hiện đại đã chắp cánh cho những cảm giác mới mẻ của Xuân Diệu, giúp nhà thơ diễn tả trạng thái hồn nhiên, bồng bột trước cái sắc xuân trong cảnh vật, trong đất trời và của muôn loài. Cách ngắt nhịp trong đoạn thơ đầy linh hoạt, biến hoá (3/2/3 và 3/5). Đặc biệt là những hình ảnh, những khung cảnh được miêu tả thật cụ thể, in đậm phong cách Xuân Diệu: tuần tháng mật, đồng nội xanh rì ... tất cả tràn trề sự sống và thật đắm say!
“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân."
Chưa bao giờ trong thơ Việt Nam hình ảnh mặt trời - vầng thái dương lại hiện ra dịu dàng, tình tứ và lãng mạn đến thế. Với Xuân Diệu, mỗi ngày được sống, được nhìn thấy mặt trời, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày vui. Hình ảnh "thần vui hằng gõ cửa" gợi những liên tưởng gần gũi với hình tượng mặt trời trong thần thoại hy lạp xưa. Niềm vui sướng trong tâm hồn nhà thơ dâng tràn khiến ngòi bút của Xuân Diệu thật sự xuất thần và thi sĩ đã sáng tạo nên 1 câu thơ tuyệt bút:"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần". Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu. Nhà thơ đem lại một khái niệm vốn trừu tượng thuộc về thời gian "tháng giêng" so sánh với một hình ảnh vốn cụ thể, mang tính nhục cảm. Nhưng sao câu thơ Xuân Diệu vẫn tinh khôi, vẹn nguyên, trong sáng, lại gần gũi và trẻ trung đến thế. Cái mới trong thơ tình Xuân Diệu là thế! Đó là sư kết hợp hài hoà giữa tâm hồn và thể xác khiến tình yêu thăng hoa. Đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc, tâm hồn nhà thơ trỗi lên nỗi âu lo trước cái mong manh của xuân sắc sẽ phai tàn, sự đan xen hai luồng cảm xúc trái ngược là điều thường gặp trong thơ tình Xuân Diệu. Nó dẫn nhà thơ đến những suy tư và quan niệm nhân sinh mang tính triết lý. Thi nhân nhận ra cái quy luật khắc nghiệt của dòng chảy thời gian: "tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ lụi tàn ..." Hai tâm trạng trái ngược nhưng dồn nén trong dòng thơ "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa". Về hình thức, đây là một cấu trúc độc đáo bởi nó ngắt thành 2 câu chứa đựng 2 tâm trạng, 2 cảm xúc trái ngược nhau: sung sướng-vội vàng. Nhưng điều mà Xuân Diệu muốn diễn tả là "vội vàng một nửa". Thường thì con người ở tuổi trung niên mới tiếc tuổi xuân. Ở đây Xuân Diệu đang xuân, đang quá đỗi trẻ trung mà đã nuối tiếc, đã vội càng "Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân." Vì sao vậy? Bởi với Xuân Diệu:
"Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua.
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hòan,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,"
Nhưng quan niệm của Xuân Diệu vừa phi lí, vừa hợp lí, vừa quen lại vừa lạ. Quen vì người xưa đã từng thở dài "xuất thì bất tái lai". Và là bởi đó là tiếng nói của một cái tôi ham sống, coi mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu là tất cả sự sống của mình. Biết rằng mùa xuân của đất trời vẫn tuần hoàn nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, thi sĩ bâng khuâng, tiếc nuối ... Mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như cũng mang theo nỗi buồn “chia phôi”, hoặc “tiễn biệt”, phải “hờn” vì xa cách, phải “sợ” vì “độ phai tàn sắp sửa”. Cũng là “gió”, là “chim”… nhưng gió khẽ “thì thào” vì “hờn”, còn “chim” thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì “sợ”! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lý giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian: "Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?" Con người hiện đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn... Trái tim Xuân Diệu đa cảm quá và tâm hồn nhà thơ quá đỗi tinh tế trước bước đi của thời gian. Con người ấy lúc nào cũng "chẳng bao giờ nữa..." Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hoá làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
Trong đoạn thơ này, cái giọng điệu sôi nổi, bồng bột, đắm say của Xuân Diệu thời "thơ thơ" thể hiện đầy đủ nhất. Những câu thơ chứa đựng cả giọng nói háo hức và nhịp đập của một con tim vồ vập muốn sống hết mình. Con tim ấy của một cái tôi trữ tình từng bộc bạch một cách chân thành. "Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ - mà vạn vật là muôn đá nam châm." Từng làn sóng ngôn từ lúc đan chéo nhau, lúc lại song song thành những đợt sóng ào ạt vỗ mãi vào tâm hồn người đọc. So với đoạn thơ trên, cách tự xưng của nhân vật trữ tình thay đổi. Phần đầu bài thơ, thi sĩ xưng "tôi" - cái tôi đơn lẻ đang đối thoại với đồng loại. Đến đây, thi sĩ xưng ta một cách đầy tự tin nhưng đã có thêm rất nhiều đồng minh cùng đứng lên đối diện với sự sống: "Chẳng bao giờ, ôi!
“Chẳng bao giờ nữa. -
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,"
"Ta muốn ôm.
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!"
Hình thức trình bày đoạn thơ rất đặc biệt, thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả. Ba chữ "Ta muốn ôm" được đặt ở giữa dòng thơ mô phỏng hình ảnh nhân vật trữ tình đang dang rộng vòng tay để ôm tất cả sự sống lúc xuân thì - sự sống giữa thời tươi vào lòng. Đó là chân dung của một cái tôi đầy tham lam, ham hố đang đứng giữa trần gian, cuộc đời, dòng đời để ôm cho hết, riết cho chặt, cho say, cho chếnh choáng, thâu cho đã đầy, cho no nê, cho tới tận cùng những hương sắc của đất trời giữa mùa xuân... Tất thảy đều vồ vập, khát khao đến cháy bỏng với các mong muốn được giao hoà, giao cảm mãnh liệt với vạn vật, với cuộc đời. Đây quả là một khát khao vô biên, tuyệt đích, rất tiêu biểu cho cảm xúc thơ Xuân Diệu. Điệp từ, điệp ngữ được sử dụng bới tần số dày đặc trong cả đoạn thơ tiêu biểu cho nhịp điệu dồn dập, đầy bồng bột, đắm say. Chính những câu thơ đó lưu lại trong ta ấn tượng về một dòng sông cảm xúc cứ dâng trào, ào ạt từ câu mở đầu cho đến câu cuối cùng bài thơ. Chỉ riêng điệp ngữ ta muốn được điệp tới bốn lần, mỗi lần điệp đi điệp lại liền với một động từ diễn tả một trạng trái yêu thương mỗi lúc một nồng nàn, say đắm: ôm, riết, say, thâu. Đó chính là đỉnh điểm của cảm xúc bồng bột, sôi nổi và đắm say khiến nhà thơ phá tung những quan niệm của thi pháp trung đại để biểu lộ tâm hồn mình trong một cách nói tưởng như vô nghĩa mà hoá ra rất sáng tạo "Và non nước, và cây, và cỏ rạng." Một trạng thái tham lam, ham hố không có điểm tận cùng trong tâm hồn nhà thơ. Tròn cảm nhận của thi nhân, cuộc đời trần thế như bày ra cả một bàn tiệc với tất cả hình ảnh của cuộc sống tươi non, đầy hương sắc. Nhà thơ diễn tả thiên nhiên bằng các mĩ từ, lại nhân hoá khiến nó hiện ra như con người có hình hài và mang dang dấp của tuổi xuân. Câu cuối cùng kết thúc cả bài thơ:" Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi." Đây là lời gọi thiết tha với sự cuồng nhiệt cao độ của 1 trái tim khao khát tình yêu và cuộc sống. Trong hồn thơ Xuân Diệu, mùa xuân - tuổi xuân ngon lành và quyến rũ như một trái chín ửng hồng, như mời mọc. Trong câu thơ này, hình ảnh xuân hồng với từ "cắn" khiến câu thơ thật gợi cảm xen chút giật mình trước tứ thơ thật độc đáo, diễn tả niềm khao khát giao cảm mãnh liệt, sự ham hố cuồng nhiệt của Xuân Diệu mãi mãi là khát vọng, là ham muốn không có giới hạn.
Với bài thơ "Vội vàng", Xuân Diệu đã phả vào nền thi ca Việt Nam một trào lưu "Thơ mới". Mới lạ nhưng táo bạo, độc đáo ở giọng điệu và cách dùng từ, ngắt nhịp, nhất là cách cảm nhận cuộc sống bằng tất cả các giác quan, với một trái tim chan chứa tình yêu. "Vội vàng" đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đó là lòng yêu con người, yêu cuộc đời. Đó là tình yêu cảnh vật, yêu mùa xuân và tuổi trẻ... Và là ham muốn mãnh liệt muốn níu giữ thời gian, muốn tận hưởng vị ngọt ngào của cảnh sắc đất trời "tươi non mơn mởn". Phải chăng trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này, là để ca hát về tình yêu, để nhảy múa trong những điệu nhạc tình si?! Thơ Xuân Diệu - vội vã với nhịp đập của thời gian.
Phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu.
Câu trả lời của bạn
Thơ mới trong tiến trình phát triển của nó, là kết quả của hành trình đi tìm kiếm và khẳng định cái tôi. Thời đại ấy chúng ta đã chứng kiến nhiều cái tôi độc đáo như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Huy Cận,… Nhưng nếu phải chọn ra những cái tôi đặc biệt thì không thể không nhắc tới Xuân Diệu – cái tôi “rạo rực, thiết tha” luôn “khát khao giao cảm với đời” song cũng đầy băn khoăn, lo sợ trước sự trôi chảy của thời gian. Bài thơ Vội vàng đã ghi lại dấu ấn về một cái tôi như thế!
Đến thời điểm, năm 1938 khi mà Vội vàng ra đời, cái tôi trong thơ chẳng còn lạ lẫm nữa và ngay cả Xuân Diệu cũng đã khẳng định được cho mình một cái tôi độc đáo trên văn đàn. Trước hết, đó là một cái tôi yêu đời, yêu cuộc sống, yêu con người rất mãnh liệt. Ngay mở đầu bài thơ ông đã thẳng thắn, trực tiếp bộc lộ:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất.
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Cái tôi ấy đã bắt đầu bằng hai ước muốn vô cùng táo bạo và phi lí. Đó là muốn đoạt quyền của tạo hóa để giữ màu đừng nhạt, hương đừng bay. Sự táo bạo ở chỗ, nhà thơ như muốn can thiệp vào quy luật của tự nhiên để ngưng đọng thời gian, để giữ lại tất thảy những gì thuộc về cuộc sống bên mình. Đó là điều không tưởng. Chính bởi thế, người ta mới thấy tôi chất chứa một tình yêu cháy bỏng với cuộc đời. Hẳn phải yêu tha thiết lắm mới có ước muốn ngông cuồng, phi lí đến vậy hay là bởi sợ thời gian trôi sẽ cuốn nó đi mất nên mới ao ước khác thường như thế? Có lẽ cả hai. Bởi Xuân Diệu luôn yêu đời, yêu cuộc sống nhưng cũng rất hay lo sợ, ám ảnh vì nó sẽ không tồn tại mãi. Thế nên, chỉ còn cách sống vội vàng mới làm được điều ấy. Những dòng thơ năm chữ ngắn gọn như dồn nén cảm xúc đã mở đầu cho màn đối thoại về lí do cho sự sống vội vàng. Để sang khổ thứ hai, giọng thơ, thể thơ thay đổi là bước đầu lí giải cho điều ấy.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
…
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Một bức tranh thiên nhiên, cuộc sống tràn ngập hương sắc, mùi vị hiện ra trước mặt người đọc. Những ong bướm, hoa đồng nội, lá cành tơ, yến anh, ánh sáng, tháng giêng… những thứ bình dị, gần gũi bỗng dưng thi vị, nên thơ đến lạ thường. Sở dĩ vậy là vì nhà thơ đã nhìn thấy ở chúng những khoảnh khắc thật đẹp, thật viên mãn, thật căng tràn sức sống và ngây ngất xuân tình. Nó đang ở lúc đắm say, mơn mởn, tươi non nhất: ong bướm tuần tháng mật, hoa đồng nội xanh rì, lá cành tơ phơ phất, yến anh khúc tình si, ánh sáng chớp hàng mi, tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Xuân Diệu đã không bỏ lỡ mà thâu tóm gọn nó, căng mọi giác quan để cảm nhận nó một cách tuyệt diệu nhất. Chính chúng ta – người đọc, khi thưởng thức cũng mơ tưởng theo những đắm say từ những thứ vô cùng bình dị, gần gũi mà bấy lâu nay có khi vô tình bỏ qua. Điệp từ của, này đây cứ liên tiếp, dồn dập như lời mời chào, vẫy gọi chúng ta cùng nhau thưởng thức. Những thứ quen thuộc ấy dưới cặp mắt “xanh non, biếc rờn”, qua lăng kính của tình yêu, của mùa xuân đã trở thành một bữa tiệc trần gian đầy tươi đẹp. Nhà phê bình Hoài Thanh đã thực chí lí khi cho rằng: “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới”. Thổi hồn, gửi gắm tình yêu vào những điều, những thứ giản dị, bình thường từ cuộc sống cũng là một quan niệm đầy tính triết lý nhân sinh mà cái tôi trữ tình đã thể hiện được trong bài thơ.
Nhưng bên cạnh đó, cái tôi trữ tình còn thể hiện sự độc đáo trong cách bộc lộ quan niệm thẩm mĩ có phần khác biệt so với trước đây. Qua hai câu thơ: - Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, - Tháng giêng ngon như một cặp môi gần, nhà thơ đã nói lên điều đó. Bằng cảm xúc yêu đời, yêu người, cái tôi trữ tình đã không ngần ngại khẳng định, vẻ đẹp của tạo hóa không phải bắt nguồn từ thiên nhiên, mà từ con người. Thứ ánh sáng bình minh kia le lói cũng chỉ đẹp như cái chớp hàng mi của người thiếu nữ. Hay tháng giêng – khởi đầu của mùa xuân, được mĩ vị hóa thành “ngon như một cặp môi gần”, tức cũng đắm say như cái hồn nồng cháy của đôi tình nhân. Ánh sáng, tháng giêng là thuộc về thiên nhiên. Vậy mà giờ đây thiên nhiên lại phải đem cái chuẩn mực vẻ đẹp của con người để so sánh. Cái tôi trữ tình bởi thế đã khéo léo ca ngợi, đề cao vị trí của con người. Không có một thứ gì khác, con người chính là sản phẩm tuyệt vời nhất của tạo hóa. Khẳng định giá trị của con người là cách để cái tôi trữ tình đưa ra một quan niệm thẩm mĩ giàu ý nghĩa nhân sinh.
Cảm xúc sung sướng vì thế mà cái tôi trữ tình chẳng thể giấu giếm được. Lời thơ cứ căng tràn, sục sôi, phấn trấn để diễn tả hết thảy hạnh phúc vô ngần khi được sống giữa một cuộc đời, một cảnh sắc tràn ngập mùa xuân và tình yêu như vậy. Nhưng giọng điệu thơ bỗng chùng xuống: Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa. Cái tôi chẳng mãi có thể hát vang khúc ca yêu đời, mà vội vàng im bắt trước quy luật khắc nghiệt của thời gian. Cái tôi trữ tình trào lên một nỗi lo sợ, băn khoăn:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
…
Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa
Qua thủ pháp đối lập, nhân vật trữ tình đã “lập luận” vô cùng say sưa về quan niệm thời gian. Bằng những từ ngữ đầy tính tranh biện: nghĩa là, mà, nhưng, nói làm chi, nếu, nhưng chẳng, nên, nhà thơ đã khẳng định sự trôi chảy vô tình của thời gian. Đúng là thời gian của tự nhiên thì vô cùng, vô tận, xuân năm nay đi, năm sau lại có xuân. Nhưng đời người thì lại có hạn, mà tuổi trẻ - mùa xuân của cuộc đời, chẳng hai lần thắm lại. Cái tôi trữ tình đầy ngậm ngùi, tiếc nuối, bâng khuâng khi nhìn thấy đâu đâu mọi thứ đều bị phá hủy bởi thời gian – thứ mang theo sức mạnh vô hình mà một đi không còn trở lại. Chưa nói đến điều quan niệm này đã khác, đã mới mẻ, hiện đại hơn như thế nào so với trước kia, mà chỉ cần cái nhìn đầy tính mất mát ấy đã đủ nhận thấy một cái tôi đầy run rẩy, sợ hãi trước quy luật ấy như thế nào. Phải rất yêu đời, yêu cuộc sống mãnh liệt nhường nào thì cái tôi trữ tình ấy mới có cảm xúc như vậy. Tắt nắng, buộc gió chỉ là cái cớ để tìm kiếm cách thức chống lại thời gian ấy mà thôi.
Nhưng càng cảm nhận rõ ràng về thời gian như thế, thì nỗi niềm bâng khuâng, tiếc nuối, thậm chí là xót xa lại càng trào dâng. Thời gian có sức mạnh tàn phá là có thật. Cái tôi lại một lần nữa để toàn tâm, toàn trí, toàn hồn nhưng không phải để tìm kiếm vẻ đẹp mà để “ngửi” thấy mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi, để nghe thấy núi sông than thầm tiễn biệt, để nhìn thấy con gió xinh thì thào, hờn dỗi bay đi, chim ngập ngừng đứt tiếng vì sợ độ phai tàn. Đến tới đây cái tôi trữ tình lo lắng thực sự, cái thiết tha rạo rực phải nhường chỗ cho nỗi băn khoăn, ưu phiền trước cuộc đời. Dẫu biết đây là quy luật tâm lý rất đỗi bình thường khi con người ta quá yêu cái gì đó thì lại rất sợ phải mất nó đi. Nhưng sự ưu tư của cái tôi trữ tình ở đây vẫn rung lên một nỗi niềm đồng cảm sâu sắc từ phía độc giả. Dường như chúng ta cũng đồng tình trong cách lý giải của tác giả, mọi thứ, nhất là con người rồi sẽ bị vùi lấp bởi thời gian.
Cái tôi trữ tình trong Vội vàng thực dễ khiến chúng ta liên tưởng đến cái tôi nói chung trong thơ mới. Luôn yêu cuộc đời đến cháy bỏng, thiết tha nhưng vẫn buồn bã, suy tư và đầy bế tắc. Đó là cảm xúc chung của cả một thế hệ. Nhưng tác phẩm này của Xuân Diệu lại khẳng định ở ông một cái tôi khác. Nhà thơ có mang đến nỗi buồn, sự lo lắng, băn khoăn nhưng không hề bi quan, chán nản. Ông giúp chúng ta nhận ra quy luật của cuộc đời là vậy, và vẫn thể hiện niềm yêu đời và khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc sống này. Bởi vậy mà khổ thơ cuối cùng của tác phẩm mới thực sự mang đến cái tôi đúng nghĩa nhất trong thơ Xuân Diệu.
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
…
-Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.
Đoạn thơ hội tụ những gì sôi nổi, nhiệt huyết nhất trong hồn thơ Xuân Diệu. Trước cuộc sống như thế, ông không thể “đầu hàng” được. Ông quyết lao vào một cuộc chạy đua với thời gian. Ông giục giã mọi người hãy mau đi thôi, mau sống thôi khi cuộc đời trong thời khắc tuổi trẻ. Vì thế cái tôi cá nhân đã hòa chung với cái ta cùng mọi người cùng nhau làm nên một sức sống mới giữa cuộc đời. Và thế là người ta nhìn thấy, một cái tôi trữ tình phóng túng, cuống quýt, vồ vập để sống, để yêu. Hàng loạt các động từ mạnh theo cấp độ tăng tiến được sử dụng (ôm, riết, say, thâu, cắn) để diễn tả mức độ nhiệt huyết nhất, vội vàng nhất mà nhà thơ đang có. Đặc biệt là từ cắn, tuy có phần rất thực nhưng chỉ như vậy mới diễn tả hết niềm khao khát đang mãnh liệt, sôi trào trong lòng thi nhân. Nhưng cách sống vội vàng của Xuân Diệu cũng còn có điều đáng suy ngẫm. Phải chăng lúc nào cũng vội vàng, cũng cuống quýt như vậy hay sao? Vấn đề nhà thơ gửi gắm chính là ở thái độ và thời điểm sống. Phải luôn trân trọng, luôn ý thức về sự sống của mình để tuổi trẻ trôi qua không hề lãng phí. Và phải biết hết mình với những khoảnh khắc quan trọng của cuộc sống thì mới trọn vẹn hết được niềm vui sống của mình. Vì vậy nhà thơ mới muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn, muốn riết mây đưa và gió lượn, muốn say trong cánh bướm với tình yêu, muốn thâu trong một cái hôn nhiều, hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người. Cảm xúc cao nhất của thi nhân đặt vào thời khắc xuân hồng – hình ảnh hội tụ những gì đẹp nhất của cả tự nhiên lẫn cuộc đời con người mà mỗi chúng ta cần nắm bắt.
Có thể nói, cái tôi trữ tình trong bài thơ Vội vàng thực sự mang nhiều ý nghĩa hơn là cảm xúc của một nhân vật trong thơ. Cái tôi đã rất mạnh dạn thể hiện sự khát khao giao cảm với đời bằng một quan niệm sống đầy ý nghĩa tích cực, nhân sinh mang tầm triết lý. Cái tôi ấy đã theo cả một đời thơ Xuân Diệu để giúp ông ngay cả thời điểm là một thanh niên mười tám, đôi mươi giữa lúc bối cảnh đất nước lầm than, nô lệ vẫn sẽ vững vàng, vẫn tin tưởng vào cuộc sống thực tại để mai sau hòa nhập với đời, với mọi người, với những chiến công vang dội của dân tộc sau này.
Giải thích câu sau và ra nhận xét: Đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại.
Câu trả lời của bạn
Con người chúng ta không ai là hoàn hảo, ai cũng đã từng có những lỗi lầm. Nhưng điều quan trọng hơn là chúng ta nhận ra lỗi lầm và biết sửa chữa, tất cả mọi người sẽ thông cảm và tha thứ. Chính vì vậy mà ông cha ta đã đúc kết nên câu tục ngữ: " Đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại". Câu tục ngữ như một lời khuyên nhẹ nhàng cho chúng ta nếu biết hối lỗi và quay đầu lại sẽ được mọi người tha thứ. Để hiểu rõ hơn về câu tục ngữ trên ta phải sẽ đi giải thích và chứng minh 2 vế của câu tục ngữ. Vế thứ nhất ý muốn nói con người ta khi mắc lỗi vẫn không biết ăn năn hối cải để mong mọi người tha thứ mà vẫn tiếp tục sai lầm nối tiếp sai lầm. Vậy thì làm sao họ có thể nhận được sự thông cảm và tha thứ từ mọi người. Về thứ hai là ý muốn nói khi con người ta mắc lỗi, biết mình sai, biết nói lời xin lỗi. Tất nhiên mọi người sẽ tha thứ nếu họ thực sự ăn năn. Câu tục ngữ không chỉ giải thích cho ta hiểu về sự bao dung, chấp nhận lời xin lỗi của con người, mà cũng như một lời nhắc nhở mỗi chúng ta khi mắc lỗi lầm hãy biết nhìn thẳng vào sự việc. Đồng thời thức tỉnh chúng ta không nên tiếp tục làm những việc có lỗi với mọi người, mà hãy nói lời xin lỗi, biết sửa sai. Chính vì vậy mỗi chúng ta khi có lỡ mắc những lỗi lầm thì hãy tin rằng nếu ta biết thay đổi và sửa chữa thì ta sẽ nhận được lời tha thứ từ mọi người, sẽ được mọi người yêu thương. Đó sẽ là một sự lựa chọn thông minh, giúp chúng ta được giải thoát khỏi lỗi lầm, nghĩ đến những việc tốt để làm cho chúng ta, cho mọi người, cho cộng đồng. Làm được như vậy là chúng ta không những đã bù đắp lỗi lầm mà còn tạo nên một thói quen tốt, giúp chúng ta hoàn thiện hơn. Và điều cuối cùng là lỗi lầm chỉ thực sự được tha thứ khi chúng ta biết nói lời xin lỗi chân thành, biết hành động thực tế. Chúng ta phải biết ơn khi ông cha ta đã đúc kết những kinh nghiệm quý báu, giúp chúng ta vươn lên những thứ cao đẹp hơn trong cuộc sống, để cuộc đời giàu tình thương yêu và lòng bao dung.
Tóm tắt tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh).
Câu trả lời của bạn
Chuyện xảy ra ở Giồng Ké. Trần Văn Sửu, một nông dân hiền lành, chất phác, là con rể của hương thị Tào. Vợ của anh ta là thị Lựu, tuy đã có ba mặt con rồi, nhưng vẫn còn trăng hoa. Một hôm, khi thị đang ngoại tình với hương hào Hội thì bị chồng bắt được quả tang. Thị Lựu đã níu áo chồng cho gã nhân tình chạy thoát. Thị kêu la, chửi mắng Sửu; hai vợ chồng đôi co. Trần Văn Sửu tức giận xô vợ ngã đập đầu vào phản chết ngay. Sửu vô cùng hoảng sợ, vọt ra khỏi nhà chạy trốn biệt tích. Ai cũng tưởng anh ta đã nhảy xuống sông tự tử.
Trần Văn Sửu lặn lội đến một vùng heo hút xa xôi, đổi tên là Sơn Rùm, làm thuê kiếm sống, tập nói tiếng Thổ, rồi chạy được giấy thuế thân. Nhưng anh ta vẫn đêm ngày thương nhớ đàn con thơ dại và ân hận về chuyện làm vợ chết. Đứa con út chết, hai đứa con của anh ta, con Quyên và thằng Tí về ở với ông ngoại là hương thị Tào. Chúng khôn lớn dần, lại siêng năng làm ăn. Trong vùng có bà hương quản Tồn rất thương hai đứa con của Sửu, hết sức chăm sóc, đỡ đần và nhắm dựng vợ gả chồng cho chúng.
Mười mấy năm đã trôi qua. Một đêm trăng sáng, hương thị Tào bỗng thấy một người Thổ bước vào sân nhà. Cha vợ và con rể gặp nhau. Vì còn ấm ức chuyện cũ, lại sợ làng tổng đến bắt, ảnh hướng đến hạnh phúc của hai đứa cháu nên hương thị Tào không cho Sửu vào nhà gặp con. Đau khổ, thất vọng, Sửu chắp tay xá cha vợ, rồi đội nón lên và bươn bả bước ra lộ hướng về cánh đồng Phú Tiên. Thằng Tí đứng trong cửa nhìn ra, nghe hết mọi chuyện đã xảy ra giữa ông ngoại và cha nó. Nó bước vội ra sân trách móc ông ngoại "sao đuổi cha tôi đi?". Thằng Tí chạy ra lộ đuổi theo cha. Đường vắng vẻ, đồng lúa bao la, trăng sáng,... Trần Văn Sửu ngoái đầu nhìn lại thấy có người đuổi theo, anh ta ngỡ là làng tổng rượt đuổi bắt. Quá hoảng sợ, anh ta co giò mà chạy. Oua khỏi cánh đồng Phú Tiên, Sửu ngoái đầu lại, anh ta mừng thầm vì không thấy bóng người đuổi rượt theo nữa. Sửu ngồi nghỉ trên cầu Mê Tức. Xúc động, bồi hổi, anh ta nhìn dòng nước mà nghĩ: có chết mới quên được việc cũ, có chết mới hết cực khổ buồn rầu. Sửu chui đầu qua lan can cầu, toan nhảy xuống sông tự tử thì nghe thấy tiêng người gọi : "Ai đó? Phải cha đó không, cha?" Hai cha con ôm lấy nhau mà khóc, bịn rịn bàn bạc mãi chuyện đi, về cho đến lúc sao Mai mọc.
Từ đó, thằng Tí cứ bí mật đi đến sóc người Thổ thăm cha nó. Về sau nhờ cậu Ba Giai là chồng của cô Quyên lo lót, vận động, Trần Văn Sửu được miễn truy tố, anh ta được trở lại quê hương sum họp với các con.
Ý nghĩa 3 lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến.
Câu trả lời của bạn
Nổi bật lên trong tác phẩm Chí Phèo là hai nhân vật đối địch nhau: Bá Kiến và Chí Phèo. Đó là sự đối đầu giữa một bên là Bá Kiến, đại diện cho giai cấp thống trị của xã hội đương thời và một bên là Chí Phèo, tiêu biểu cho tầng lớp nông dân bị tha hóa về mặt nhân cách. Cũng cần nói thêm sự tha hóa của Chí không phải là bẩm sinh mà nó được phát sinh trong quá trình vận động và phát triển của nhân vật giữa xã hội thối tha vô nhân đạo. Trước kia Chí cũng là một người lương thiện từng làm canh điền cho nhà cụ Bá, sau đó bị Bá Kiến đẩy vào vòng tù tội. Cuộc đời tù đày đã làm thay đổi hẳn con người hiền lành chất phác, Chí trở thành một kẻ liều lĩnh, một con quỷ của làng Vũ Đại, kẻ bị biến chất., bị tha hóa về mặt nhân cách. Và ôm ấp trong lòng một mối thu không gì xóa được, nếu thời điểm Chí ra tù làm mốc thì có thể nói Chí đã ba lần đi tìm gặp kẻ thù là Bá Kiến. Ba lần diễn ra trong ba hoàn cảnh, ba động cơ khắc nhau.
Lần thứ nhất, là lúc Chí vừa ở tù về "Hắn về hôm trước, hôm sau đó thấy ngồi ở chợ uống rượu" và trong cơn say khướt, đã xách vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục ra mà chửi. Đó là lối hành động của một kẻ say rượu mà đã có trong tiềm thức của Chí Phèo. Cộng thêm những năm tháng tù đày mối thù ấy càng được hun đúc, nuôi dưỡng ngày càng sâu sắc và đậm hơn. Bao năm ngồi tù Chí đã có dịp nghiền ngẫm cân nhắc trước khi đi đến quyết định đúng đắn. Cho nên, hơn bao giờ hết, vừa rời khỏi nhà tù là Chí đã sôi sục một ý thức trả thù. Sự căm thù kẻ gây ra tội lỗi và đẩy mình vào con đường đau khổ đã dẫn đường Chí đến nhà cụ Bá dù là đang trong cơn say khướt. Hành vi của Chí hoàn toàn liều lĩnh và mang tính bột phát. Hơn nữa dù gì trong sâu xa bản chất của Chí cũng chỉ là một nông dân thật thà đến mức gần như ngây thơ cho nên sự thất bại của Chị trong lần đối đầu đầu tiên này là một chuyện rất hiển nhiên. Làm sao qua được kẻ khôn róc đời như Bá Kiến. Bá Kiến là kẻ tinh ma xảo quyệt, lắm mưu nhiều kế nên đối phó với Chí chẳng lấy gì là khó khăn. Chỉ thoáng nhìn qua là Bá Kiến đã hiểu được ý đồ của đối phương. Nên Chí mới thất bại ê chề, cay đổng trước những lời vuốt ve, ngon ngọt cộng thêm vài đồng đã làm lóa mắt Chí. Từ một vị trí là kẻ đi hỏi tội kẻ thù chỉ thoắt một cái ván cờ đã lật ngược: kẻ có tội lại ung dung như một kẻ ra ơn còn người hỏi tội lại thành tay sai phục dịch cho kẻ thù mà không hay biết.
Lần thứ hai cũng trong dáng điệu say mèm Chí ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến gặp hắn để xin được đi tù. Thật là một chuyện ngược đời. Thuở nay chưa thấy ai làm một chuyện phi lý đến mức vậy chắc chỉ có Chí Phèo. Tuy là nghịch lý đây nhưng lại phản ánh đúng thực tại của Chí. Không có cơm ăn, áo mặc, một mảnh đất cắm dùi cũng không. Cảnh ngộ bi đát của Chí cũng phần nào phản ánh đúng hiện trạng xã hội lúc bấy giờ đó là những người lầm đường lạc lối, trót sa chân vào vũng bùn của tội lỗi thì không sao rút chân ra được. Chí bị tù đến khi được trả về cuộc sống đời thường thì lại không tìm được kế sinh nhai hay nói đúng hơn là không được tiếp nhận và vì thế lại tiếp tục bị đẩy vào bước đường cùng. Nghe Chí nói với Bá Kiến mà thấy xót xa trong dạ: "Bẩm quả đi tù sướng quá đi, ở tù có cơm ăn, bây giờ về làng về nước một thước cắm dùi không có...". Sự thật như thế ư? Nhà tù là chốn dung thân ư? Trên câu chữ thì ta không thể nghĩ khác được. Nhưng nếu nghĩ sâu xa một chút ta mới thấy ngỡ ngàng và lương tâm chẳng được thanh thản. Nhà tù nuôi con người ư? Không, bảo nó nuôi dưỡng những con người bị tha hóa, những con quỷ như Chí Phèo thì đúng hơn. Nếu như ý nghĩa của nhà tù là để cảnh tỉnh, cải tạo con người, trả con người về với cuộc sống hoàn lương thì nhà tù ở đây lại thực hiện ngược lại. Nó biến những kẻ lương thiện trở thành một loại người lưu manh khốn nạn. Nhà văn Huy-gô rất đúng khi nói: "Khi chưa vào tù anh là một cành cây tươi, khi ra tù anh là một cây củi khô". Cũng như lần trước, Chí lại thất bại trước cái khôn róc đời của cụ Bá: bị gạt mà không hề nhận ra. m mưu của Bá Kiến mới thâm độc làm sao. "Dùng độc trị độc", dùng Chí Phèo để trị đội Tảo.
Tất cả đều là kẻ thù của hắn, nên và chẳng có xảy ra xô xát, ai được, ai mất cụ đều có lợi, vừa thỏa mãn được ý định trả thù vừa không phải mang tiếng là kẻ báo thù nhỏ nhen, đê tiện.
Lần thứ ba cũng là lần chót Chí đến gặp Bá Kiến. Cũng với dáng dấp của thằng say rượu nhưng lần này Chí mang trong lòng một tâm trạng, một ý định khác hẳn với những lần trước. Bởi vì Chí Phèo sau khi bị Thị Nở cự tuyệt tình cảm của mình đã hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng. Trong thâm tâm Chí đang ôm ấp ý định làm lành, muốn quay về con đường hoàn lương sống cuộc đời lương thiện như bao người khác. Nhưng xã hội vô nhân đạo đã quay lưng trước sự ăn năn sám hối của một tội đồ, tình thương đã khép lại, xã hội đã rút đường trở về của Chí cũng như cự tuyệt quyền làm người của một con người. Vĩnh viễn Chí không tìm thấy hạnh phúc ở cuộc đời này. Bản chất người vừa trỗi dậy lại bị đè bẹp không thương tiếc. Có thể nói đây là những giờ phút tỉnh táo nhất trong cả cuộc đời say sưa của Chí, những phút mà ý thức phản kháng trỗi dậy mãnh liệt nhất. Đi gần hết cuộc đời, cho đến lúc này Chí mới phát hiện mới nhận ra chân lý cuộc sống. Dù là muộn màng nhưng với Chí sự khám phá ấy quý giá biết bao và Chí quyết giữ chặt lấy nó không để nó tuột khỏi tầm tay dù lả phải trả một giá rất đắt. Chí như vừa thức dậy sau một giấc ngủ dài, một sự chuyển biến rất lớn đang diễn ra trong tâm hồn của Chí. Ấy là sự trỗi dậy của tính người, tính lương thiện. Chí đã nhận ra chân tướng của kẻ thù, kẻ ấy là Bá Kiến chứ không ai khác cho nên lẽ ra phải đến nhà Thị Nở thì tiềm thức sâu xa đã dẫn Chí đến nhà Bá Kiến. Trong lần đối đầu sau cuối này, Chí hoàn toàn được lột xác, sự thay đổi đột ngột và nhanh chóng đến mức Bá Kiến không ngờ được. Chính vì không nắm bắt được đối phương, lại chủ quan khinh địch nên Bá Kiến thất bại một cách thảm hại. Hắn đã phải trả giá đắt cho hành vi tội lỗi của chính hắn. Với dáng dấp hiên ngang, ngạo mạn, Chí chỉ tay vào mặt Bá Kiến mà ra lời dõng dạc: "Tao muốn làm người lương thiện". Tư thế ấy ta chưa từng bắt gặp ở Chí. Trước đây hắn chỉ biết cúi đầu lễ phép, một điều bẩm cụ hai điều lạy cụ. Đó là sự chuyển biến và tự khẳng định mình của Chí. Ngôn ngữ của Chí càng lúc càng đậm màu triết lý: "Ai cho tao lương thiện? Tao không thể là người lương thiện". Lời cuối cùng được thốt lên với tất cả niềm cay đắng xót xa. Chí đã bị đẩy đến bước đường cùng. Không còn lối thoát, không còn cách lựa chọn nào khác chỉ còn chấm dứt cuộc đời của kẻ thù rồi sau đó tự chấm dứt cuộc đời mình. Màn bi kịch kết thúc đẫm máu và nước mắt.
Tác phẩm Chí Phèo đã để lại trong lòng người trăn trở, bao suy tư ray rứt. Truyện đã phác họa thành công bức tranh về đời sống ở nông thôn Việt Nam thời kì 1930-1945. Nó đã trình bày sự mâu thuẫn và xung đột gay gắt giữa bọn cường hào ác bá và những người nông dân nghèo hèn rách rưới bị đẩy vào con đường tội lỗi, mà tiêu biểu là Bá Kiến và Chí Phèo. Những mâu thuẫn nội tại ấy đã cho thấy sự xấu xa thối nát của xã hội đương thời. Hơn bao giờ hết bức tranh nông thôn Việt Nam hiện ra mới xơ xác tiêu điều làm sao. Nó đầy rẫy những hạng người hèn hạ, đốn mạt (Bá Kiến, đội Tảo, bà Ba..) cũng như những tệ nạn xã hội, rượu chè, cờ bạc, trộm cướp có thời cơ phát triển. Một xã hội không chỉ có sự bần cùng hóa mà còn có cả sự lưu manh hóa, về điểm này tác giả đã gây dựng rất thành công chân dung của một người nông dân mới: Chí Phèo. Hình ảnh Chí trở thành một điển hình văn học, một kiểu mẫu của loại người bị tha hóa về mặt nhân cách, vừa sống động vừa độc đáo, mới mẻ. Cũng qua đó bật lên tấm lòng nhân đạo cao cả, một sự cảm thông, một thái độ tôn trọng sâu sắc đối với số phận của những kẻ thấp cổ bé họng. Bị xã hội chà đạp. ruồng rẫy, chối bỏ thậm chí tước bỏ cả quyền làm người của một con người. Những kẻ mà xã hội cho là cực kỳ xấu xa ấy, dưới con mắt yêu thương của tác giả vẫn còn một chút gì là tình người và sự phản kháng muốn chống lại xã hội, muốn bứt ra khỏi xã hội vô nhân đạo không có một chút tình thương người ấy. Toát lên từ tác phẩm là niềm khát khao hạnh phúc, khát khao quyền làm người và khát khao tình người. Đặc biệt là tiếng kêu trước lúc giãy chết của Chí Phèo. Nó chứa đựng một tư tưởng vô cùng cao đẹp. Đó là tiếng kêu cứu của một con người, một số phận bị vùi dập: "Ai cho tao lương thiện? Tao muốn làm người lương thiện". Tiếng kêu mới đau đớn và tha thiết làm sao. Nó cứ xoáy vào lòng người, nó làm ta phải băn khoăn ray rứt, nó kêu gọi, hay nói đúng hơn nó đặt ra một vấn đề có tính chất nan giải, một vấn đề chung không của riêng ai, ấy là: "Số phận con người". Nó kêu gọi tình người, kêu gọi sự quan tâm đến số phận của những kẻ bất hạnh. Kêu cứu vấn đề nhân phẩm con người đang trên đường hủy hoại. Nó đặt ra một nhiệm vụ nóng bỏng là hãy cứu lấy nhân phẩm, hãy bảo vệ quyền làm người của một con người, kêu gọi thực hiện chân lý: "Người với người sống để yêu nhau''.
Tác phẩm đã gián tiếp tố cáo xã hội nhớp nhúa bẩn thỉu không có tính người. Xã hội ấy là nơi sản sinh và nuôi dưỡng những người như Chí Phèo. Con người sống trong xã hội ấy khác nào sống trong vòng cùng quẫn bế tắc. Chí Phèo này chết đi thì có Chí Phèo khác ra đời thay thế. Chi tiết cuối cùng của tác phẩm miêu tả Thị Nở (sau khi Chí Phèo chết), thoáng thấy hiện ra một cái lò gạch bỏ không, vắng người qua lại... Phải chăng tác giả kín đáo báo hiệu mộ; Chí Phèo con sắp ra đời.
Có người cho rằng đó là kết thúc bi quan. Tại sao lại không nghĩ rằng Nam Cao đang kêu gọi chúng ta hãy cứu lấy những đứa con Chí Phèo, hãy đập nát những lò gạch cũ để cho con người sống với nhau trong sáng hơn, cao đẹp hơn?
Nghị luận về vấn đề sa sút đạo đức ở học sinh hiện nay.
Câu trả lời của bạn
Đạo đức là vẻ đẹp đầu tiên của con người. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh gặp nhiều khó khăn. Học sinh ngày càng hư hỏng, suy thoái đạo đức nghiêm trọng, gây nhiều bức xúc trong xã hội.
Đạo là đạo lý, là những nguyên tắc ứng xử được xã hội quy định, quy ước và cam kết thực hiện. Đức là đức tính, là phẩm chất tốt đẹp của con người. Đạo đức có nghĩa là những đức tính tốt đẹp phù hợp với đạo lý làm người được xã hội quy định và tôn trọng.
Có thể thấy, khi các nguyên tắc ứng xử trong xã hội cũ bị xóa bỏ, các chuẩn mực đạo đức chưa kịp hình thành làm cho một bộ phận giới trẻ lúng túng khi rèn luyện mình. Họ hoang mang không biết như thế nào là đúng, là phù hợp chuẩn mực.
Một hiện trạng dễ thấy đó là đạo đức học sinh đang trên đà suy thoái trầm trọng. Học sinh ngày càng trở nên thiếu lễ độ với người khác. Hiện tượng học sinh bỏ học, đánh nhau, nói tục chửi thề, ngang ngược, bướng bỉnh, vi phạm pháp luật,… trở nên phổ biến. Dù nhà trường, gia đình, xã hội đã vận dụng nhiều biện pháp giáo dục, tuyên truyền, vận động song không mang lại hiệu quả.
Hành vi xấu của học sinh có xu hướng lan nhanh trong các trường học. Số học sinh vi phạm kỉ luật nhà trường ngày càng tăng. Số vụ vi phạm pháp luật ở lứa tuổi học sinh có xu hướng tăng cao. Giáo dục đạo đức, nhân cách, nhân phẩm, ý thức trách nhiệm trong thời đại mới cho học sinh trở thành vấn đề quan tâm của toàn xã hội.
Trước hết là do sự phát triển nhanh của nền kinh tế thị trường làm đảo lộn nhận thức của con người về các giá trị sống. Con người chạy theo lối sống thời thượng, đề cao vật chất, xem thường đạo đức và các giá trị nhân văn. Áp lực công việc từ cuộc sống khiến cho con người không còn thân thiện nữa. Tất cả ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống và nhận thức của mỗi học sinh.
Do ảnh hưởng của các trào lưu văn hóa đang trên đà nở rộ. Sự mở cửa kinh tế đất nước tạo cơ hội xâm nhập của các nền văn hóa ngoại lai vốn không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Điều đó, tạo nên các trào lưu lệch chuẩn, gây ảnh hưởng đến nhận thức và đạo đức học sinh.
Chương trình giáo dục đạo đức cho học sinh thiếu hiệu quả, không còn phù hợp với yêu cầu phát triển nhân cách con người trong thời đại mới. Gia đình thiếu quan tâm đến việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, nhân cách, lối sống cho con em. Ông bà, cha mẹ thiếu gương mẫu. Văn hóa gia đình không được đề cao.
Xã hội thiếu định hướng đúng đắn, thiếu nghiêm khắc với những hiện tượng lệch chuẩn, tha hóa nhân cách ở giới trẻ. Các hành vi lệch lạc, thiếu lễ độ không được nhắc nhở. Con người thờ ơ, vô cảm. Những hành vi nghiêm túc bị đem ra trêu đùa. Lối sống văn hóa chuẩn mực dần dần mất đi ý nghĩa.
Nhà trước chưa có biện pháp kiểm soát chặt chẽ các luồng văn hóa. Sự chậm trễ ấy đã để cho những sản phẩm văn hóa có tính chất đồi trụy, bạo lực, lệch lạc ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của học sinh và giới trẻ, khiến họ bắt chước một cách mù quáng, sai lầm. Tệ nạn xã hội có xu hướng xâm nhập sâu hơn vào nhà trường.
Học sinh ngày càng hư hỏng, suy thoái đạo đức nghiêm trọng. Các giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức truyền thống không còn được tôn trọng, đề cao. Kết quả học tập kém, chất lượng giáo dục suy giảm.
Học sinh mất định hướng trong học tập. Nhiều học sinh thiếu lý tưởng sống, sa đà vào tệ nạn xã hội. Gia đình lo lắng trước tình hình phát triển lệch chuẩn gia tăng của con em mình. Xã hội bất lực trước hiện tượng suy thoái đạo đức ở giới trẻ. Giá trị đạo đức trong xã hội xuống cấp trầm trọng.
Do suy thoái về đạo đức khiến của một số học sinh khiến cho môi trường học tập có nhiều xáo trộn. Ngày càng có nhiều học sinh vô lễ với thầy cô. Hiện tượng học sinh đánh nhau là chuyện bình thường. Học sinh xúc phạm hay đe dọa thầy cô giáo diễn ra phổ biến. Vai trò của người thầy trong xã hội bị phai nhạt. Truyền thống tôn sư trọng đạo cũng mất dần ý nghĩa và sự tôn nghiêm.
Sự suy thoái đạo đức của học sinh không những diễn ra theo chiều rộng mà còn cả ở chiều sâu. Học sinh hoang mang không biết như thế nào mới đúng chuẩn mực, đúng đạo lí. Sự bất thường ấy lại đáng lo ngại hơn khi mọi người đều cho rằng điều đó là bình thường.
Trước hết cần tăng cường hơn nữa việc giáo dục đạo đức, nhân cách nhân phẩm học sinh theo định hướng mới, đúng đắn và hiệu quả. Giáo dục phải đúng cách, đúng đối tượng. Giáo dục những gì cần thiết chứ không giáo dục tràn lan, kém hiệu quả.
Tăng cường kỉ luật trong nhà trường và ngoài xã hội. Nghiêm khắc với những hành vi vi phạm đạo đức và pháp luật. Giáo dục phải giúp học sinh nhận thức sai lầm và cải thiện bản thân mình. Kết hợp giáo dục và kỉ luật để dần định hình các giá trị đạo đức ở con người. Đến khi con người có thể tự giác rèn luyện mình thì giáo dục và kiện toàn các phẩm chất.
Đề cao các chuẩn mực tốt đẹp trong nhà trường và ngoài xã hội. Kiên quyết trấn áp, loại bỏ cái xấu, cái lệch lạc, sai lầm ra khỏi trường học và xã hội. Xây dựng văn hóa gia đình lành mạnh và tiến bộ. Người lớn gương mẫu làm gương sáng cho học sinh noi theo. Một xã hội tốt đẹp là một xã hội trong sạch, lành mạnh. Ở đó, mọi người được tôn trọng và yêu thương.
Tạo nhiều sân chơi bổ ích có tính giáo dục cao, thu hút học sinh tham gia. Xã hội phải giúp học sinh tìm thấy được ý nghĩa của các giá trị đạo đức truyền thống. Khi học sinh được quan tâm và tôn trọng sẽ tự rèn luyện mình theo chuẩn mực tốt đẹp.
Nhà nước quản lý chặt chẽ các trào lưu văn hóa lệch lạc. Cần kiên quyết loại bỏ các văn hóa phẩm có ảnh hưởng tiêu cực đối với nhận thức và đạo đức học sinh. Tạo một môi trường trong sạch, vững mạnh, nhân văn và tiến bộ.
Một xã hội phát triển là một xã hội ở đó có nhiều người tốt, đạo đức được đề cao, con người sống bằng tình thương, lòng nhân ái. Dù có cứng rắn trong hành động giáo dục đạo đức, giúp học sinh tiến bộ song phải xuất phát từ tấm lòng bao dung, độ lượng, vị tha vì con người. Có làm được như vậy chúng ta mới tin rằng những học sinh hư hỏng sẽ nhận ra lỗi lầm, tự thay đổi mình. Khi các giá trị đạo đức đã định hình, học sinh sẽ tìm thấy động lực học tập, trở thành người hữu ích cho xã hội.
Ý kiến của em về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Câu trả lời của bạn
Hành trình của văn học là hành trình đi từ trái tim đến những trái tim. Vì vậy, mỗi nhà văn khi đã cầm bút đều có thiên chức của mình. Như Thạch Lam quan niệm: "Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn". Ý thức được sâu sắc nhiệm vụ thiêng liêng đó, mỗi tác phẩm của Thạch Lam luôn nâng đỡ những yêu thương cao quý ở đời. "Hai đứa trẻ" là chút "Nắng trong vườn" vừa là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ vừa là câu chuyện về niềm khát kháo vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Mỗi tác phẩm văn học ra đời đều có một chủ đề khác nhau. Chủ đề là vấn đề cơ bản, trung tâm được nêu lên trong tác phẩm. Nó thể hiện được chiều sâu tư tưởng, khả năng nắm bắt những vấn đề cuộc sống của người viết. Qua đó biểu hiện nhận thức, sự đánh giá và tư tưởng của tác giả đối với đời sống hiện thực. Trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ", Thạch Lam không chỉ tái hiện số phận của những con người sống âm thầm, lay lắt, tàn lụi trong bóng tối của cuộc đời cũ nơi phố huyện nghèo mà còn gửi gắm giá trị nhân văn sâu sắc. Đó là niềm tin vào cuộc sống và lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khát khao thoát khỏi cuộc sống tăm tối mù mịt hiện tại. Chính vì thế, “Hai đứa trẻ" không chỉ là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ mà còn là câu chuyện về niềm khát kháo vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Trước hết, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là câu chuyện về một ngày tàn. “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru.” “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa” gọi buổi chiều nơi phố huyện. Trong ánh mặt trời dần lụi tàn ở "phương tây đỏ rực như lửa cháy", cảnh vật cũng dần bước vào trạng thái tàn lụi: “những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” và dãy tre làng “đen lại”, “cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Cả không gian ngập tràn âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng”, tiếng muỗi vo ve trong cửa hàng tối. Bóng tối lan dần, nuốt chửng lấy cả phố huyện “tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Trong bóng tối mênh mông ấy, chỉ có chút ánh sáng “le lói, lập loè, yếu ớt” của đàn đom đóm, một “quầng sáng lờ mờ” của ngọn đèn hàng nước chị Tí và những “hột sáng” nhỏ nhoi lọt qua phên nứa nơi gian hàng của chị em Liên. Cái buồn của ngày tàn lặng lẽ len lỏi vào cả những con người cũng đang dần chìm trong bóng tối và thấm thía vào tâm hồn Liên: “Đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không hiểu vì sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Khung cảnh ngày tàn được tái hiện qua những câu văn êm dịu, uyển chuyển, tinh tế. Mỗi câu như một nét vẽ đơn sơ, mộc mạc không cầu kỳ không kiểu cách nhưng lại gợi được cái hồn của cảnh vật và cái thần thái của thiên nhiên. Có thể nói, không gian phố huyện lúc chiều tàn hiện lên tuy buồn nhưng thơ mộng, mang dáng hình của một hồn quê Việt Nam quen thuộc, gần gũi vô cùng bình dị. Qua đó gửi gắm tình cảm gắn bó của Thạch Lam.
Trong không gian của ngày tàn còn có cả một câu chuyện về một phiên chợ tàn nơi xã hội thu nhỏ này. Phiên chợ đã "vãn từ lâu", "người về hết và tiếng ồn ào cũng mất", chỉ còn lại sự nghèo nàn, xơ xác với những "rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía", chỉ còn lại "mùi âm ẩm bốc lên", hơi nóng ban ngày, mùi cát bụi quen thuộc”. Cuộc sống tẻ nhạt, nghèo khổ từng nét hiện ra qua vẻ xác xơ, tiêu điều của phiên chợ tàn.
Và trên phông nền thời gian, không gian tàn lụi của một ngày tàn và một phiên chợ tàn là những cuộc đời tàn tạ, những kiếp người đang âm thầm hoà mình chìm trong bóng tối. Chân dung những con người nghèo khổ lam lũ của phố huyện hiện dần ra. Đó là “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Chợ đã vãn từ lâu, chúng tìm được gì ở nơi đã tàn ấy? Cuộc sống nghèo khổ gieo rắc bất hạnh lên những kiếp người, cướp đi tuổi thơ của chúng và trả về gánh nặng mưu sinh.
Không một ai thoát khỏi cảnh tù túng nơi phố huyện nghèo. Mẹ con chị Tí, “ngày mò cua bắt tép” tối đến lại lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng. Dù không kiếm được bao nhiêu, nhưng ngày nào chị cũng dọn giống như đang chờ đợi một điều gì đó. Còn gia đình bác Xẩm, họ ngồi trên manh chiếu với cái thau sắt để trước mặt, rồi không khách không tiền. Mệt mỏi, họ lăn ra đất và như đã lẫn vào trong đất. Bác Siêu với gánh hàng phở ế ẩm khốn khó. Hai chị em Liên với cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu mở ra từ ngày cả nhà rời Hà Nội về phố huyện này. Bà cụ Thi điên nghiện rượu, bà cười “khanh khách” rồi lảo đảo đi vào trong đêm tối gợi cho người đọc nỗi buồn thương về những kiếp người đang dần bị vùi lấp trong cái nghèo khố tối tăm và sự lãng quên của cuộc đời. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, khổ cực và tàn tạ.
Phố huyện nghèo kéo theo những kiếp người gần tàn vào bóng tối mênh mông mờ mịt. Ánh sáng âm ỉ trong bóng tối bao trùm, mong manh tới nỗi chỉ là “hột sáng” hắt ra từ ngọn đèn con của chị Tí, bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn Hoa Kì vặn nhỏ của chị em Liên. Chút ánh sáng ấy không làm cho đêm tối trở nên sáng sủa hơn mà ngược lại chỉ càng làm thêm mịt mù u tối. Với nghệ thuật đối lập khi miêu tả ánh sáng và bóng tối, Thạch Lam đã khắc họa thành công nhịp sống tẻ nhạt, u buồn lay lắt của con người nơi phố huyện nghèo. Trong khi bóng tối nuốt chửng cả phố huyện thì ánh sáng xuất hiện là “hột sáng”, “khe ánh sáng”, “đốm sáng”, “vệt sáng” thật bé nhỏ, chúng “mất đi rồi lại hiện ra trong đêm tối”. Ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt đó le lói cùng những phận người bấp bênh, trôi nổi. Nhịp sống ấy lặp đi lặp lại quẩn quanh, đơn điệu từ ngày này sang ngày khác.
“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu,
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người”.
Nhưng “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức” (Thạch Lam). Dưới cái nhìn đầy yêu thương của Thạch Lam, "Hai đứa trẻ" còn là một câu chuyện về niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn của những cuộc đời tàn tạ. Ngày tàn, phiên chợ cũng đã tàn nhưng không che lấp đi niềm tin và khao khát của những cuộc đời. Trong hoàn cảnh tàn tạ, con người vẫn ước mơ, vẫn hi vọng. Cuộc sống của họ vẫn tiếp diễn lặp lại dù họ biết mình không nhận được bao nhiêu. Nhưng dường như, họ vẫn luôn chờ đợi, chờ đợi điều gì đó chưa đến “Chừng ấy con người sống trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Và họ chờ, chờ chuyến tàu cuối ngày ngang qua phố huyện.
Trong cảnh chờ tàu, Thạch Lam đã sử dụng thủ pháp tương phản rất tự nhiên có sức khơi gợi về cuộc sống đời thường: tẻ nhạt, đơn điệu nhưng lại chứa bên trong nhũng vận động đến xôn xao. Ánh sáng bừng lên trong bóng tối, cái đẹp ẩn trong cái bình thường, nỗi khao khát và ước mơ ẩn mình trong cam chịu, sự xao động nằm trong sự tĩnh lặng, cái tăm tối lại hiển hiện những kỉ niệm sáng tươi và hé mở một tương lai hi vọng dù cho còn mơ hồ xa xăm. Đó là nhìn của một nhà văn lãng mạn nhưng giàu lòng nhân hậu với con người và cuộc đời. Hai đứa trẻ chờ đợi tàu trong vui buồn phức tạp. Thạch Lam đã khéo léo tái hiện “những rung động cực điểm của những tâm hồn thơ dại” khi miêu tả sự thiết tha chờ tàu chạy qua tới mức An đã buồn ngủ nhíu cả mắt mà vẫn dặn chị: “Tàu đến chị gọi em dậy nhé!”.
Đoàn tàu ngang qua đem đến cho phố huyện không khí náo nhiệt, rạo rực bởi âm thanh, hình ảnh, màu sắc và ánh sáng của nó. Tiếng còi gióng lên hối hả, tiếng các toa tàu dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng người đi lại ồn ào huyên háo. Trên những toa tàu, đèn điện sáng trưng: “Đồng và kền lấp lánh ở những ô cửa kính sáng”. Chuyến tàu ở Hà Nội mang cho phố huyện cả một thế giới hoa lệ “như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Một thế giới tươi sáng khác hẳn với chút ánh sáng le lói nơi đây. Chuyến tàu mang theo nuối tiếc về “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Nó thức dậy trong Liên một trời kỉ niệm đã qua để Liên sống với tuổi thơ trong chốc lát, sống lại một thời xa xôi nay chỉ còn trong hồi ức, thời mà thầy chưa mất việc, sống ở Hà Nội “chủ nhật được đi bờ hồ uống những cốc nước xanh đỏ”. Tàu đến rồi lại đi, lao về phía trước mở ra một chân trời tương lai khác mà không biết bao giờ con người mới đến được. Chị em Liên đứng nhìn theo con tàu mãi.
Qua khung cảnh đầy cảm động ấy, Thạch Lam với sự thức tỉnh ý thức cá nhân sâu sắc đã bày tỏ lòng xót thương vô hạn đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh không bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc. Trái tim của một nhà văn chân chính - "nhà nhân đạo từ trong cốt tủy" đã nâng niu và trân trọng niềm tin của con người, dù cho niềm tin ấy vô cùng mong manh.
Trong thiên truyện ngắn của mình, Thạch Lam đã sử dụng thành công ngôn ngữ truyện giàu cảm xúc, giọng văn thủ thỉ điềm tĩnh, nhẹ nhàng như ẩn chứa một tâm sự kín đáo có sức khơi gợi sâu vào cảm xúc người đọc kết hợp nghệ thuật đối lập tương phản, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật. Từ đó sáng tạo thành công một câu chuyện không có cốt truyện nhưng lại như một thứ thơ bằng văn xuôi ấn tượng. “Hai đứa trẻ” là bức tranh phác họa cảnh phố huyện nghèo trong một ngày tàn, qua một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của Liên. Bên cạnh niềm cảm thương chân thành đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm, Thạch Lam còn khẳng định và ngợi ca niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn của họ. Để rồi "Hai đứa trẻ" không những là tác phẩm tiêu biểu cho cây bút tài năng của "Tự lực văn đoàn" mà còn tiêu biểu cho tấm lòng nhân đạo, yêu thương và nâng đỡ con người của Thạch Lam.
Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" với chủ đề nhân văn cao đẹp, mang theo thiên chức cao quý của người cầm bút giống như viên ngọc sáng được thời gian mài giũa. Cho đến tận hôm nay, nó vẫn âm thầm sống mãi trong lòng độc giả với tuyên ngôn văn học của một nhà văn chân chính: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Nghị luận về văn hóa ứng xử của học sinh.
Câu trả lời của bạn
Trong mọi mối quan hệ xã hội, văn hoá ứng xử vô cùng quan trọng. Nó trở thành một chuẩn mực thông qua đó người ta có thể đánh giá trình độ tri thức của con người, của một đất nước. Bởi vậy mà người xưa thường có câu:
" Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau"
Trong môi trường giáo dục, để học sinh phát triển toàn diện thì ngoài giáo dục tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ, nghề nghiệp thì giáo dục đạo đức có vai trò vô cùng quan trọng. Đạo đức, hành xử, là thước đo để đánh giá nhân cách của con người. Tuy nhiên, văn hoá ứng xử của học sinh hiện nay lại đang là vấn đề nhức nhối và cần được quan tâm.
Trên thực tế, trường học là nơi học sinh có cơ hội để khẳng định mình, được hưởng nền giáo dục toàn diện và tạo điều kiện thuận lợi, học sinh không chỉ giàu có về trí thức mà còn được hình thành và phát triển nhân cách của mình. Những học sinh luôn gương mẫu, lễ phép với thầy cô, ngoan ngoãn chăm chỉ học hành luôn là niềm tự hào của gia đình và nhà trường. Trong công việc, những học sinh này luôn thể hiện mình là người có trách nhiệm, chịu khó học hỏi tìm tòi, biết thắc mắc trước những cái khó, tìm thầy cô để bày tỏ nguyện vọng hay những vấn đề còn vướng mắc để nhận được sự tư vấn từ người có kinh nghiệm, từ đó mối quan hệ thầy trò ngày một tốt đẹp hơn. Nhiều học sinh đau lòng trước những khó khăn của thầy cô mà kêu gọi giúp đỡ, chia sẻ những câu chuyện ấm lòng người. Đối với bạn bè, các em cũng có lối ứng xử rất phù hợp và đáng học hỏi, thương yêu giúp đỡ nhau trong học tập, đoàn kết xây dựng tập thể vững mạnh, ủng hộ giúp đỡ những bạn gia đình còn khó khăn, vất vả. Một số học sinh không quản ngại gian nan, cõng bạn đến trường nơi vùng núi xa xôi đều là những hành động vô cùng tốt đẹp và giàu ý nghĩa nhân văn. Trong cách ăn nói luôn đúng mực, đi thưa về chào, kính trên nhường dưới, lễ phép với người lớn tuổi đều được thể hiện rất tốt đẹp, góp phần xây dựng văn hoá ứng xử trong nhà trường lành mạnh, an toàn.
Song, mặt khác, ta cũng không khỏi bức xúc trước những hành vi thiếu văn hoá, ứng xử thiếu giáo dục của một bộ phận học sinh hiện nay. Nhiều bạn trẻ tỏ ra vô lễ, thiếu ý thức, xúc phạm những người thầy đang đứng trên bục giảng từng ngày truyền đạt kiến thức cho chính mình. Gặp thầy cô thì lướt qua hoặc cố tình xem như không biết, nhiều em còn ngang bướng, cãi lý, thậm chí dùng cả những lời lẽ nặng nề với thầy cô. Những thầy cô nghiêm khắc thì bảo bà này, ông nọ dữ dằn, khó ưa nhưng ai biết sâu đó là cả một tình thương bao la mong muốn các em nên người. Những bài báo viết về học sinh A đánh thầy nhập viện, học sinh B chửi thầy giáo trước cổng trường vẫn viết ra hằng ngày cho thấy mức độ đáng báo động về đạo đức của học sinh ngày nay. Ngang nhiên nói tục ngay trước mặt thầy cô, xé bài kiểm tra, ăn nói cộc cằn, thiếu lễ độ vào ra trong giờ học không xin phép, cố tình xúc phạm nhân phẩm thầy cô là những biểu hiện vẫn thường thấy đâu đây trong các trường học.
Trong gia đình, một bộ phận học sinh thờ ơ với cha mẹ, chăm chăm chơi điện tử mà bỏ bê học tập, thiếu lễ phép với ông bà, người thân. Có những em còn tai hại hơn khi nảy sinh trộm cắp tiền bạc của ba mẹ để thoả mãn nhu cầu sở thích cá nhân, chểnh mảng học hành, không quan tâm đến học tập khiến bố mẹ phiền lòng, lo lắng. Với bạn bè thì dùng ngôn ngữ tục tĩu mà các em xem đó như là lời nói để thể hiện cái tôi của bản thân, nhiều em còn đưa tên bố mẹ các bạn khác ra làm trò đùa. Thực trạng đáng buồn hơn là việc đánh nhau trong nhà trường, nhiều học sinh vì chút xích mích nhỏ mà gây gổ, lôi bè kéo cánh đánh nhau, gây tổn thương về tinh thần và thể xác cho bạn mình. Nhiều video được ghi lại cảnh hành hạ bạn, đánh nhau xé áo lột quần, quấy rối bạn cùng trường... tràn lan trên mạng xã hội đã cho thấy đạo đức của học sinh đang ngày một xuống cấp nghiêm trọng. Một bộ phận khác sử dụng mạng Facebook, Zalo... như một công cụ để hạ uy tín, chửi bới, gây gổ nhau,... rồi dẫn đến những hành động thương tâm. Một số học sinh có dấu hiệu phạm tội khi con đang đi học.
Vậy nguyên nhân do đâu mà học sinh ngày càng trở nên hỗn láo, vô tâm, xấc xược như vậy. Liệu có phải đổ lỗi hết cho nền giáo dục? Thiết nghĩ, nhà trường có trách nhiệm vô cùng lớn và gia đình xã hội, bản thân mỗi học sinh cũng cần có trách nhiệm với lối sống của mình. Sự thiếu quan tâm từ gia đình, nhà trường, sự quản lí chưa nghiêm ngặt, xã hội trật tự trị an vẫn còn là vấn đề nhức nhối về tệ nạn xã hội thì làm sao có thể tránh cho trẻ những sai lầm lệch lạc. Vì vậy, chúng ta cần phối hợp thật chặt chẽ để giáo dục đạo đức và lối sống cho học sinh, mỗi người lớn phải là tấm gương đạo đức sáng ngời, thầy cô phải nêu gương cho học sinh. Xây dựng môi trường học tập thân thiện, hợp tác để học sinh phát huy khả năng và trái tim yêu thương của mình. Đặc biệt, mỗi một học sinh chúng ta phải thực sự hiểu mình, phải có nguyên tắc sống cho bản thân, tránh sa vào tệ nạn xã hội, cố gắng chăm chỉ học hành, quý thầy mến bạn. Có lối sống trung thực trong học tập và đời sống. Giản dị và khiêm tốn, nỗ lực hết mình để hoàn thiện bản thân mỗi ngày.
Bác Hồ từng nói: "Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó". Vì vậy, chúng ta - những thế hệ tương lai, những chồi non của đất nước, hãy phấn đấu thật nhiều để xây dựng văn hóa học đường thật đẹp, rạng ngời trong nhân cách, lối sống như chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Phân tích Vẻ đẹp của bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) biệt hiệu là Hi Văn, một danh tướng triều Nguyễn, văn võ toàn tài. về sự nghiệp văn chương, ông để lại khoảng 150 bài thơ, câu đối, bài "Hàn nho phong vị phú" là một kiệt tác. Với những bài thơ hát nói, Nguyễn Công Trứ có giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng: "Chí nam nhi", "Chí khí anh hùng", "Nợ tang bồng"... trong đó, độc đáo nhất là "Bài ca ngất ngưởng".
Vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng" thật đặc sắc và rất thú vị. Đó là vẻ đẹp của một nhà nho giàu cá tính, dám đem tài năng thi thố với đời, dám hành động cho thoả chí nam nhi, đồng thời cũng dám hành lạc biểu lộ bản ngã của một khách tài tử.
Vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng" còn là chất thơ, chất nhạc in đậm dấu ấn của một tao nhân mặc khách, một tài tử mang cốt cách anh hùng.
Thơ trung đại vốn phi ngã, nhưng "Bài ca ngất ngưởng" đã thể hiện cái tôi một cách đàng hoàng với tất cả niềm tự hào hiếm thấy.
Một cách xưng danh thật hào hùng. Trong xã hội phong kiến đã mấy ai dám nói như Nguyễn Công Trứ?
"Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Vân tài bộ đã vào lồng."
Kẻ nam nhi dám đem "tài bộ " ra thi thố với thiên hạ, làm tròn trách nhiệm với đời.
Phải ngất ngưởng, phải sống khác người, vì đã có công danh, về cử nghiệp đã đỗ thủ khoa. Về binh nghiệp đã làm Tham tán. về hoạn lộ đã làm Tổng đốc Đông. Có tài thao lược mới có thể ngất ngưởng, mới dám sống ngất ngưởng:
"Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng".
Có thể hiểu ngất ngưởng vì hơn đời, hơn người, do có "tài bộ".
Con đường công danh như được trải dài và mở rộng. Ông Hi Văn đang sống lại những tháng ngày oanh liệt:
"Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên".
Chữ "khi" được điệp lại bốn lần, đan xen với chữ "lúc", đã nêu bật tính thời gian và con đường công danh của một kẻ sĩ anh hùng được mở ra với bao tự hào, kiêu hãnh. Giọng thơ mạnh mẽ hào hùng thể hiện cốt cách của một đấng nam nhi tài ba lỗi lạc. Con người ấy đã sống đẹp hơn bao giờ hết:
"Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông".
(Nợ tang bồng)
Bức chân dung tự hoạ của ông Hi Văn là một trong những vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng" mà ta cảm nhận được.
Giữa triều đình, ông Hi Văn đã sống hết mình, đem tài bộ ra thi thố với thiên hạ "đã nên tay ngất ngưởng". Lúc trả áo mũ về trí sĩ, ông Hi Văn lại chơi hết mình: "Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng". Chiếc mo cau đeo sau đuôi con bò cái như để che miệng thế gian, như để giễu đời.
Thật ung dung và thảnh thơi giữa chốn lâm tuyền. Như có một sự hoá thân kì lạ:
"Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng".
Nhìn thấy "dạng từ bi" đó của ông Hi Văn, làm sao Bụt chẳng "nực cười" được?
Mọi chuyện được mất, khen chê bỏ hết ngoài tai, "ông ngất ngưởng" chính là một khách tài tử, rất thanh cao. Các điệp ngữ (khi, không) làm cho nhịp thơ, điệu thơ, giọng thơ như nhún nhảy. Cũng là một nét đẹp của ông Hi Văn, cũng là một nét đẹp của "Bài ca ngất ngưởng":
"Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục".
Bức chân dung tự hoạ của "ông ngất ngưởng" đã hoàn chỉnh, vừa bề thế, vừa trang trọng. Sự thuỷ chung về "nghĩa vua tôi" là cái thần của bức chân dung tự hoạ ấy. Sao không tự hào được?
"Chẳng Trái, Nhạc cũng phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn dạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!".
Vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng" đâu chỉ có thế. Còn là vẻ đẹp văn chương, vẻ đẹp của một bài thơ hát nói dôi khổ (hai khổ thơ). Ngôn từ thật biến hoá: khi là "tay ngất ngưởng" rồi lại "đeo ngất ngưởng lúc trở thành "ông ngất ngưởng" rồi còn cất tiếng hỏi: ’Trong triều ai ngất ngưởng như ông!".
Câu thơ co duỗi biến hoá: sáu chữ, bảy chữ, tám chữ; sử dụng điệp ngữ thần tình, giọng thơ du dương, trầm bổng. Chất nhạc cũng làm nên vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng".
Nguyễn Công Trứ đã làm Dinh điền sứ tổ chức di dân lấn biển, lập nên hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình), Tiền Hải (Thái Bình) đến nay vẫn được nhân dân hai miền quê ấy thờ cúng, đội ơn sâu.
Nguyễn Công Trứ đã trải qua nhiều thăng trầm trên con đường hoạn lộ, nhưng lúc nào ông cũng thể hiện một bản lĩnh đáng trọng và tự hào: "Lúc làm đại tướng, ta không thấy thế làm vinh; lúc làm lính thú, ta cũng không lấy thế làm nhục".
Nói về vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng" là nói về vẻ đẹp của chí anh hùng, chí nam nhi là nói về vẻ đẹp ung dung thanh cao của một tao nhân mặc khách đã để lại nhiều bài thơ hát nói nổi tiếng.
Ngất ngưởng sao mà đẹp vậy!
Dàn ý Tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình 2.
Câu trả lời của bạn
I. Mở bài
II. Thân bài
1. Đêm khuya cô đơn
2. Cảnh ngụ tình
3. Lời than thở
III. Kết bài
Tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài thơ Tự tình I.
Câu trả lời của bạn
Trong hệ thống những bài thơ mang chứa tâm sự của Hồ Xuân Hương, "Tự Tình" là một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn thầm thía của người yêu đời, tràn đầy sức sống nhưng gặp những cảnh ngộ éo le, một con người luôn khao khát tình yêu nhưng gặp toàn dang dở bất hạnh. Đó là sự bất hạnh của một ước mơ không thành.
Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió (nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX), Hồ Xuân Hương là người chứng kiến và phần nào chịu ảnh hưởng của không khí sôi sục của phong trào quần chúng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Không khí ấy tác động đến tâm hồn vốn thông minh và giàu lòng trắc ẩn của bà. Bà uy nghiêm, thức tỉnh, trắc trở về đời mình, một cuộc đời đầy éo le, bạc phận, lấy chồng hai lần, hai lần làm lẻ và hai lần chồng đều chết sớm. Điều đó, với bà là những biểu hiện cụ thể, đầy nước mắt của nỗi đau "hồng nhan bạc phận".
Mở đầu bài thơ Tự tình, tác giả gợi ra một khoảng thời gian, một góc xao xác tiếng gà. Đây là một thứ không gian, thời gian nghệ thuật được vận dụng làm cho sự thổ lộ tâm trạng tác giả:"canh khuya văng vẳng trống canh dồn". "Văng vẳng" chính là từ tượng thanh nhưng ở đây nó biểu thị tâm trạng, không khí, cái không khí buồn vắng lặng của một người thao thức giữa đêm khuya thanh vắng. Câu thứ hai nhức nhói một tâm sự :
"Trơ cái hồng nhan với nước non"
Hay nhất của câu thơ thứ hai là từ "trơ". Trơ là trơ trọi, cô đơn, lẻ loi. Nhà thơ cảm nhận nỗi buồn hồng nhan. Một nỗi buồn cá thể càng kinh khủng hơn khi cọ xát với toàn xã hội, toàn cuộc đời: "nước non". Một nỗi buồn đè nặng lên tâm sự bà, lên số phận của người phụ nữ. Không chịu đựng nổi, bà muốn chống lại, thoát khỏi. " Chén rượu hương đưa" là một phương tiện. không phải là phương tiện duy nhất mà hầu như là cuối cùng cho một đè nén quá mức. Thế nhưng, bi kịch vẫn cứ là bi kịch :
"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh"
Câu thơ nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lý Bạch :
"Dùng gươm chém nước, nước chẳng dứt
Uống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu".
Bất lực, câu thơ chuyển sang một sự cám cành si tình. Hồ Xuân Hương nói :
"Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn".
Trong quan điểm thẩm mỹ xưa, vầng trăng tượng trưng cho cuộc đời, tuổi tác của người phụ nữ. Câu "vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn" vừa là hình ảnh đẹp, có thực nhưng đượm buồn. Cái buồn của một "vầng trăng khuyết". Đối với thơ xưa cảnh là tình, cảnh trăng khuyết man mác, gợi nhớ cuộc đời bà. Trong "mời trầu" bà đã ẩn ý như vậy.
Sang câu 5, 6 tứ thơ như đột ngột chuyển biến. sự cụ thể trong miêu tả khiến việc tả cảnh trở nên thuần khuyết. Một cảnh thực hoàn toàn :
"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn".
Nghệ thuật đảo ngữ và đối tạo nên sự sinh động và cảnh đầy sức sống. Một sức sống của bà như vẫy đạp, cựa mình. Cảnh này chỉ có thể là cảnh của "bà chúa thơ Nôm" chứ không phải của ai khác. Rò ràng, dẫu đang rất buồn, rất cô đơn nhưng điều đó vẫn không làm suy giảm chất riêng của Hồ Xuân Hương. Bản lĩnh, sức sống mãnh liệt, sự khát khao với cuộc đời khiến cho lòng đầy cám cảnh bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời, tha thiết, chứa chan sức sống. Đó là lý giải về những phản kháng, đối nghịch trong bản chất của bà, tạo nên những vần thơ châm biến đối lập. Vũ khí ấy hơn hẳn chén rượu "say rồi tỉnh". Đó là phương tiên kỳ diệu nâng đỡ tâm hồn bà. Chỉ như thế mới có thể hiểu tâm trạng, tiếng thở dài của Hồ Xuân Hương, ở hai câu kết :
"Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!".
Yêu đời là thế, sức sống mãnh liệt là thế, mà cuộc đời riêng thì vẫn:"xuân đi xuân lại lại.", điệp từ chỉ cái vòng luẩn quẩn đáng ghét, vô vị của ngày tháng, cuộc đời. Điều này khiến bà không tránh khỏi một tiếng thở dài chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là một "mảnh tình" đang bị san đi, sẻ lại... chia xới. Đối với trái tim thiết tha với đời kia, điều đó như một vết thương, nhức nhối.
Người ta nói rằng thơ là tâm trạng, là một bức thông điệp thẩm mĩ. Đọc "tự tình", ta thấu hiểu tâm sự ẩn chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một nhân cách luôn khát khao hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu đời lại bắt gặp toàn những dang dở, bất hạnh, điều đó tạo nên thơ bà có khi là một tiếng thở dài. Một tiếng thở đáng quý của một người có hoài bão nhưng không thể thực hiện được, trách nhiệm là ở phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc riêng đã đối lập gay gắt với cơ cấu chung, trong chiều hướng ấy, "tự tình" là một bà thơ đòi quyên hạnh phúc, một lời phản kháng độc đáo lại chứa chan tiếng nói bênh vực của người phụ nữ, tạo được sự thấu hiểu , đồng cảm với cảnh ngộ éo le, trắc trở.
Nghị luận với chủ đề Giới hạn.
Câu trả lời của bạn
Có thể thấy được chúng ta sống và tự đặt ra cho mình những giới hạn, có những giới hạn được đặt ra vì sự an toàn của bản thân. Và ta cũng không thể đoán biết được bởi có những giới hạn kìm hãm con người vươn tới những tầm cao hơn, vượt ra khỏi khả năng của bản thân bạn. Dường như chủ đề giới hạn như gây được nhiều sự chú ý và quan tâm của mọi người vì thực tế cuộc sống cũng như đang nói về vấn đề này rất nhiều.
Đầu tiên ta phải hiểu được thế nào là giới hạn chính là một ngưỡng nào đó mà con người tự đặt ra cho mình, hoặc một phần là do cuộc sống đặt ra cho chúng ta. Giới hạn còn có nghĩa như con người cũng không được phép vi phạm, không thể bước qua…Và ta có thể thấy được giới hạn có thể chia làm nhiều loại đó chính là giới hạn thuộc quy chuẩn đạo đức con người, giới hạn thuộc phạm vi năng lực con người, giới hạn là quy định, luật lệ của xã hội…
Và nhất là khi có những giới hạn đặt ra là bạn đã tự mình co hẹp khả năng của bản thân trước những thử thách của cuộc sống. Đồng thời lại có những giới hạn đúng để không mắc vào những sai lầm không đáng có.
Ta cũng biết rằng bất kỳ ai trong số chúng ta đều có những giới hạn của riêng mình, có người xem giới hạn là đó như chính là vòng tròn an toàn mà một khi vượt qua khỏi nó chúng ta sẽ gặp nguy hiểm và không thể nào có thể cứu vãn được nữa. Có thể thấy được chính trong các mối quan hệ, giới hạn là điều cần thiết! Nó làm cho khoảng cách của con người dường như có xa nhau hơn một chút nhưng đó là khoảng cách cần thiết để con người được tự do sống với những suy nghĩ của mình, của bản thân. Tất cả những giới hạn đó, giữa hai người ở một mức độ thân thiết mà trước khi quyết định gần gũi nhau hơn. Và đó đồng thời cũng chính là khoảng cách để con người có thể suy nghĩ một cách chín chắn hơn về những quyết định của mình được đặt ra. Hãy nhớ rằng giới hạn càng xa, khoảng cách con người với nhau càng lớn nên bạn hãy biết dừng đúng lúc. Thế nhưng đừng bao giờ xóa mờ những giới hạn được đặt ra này bởi con người là hai thực thể khác biệt nhau hoàn toàn và cũng chính bởi vậy mà không nên xâm phạm vào khoảng không gian của nhau để làm cho nhau nghẹt thở và tức giận, hãy sống thật đúng và vui vẻ sẽ đến với bạn.
Hãy luôn luôn tin rằng, khả năng con người là vô hạn và cũng chính vì thế đừng bao giờ ra những giới hạn cho mình trong việc chinh phục những đỉnh cao. Chắc chắn rằng những giới hạn đó sẽ làm cho chính bạn trở nên bình thường như những người khác, không có gì nổi bật, thậm chí không có chút ấn tượng gì. Và nếu bạn cứ đặt ra những giới hạn về khả năng mà như không cố gắng thì bạn không khác gì những người sống ỉ lại, dựa vào người khác. Chính vì vậy bạn đừng bao giờ giới hạn khả năng của bản thân mình. Hãy cố gắng hãy khát khao để có thể chinh phục được những đỉnh cao của trí tuệ để có thể hoàn thiện bản thân mình hơn nữa. Giới hạn quả đúng là điều không thể thiếu trong cuộc sống, nhưng có những giới hạn bạn nên xóa bỏ để khích lệ bản thân mình cố gắng hơn trong cuộc sống
Ngoài ra giới hạn để giữ mình. Khi mà bạn biết giới hạn cũng chính là luôn tự biết mình, cũng như rất nghiêm khắc với bản thân; tránh sa ngã, vấp ngã, tránh vượt giới hạn để rồi đánh mất mình. Và bạn hãy giới hạn để có hạnh phúc viên mãn. Con người luôn có nhiều khát vọng và tham vọng nhưng không ai giống ai. Luôn muốn đạt được nhiều thứ: danh vọng, tiền tài, hạnh phúc… Song thực tế cho thấy, sức người có hạn, khả năng của mỗi người là khác nhau. Do đó, mà việc bạn biết giới hạn, biết tự bằng lòng với những gì mình đã, đang có cũng là một cách để con người đạt được bình an và hạnh phúc rồi đó. Khi bạn đã biết giới hạn, đồng nghĩa với việc đạt được một lối sống có kỉ luật, có chuẩn mực, có văn hoá và cũng chính là điều ai cũng hướng đến.
Khi chúng ta biết giới hạn để sống đúng chuẩn mực, song con người cũng cần biết tự phá vỡ giới hạn đúng lúc, đúng chỗ phá vỡ giới hạn, con người biết bước qua những ranh giới, hạn định của xã hội và của chính mình. Trong cuộc sống, không phải khi nào giới hạn nó dường như cũng đồng nghĩa với chuẩn mực, có những giới hạn tạo sự khô cứng, gò bó cần phải xóa bỏ ngay vì không còn phù hợp.
Có thể thấy được khi phá vỡ giới hạn đúng lúc đúng chỗ và vượt qua những giới hạn có tính chất gò bó khô cứng nó như cũng đã giúp ta có thêm bản lĩnh, chiến thắng nghịch cảnh, nắm bắt cơ hội vươn tới thành công đúng như câu nói “Trên đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới. Điều quan trọng là mỗi người có đủ sức mạnh để vượt qua ranh giới ấy.” (Nguyễn Khải). “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. “Bạn sẽ khám phá ra chính mình ở một nấc thang cao hơn mỗi khi vượt qua nghịch cảnh” (Thomas Edison). Và có thể khẳng định rằng tự phá vỡ giới hạn không có nghĩa là con người sống gấp, sống vội, bỏ qua những giới hạn đạo đức, đốt cháy mình. Tự phá vỡ giới hạn chỉ có ý nghĩa khi cái giới hạn đó chật hẹp, lạc hậu với xã hội đương thời, đi ngược với xu thế chung của nhân loại tiến bộ hiện nay
Là học sinh thì chính chúng ta đã có đủ khả năng nhận thức ý nghĩa của việc biết giới hạn và phá vỡ giới hạn đúng lúc đúng chỗ. Và cho dù bể biết giới hạn và phá vỡ giới hạn đúng lúc đúng chỗ là điều không đơn giản cần có hiểu biết, có quyết tâm, bản lĩnh…
Khi nói về giới hạn về khả năng thì chúng ta không nên có một ranh giới nào cụ thể, nhưng trong cuộc sống lại có những ranh giới được đưa ra và nếu như bạn bước qua ranh giới không được cho phép đó thì bạn lại thất bại. Để có được cuộc sống tốt đẹp chúng ta hãy biết được đâu là những giới hạn cần để có những hành động giúp cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Nghị luận Học đi đôi với hành.
Câu trả lời của bạn
Học tập vốn là một quá trình lâu dài và nhiều gian nan, vất vả. Bên cạnh sự chăm chỉ, cần cù, có một phương pháp học tập đúng đắn cũng là yếu tố giúp chúng ta đi đến thành công. Bàn về phương pháp học, mỗi người lại có một phương pháp khác nhau, phương pháp nào cũng đúc kết những kinh nghiệm quý báu hỗ trợ chúng ta trên con đường chiếm lĩnh tri thức. Trong số đó, học đi đôi với hành là phương pháp đã có từ lâu nhưng lúc nào cũng đem lại kết quả cao.
Trước hết chúng ta cần hiểu: học và hành có nghĩa là gì? Học là hoạt động tiếp thu tri thức đã có từ sớm của con người. Lúc nhỏ ta học đi, học nói. Lớn hơn, ta dần dần tiếp cận với biển tri thức mênh mông của nhân loại. Chúng ta có thể học qua sự chỉ dạy của thầy cô giáo, học từ sách vở, bạn bè, học từ thực tế. Học bao giờ cũng là công việc khó khăn, vất vả để làm giàu tri thức, nâng cao hiểu biết, làm chủ bản thân và làm chủ cuộc sống. Còn hành là việc áp dụng những kiến thức học được vào thực tế, vào công việc cụ thể.
Học và hành có mối quan hệ mật thiết trong cuộc sống, luôn đi đôi với nhau. Chúng ta không thể có học mà không có hành hay ngược lại. Học là quá trình tích lũy tri thức, là nền tảng của mọi công việc, vấn đề trong cuộc sống. Có thể coi việc học như gốc rễ của một cái cây, rễ có vững chắc thì cây mới phát triển tốt, đâm cành đẻ nhánh, mạnh mẽ, cứng cáp trước sóng gió cuộc đời. Học sẽ là ngọn đèn soi sáng cho thực hành. Nhưng chỉ học thôi mà không áp dụng vào thực tế thì những kiến thức ấy sẽ trở thành vô ích, tốn công sức, tiền bạc, thời gian. Có câu nói: “Mọi lí thuyết đều là màu xám, còn cây đời thì mãi mãi xanh tươi”. Thực hành sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện cho kiến thức. Nhất là trong thời đại khoa học công nghệ ngày nay, thực hành tốt là một yêu cầu quan trọng đối với người lao động.
Bác Hồ đã từng khẳng định: Lí luận phải đi đôi thực tiễn, lí luận mà không có thực tiễn chỉ là lí thuyết suông. Bác đã áp dụng sáng tạo và hiệu quả chủ nghĩa lí luận Mác- Lê- nin vào thực tế đấu tranh của dân tộc ta, dẫn dắt nhân dân ta ra khỏi vũng bùn nô lệ, thoát khỏi xiềng xích của áp bức bóc lột, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. UNESCO cũng đã đề xướng phương pháp: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Vì thế, chúng ta cần phối hợp hiệu quả, nhịp nhàng giữa học và hành để đem lại hiệu quả cao nhất trong công việc, chứng minh được năng lực của bản thân và góp phần xây dựng quê hương, đất nước.
Một thực tế đáng buồn hiện nay là nền giáo dục nước ta còn coi trọng lí thuyết mà kém tính thực hành. Điều này làm cho nền giáo dục chưa phát triển, chưa đáp được nhu cầu của xã hội. Nguyên nhân của hiện trạng này là do học sinh chưa ý thức được cặn kẽ vai trò giữa học và hành. Mặt khác, nước ta còn nghèo nàn, chưa thể đầu tư nhiều dụng cụ, phòng thí nghiệm chất lượng cho các môn học.
Để thực hiện được phương pháp học đi đôi với hành, mỗi người học sinh cần xác định cho mình mục đích học tập đúng đắn. Có một mục đích học tập, học sinh sẽ chăm chỉ học hành, say mê tìm tòi kiến thức mới. Từ cơ sở kiến thức có sẵn, chúng ta cũng cần linh hoạt, khéo léo để áp dụng những kiến thức ấy vào thực tế, trong công việc.
Học và hành là hai phần không thể tách rời trong học tập cũng như trong bất cứ công việc nào của cuộc sống. Là người học sinh, chúng ta nên áp dụng học đi đôi với hành ngay trên ghế nhà trường, bao gồm cả kiến thức, văn hóa lẫn những kinh nghiệm từ thực tế đời sống.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *