Nội dung của học Vợ nhặt của Kim Lân giúp các em hiểu được tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra. Niềm khát khao hạnh phúc gia đình, niềm tin bất diệt vào cuộc sống và tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau giữa những người lao động nghèo khổ ngay trên bờ vực thẳm của cái chết. Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật. Thông qua video bài giảng cùng phần hướng dẫn soạn bài và phần bài học, DapAnHay chúc các em có thêm nhiều tiết học hấp dẫn và hiệu quả hơn tại lớp.
⇒ Góp phần tô đậm hiện thực nạn đói và đặc biệt là giá trị nhân đạo của tác phẩm: dù trong hoàn cảnh nào, người phụ nữ vẫn khát khao một mái ấm gia đình hạnh phúc.
⇒ Những con người đói khát gần kề cái chết vẫn khao khát hạnh phúc gia đình, vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau và luôn có niềm tin vào tương lai.
⇒ Bà là một người mẹ có tấm lòng nhân hậu, bao dung, đầy hi sinh, tiêu biểu của người mẹ nghèo VN.
Phân tích diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.
Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác phẩm được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện Vợ nhặt. Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí (1962). Để dễ dnagf nắm được những kiến thức cần đạt khi học tiết văn này, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Vợ nhặt.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Truyện Vợ nhặt được Kim Lân xây dựng dựa trên tình huống: Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ ngay giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh. Để cảm nhận được những giá trị nhân văn, nhân đạo trong truyện ngắn này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt
- Dàn ý So sánh hai nhân vật bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài
- Chứng minh những người đói họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống
- Phân tích đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn của Kim Lân
- Diễn biến tâm lý nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt
- Phân tích tình huống truyện của tác phẩm Vợ nhặt để làm rõ ý kiến
- So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
- Cảm nhận về hành động Mị chạy theo A Phủ và hành động thị chạy theo không Tràng về làm vợ
- Hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
- Phân tích tình huống truyện Vợ Nhặt của Kim Lân
- Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân
- Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân
- Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện Vợ nhặt
- Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
- Cảm nhận về nhân vật Người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân?
Câu trả lời của bạn
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945 để diễn tả được cái đói có sức nặng như thế nào, nhưng ngụ ý của tác giả chính là việc dựa trên nạn đói để lột tả tính cách “trong như ngọc sáng ngời” của những con người, những mảnh đời lầm thân. Nhân vật bà cụ Tứ là một hình tượng điển hình cho người đàn bà nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con đến vô bờ bến. Hẳn rằng người đọc sẽ không bao giờ quên những lời mà Kim Lân đã dành cho bà.
Kim Lân rất khôn khéo khi lựa chọn thời điểm thích hợp để bà cụ Tứ xuất hiện, tại sao không phải là đầu câu chuyện mà lại ở giữa câu chuyện. Tác giả muốn gợi lên cái nghèo đói đến thê lương của xóm ngụ cư này, lấy nó làm nền, làm đòn bẩy để đi sâu vào phân tích diễn biến tâm lý, nội tâm của người đàn bà này. Bà Tứ xuất hiện từ khi Tràng đưa vợ về nhà, và diễn biến tâm lý của bà cụ thay đổi liên tục từ khi có một người đàn bà khác xuất hiện trong ngôi nhà của mình.
Như những bà mẹ Việt Nam nghèo khổ khác trong thời kỳ cách mạng tháng tám, bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ nghèo, bị cái đói làm cho cùng cực, suy nghĩ quá nhiều. Bà cụ Tứ xuất hiện thật rõ nét qua lời kể tác giả “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn”. Một bà cụ dáng dấp đã không còn nhanh nhẹn, tháo vát nữa mà phải “lọng khọng” đi vào nhà gợi nên một thảm cảnh thê lương đến não lòng.
Đặc biệt sự thay đổi bất ngờ khi bà nhìn thấy người đàn bà lạ ngồi ngay giữa nhà mình “Bà cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì linh tính cho bà biết trong nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng sững lại và càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đướng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?.. Ai thế nhỉ? Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà lão. Hay bà già rồi, trông gà hoá cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.. Không phải bà trông gà hoá cuốc, không phải mắt bà nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.”. Người mẹ nghèo một đời khốn khó như vậy làm sao có thể không ngạc nhiên cho được khi bà đã hiểu ra cơ sự này. Bà thương mình, thương con và thương cho người đàn bà lạ kia. Giữa cảnh chết choc như ngả rạ, nạn đói hoành hành, cái ăn chẳng có, lại còn rước thêm người như thế này bà không lo, không buồn sao được.
Bà nghĩ đến cái cảnh người ta dựng vợ gả chồng cho con cái trong lúc ăn nên làm ra, đằng này con trai bà lấy vợ trong cảnh bần hàn, thiếu thốn đủ đường thế này. Bà thương mình bao nhiêu thì thương cho con gấp bội phần, bà cảm thấy tủi nhục khi không thể mang lại ấm no và hạnh phúc cho đứa con trai tội nghiệp. Bà thương cho người đàn bà héo hon kia cũng vì đói, vì không còn gì nên mới theo Tràng về làm vợ. Chao ôi những suy nghĩ của bà cụ Tứ thật khiến người ta đau lòng, não nề, khiến người ta xót thương nhưng chẳng biết cách nào có thể thương lấy bà, thương lấy những con người trong thời đại này.
Kim Lân đã rất thành công khi phác họa hình ảnh bà cụ Tứ đầy ám ảnh trong lòng người đọc đến như vậy.
Hơn hết diễn biến tâm lý của bà cụ Tứ thay đổi rất đột ngột, nhưng sự thay đổi đó là tín hiệu đáng mừng chứng tỏ rằng bà đã chấp nhận người vợ “nhặt” của đứa con, cũng giống như việc chấp nhận sẽ gánh thêm cái khổ, cái đói, cái nghèo cùng với các con. Cái cách bà cụ Tứ dặn dò đôi vợ chồng trẻ thật khiến con người ta cảm phục “ Nhà ta nghèom liệu mà bảo nhau làm ăn. Khi anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu: Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau.”. Sự ân tình, chu đáo của người mẹ nghèo khiến đôi vợ chồng trẻ cảm động, không biết nói gì hơn, bà đã chấp nhận “người vợ mới” của đứa con, chấp nhận cả cái đói nghèo mà gia đình bà mang.
Bà ân tình với con dâu, nói cho con dâu yên lòng rằng nhà nghèo, nếu có thì làm dăm ba mâm nhưng nhà mình nghèo nên động viên con dâu có gắng. Chi tiết này đã cho thấy sự đồng cảm giữa một người phụ nữ nghèo với một người phụ nữ nghèo. Sự gắn kết này sẽ mang lại một hơi ấm và sức sống cho gia đình sau này.
Ôi chao, cái đói nghèo hoành hành, con người không lo sao được. Thương cho bà cụ Tứ, thương cho người đàn bà nghèo và thương cho những người sống trong cảnh khốn đốn đó.
Hình ảnh “nôi cháo cám” sau đêm tân hôn của con mà người mẹ này mang đến thực sự khiến chúng ta cảm động đến rơi nước mắt. Nồi cháo cám ấy không còn nguyên giá trị thực như nó vẫn mang, nó là hiện thân của tình yêu thương con vô bờ bến, đức hi sinh lớn lao của người mẹ nghèo dành cho những đứa con. Nồi cháo cám là chi tiết cực kỳ đắt giá của câu chuyện, nhân phẩm và lòng vị tha, yêu thương của bà cụ Tứ cũng từ chi tiết này mà được nhân lên gấp bội, gấp vạn lần.
Hẳn người đọc sẽ không bao giờ quên đi hình ảnh bà cụ Tứ gắn với nồi cháo cám ở cuối truyện, bà kể toàn chuyện vui cho các con nghe với hi vọng có một tương lai đỡ khổ, đỡ nhọc nhằn hơn. Một tình yêu đáng ngưỡng mộ trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Hiện thực dường như không thể đánh gục được tình yêu thương giữa con người với con người với nhau.
Bằng bút pháp khắc họa diễn biến tâm lý sâu sắc, Kim Lân đã để lại trong lòng người đọc những dư âm khó phai về hình ảnh bà cụ Tứ nghèo đó nhưng vẫn ánh lên tình yêu thương đáng ngưỡng mộ. Bà cụ Tứ là hiện thân của những gì cao đẹp nhất của một con người, một nhân cách.
Phân tích tình huống độc đáo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân?
Câu trả lời của bạn
Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của dân ta năm 1945, với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu là Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại và cho ra mắt bạn đọc với tựa dề là Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua nhưng tác phẩm vẫn xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở chỗ nhà văn Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống ép le, trở trêu chứa đựng đầy kịch tính nhưng tại chứa đựng ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.
Cốt truyện đơn giản: Một anh chàng ngụ cư nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi và xấu xí làm nghề kéo xe bò thuê, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà kiếm được cô vợ nhặt – một cô gái đang dở sống dở chết vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa khung cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong bóng tối âm u, lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chì có cháo loãng, rau chuối và muối hột. Mẹ chồng đãi con trai và con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện của ba mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh hô hào dân chúng không đóng thuế và tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo.
Cảnh anh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc nhiên và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối và lạ lùng ngay cả với mẹ con Tràng. Anh dẫn người đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi thủi đi vào cái xóm ngụ cư heo hút, tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường úp súp, tối om, không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang. Khung cảnh ngập tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.
Tràng dẫn người đàn bà mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng vì sự kiện to lớn bất ngờ của đời anh: anh đã có vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan. Mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại lấy vợ vào lúc này. Quả là chuyện lạ lùng và thú vị!
Trước hết là lạ lùng với dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn phở khác thường và người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn hay đáo để làm cho mọi người tò mò kéo nhau ra xem. Đầu tiên là lũ trẻ. Đang ủ rũ vì đói, chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng: Anh Tràng ơi, chông vợ hài! Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm bàn tán. Rồi họ hiểu ra và khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng có vợ và thực lòng muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư đang thoi thóp chờ chết này chợt bừng lên một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không? Ấy là họ lo cho sự sống đang phải đối mặt với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.
Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi nhìn thấy cô gái lạ ngồi ở giường con trai mình. Được gọi bằng u, bà càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng bảo: Kìa nhà tôi nó chào u... thì bà mới vỡ lẽ: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình... Thì ra là thằng con trai mình đã kiếm được vợ và dẫn về đây. Tâm trạng bà cụ buồn tủi, mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi vì làm cha làm mẹ mà không tròn trách nhiệm đối với con cái, nghèo khổ đến nỗi không thể cưới được vợ cho con. Mừng vì tự nhiên con trai có được vợ, dù là vợ nhặt. Còn lo bởi bà cụ băn khoăn: biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Càng ngẫm nghĩ, bà cụ càng thương con trai và thương cô gái xa lạ kia vô hạn: Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.
Đến ngay chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt, không tin là sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng... Ngày hôm sau thức dậy, nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa dám tin là mình đã có vợ. Chuyện xảy ra cứ như trong một giấc mơ, nhưng người đàn bà bằng xương bằng thịt kia chính là vợ anh, dẫu chẳng phải cưới xin gì.
Tình huống mà Kim Lân đặt ra trong truyện là một tình huống éo le, trớ trêu, không biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng lúc đầu thì mừng vì tự nhiên có được vợ, nhưng rồi anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Hàng xóm cũng lo thay cho anh và nhất là người mẹ già lo và thương đứt ruột. Tác giả đặc tả đêm tân hôn của vợ chổng Tràng với những chi tiết thật ấn tượng và chứa đựng ý nghĩa sâu xa: Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc rồi tắt. Hai người nằm lặng lẽ bên nhau trong bóng tối hãi hùng, ghê rợn bởi tiếng hờ khóc tỉ tê văng vẳng từ những nhà có người chết đói.
Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của họ bị cái đói, cái chết bủa vây. Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi, nảy nở. Bi thương cùng cực thành dữ dội. Sự sống bất chấp cái chết, điều đó chứng tỏ ý chí con người và quy luật của cuộc đời mạnh mẽ biết chừng nào !
Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, nhà văn đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn sâu xa của tác phẩm. Cho dù không trực tiếp nói tới thực dân Pháp, phát xít Nhật và chính quyền phong Kiến tay sai nhưng từ câu chuyện về người vợ nhặt vẫn toát lên lời tố cáo đanh thép tội ác tày trời của chúng đã gây ra nạn đói thảm khốc có một không hai trong lịch sử nước ta. Quan trọng hơn cả là truyện đã thể hiện thành công vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái vẻ ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong cái cuộc sống không đáng gọi là sống ấy, họ vẫn nhen nhóm niềm tin và hi vọng vào một sự đổi đời, vào tương lai tươi sáng. Đó chính là giá trị nhân văn làm nên sức sống lâu dài của tác phẩm.
Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân?
Câu trả lời của bạn
Kim Lân - một nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam vào giai đoạn trước và sau cách mạng tháng 8. Ông là một người yêu quê hương đất nước, giàu lòng thương người. Kim Lân đã khắc họa rất thành công bức tranh cảu nạn đói năm Ất Dậu, nạn đói lịch sử của nước ta năm 1945 qua tác phẩm truyện ngắn “Vợ Nhặt”. Đặc biệt là qua hình ảnh nhân vật Tràng, một người nông dân nghèo đói, bất hạnh nhưng trong anh lại có một tấm lòng giàu tình thương người, giàu khát vọng hạnh phúc. Tất cả được thể hiện qua câu chuyện đầy bất ngờ của Tràng- câu chuyện nhặt vợ giữa ngày đói.
Tràng một thanh niên chất phát, anh chính là người đại diện cho tầng lớp nông dân nghèo khổ, sống ở xóm ngụ cư nuôi mẹ già, công việc hằng ngày kiếm sống chính là đẩy xe bò mướn. Người ta thường nói cuộc đời vốn dĩ công bằng, nhưng có lẽ đối với người thanh niên Tràng thì lại quá bất công, số phận khổ cực bần cùng của chàng trai đi đôi với ngoại hình xấu xí, thô kệch với cái đầu trọc lóc, cái lưng to bè như lưng gấu, đôi mắt thì nhỏ tí gà gà. Tính tình Tràng thì lại dở hơi nhưng cũng vô cùng tốt bụng, và rất mực yêu trẻ con, chàng thường hay vui đùa với những đứa trẻ trong xóm. Một người vô cùng bất hạnh và tội nghiệp.
Nhưng run rủi sao, một con người thấp hèn ấy, một hoàn cảnh cơ cực như thế lại trở thành một chú rễ, đây có phải là một sự may mắn, là hạnh phúc của Tràng không. Bổng dưng có vợ- Tràng nhặt được vợ chỉ sau hai lần gặp gỡ, chỉ qua vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc giữa ngày đói. Có thể nói, chuyện lấy vợ của Tràng giống như là một điều lạ nhưng thú vị, giống như đùa nhưng cũng là thật. Mới ban đầu, khi người phụ nữ đói nghèo, rách rưới là thị đồng ý lấy không Tràng, lúc đó, người thanh niên này cũng thấy hơi chột dạ, cũng biết chợn vì “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi Tràng chặc lười và suy nghĩ đến đâu hay đến đó. “Chậc,kệ!”- câu nói như đồng ý, như chấp nhận số phận, như bắt đầu một cuộc sống mới. Một cuộc sống có vợ. Việc hai người này đến với nhau tuy ngẫu nhiên nhưng cũng là điều tất nhiên, Tràng cần một người vợ để biết đến hạnh phúc còn Thị-người đàn bà nghèo ấy cần một chỗ dựa để qua khỏi hoàn cảnh đói kém, một sự chở che. Đây chính là cuộc sống thường nhật trên đời.
Trên đường Tràng đưa thị về nhà, Tràng thật sự rất vui và hạnh lúc, chàng quên đi hết cuộc sống cơ cực của mình với cảnh sống nghèo đói, tăm tối, đang đe dọa từng ngày, ở Tràng lúc này có một cái gì đó mới mẻ và lạ lẫm mà chưa bao giờ cảm thấy trước đây. Kim Lân đã hơn hai mươi lần nhắc đến và miêu tả niềm vui nụ cười thường trực trên môi của Tràng khi có vợ, ông sử dụng những từ ngữ vừa gợi tả vừa gợi cảm như: mặt phớn phở, mắt sáng lấp lánh, miệng cười tủm tỉm….Và sau một đêm tân hôn, nên vợ nên chồng, Tràng cảm thấy trong người đổi khác, êm ái, lửng lơ như bừng tỉnh từ giấc mơ, cảm thấy thương yêu và gắn bó với ngôi nhà của mình…Và cái thay đổi lớn nhất đó chính là Tràng cảm thấy mình cần phải làm gì đó, phải nên người để lo cho vợ con sau này, cảm thấy được trách nhiệm và bổn phận lớn lao của mình.
Đọc tác phẩm, chúng ta cảm thấy được một tình cảm chân thành và cảm động ở Tràng, một người vui vẻ như vừa bước ra từ giấc mơ. “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Tràng đã khác so với ở đầu tác phẩm. Cưới Thị giống như một bước ngoặt quan trọng thay đổi cả cuộc đời lẫn tính cách Tràng, từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang vui vẻ yêu đời, từ một con người khờ khạo sang ý thức được trách nhiệm. Đây chính là giá trị lớn lao của hạnh phúc, một sự phục sinh tâm hồn.
Ở cuối tác phẩm, ta thấy trong suy nghĩ của Tràng xuất hiện cảnh những người nghèo đói khổ đang kéo nhau ầm ầm đi trên đê Sộp, ở đằng trước là một lá cờ đỏ sao vàng. Đoàn người đang đi phá kho thóc Nhật. Đây là một hiện thực và cũng là ước mơ tin về tương lai, tin về Đảng và cách mạng của Tràng cũng như của những người như Tràng. Kim Lân rất xuất sắc và thành công khi có thể lột tả được sự thay đổi củng như miêu tả được tâm lý nhân vật bằng ngòi bút nhân đạo vô cùng sâu sắc của tác giả.
Tràng giống như một đứa con tinh thần của Kim Lân. Tình huống nhặt vợ đầy bất ngờ và đặc biệt nhưng đã thể hiện được tư tưởng sâu sắc của tác phẩm đó chính là dù người nghèo đói, cùng cực nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống chứ không phải là cái chết, luôn có niềm tin vào tương lai tươi đẹp. Qua Tràng ta cũng đã cảm nhận được một tâm hồn trong sáng đẹp đẽ của người dân lao động nghèo đó chính là tình người và hi vọng.
Kim Lân là nhà văn lão làng trong nền văn học hiện thực Việt Nam. Ngòi bút của ông hướng đến những mảnh đời bất hạnh, làng quê Việt Nam, những người nông dân chân chất mộc mạc, nghèo đói nhưng tràn đầy tình yêu. Truyện ngắn “Vợ nhặt” là một trong những kiệt tác tái hiện lại chân thực nhất hình ảnh người nông dân sống trong nạn đói năm 1945. Đặc biệt tác giả đã khắc họa thành công diễn biến tâm lý của nhân vật chính: anh cu Tràng.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” lấy bối cảnh là nạn đói thê thảm, người chết như ngả rạ tại một xóm ngụ cư tiêu điều xác xơ. Nhan đề của tác phẩm đã làm toát lên tư tưởng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm, nhan đề cũng chính là tình huống truyện độc đáo, đặc săc làm đòn bẩy đề tác giả có thể vẽ lên được tâm lý của từng nhân vật. Thành công của Kim Lân chính là việc khắc họa được những phẩm chất cao quý bên trong những con người nông dân nghèo đói, bần cùng.
Tràng là nhân vật chính xuyên suốt tác phẩm, Kim Lân đã mượn hình ảnh anh cu Tràng để lột tả lên được diễn biến tâm lý của nhân vật từ chuyển biến này đến chuyển biến khác. Tràng là người đàn ông nghèo khổ, rách rưới, sống với mẹ già. Tràng xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm bằng vài nét chấm phá của tác giả “hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai còn mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của bắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ thú vị…”. Chỉ với những chi tiết đó, Kim Lân đã khéo léo vẽ lên một hình tượng anh nông dân nghèo, cô quạnh giữa không gian xóm ngụ cư tiêu điều. Anh cu Tràng dường như khiến người đọc liên tưởng đến nhân vật Chí Phèo của Nam Cao khi xuất hiện ở đầu tác phẩm với điệu bộ “Hắn vừa đi vừa chửi, hắn chửi trời, chửi đất, chửi cái đứa nào đẻ ra hắn…”. Người nông dân trong xã hội phong kiến đều có chung một số phận, chung một điều kiện sống, nhưng họ khác nhau ở cách nghĩ, cách lựa chọn làm người.
Tuy nhiên trong bối cảnh xã hội khắc nghiệt, dở khóc dở cười như vậy Kim Lân đã xây dựng nên tình huống truyện có thể xem là mở nút của mọi vấn đề. Anh cu Tràng “nhặt” được vợ, là nhặt được chứ không phải cưới được mới lạ chứ. Một kẻ xấu xí, nghèo đói, bần cùng, thô kệch như Tràng mà cũng có được vợ trong tình cảnh thê thảm của xã hội như thế này, lại còn được vợ theo. Quả đúng là đám cưới có một không hai trong xã hội hiện nay. Nạn đói đã đưa những con người chung cảnh ngộ, nghèo đói đến với nhau.
Có thể nói rằng tình huống truyện này cực kỳ đắt giá, làm đòn bẩy để Kim Lân có thể qua đó bộc lộ, lột tả được hết tính cách và nhân phẩm của người đàn ông nghèo vừa nhặt được vợ này.
Đặc biệt hơn nữa diễn biến tâm lí nhân vật Tràng thay đổi từ khi “nhặt” được vợ, lúc đó hắn không nghĩ gì hơn ngoài việc nghĩ đến người đàn bà đi bên cạnh “Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chè, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mắt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”. Những rung động và cảm xúc rất đời thực của một người đàn ông. Hắn trở nên hiền lành và đáng mến, không phải tình yêu có thể con người ta vui vẻ, có khi chỉ là chút tình nghĩa cỏn con cũng khiến cho bản thân thay đổi theo hướng tích cực.
Diễn biến của anh cu Tràng cứ thể chuyển biến đột ngột, đến khi về đến ngoi nhà, khi thấy một người đàn bà ngồi ngay giữa nhà, hắn mới “ngờ ngợ như không phải thế. Ra là hắn đã có vợ rồi đấy ư”. Chính hắn cũng không tin nổi là mình đã có vợ, mọi thứ đến nhanh và bất ngờ quá khiến cho cả hắn và thị đều không định hình nổi có phải là sự thật. Một sự “ngờ ngợ” rất đáng yêu và đáng trân trọng.
Đặc biệt trong đoạn thoại Tràng trò chuyện với mẹ, người ta nhận ra kẻ nông dân bân hàn, nghèo đói này lại có một trái tim và tấm lòng sáng, vẹn tròn, dung dị như vậy. Anh vừa xót thương cho thân phận người đàn bà xa lạ nghèo khổ ấy, nhưng duyên số đưa đẩy hai người đến với nhau nên hắn đón nhận như một điều trời ban.
Thế là hắn có vợ rồi, đến buổi sáng hôm sau hắn vẫn cảm thấy minh như đang ở trong mơ “Trong người êm ái lơ lửng như vừa ở trong giấc mơ đi ra. Hắn vẫn chưa tin việc mình có vợ. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ…”. Một cuộc sống mới đã đến với hắn trong niềm vui lạ và phấn khởi. Hắn chấp nhận cuộc sống khốn khó cùng vợ vượt qua tất cả.
Cái cách vợ chồng Tràng cùng ăn bữa cơm đầu tiên sau đêm tân hôn thực sự khiến người đọc cảm động. Mặc dù “nồi cháo cám” không ngon, đắng chat và khó ăn nhưng hắn vẫn ăn rất ngon lành. Vì hắn biết, hắn hiểu gia cảnh, hiểu xã hội, hiểu thời thế đang trong cảnh bần hàn. TRàng là một người giàu tình cảm, với mẹ, với vợ. Cái đói nghèo khắc nghiệt dường như không thể ngăn cản được con người chúng ta yêu nhau nhiều hơn là vì thế.
Bằng bút pháp tả thực cùng cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, tái hiện diễn biến tâm lý nhân vật một cách cụ thể sắc nét nhất. Kim Lân đã vẽ lên hình ảnh một người nông dân nghèo đói, bần hàn nhưng có cái tâm sáng, giàu tình yêu thương.
Vợ Nhặt là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân, tác phẩm xuất sắc cho văn học Việt Nam được sáng tác năm 1945 giữa nạn đói khủng khiếp, thể hiện nội dung nhân đạo sâu sắc trong từng câu văn ,hình ảnh, chi tiết của tác phẩm. Qua đó, người đọc ấn tượng với nhân vật Tràng , từ ngoại hình tính cách, gia cảnh, đến việc quan trọng nhất đời người là lấy vợ.
Truyện xoay quanh tình huống anh Tràng nhặt được vợ trong hoàn cảnh đói khát. Ở nhân vật này, nhà văn đã miêu tả với nhiều chi tiết nói về ngoại hình, tính cách, gia cảnh nhưng gần như tạo hóa không cho anh ta một điểm đáng tự hào nào cả: người thô kệch, lưng rộng như lưng gấu, đầu trọc, nhà nghèo, dân ngụ cư, nghèo kiết xã,thô. Điểm ấn tượng nhất về bề ngoài là sự ngờ nghệch có cái tật vừa đi, vừa nói, vừa cười tủm tỉm một mình. Hơn nữa, Tràng sống với mẹ, nghèo đến nỗi cái nhà hắn ở " rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại " mẹ góa con côi. Tuy nhiên ở Tràng cũng có
điểm đáng quý: vui vẻ, dễ gần, tốt bụng đối với lũ trẻ con trong xóm vẫn xúm lại trêu đùa. Anh ta không bao giờ dám nghĩ đến chuyện mình có thể lấy nổi vợ; tức là anh ta đã ế vợ và không có khả năng lấy được vợ. Hơn nữa đang trong thời điểm tất cả mọi người đều rơi vào nạn đói thê thảm. Thế mà anh ta lại nhặt được vợ một cách rất dễ dàng ngay giữa đường, giữa chợ chỉ qua vài câu nói tầm phơ tầm phào. Đã có người theo không về làm vợ, điều đó thật bất ngờ nhưng là niềm vui, hạnh phúc tột đỉnh trong cuộc đời của Tràng. Hoàn cảnh nạn đói ghê gớm, bản thân Tràng lại rất nghèo, không biết mình có nuôi nổi mình không cho nên sau lời nói đùa cho vui, Tràng cảm thấy " chợn", sợ đèo bòng. Tuy nhiên anh ta lấy vợ bằng một cái tặc lưỡi: " chậc,kệ ! ". Cái tặc lưỡi vừa thể hiện sự buông xuôi cho số phận, vừa thể hiện cái liều lĩnh của một kẻ không biết sợ là gì. Đồng thời cũng thể hiện niềm khao khát của một kẻ lần đầu tiên có niềm vui hạnh phúc.
Tràng dẫn vợ về trong niềm vui khác lạ, : " Mặt hắn có vẻ gì phớn phở khác thường , hắn tủm tỉm cười nụ một mình, hai mắt thì sáng lên lấp lánh ". Lần đầu tiên có được niềm vui trong cuộc đời cho nên Tràng quên hết những cảnh sống tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói đang đe dọa trước mắt cũng không sợ những ngày tháng đói khổ, ghê sợ ở phía trước…Có cái gì đó mới mẻ, lạ lắm chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy. Đó là cảm giác sung sướng, hạnh phúc của người đàn ông được biết thế nào là hạnh phúc. : " Tràng thích lắm, từ cha mẹ sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào
cười với hắn tình tứ như thế. " Tràng nói đùa…ai ngờ Thị về thật ". Đúng là dẫu có cực khổ, cùng quẫn đến đâu, dẫu đói khát đến mấy người ta cũng luôn luôn khao khát hạnh phúc và chỉ nghĩ đến nó thôi đã thấy nó lấn lướt tất cả nỗi sợ hãi, kể cả lưỡi hái tử thần. Chính vì thế dù bết rằng " Thóc gạo này đến cái thân mình còn không biết mình có nuôi nổi không nhưng hắn vẫn chậc kệ đưa Thị về làm vợ.
Khi Thị về nhà hắn, hắn mới thực sự thấy lo, tâm trạng bỗng thiếu tự tin, bối rối như một đứa trẻ. Tràng nóng lòng, sốt ruột, mong mẹ về, khi mẹ về hắn mừng rỡ như đứa trẻ lật đật chạy ra đón. Lúc này tâm trạng của Tràng phức tạp, đan xen rất nhiều cảm xúc: vừa mừng lại vừa lo. Sau phút bối rối khi biết mẹ đã đồng ý. Như vậy, Tràng đã thay đổi hẳn khi Thị theo về làm vợ.
Sáng hôm sau Tràng tỉnh dậy muộn nhưng vẫn chưa hết cảm giác ngỡ ngàng : " Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải ". Lần đầu tiên trong đời Tràng nhận thấy niềm hạnh phúc thật giản dị đang hiện hữu ngay trong ngôi nhà của mình, vẫn là căn nhà ấy nhưng lâu nay nhếch nhác, bừa bộn nay được mẹ và vợ sắp đặt ngăn nắp, gọn gàng. Hắn nhận thấy ngôi nhà mới thực sự là tổ ấm của mình, lâu nay hắn vẫn ở trong ngôi nhà ấy nhưng hôm nay : " bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng ." Đó chính là một gia đình, một nguồn vui sống, phấn chấn khi hắn cảm nhận được hạnh phúc một gia đình. Bấy giờ hắn mới nhận thấy hắn " nên người ", hắn nhận thấy hắn có bổn phận chăm lo cho vợ con sau này.
Như vậy, niềm vui, hạnh phúc làm cho con người ta thay đổi, sự cưu mang, đùm bọc, yêu thương nhau làm cho con người cảm nhận cuộc đời trở nên có ý nghĩa, trở nên tốt đẹp hơn và dẫu cùng đường thì con người ta vẫn luôn yêu đời, nhân hậu, có trách nhiệm hơn, sống tốt hơn trong niềm hạnh phúc.
So sánh đoạn kết hai tác phẩm Chí Phèo và Vợ nhặt?
Câu trả lời của bạn
Đề tài viết về tình cảnh người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945 là một trong những đề tài tập trung nhiều nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam trong thời kì đó. Nam Cao và Kim Lân là những ngòi bút tiêu biểu nhất. Trong tác phẩm“Chí Phèo” – Nam Cao và “Vợ nhặt” – Kim Lân tình cảnh người nông dân trước Cách mạng đã được miêu tả rất sinh động và chân thực. Bằng phong cách riêng, cách nhìn nhận riêng của mình và bằng lòng nhân đạo cao cả, mỗi nhà văn đã viết nên những tác phẩm đặc sắc về số phận riêng của người nông dân.
Đến với “Chí Phèo” cũng như “Vợ nhặt” là ta đến với số phận và cảnh ngộ của người nông dân dưới hai tròng áp bức của thực dân và phong kiến. Tuy nhiên, bằng cách nhìn nhận của riêng mình, mỗi nhà văn đã bộc lộ những khám phá riêng trong từng tác phẩm về số phận, tình cảnh của người nông dân. Do vậy, dù có chung một đề tài song mỗi người đã tạo ra được cho mình cách đi riêng và tác phẩm tiêu biểu.
Trong tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao đã làm sống dậy một làng Vũ Đại với những Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến… Những số phận khác nhau, những tính cách khác nhau ở trong một môi trường nhỏ. Nổi bật lên tất cả là những khám phá của Nam Cao về sự thống trị của chế độ phong kiến, bóng dáng của lũ thực dân và sự chà đạp lên những giá trị cơ bản nhất của con người trong xã hội dưới chế độ đó.
Đi vào tác phẩm, bằng một giọng kể lạnh lùng, Nam Cao đã đưa ta đến một số phận đau khổ và là nhân vật trung tâm, Chí Phèo, hiện ra bằng chân dung của một tên lưu manh, côn đồ trông “đặc như thằng săng đá”. Hắn vừa ở tù ra, tóc thì cắt trọc, mặt chi chít những sẹo. Cái hình dáng dữ tợn của hắn khiến cho trẻ con trông thấy phải khóc thét lên. Hắn chẳng biết hắn bao nhiêu tuổi, cha mẹ hắn là ai, mà chỉ biết hắn được một anh đi đặt ống lươn tìm thấy trong cái lò gạch cũ. Đi tù bảy tám năm, ra tù hắn về làng suốt ngày ngồi quán rượu và cũng suốt ngày hắn chửi. Hắn chửi trời, chửi đời nhưng trời có của riêng nhà nào, đời cũng chẳng của riêng ai. Vậy là hắn quay sang chửi cả làng Vũ Đại, nhưng hắn cũng không được ai đáp lại, vì họ có coi Chí là người đâu. Với họ, đấy là một con thú hung tợn và điên dại. Bất lực, hắn quay sang chửi chính người nào đã sinh ra hắn. Chao ôi! Tội nghiệp Chí! Bằng cái giọng kể lạnh lùng của mình, Nam Cao đã cho người đọc hiểu rằng Chí đã bị tước mất quyền làm người, bị chà đạp tàn nhẫn cả về nhân tính lẫn nhân hình. Trên cuộc đời và trong làng Vũ Đại, Chí chẳng còn gì để mất, chẳng còn gì để có thể cứu vớt được con người hắn.
Hình tượng Chí Phèo chính là một khám phá riêng đặc sắc của Nam Cao. Vì khi ông miêu tả Chí, ta không những không thấy ghê sợ mà còn thương cảm cho Chí. Qua “Chí Phèo” ta cũng thấy sống dậy cả một tầng lớp nông dân đói khổ bị dồn đến con đường cùng, bị chà đạp cả nhân tính lẫn nhân hình và bị tước mất những quyền cơ bản nhất của một con người.
Nhưng ai là thủ phạm đã đẩy Chí cùng những số phận nghèo khổ khác đến chân tường vậy? Không dừng lại ở khám phá đó, Nam Cao đã đi dần, bóc vỏ bọc để lộ rõ chân tướng của thế lực đen tối đó. Đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội thực dân phong kiến mà đại diện tiêu biểu là cha con Bá Kiến. Trong quá trình tha hóa nhân phẩm của Chí, Bá Kiến luôn có mặt, can thiệp thô bạo hay nói đúng ra là nguyên nhân đẩy Chí đi vào con đường tha hóa. Chỉ vì một sự ghen tuông với Chí về bà Ba – một người đàn bà lẳng lơ mà Bá Kiến đã không ngần ngại đẩy Chí vào tù. Vậy là một anh nông dân cần cù khỏe mạnh và trung thực đến độ bóp đùi cho bà Ba cũng không khỏi run tay, Chí trở thành lưu manh. Cuộc sống trong tù đối mặt với mọi cái xấu xa, gian trá nhất trên đời đã đánh cắp cái phần người, phần nhân tính trong Chí. Vậy nhưng Bá Kiến đã tha cho Chí đâu. Ra tù, Chí bị lão lợi dụng vào những trò tranh giành quyền chức bẩn thỉu của lão. Bằng cái kinh nghiệm dùng người của sự quỷ quyệt gian manh và “tiếng cười Tào Tháo”, Bá Kiến đã biến Chí thành tay sai của mình trong khi đã cướp sạch của hắn những thứ quý giá nhất: quyền được sống và quyền làm người.
Trong sự rộng lớn về đề tài người nông dân trước Cách mạng, Nam Cao đã biết khám phá những mảng riêng bằng con mắt của mình. Bên cạnh sự thống trị của một giai cấp tàn ác và tham lam, thì khám phá quan trọng nhất và sâu sắc nhất của Nam Cao là giá trị trong mỗi con người.
Nam Cao không chỉ lạnh lùng chỉ ra cho ta thấy một Chí Phèo lưu manh, tha hóa đến tột cùng, một Thị Nở ngây ngây dại dại, xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn; mà trong những con người đó, ông tìm ra cái phần nhân tính cao đẹp vẫn ẩn giấu trong tâm hồn họ qua bao nhiêu lớp bọc. Chí Phèo uống rượu không phải chỉ để say. Hắn cố uống cho say, song lại tỉnh. Ra tù, hắn nhận ra hắn đã bị cướp đoạt đi cả nhân tính lẫn nhân hình. Lần thứ hai hắn bị xã hội vứt bỏ và lần này thì chẳng còn ai chìa tay cứu vớt hắn. Đau đớn và tuyệt vọng, hắn tìm đến rượu. Song trong cơn say, bản năng muốn làm người trỗi dậy làm nảy sinh trong hắn ý định trả thù. Hắn nhận ra Bá Kiến là kẻ thù, là kẻ đã gây ra cho hắn hậu quả ấy. Song đau đớn thay, vì một lần nữa hắn lại rơi vào âm mưu gian xảo của Bá Kiến.
Trong cái tuyệt vọng khốn cùng, một hạnh phúc hiếm hoi đã đến với hắn, thức tỉnh cái ước muốn làm người trong hắn một cách mạnh mẽ. Sự cứu vớt ấy là tình yêu của Thị Nở - một người đàn bà dở dở ương ương cũng bị xã hội coi thường. Thị cũng như Chí, cũng là con người dưới đáy xã hội. Nhưng trong con người thị vẫn tiềm ẩn một khả năng, khả năng yêu – cái chức năng cơ bản của người phụ nữ, một con người. Bát cháo hành của thị đã có một sức mạnh làm trỗi dậy khát vọng làm người trong Chí. Tình yêu ấy đã khiến Chí sống lại với mơ ước một thời là có một gia đình, một hạnh phúc đơn sơ, giản dị. Song khi chuỗi thời gian năm ngày hạnh phúc ngắn ngủi của Chí kết thúc thì Chí nhận ra tất cả đã quá muộn rồi: “Tao muốn làm người lương thiện” nhưng “Ai cho tao lương thiện?”.
Trong rất nhiều khía cạnh của đề tài này, Nam Cao đã có những khám phá riêng và sâu sắc. Tựu chung lại, ông đã làm nổi bật lên những giá trị nhân văn tiềm ẩn và có sức sống mạnh mẽ trong những con người như Chí, như Thị Nở… Trong tác phẩm “Chí Phèo”, Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, … đã trở thành nhân vật điển hình và những khám phá riêng của Nam Cao cũng trở thành điển hình.
Cũng đề cập đến đề tài trên, nhưng với con mắt riêng của mình, Kim Lân cũng đã có những khám phá riêng trong tác phẩm “Vợ nhặt”.
“Vợ nhặt” là bức tranh về cuộc sống của người nông dân nơi xóm ngụ cư tồi tàn, nhưng trong những lúc đói khát khốn cùng nhất, họ vẫn nuôi mơ ước về một hạnh phúc đầm ấm, giản dị trong tương lai.
Đối ngược với chất giọng lạnh lùng của Nam Cao, với giọng nhẹ nhàng, tình cảm, Kim Lân đã miêu tả về cuộc sống của những con người đang lay lắt giữa cái sống và chết, khi nạn đói cứ rình chực như cơn bão lăm le cướp đi tất cả.
Tràng là một người kéo xe thuê, với hình dáng bên ngoài to lớn và vập vạp, hai con mắt nhỏ tí gà gà, hai quai hàm bạnh ra, bao giờ cũng nhấp nhính những ý nghĩ vừa dữ tợn vừa thú vị. Nạn đói với sức tung hoành khủng khiếp của nó đã cuốn lấy tất cả trên những con đường đã đi qua “Người chết như ngả rạ” – “Không khí vẩn lên mùi thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. “Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Nạn đói cũng khiến cho Tràng trở nên nặng nề và mệt mỏi. Những đứa trẻ ở xóm ngụ cư – đại diện cho sự sống vui tươi cũng trở nên ủ rũ. Để trêu chọc Tràng được một câu, chúng cũng phải “cong cổ gào” mới bật ra mấy tiếng “Anh Tràng ơ! Chông vợ hài”.
Khám phá của Kim Lân không phải là nạn đói ấy, mà ngòi bút của ông đã đào sâu sắc sảo để phát hiện ra sức sống mãnh liệt của con người cho dù trong cơn khốn quẫn nhất vẫn lấp lánh những ước mơ.
Nam Cao đặt các nhân vật của mình trong một không gian làng Vũ Đại, nơi thống trị lâu đời của chế độ phong kiến. Đằng sau những Bá Kiến – ta vẫn thấy thấp thoáng bóng thực dân. Còn Kim Lân lại đề cập đến xóm ngụ cư và có sự hiện hình rõ rệt của bọn thực dân, phát xít Nhật. Nhân vật của Kim Lân, không phải được khám phá ở phương diện bị bóc lột, chà đạp mà Tràng, người vợ là đại diện cho sức sống mãnh liệt, những con người dù đang sống giữa ranh giới của cái sống và chết vẫn không nghĩ tới “ngày mai”. Trong cái “tao đoạn” khốn khổ nhất, Tràng lại lấy vợ. Một sự kiện bất ngờ mà cũng lắm éo le. Cũng có lúc Tràng lo ây về sự kiếm sống để nuôi gia đình. Nhưng ý nghĩ ấy bị lấn át đi bởi cái hạnh phúc bất ngờ của anh. “Trên khuôn mặt Tràng có nét gì phởn phơ”, “ý nghĩ có vợ khiến Tràng thấy vui vui”. Hạnh phúc dù đến trong cảnh khốn cùng nhưng nó vẫn đủ sưởi ấm cho tâm hồn ấy.
Bà cụ Tứ không khỏi ngạc nhiên khi con lấy vợ trong hoàn ảnh ấy. Bà thương cho con mình. Trong lòng người mẹ ấy đan xen bao nhiêu tình cảm. Chao ôi, có lòng người mẹ nào lại không đau xót khi không lo nổi cho hạnh phúc của con. “Hai con mắt của bà nhoèn ra”, “Bà lo âu rồi không biết chúng nó có qua nổi cái tao đoạn này không?”. Nhưng rồi cùng với tấm lòng người mẹ, bà hiểu ra tất cả với một nỗi cảm thông “có thế nào người ta mới lấy con mình mà con mình mới có vợ”.Rồi bỏ qua những lo âu đó, bà lại nghĩ cho tương lai về sau, bà nói về những dự định trong tương lai và bà hi vọng.
Sự xuất hiện một thành viên mới, bỗng thay đổi cả cái gia đình hiu quạnh ấy. Ai nấy đều chung tay sửa soạn, dường như họ nghĩ nếu như dọn dẹp cho khung cảnh được quang quẻ, thì cuộc sống cũng có cơ khấm khá hơn. Người đàn bà đã đúng là người vợ đúng mực. Tràng thì cũng xăm xăm muốn góp công vào tu sửa nhà cửa“Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại”. Song cái thảm hại toát lên từ đĩa rau chuối thái rối với niêu cháo lõng bõng chỉ có thể họ bớt một chút vui, chứ không ngăn được những mơ ước của họ. Bà cụ Tứ trong suốt bữa ăn chỉ nói chuyện vui sướng về sau, gợi lên trong vợ chồng Tràng một viễn cảnh tươi sáng.
Bằng phong cách, con mắt riêng của mình, Kim Lân đã khám phá ra những nét riêng của số phận và con người nông dân trước Cách mạng. Cuộc sống tối tăm đói khát không đủ sức giết chết mơ ước và sức sống trong họ.
Trong mỗi tác phẩm, các tác giả có mỗi cách kết thúc khác nhau.
Trong “Chí Phèo”, Nam Cao kết thúc truyện bằng một cuộc “khởi nghĩa” nhân tính của Chí Phèo. Trong cơn tuyệt vọng tột cùng vì nhận ra mình đã mất đi quyền được làm người, Chí đã tìm đâm Bá Kiến – kẻ thù hiểm độc nhất của mình rồi tự sát.
Còn trong “Vợ nhặt”, kết thúc câu chuyện là lời kể về cuộc khởi nghĩa phá kho thóc và hình ảnh đám người đói cùng lá cờ đỏ sao vàng vẫn lởn vởn trong đầu Tràng.
Cái chết của Chí Phèo không gợi lên sự bi thảm hay tối tăm như tương lai chị Dậu. Mà nếu như Chí Phèo đã thực hiện một cuộc “khởi nghĩa” đầy nhân tính, thì Tràng của Kim Lân lại được nhận thức về một cuộc cách mạng không xa trong tương lai để xây dựng một cuộc đời hạnh phúc.
Chí Phèo đã chấp nhận lấy cái chết để đánh đối sự lương thiện nhân tính. Hắn chết nhưng phần linh hồn lại được gột rửa sạch, trở về đúng nghĩa một con người. Và vì vậy cái chết của Chí cũng là một kết thúc điển hình và hợp lí.
Với “Vợ nhặt”, ta tin rằng trong tương lai không xa rồi Tràng cũng sẽ tham gia cách mạng, đi dưới lá cờ đỏ ấy để thực hiện ước mơ của mình, của những người dân xóm ngụ cư.
Qua đó, ta đã hoàn toàn có thể thấy rõ được tư tưởng nhân đạo bao trùm hai tác phẩm. Mỗi nhà văn sáng tác đều dựa trên tấm lòng nhân đạo của mình. Tư tưởng nhân đạo nổi bật ở từng số phận Tràng, Chí Phèo…và xuyên suốt tác phẩm qua diễn biến câu chuyện.
Với “Chí Phèo”, Nam Cao đã thể hiện tư tưởng nhân đạo đặc sắc và chủ đạo của ông là ở sự bộc lộ của mỗi nhân vật. Bằng một giọng điệu lạnh lùng với trái tim nồng ấm yêu thương, Nam Cao đã nhận ra phần người bị khuất lấp đằng sau những hình dáng dữ tợn, xấu xí… Ông đã biện minh một cách lặng lẽ cho nhân tính của những người dưới đáy xã hội như Chí Phèo, Thị Nở, đồng thời cũng lên án mạnh mẽ giai cấp thống trị đương thời.
Kim Lân qua “Vợ nhặt”, đã làm toát lên sức sống mãnh liệt của những người dân Việt Nam trong những sức vóc nhỏ bé ấy lại là cả một sức mạnh tiềm tàng, một tâm hồn phong phú. Không nhiều lời, song ông cũng đã phơi bày được tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật qua những trò như thu thóc tạ đã bóc lột nhân dân đến tận cùng.
“Chí Phèo”, “Vợ nhặt” – tự những tác phẩm ấy đã nói lên giá trị của mình và với những giá trị đó, nó xứng đáng vào hàng ngũ những tác phẩm thành công nhất của văn học thời kì trước Cách mạng.
Cảm nhận của anh chị về chi tiết bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới ở phần cuối tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân?
Câu trả lời của bạn
“Vợ Nhặt” một trong những tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Những trang văn của ông thấm đượm được tính hiện thực những năm nạn đói 1945. Đặc biệt việc xây dựng chi tiết rất thành công của Kim lân giúp tác phẩm càng trở nên thu hút và gây ấn tượng với người đọc. Trong đó, bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới ở phần cuối tác phẩm gây nên nhiều suy nghĩ trong lòng độc giả.
Mặc dù chi tiết bữa cơm đón nàng dâu ngày đói ở cuối tác phẩm là một chi tiết nhỏ nhưng lại có sức ám ảnh và lay động người đọc. Thông thường, bữa cơm đón nàng dâu mới là một bữa ăn có vai trò quan trọng thể hiện sự gắn kết, đầm ấm giữa gia đình nhà chồng với thành viên mới trong gia đình. Thế nhưng, trong truyện ngắn “Vợ Nhặt” bữa ăn này lại hết sức đơn giản nếu không muốn nói là tuềnh toàng và thảm hại. “Giữa cái mẹt rách…muối ăn với cháo”. Ở đây, Kim Lân đã thể hiện tài năng ngôn ngữ của mình với đầy sức gợi hình và gợi tả. Bữa ăn chỉ được chuẩn bị qua loa, sơ sài. Nó nói lên sự nghèo đói của một gia đình ở tầng lớp dưới cùng của xã hội. Đồng thời, chính bữa cơm này cũng tái hiện lại chân thực cái đói cái nghèo những năm 1945. Họ đang cố gắng giành giật lại từng chút sự sống từ bàn tay của tử thần. Và điều cần nhất lúc này không đòi hỏi đến ăn ngon, đủ ăn mà chỉ cần có ăn để được sống. Do đó, xét trong tình cảnh hiện thực năm 1945 mặc dù bữa cơm có đơn sơ, tuềnh toàng và sơ sài bao nhiêu thì bữa cơm do bà cụ Tứ là một sự cố gắng trong hoàn cảnh giữa ranh giới của sự sống và cái chết. Đặc biệt, liêu cháo loãng nhanh chóng hết nên mẹ con cụ Tứ phải ăn cám. Đồ ăn vốn dĩ dành cho động vật, không phải cho con người.
Nhưng trái ngược với những thứ đơn sơ, với cái đói cái nghèo là không khí đầm ấm trong bữa ăn. “Cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Nhưng đến lúc phải ăn cám thì “một nỗi tủi hờn len vào tâm trí của mọi người”. Tuy nhiên, họ vẫn chấp nhận, cam chịu, nén những tủi nhục vào bên trong chứ không một lời ca thán. Cả cô con dâu kia, dường như cũng hiểu được tình cảnh trớ trêu để chấp nhận lấy chồng trong cái nghèo, cái đói bủa vây như vậy. Bao trùm không khí bữa ăn vẫn dào dạt tình người. Bà cụ Tứ chắt chiu từng chút niềm vui, cố gắng tạo ra không khí hòa hợp, vui vẻ “bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện…toàn chuyện sung sướng về sau này”. Bà vừa là người thắp lửa và cũng là người truyền lửa. Thắp lên những niềm vui, lạc quan vào cuộc sống và truyền cho con cái những lạc quan ấy để các con hướng về tương lai. Đặc biệt là câu nói bông đùa của bà cụ Tứ “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Câu nói toát lên khí chất của một bà mẹ vừa hóm hỉnh, nhân hậu nhưng cũng đầy đắng cay trong câu nói để mong các con vui vẻ, xua tan đi không khí u ám chiếm lĩnh không gian ngôi nhà bà.
Có thể thấy rằng, chi tiết bữa ăn ngày cưới ở phần cuối tác phẩm vừa tô đậm giá trị hiện thực nạn đói năm 45. Để qua đấy, người đọc có thể hình dung ra được những thảm cảnh của người lao động. Nạn đói đe dọa đến sự sống và bao trùm mọi ngóc ngách, ngôi nhà của những người lao động nghèo, cướp đi sinh mạng của biết bao con người khốn khó. Đồng thời chi tiết này cũng có tác dụng tô đậm thêm giá trị nhân đạo của tác giả. Kim Lân thể hiện một nỗi cảm thương sâu sắc cho người nông dân lao động đồng thời cũng ca ngợi sức mạnh cũng như khí chất của con người lao động thời kỳ bấy giờ. Dù hoàn cảnh có khó khăn đến đâu, họ vẫn sống và đối xử với nhau bằng hơi ấm của tình người. Và bằng việc sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng tác giả đã gây ấn tượng mạnh vào tâm trí của người đọc.
Phân tích bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới trong tác phẩm Vợ Nhặt?
Câu trả lời của bạn
“Vợ Nhặt” một trong những tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Những trang văn của ông thấm đượm được tính hiện thực những năm nạn đói 1945. Đặc biệt việc xây dựng chi tiết rất thành công của Kim lân giúp tác phẩm càng trở nên thu hút và gây ấn tượng với người đọc. Trong đó, bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới ở phần cuối tác phẩm gây nên nhiều suy nghĩ trong lòng độc giả.
Mặc dù chi tiết bữa cơm đón nàng dâu ngày đói ở cuối tác phẩm là một chi tiết nhỏ nhưng lại có sức ám ảnh và lay động người đọc. Thông thường, bữa cơm đón nàng dâu mới là một bữa ăn có vai trò quan trọng thể hiện sự gắn kết, đầm ấm giữa gia đình nhà chồng với thành viên mới trong gia đình. Thế nhưng, trong truyện ngắn “Vợ Nhặt” bữa ăn này lại hết sức đơn giản nếu không muốn nói là tuềnh toàng và thảm hại. “Giữa cái mẹt rách…muối ăn với cháo”. Ở đây, Kim Lân đã thể hiện tài năng ngôn ngữ của mình với đầy sức gợi hình và gợi tả. Bữa ăn chỉ được chuẩn bị qua loa, sơ sài. Nó nói lên sự nghèo đói của một gia đình ở tầng lớp dưới cùng của xã hội. Đồng thời, chính bữa cơm này cũng tái hiện lại chân thực cái đói cái nghèo những năm 1945. Họ đang cố gắng giành giật lại từng chút sự sống từ bàn tay của tử thần. Và điều cần nhất lúc này không đòi hỏi đến ăn ngon, đủ ăn mà chỉ cần có ăn để được sống. Do đó, xét trong tình cảnh hiện thực năm 1945 mặc dù bữa cơm có đơn sơ, tuềnh toàng và sơ sài bao nhiêu thì bữa cơm do bà cụ Tứ là một sự cố gắng trong hoàn cảnh giữa ranh giới của sự sống và cái chết. Đặc biệt, liêu cháo loãng nhanh chóng hết nên mẹ con cụ Tứ phải ăn cám. Đồ ăn vốn dĩ dành cho động vật, không phải cho con người.
Nhưng trái ngược với những thứ đơn sơ, với cái đói cái nghèo là không khí đầm ấm trong bữa ăn. “Cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Nhưng đến lúc phải ăn cám thì “một nỗi tủi hờn len vào tâm trí của mọi người”. Tuy nhiên, họ vẫn chấp nhận, cam chịu, nén những tủi nhục vào bên trong chứ không một lời ca thán. Cả cô con dâu kia, dường như cũng hiểu được tình cảnh trớ trêu để chấp nhận lấy chồng trong cái nghèo, cái đói bủa vây như vậy. Bao trùm không khí bữa ăn vẫn dào dạt tình người. Bà cụ Tứ chắt chiu từng chút niềm vui, cố gắng tạo ra không khí hòa hợp, vui vẻ “bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện…toàn chuyện sung sướng về sau này”. Bà vừa là người thắp lửa và cũng là người truyền lửa. Thắp lên những niềm vui, lạc quan vào cuộc sống và truyền cho con cái những lạc quan ấy để các con hướng về tương lai. Đặc biệt là câu nói bông đùa của bà cụ Tứ “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Câu nói toát lên khí chất của một bà mẹ vừa hóm hỉnh, nhân hậu nhưng cũng đầy đắng cay trong câu nói để mong các con vui vẻ, xua tan đi không khí u ám chiếm lĩnh không gian ngôi nhà bà.
Có thể thấy rằng, chi tiết bữa ăn ngày cưới ở phần cuối tác phẩm vừa tô đậm giá trị hiện thực nạn đói năm 45. Để qua đấy, người đọc có thể hình dung ra được những thảm cảnh của người lao động. Nạn đói đe dọa đến sự sống và bao trùm mọi ngóc ngách, ngôi nhà của những người lao động nghèo, cướp đi sinh mạng của biết bao con người khốn khó. Đồng thời chi tiết này cũng có tác dụng tô đậm thêm giá trị nhân đạo của tác giả. Kim Lân thể hiện một nỗi cảm thương sâu sắc cho người nông dân lao động đồng thời cũng ca ngợi sức mạnh cũng như khí chất của con người lao động thời kỳ bấy giờ. Dù hoàn cảnh có khó khăn đến đâu, họ vẫn sống và đối xử với nhau bằng hơi ấm của tình người. Và bằng việc sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng tác giả đã gây ấn tượng mạnh vào tâm trí của người đọc.
Cảm nhận về chi tiết dòng nước mắt trong Vợ nhặt và Chiếc thuyền ngoài xa?
Câu trả lời của bạn
Truyện ngắn "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân và "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu đều là những tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của mỗi tác giả. Trong hai truyện ngắn này cùng có sự xuất hiện của chi tiết "dòng nước mắt", ở mỗi tác phẩm chi tiết này đều mang giá trị ý nghĩa sâu sắc tuy nhiên lại mang đến cho người đọc những cảm nhận rất khác nhau.
Trước hết, ta cùng cảm nhận về dòng nước mắt trong truyện ngắn "Vợ nhặt". Tình huống xuất hiện dòng nước mắt đó là khi anh Tràng bỗng dưng nhặt được vợ. Trong hoàn cảnh cái đói khổ bao trùm, bà cụ Tứ vừa xót xa, vừa buồn tủi lại đầy lo lắng khi không thể cưới vợ cho con lại bị cái đói khổ đe dọa, từ kẽ mắt của người mẹ già đã chảy ra những dòng nước mắt. Đó chính là biểu hiện của tình yêu thương con ở bà cụ Tứ, người mẹ già đã bao năm khổ cực, mồ hôi nước mắt cũng đã cạn dần suốt bao năm tháng khốn khổ đói nghèo. Nước mắt bà rơi một phần vì mừng cho con có vợ, nhưng một phần vì cay đắng, buồn tủi khi con lấy vợ giữa những ngày đói "người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì...". Bà khóc vì thương con, trách mình không thể cưới vợ cho con đàng hoàng, đó là tình mẫu tử cao cả và thiêng liêng, sự hy sinh trọn vẹn khiến người đọc cũng cảm thấy thắt lòng. Dòng nước mắt của bà vừa phơi bày hiện thực xã hội trong nạn đói 1945, vừa thể hiện sự cảm thông sâu sắc của tác giả, ca ngợi tình yêu thương cao cả của người mẹ.
Trong truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa", dòng nước mắt của người đàn bà rơi khi người con lao vào đánh bố để bênh mẹ. Dù bị chồng đánh đập liên tiếp "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" nhưng bà không hề khóc, bà khóc khi bi kịch gia đình bà che giấu bao lâu đã bị phơi bày. Dòng nước mắt của bà là sự thương xót, bất lực trước sự tổn thương trong tâm hồn của người con, "như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà". Đó chính là nỗi đau mà bạo lực gia đình mang tới, người con lại mất đi nhân cách, đi ngược lại đạo lý làm con. Đó cũng là biểu hiện của tình mẫu tử, tình mẹ thương con, sự thức tỉnh sau những nỗi đau. Trong tác phẩm này, dòng nước mắt đã phơi bày hiện thực bạo lực gia đình trong xã hội sau chiến tranh, đồng thời cũng mang đến cho người đọc sự cảm thương sâu sắc, khẳng định tình mẫu tử thiêng liêng.
Dễ dàng nhận thấy điểm tương đồng của chi tiết dòng nước mắt trong cả hai tác phẩm chính là dòng nước mắt của những người mẹ thương con, hết lòng vì con, những người phụ nữ cả một đời lam lũ khổ sở. Đây cũng đều là những dòng nước mắt mang nặng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Tuy nhiên, đặt trong hoàn cảnh khác nhau nên ý nghĩa cũng khác nhau, dòng nước mắt của bà cụ Tứ vừa mừng vừa thương vừa buồn tủi nhưng bà còn có một tương lai đang lóe lên tia sáng của hạnh phúc. Còn dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài chứa chan sự đau đớn, tủi nhục và bất lực, sau những dòng nước mắt ấy là bầu trời cuộc đời đen tối, u ám. Và để khắc họa thành công chi tiết nghệ thuật dòng nước mắt của hai người phụ nữ trong hai hoàn cảnh khác nhau, mỗi nhà văn lại lựa chọn cho mình bút pháp nghệ thuật khác nhau: Nếu như nhà văn Kim Lân sử dụng cách diễn đạt trực tiếp, đơn giản thông qua con mắt nhìn của một người nông dân đồng cảm với nỗi đau của con người, thì tác giả Nguyễn Minh Châu lại dùng cách ví von, hình ảnh để diễn tả nỗi đau cũng như vẻ đẹp, giá trị những giọt nước mắt của người mẹ thông qua con mắt của người nghệ sĩ Phùng. Đó cũng là nét dấu ấn riêng biệt, tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo của mỗi nhà văn.
Có thể thấy, chỉ với chi tiết dòng nước mắt nhưng vào trong từng bối cảnh xã hội, dưới ngòi bút của mỗi tác giả lại mang những giá trị ý nghĩa khác nhau. Tuy nhiên giá trị sâu sắc nhất mà người đọc cảm nhận được chính là tình mẫu tử thiêng liêng trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Dàn ý chi tiết cảm nhận về chi tiết dòng nước mắt trong Vợ nhặt và Chiếc thuyền ngoài xa?
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, chi tiết "dòng nước mắt"
2. Thân bài
3. Kết bài
Giá trị ý nghĩa của chi tiết "dòng nước mắt": Có thể thấy, chỉ với chi tiết dòng nước mắt nhưng vào trong từng bối cảnh xã hội, dưới ngòi bút của mỗi tác giả lại mang những giá trị ý nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, giá trị sâu sắc nhất mà người đọc cảm nhận được chính là tình mẫu tử thiêng liêng trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Phân tích ngọn lửa tình người thắp lên giữa đêm đen cuộc sống cảm nhận Vợ nhặt của Kim Lân?
Câu trả lời của bạn
"Đó là những người cầm bút có biệt tài có thể chọn trong cái dòng xuôi chảy một khoảng thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh khắc với một vài sự diễn biến sơ sài và cũng bình thường thôi, nhưng bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi đó là khoảnh khắc chứa cả một đời người, một đời nhân loại...". Mỗi lần đọc và giảng truyện ngắn Vợ nhặt, tôi lại nhớ tới ý kiến rất sâu sắc ấy của nhà văn quá cố Nguyễn Minh Châu. Quả vậy, cây bút truyện ngắn biệt tài Kim Lân đã chọn được một khoảnh khắc thời gian thật tiêu biểu để dựng nên tác phẩm, ấy là buổi chiều "nhá nhem" không chỉ vẩn lên mùi ẩm thôi, đi vào một đêm đen thỉnh thoảng vẳng ra tiếng hờ khóc tỉ tê, và tiến đến một buổi sớm mai mùa hè "sáng loá". Câu chuyện như một mảnh vẹn nguyên cuộc sống được xắn ra, vật lên trên trang giây - cuộc sống của những lao động Việt Nam xanh xám, vật vờ, tối đen trong giờ phút lụi tàn của xã hội thực dân phong kiến, chuẩn bị cho Cách mạng tháng tám năm 1945. Viết về xã hội cũ, song nhà văn không miêu tả những bi kịch của kiếp người như những cây bút hiện thực thời kỳ ấy. Chọn thời điểm giáp ranh Cách mạng, cho tác phẩm ra đời năm 1962 trong tập truyện nổi tiếng Con chó xấu xí, tác giả Vợ nhặt cũng không dùng giọng văn ngắn mang âm hưởng sử thi ca ngợi. Ngòi bút Kim Lân hướng vào chuyện duyên kiếp, tình nghĩa của con người, tỏa hơi ấm từ tình người. Tình người - trước hết là ở những người lao động bé nhỏ, dưới đáy xã hội - đã được nhen nhóm, thắp sáng giữa đêm đen của cuộc sống.
Chao ôi, cái đêm đen cuộc sống ở một xóm nghèo ven thành phố của những người ngụ cư mới khủng khiếp làm sao! Cái đói, cái chết hiện hình thành những rìu sắc, đường nét rõ rệt, ngay trước mắt con người: đường vào tối om, bóng người đói với những khuôn mặt xanh xám đi lại dật dờ như những bóng ma - Cái đói, cái chết cất lên trong "tiếng quạ gào từng hồi thê thiết trên mây cây gạo ngoài bãi chợ", trong tiếng "hờ khóc tỉ tê" của những gia đình vừa chôn cất người thân. Rồi nó "vẩn thành mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người", "mùi đốt đống rấm - đốt những vật dụng của người vừa chết - bốc lên khét lẹt". Trong tiến trình văn học Việt Nam, nhiều nhà thơ đã viết về nạn đói: Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tuỳ bút kể chuyện mùa màng thất bát, cả một vùng rộng lớn ở Thái Bình lúa ngô chết rục, chỉ thấy chồn, cáo chạy nhông, đào bới...Nguyễn Du trong Sở kiến hành tả cảnh một gia đình đói rách đi xin ăn... Và Thạch Lam, và Nguyễn Công Hoan, và Ngô Tất Tố... Song dường như chưa một ai đặc tả, cực tả rõ nét cái nạn đói năm ất Dậu - 1945 - ở một thời gian cụ thể, một không gian đậm đặc như Kim Lân đã làm. Trong truyện Đôi mắt, năm 1948 Nam Cao cũng từng dự cảm về "Cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, đọc Vợ nhặt của Kim Lân, chúng ta không chỉ nghe lời kể của nhà văn mà như phải trực tiếp sống giữa cái thời điểm, cái nơi chôn đói nghèo ất Dậu ấy, nhìn rõ cỏ cây, nhà cửa, bóng người, nghe rõ những tiếng quạ kêu, tiếng người khóc, ngửi thấy mùi gây, mùi khét. Chúng ta không chỉ "rùng mình", còn khiếp sợ, còn xót thương, ngột ngạt, tưởng chừng không sống nổi. Văn chương hay chính đây đích thực cuộc đời đang hiện về? Từng màu sắc, từng âm thanh, từng mùi vị... Một cảnh điêu tàn, rữa nát. Cái chết lan tràn, bao phủ. Đêm đen buông xuống. Đời người, kiếp nhân sinh giống như một đống tro tàn, lạnh ngắt.
Vậy mà giữa bóng đen, giữa khí lạnh cuộc đời, hai kiếp người - anh con trai mệt mỏi bởi những lo lắng chật vật hàng ngày và chị con gái tả tơi, gầy sọp, xám xịt - đã tình cờ gặp nhau, cưới nhau, cùng nhau nhen nhóm ngọn lửa... Bắt đầu là Tràng, rồi cô vợ. Họ được cả làng xóm dõi nhìn, cuối cùng được bà mẹ chấp nhận bằng một tấm lòng ngọt ngào, ấm áp. Họ sưởi ấm cho nhau, cùng thắp sáng ngọn lửa sự sống, ngọn lửa tình người. Lần theo từng dòng chữ từng đoạn văn trong Vợ nhặt, chúng la dễ dàng nhận ra ngòi bút tinh tế của nhà văn khi ông - như có chủ đích - đan xen những âm thanh thê thảm, đau xót và những tiếng nói, giọng cười vui vẻ tuế toái, đan xen những bóng đen, màu xám và những tia sáng, những ánh hồng. Câu chuyện được kể thật nhẹ nhàng, thấm thía, theo một trình tự thời gian ngắn gọn từ chiều tà, vào đêm tối, đến sáng hôm sau và cũng theo một trình tự của phép biện chứng tâm hồn, ánh sáng của niềm vui, hơi ấm của hạnh phúc gia đình, ngọn lửa tình người được nhen nhóm rồi thắp lên, để cuối cùng "sáng lóa " trong ánh nắng một rạng đông mùa hè ba kiếp người đói rách ngồi bên nhau chuyện trò, nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật cứu đói, hướng lời Việt Minh, tới những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm, lá cờ đỏ bay phấp phới...
Có thể nói cuộc gặp gỡ của đôi trai gái - anh cu Tràng và cô vợ - những phút đầu đúng là một câu chuyện tầm phào theo cách nghĩ của Tràng. Song, khi cả đôi anh chị cùng cất lời, đưa mắt thì... dường như lửa và rơm đã bắt đầu bén Chỉ vừa nghe anh cái tiếng "Muôn ăn cơm trắng với giò...", chị đã "nhà : ơi"... rồi "liếc mắt cười tít". Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế! Rồi hắn toét miệng cười và cũng biết tình tứ lại chẳng kém gì cô em: "Này, hãy ngồi xuống ăn miếng giầu đã". Ai dám chê cái anh chàng đẩy xe bò đầu trọc nhẵn, lưng to rộng như lưng gấu này không có duyên! Song, giữa cái thời bên bờ vực chết đói này, duyên hay tình, hay gì gì đi nữa trước hết phải là miếng ăn, là sự sống. Do đó sau khi biết đích xác chàng trai có tiền, rồi lại được ăn liền một lúc bốn bát bánh đúc hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, rồi ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà, ngon!... "Này, nói đùa chứ có về ở với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về...". Nói thế, Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngỡ thị về thật. Câu chuyện ái tình của họ được Kim Lân miêu tả bằng một giọng văn tưng tửng, như bỡn cợt, đùa vui, song hoàn toàn không phải là bèo bọt trăng gió vu vơ. Nó nghiêm túc, càng về sau càng nghiêm túc. Giữa thời thóc cao, gạo kém, mỗi người chưa chắc đã nuôi nổi cái thân mình, họ nhặt được nhau, rồi đưa nhau về, sau cái chặc lưỡi liều lĩnh, song táo bạo như một lời thách đố đã diễn ra. Hai anh chị đi bên nhau đàng hoàng cứ hệt như chú rể đưa cô dâu về nhà chồng. Anh: nét mặt phởn phơ khác thường, tủm tỉm cười nụ và hai con mắt thì sáng lên lấp lánh. Chị: đầu hơi cúi, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất nửa mặt, rón rén e thẹn. Cả làng xóm như bừng dậy. Trẻ con hò reo, có đứa gào lên: "chông vợ hài", người lớn bàn tán, hỏi han, phán đoán. Những khuôn mặt u tối hốc hác bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Tiếng cười, nói, tiếng mời gọi râm ran. Có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói tối tăm ấy của họ. Câu đố dường như dần dần được giải đáp, mặc cho làng khen chê, đàm tiếu, Tràng vẫn cứ vênh mặt lên tự đắc, lấy làm thích ý. Vì đến lúc này anh mới thực sự cảm nhận ý vị cuộc gặp gỡ tình cờ, cái ý định chớp nhoáng, táo bạo mà đúng đắn của mình. Đi bên người đàn bà ngượng nghịu trước lời khen của ai đó: ''khéo mà vợ anh cu Tràng thật, trông ta e thẹn hay đáo để", Tràng như quên hết những cảnh sống tăm tối hàng ngày. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà ... Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng. Đó là tình yêu? Là hạnh phúc tuổi trẻ? Là ánh sáng đổi đời? Có lẽ là tất đối với hai kiếp người tối tăm, vờ vật, chắp nối lại cùng nhau để thành vợ, thành chồng. Cái giây phút quan trọng nhất của lời thách đố là lúc Tràng đi sát bên người con gái, ngẫm nghĩ một lúc, rồi giơ cao cái chai con lên khoe: -Đầu tối thắp đây này... Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chẳng nhẽ chưa tối đã rúc ngay vào, hì hì...". Tràng đã nói ra được cái ý nghĩa thô mộc mà thiêng liêng nhất: "Vợ mới, vợ miếc". Cô gái cũng đáp lại được bằng " một lời nói suồng sã nhất: "khỉ gió", và một cử chỉ cởi mở nhất "phái đánh đét vào lưng hắn", khiến cho "hắn thích chí ngửa cổ cười khanh khách". Vậy là, những e thẹn, những rụt rè, ngượng nghịu của ái tình trai gái đã được bước qua để tới ngưỡng cửa của quan hệ vợ chồng rồi. Chuẩn bị cho ngày vui đón vợ mới, anh chẳng có bạc vàng, rượu thịt cao sang gì, chỉ có cái chai con đựng ít dầu thắp để... "cho nó sáng sủa một tí chứ"! vậy mà em vẫn khen "sang nhỉ" rồi lại chuyên răn anh "hoang nó vừa vừa chứ". Thật xót xa, mà cảm động, một cuộc rước dâu chỉ có hai người rách rưới, vêu vao đi bên nhau với một ít dầu thắp tối. Song cũng thật đàng hoàng, trịnh trọng, bởi vì họ tự đến với nhau, tin cậy, hoà hợp. "Đôi ta như lửa mới nhen, như trăng mới mọc, như đèn mới khêu". Cái mối tình dân dã của anh Tràng và cô vợ nhặt ngẫm ra cũng có ánh sáng, có lửa ấm đấy chứ!
Khi hai vợ chồng về tới nhà, giới thiệu vợ với mẹ, anh cu Tràng nói: "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là cái số cả...". Giọng tuy ngập ngừng, song lời lẽ thật chững chạc. Mỗi chữ mỗi câu vừa ấm tình người vừa sâu nghĩa lý. "Nhà tôi làm bạn .. duyên ... kiếp... cái số cả...", ấy là những ngọn lửa Tràng thắp lên ừa để sưởi ấm, vừa để soi sáng cái đầu óc chậm chạp già nua của bà cụ Tứ. Với chính Tràng, ngọn lửa ấy cũng thắp sáng lên trong lòng một quyết tâm. Nói tới "duyên - kiếp" là chạm vào vùng thiêng liêng nhất trong mảnh đất của đôi gái, trai. "Duyên" là sự hấp dẫn, lôi cuốn gọi mời, là tình yêu giữa hai người. "Kiếp" là đời sống cơ cực cùng cảnh ngộ, cùng thuyền, cùng hội mà tạo hoá đẩy, trôi đến gần nhau, cảm thông với nhau, rồi chia sẻ và thương nhau. Từ câu chuyện "tầm phào" ở bên đường bữa nọ, rồi tới lúc đưa cô ả đi qua ngõ xóm lời bỡn cợt "vợ mới, vợ miếc", giờ đây giữa mái ấm của căn nhà, trước mặt mẹ Tràng đã thực sự coi mối quan hệ giữa mình với người con gái như có tiền định có lương duyên do trời sắp xếp, do đời run rủi, ràng buộc. Có thể khi nói, Tràng chưa nghĩ được những điều sâu xa như vậy, song cái cách anh ta "tươi cười" mời mẹ "ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện" rồi nhắc mẹ: "Nhà tôi nó chào u", rồi bước lại gần... vừa giới thiệu cô gái trong tư cách "nhà tôi" vừa khẳng định "duyên số" hai người trong giọng điệu rành rẽ, đứng đắn, ai nghe chẳng cảm động, đồng tình. Vì vậy, bà cụ Tứ đã hiểu, hiểu việc con làm, hiểu ra, biết bao nhiêu cơ sự khác nữa. Bà mẹ nghèo khổ ấy vừa ai oán vừa xót thương cho đời mình, đời con. Bà thấm thía, tủi hờn về hoàn cảnh, về trách nhiệm mẹ trước việc trăm năm hạnh phúc của con cái., rồi bà cảm động đăm đăm nhìn cô gái, như chấp nhận, như hàm ơn: Người ta gặp bước khó khăn , đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ... Bà nhắc lại ý con để nói với "nàng dâu mới": ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng". Con tin yêu mẹ. Mẹ già cũng tin yêu, tôn trọng dâu con. Mẹ chồng và nàng dâu mới trò chuyện thật cởi mở, thân tình. Bà mẹ dạy con: "Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn", phát ra một tương lai "rồi ra may mà ông giời cho khá...". Rồi an ủi, động viên: "con ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân... cốt chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...". Đọng lại ở câu chuyện giữa hai kiếp người tuy khi nhau về tuổi tác mà thật giống nhau trong cảnh ngộ làm người là ở chỗ "thương", ấy là tình người, lòng bao dung nhân hậu của những người mẹ, người phụ nữ Việt Nam. Nói được những lời gan ruột ấy, hẳn bà cụ Tứ vơi đi biết bao đau khổ, giải toả biết bao lo lắng, tủi nhục. Trái tim người mẹ như nghẹn lại. Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Phải chăng lúc đó là nước mắt của niềm vui, của hạnh phúc nhỏ nhoi, hạnh phúc được chia sẻ giãi bày? Khi thấy con trai đánh diêm đối đèn, bà cụ vội vàng lau nước mắt, ngửng lên nói như reo: "Có đèn đây à? ừ thắp lên một tí cho sáng sủa...". Một câu nói của nhân vật, một chi tiết thật đơn giản mà chứa đựng bao nhiêu ý nghĩa. Chắc hẳn đã lâu lắm rồi căn nhà lụp xụp rách rưới của hai mẹ con bà Tứ không có ánh đèn. Đêm buông xuống, bóng tối cũng ùa vào, che phủ. Chắc hẳn đã lâu lắm rồi, hai mẹ con sống lủi thủi, âm thầm, hết kiếm ăn ban ngày ở đầu đường góc chợ, đêm về nhà vật mình xuống vì mệt nhọc, chẳng cần đèn đóm, chuyện trò. Nay nhà có người mới:. con trai có vợ mới, mẹ già có nàng dâu mới, thắp đèn lên cho sáng sủa! Ngọn đèn, hay chính là ngọn lửa của tình người mà ánh sáng đã được nhen từ trong trái tim của mỗi con người? ở Tràng, đó là ánh sáng từ sự ngẫu nhiên, tình cờ đến một quyết tâm, một khát vọng, ở người vợ nhặt, đó là ánh sáng của duyên kiếp, của cảnh ngộ, ngẫu nhiên mà như số trời ràng buộc, xe kết. Ở bà cụ đó là ánh sáng của tình thương, lòng bao dung, nhân hậu. Họ nhắc nhau thắp lửa để... đêm tối "sáng lên một tí", để căn nhà toả ra hơi ấm, lòng người có thêm chút lửa để quyết sống, quyết vượt qua tao đoạn này - cái tao đoạn tăm tối đau thương nhất của đất nước bấy giờ. Có thể nói. nhà văn Kim Lân thắp vào giữa căn nhà bà cụ Tứ một ngọn lửa - dù chỉ là của ngọn đèn dầu, thứ của cải đắt đỏ bây giờ - đồng thời thắp trong lòng mình, lòng người đọc một niềm vui, niềm tin yêu, trân trọng trước bản lĩnh sống của con người - những con người trong tăm tối vẫn nhen nhóm và cố thắp sáng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống cho ra con người, nên người.
Nếu ở phần trước, các chi tiết, các sự việc của câu chuyện diễn biến trong sự lan xen bóng tối và ánh sáng, thì đến phần sau, nhà văn dựng một không gian nghệ thuật cả bề mặt và chiều sâu, đầy ... ánh sáng, cả khung cảnh và nhân vật đều tắm trong ánh sáng, chan hoà ánh sáng, ánh sáng bừng lên như một chuyển động tự nhiên, vì nhà văn kể về buổi sáng hôm sau. Song ánh sáng ấy cũng đâu phải ngẫu nhiên. Nó biểu hiện một cảm hứng lạc quan, nó soi tỏ một ngày mới, một trang mới của tâm hồn, sự sống mỗi nhân vật, mỗi kiếp người. Nó cũng là kết quả đẹp đẽ của ngọn lửa tình người.
Một buổi sớm mai đẹp đẽ xiết bao! Nắng mùa hè sáng loá. Nhà cửa, sân vườn được quét tước thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa được đem ra hong nắng. Hai cái ang nước vẫn để khô cong, nước đầy ăm ắp. Đống rác ngay lối đi đã được hót sạch... Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ Tràng đang quét sân, tiếng chổi kêu sàn sạt trên mặt đất... Tất cả như đang đổi thay, mới mẻ. Một nguồn sống mới, vui sướng, ngọt ngào của hạnh phúc gia đình trỗi dậy, tràn ngập trong lòng. Anh cảm thấy mình đã "nên người", thấy thương yêu, gắn bó với căn nhà, với những người thân, ý thức về sự "nên người" khiến cho Tràng trưởng thành, đổi thay cả về tâm tính lẫn hành động. Anh thấy mình phải có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này. Anh xăm xắn chạy ra giữa sân, muốn làm một việc gì để góp phần tu sửa lại căn nhà. Người đàn bà - vợ nhặt của Tràng cũng đã đổi thay, khác hẳn. Rõ là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Rõ là người vợ biết chăm sóc chồng lam làm vun vén cho cái tổ ấm vừa xây dựng. Nhìn ở đâu cũng thấy có bàn tay chị. Nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, áo quần giặt giũ, ang nước đầy, cái bếp ấm lửa. Nhà văn không miêu tả chi tiết mà chỉ phác qua một nét nhẹ nhàng bằng cảm nhận của Tràng - người chồng - hình ảnh người vợ vẫn hiện lên thật đáng yêu. Bà cụ Tứ chợt thấy con giai, nhẹ nhàng bảo nàng dâu: "Anh ấy dậy rồi đây. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn". Vợ Tràng đáp: "Vâng", rồi lẳng lặng đi vào trong bếp. Sự việc diễn ra thật đơn sơ mà thấm thìa làm sao! Mẹ chồng nàng dâu như đã sống với nhau, gắn bó thương yêu, kính trọng nhau, thông thuộc việc nhà như đã hàng chục năm rồi. Cái nền nếp, gia phong như đã được đắp xây bền vững từ lâu lắm rồi. Người đàn bà ấy, đối với Tràng không còn là của "nhặt" được nữa, mà thực sự đã là "vợ" rồi, là "nàng dâu" của mẹ anh rồi. Như vậy, chị ta cũng đã "nên người", xứng đáng "con người". Còn cụ Tứ - người mẹ nghèo khổ, chậm chạp, già yếu - cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường. Cái mặt bủng beo u ám rạng rỡ hẳn lên. Bà xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, sai bảo, dạy dỗ con dâu, nhắc nhở, động viên con trai. Tâm hồn người mẹ chan hòa một nguồn sáng mới - nguồn sáng của niềm tin yêu, hy vọng.
Ánh sáng của niềm tin yêu, hy vọng từ trong người mẹ, toả sáng đôi vợ chồng mới. Vì thế bữa cơm thảm hại của ngày đói - có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo loãng - cả nhà vẫn vui vẻ ăn rất ngon lành. Bà lão bàn chuyện ngăn bếp nuôi gà. "Khi nào có tiền, ta mua lấy đôi gà. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem". Một đôi gà thoáng trong tích tắc đã hoá "đàn gà". Có một ông bụt, một bà tiên nào đã nhập vào lời bà cụ, hay chính bà cụ đang hóa thành tiên, bụt để đem đũa thần biến những khổ đau, tăm tối của cuộc đời mình, cuộc đời dâu, con thành niềm vui, ánh sáng? Nồi cám đắng chát nối sau hai lưng cháo loãng trong tay bà biến thành "cái này hay lắm cơ...", thành "chè đây, chè khoán đây". Hình ảnh bà cụ "lật đật chạy xuống bếp", rồi "lễ mễ bưng ra một nồi khói bốc nghi ngút", cùng cái cử chỉ "cầm muôi khuấy khuấy" múc từng bát cám và câu nói: "ngon đáo để... ngon đáo để..." được nhà văn đặc tả vừa như chân thực vừa như lãng mạn như trong một câu chuyện cổ tích vậy, cổ tích trong vẻ đẹp của hình tượng nhân vật, song vẫn hiện đại, chân thực trong những từ ngữ đời thường chắt lọc, nhất là những từ láy đặc sắc: lật đật, lễ mễ, nghi ngút, khuấy khuấy, ngon đáo để. Càng về cuối, câu chuyện càng giản dị, song vẫn bất ngờ, hấp dẫn, và thật cảm động. Ngọn lửa tình người, ngọn lửa sự sống, niềm khao khát hạnh phúc, ấm no sự gắng gượng vui sống, niềm hy vọng ngày mai cuộc sống tốt đẹp hơn... cứ nóng dần, lan tỏa trong từng chi tiết truyện, từng câu, từng chữ. Cuối cùng, từ chuyện gia đình, chuyện nồi cháo cám đắng chát mà vẫn "ngon đáo để", ba con người khốn khổ ấy cố quên đi những đắng chát trong túp lều nhỏ hẹp để lắng nghe tiếng vọng ở ngoài đời rộng lớn. Đó là tiếng trống thúc thuế, còn phá cả kho thóc Nhật, chia cho người nghèo đói... Từ lời kể của vợ, Tràng như bừng tỉnh. Anh nhớ tới cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sập, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm, lá cờ của Việt Minh dân đoàn người đi phá kho thóc chia cho người đói. Khi vợ và mẹ đứng dậy, Tràng vẫn còn mơ màng nghĩ tới "đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...". Câu chuyện về những người nghèo đi phá kho thóc Nhật chia cho dân ở nơi này, nơi kia, hình ảnh lá cờ đỏ hai lần hiện lên trong tâm trí Tràng, phải chăng là một luồng sáng mới? Luồng khởi quang cách mạng đó, tuy ba con người nghèo khổ chưa nhận thức được rõ ràng song vẫn lung linh, chấp chới một dự cảm ấm lòng. Nó nuôi dưỡng niềm tin cuộc sống. Nó thắp sáng thêm ngọn lửa tình người, giục giã con người tiếp tục gắng gỏi vươn lên, xé tan màn đêm vây bủa để đi tới một buổi mai của khát vọng làm người, khát vọng hạnh phúc. Chi tiết cuối cùng "lá cờ đỏ bay phấp phới" như một vĩ thanh buông ngân từ tác phẩm một âm hưởng lạc quan. Cuộc đời chưa diễn ra,sóng ánh sáng hồng một đời mới như đang ở ngay trước mặt, thắp trong người đọc một niềm vui để càng thêm yêu và tin ở con người, ở tình người.
Đặt trong tiến trình văn học hiện đại Việt Nam, có người tiếc cho Vợ nhặt không chào đời cùng lúc với Tắt đèn, Chí Phèo, Bỉ vỏ, hoặc đúng dịp Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chúng ta được biết, nhà văn Kim Lân khởi thảo tác phẩm năm 1940, chắc đã thai nghén những nhân vật, những tình huống chi tiết truyện sớm hơn nữa. Trải qua hai cái mốc lớn của dân tộc: cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống Pháp, qua sự trải nghiệm cuộc đời với độ lùi thời gian và độ chín của tư duy sáng tạo, nhà văn mới hoàn thiện và công bố tác phẩm. Do đó tác phẩm có dáng hình giống những áng văn hiện thực trước năm 1945, song âm hưởng khác hẳn. Nó không tăm tối, ngột ngạt đến bế tắc. Điều đặc sắc nhất ở ngòi bút Kim Lân là ông đã chọn được một khoảnh khắc của mỗi đời người, của cả dân tộc mà cuộc sống đẩy con người vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, ẩn náu sâu kín nhất chứa đựng sức sống cả một đời người, một đời nhân loại. Tác phẩm Vợ nhặt vì thế, không chỉ có ý nghĩa của câu chuyện duyên kiếp mà còn thấm thía một lẽ sống ở đời. Trong những lúc cuộc đời tăm tối nhất, con người vẫn cố gắng thắp sáng ngọn lửa tình người, ngọn lửa khát khao hạnh phúc. m hưởng ngân nga trong từng dòng, từng đoạn là hiện thực và lãng mạn đan xen, tiếng khóc và tiếng cười đan xen, bóng tối và ánh sáng giành giật, để cuối cùng mở ra một ngày sáng loá, có ánh hồng của mặt trời, sắc đỏ của lá cờ Cách mạng. Cảm hứng nhân văn - tinh thương và niềm tin ở con người, trước hết với nhân dân lao động - của Vợ nhặt dường như đã mang nét mới của thời đại, vương lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Và điều đặc sắc nữa ở ngòi bút Kim Lân là giọng kể, những tình huống truyện trớ trêu mà giản dị, thô mộc mà hấp dẫn, là những từ ngữ dân gian mà giàu lính nghệ thuật, là những chi tiết hiện đại mà như trong cổ tích. Biết đâu, các nhà từ điển ngày mai sẽ đưa từ mới "Vợ nhặt" - sáng tạo riêng của Kim Lân - vào kho từ vựng văn chương hiện thực và nhân đạo Việt Nam. Và ... biết đâu, sau này con cháu chúng ta sẽ đọc Vợ nhặt như đọc một truyện cổ tích - cổ tích về duyên kiếp những con người đói khổ có nồi cháo cám ăn mừng ngày nên vợ nên chồng, có bà mẹ nghèo hiền hậu như một bà tiên, có lá cờ đỏ báo hiệu giấc mơ sắp thành hiện thực.
Nhà văn Kim Lân đã nói về truyện ngắn Vợ nhặt: Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống?
Câu trả lời của bạn
Vợ nhặt là tác phẩm ưu tú của nhà văn Kim Lân và cũng là một trong những thành tựu xuất sắc của nền văn học cách mạng. Tác phẩm ra đời cách đây đã trên bốn mươi năm, viết về một giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc: nạn đói năm 1945 - từ Quảng Trị đến Bắc Bộ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói; thế nhưng, tác phẩm không mang tính nhất thời và sẽ bất tử với thời gian bởi giá trị nhân văn cao cả: niềm tin không bao giờ tắt hướng về con người. Trong tác phẩm, niềm tin ấy được thể hiện ở chỗ: những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống.
Như nhiều tác phẩm trước đó viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận lương thiện và cùng khổ. ông không dành nhiều trang viết mô tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ - người chết đói như ngả rạ - mà chủ tâm thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái bề ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Cốt truyện Vợ nhặt thật đơn giản: Một anh chàng nghèo khổ - tên Tràng - độc thân, chỉ với mấy câu "hò chơi cho đỡ nhọc", đã có được cô "vợ nhặt" - đang sống dở, chết dở vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa cái cảnh "tối sầm lại vì đói khát". Đêm tân hôn của họ âm thầm trong bóng tối, giữa tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió đưa lại. Bữa cơm cưới của đôi vợ chồng trẻ và người mẹ già chỉ có cháo loãng, muối hột, nhưng ăn uống rất ngon lành, trong hồi trống thúc thuế. Ba mẹ con vừa ăn cơm, vừa bàn chuyện Việt Minh phá kho thóc chia cho dân nghèo. "Trong óc Tràng, vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới".
Ngay từ đầu, câu chuyện đã hiện lên đượm màu sắc tang thương tử khí: "Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người". Thực không còn gì ảm đạm hơn bức tranh quê ấy. Trong khi trước đó không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, "cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy lại xôn xao lên được một lúc" còn bây giờ, cái đói đã đè nặng lên vai mỗi người; ngay cả bọn trẻ - những đứa bé hồn nhiên, vô tư nhất cũng mất đi sự tự nhiên, ngây thơ của mình, chúng ủ rũ, không buồn nhúc nhích...
"Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều, người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa". Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái để tiếp nối sự sống. Giọng văn lúc này thật dồn nén và gây cảm xúc mạnh, mộc mạc mà lôi cuốn: "Mặt hắn có vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh". Đọc đến đây, ta không thể không nghĩ đến những trang bi kịch của sêcxpia, Môlie hay Xtăngđan. Tuy nhiên, bi kịch ở đây đã vượt lên sự thông thường vẫn có; nó cũng không phải là "hiện thân của sự ngu dốt" như Mác nói, mà trở nên sự cao cả "đẹp tươi lạ thường". Đó là biểu hiện cao nhất của sự chiến thắng, vượt lên trên thực tại chết chóc, đen tối để hướng tới sự sống, niềm tin, ánh sáng. Với chi tiết Tràng cùng vợ đi về nhà, chủ nghĩa nhân đạo trong văn học nước nhà cũng có thêm một tiếng nói mới, có sức mạnh.
Chuyện lấy vợ của Tràng, trước hết là một chuyện lạ mà thú vị. Điều ấy đã khiến người dân ở xóm ngụ cư hết sức tò mò, từ bọn trẻ con cho đến tất cả người làng: "Họ bàn tán... Họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên". Từ trong sâu thẳm tâm hồn những người dân làng, le lói lên một chút niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Có thể nói, trong phút chốc, khi Tràng cùng với cô "Vợ nhặt" đi về làng, cái chết, sự ảm đạm âm u nơi xóm ngụ cư được đẩy sang một bên. Xóm ngụ cư đang ở trên miệng vực cái chết, bỗng hé lên một thoáng sống.
Nhưng, niềm vui vừa đến, đã phải nhường chỗ cho sự âu lo. Dân làng lo thay cho Tràng: "Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không". Tuy nhiên, đó không phải là nỗi lo tuyệt vọng, mà là lo cho cái sống. Sự chết chóc cứ ám ảnh, đe dọa sự sống, nhưng sự sống vẫn vượt lên cái chết. Khuôn mặt "rạng rỡ" của người dân làng, ánh mắt của họ thực ý nghĩa, nói với chúng ta bao điều.
Ở bước đường cùng, người ta sinh ra liều lĩnh - điều đó thực đúng lắm thay! Hành động nhân đùa làm thật của cô gái theo chân Tràng về nhà, xét đến cùng, là một hành động liều lĩnh. Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào các dịp chở thóc lên tỉnh. Với Tràng, chị ta chẳng để lại trong anh một ấn tượng gì. Bởi thế, lần thứ hai gặp lại, Tràng phải mất một thời gian mới nhận ra và cũng như nhiều nhân vật khác trong các sáng tác của Nam Cao, cái dạ dày chị đã chiến thắng khối óc và con tim: được Tràng đãi, chị ăn liền một chập bốn bát bánh đúc. Cái đói đã đẩy lùi ý thức nhân cách, sĩ diện. Quên cả thẹn thùng, người đàn bà không tên ấy cắm đầu ăn "không chuyện trò gì". Khi Tràng ngỏ lời, không cần suy nghĩ, chị cũng đi theo một cách dễ dàng, "vô tư lự". Thế mới hay, cái đói ghê gớm biết chừng nào. Và hai cái "liều" gặp nhau đã tạo nên một gia đình thời tao loạn. Điều đáng chú ý là ở đây, khi cùng người "Vợ nhặt" về nhà, Tràng bỏ ra hai hào để mua một chai dầu, điều này có nghĩa là anh đã thắp lên một ngọn lửa trong cuộc sống tăm tối của mình, đem lại chút ánh sáng cho gia đình cũng như dân làng. Điều này chi phối toàn bộ văn phẩm. Cũng từ cuộc "hôn nhân" của Tràng, những người đời mới thực sự không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống.
Khi Tràng cùng vợ về nhà, cuộc sống trước mắt họ không kém phần thảm hại: căn nhà vắng teo, rúm ró; niêu bát, áo xống bừa bộn... ôi, lấy vợ cưới chồng, yên bề gia thất! Việc lớn một đời, hạnh phúc trăm năm! Vậy mà, họ bị bủa vây bởi sự nghèo đói chết chóc. Nhưng, sự sống là bất diệt, chẳng bao giờ chán nản. Trong cái chết, sự sống vẫn tồn tại, tìm chỗ sinh sôi nảy nở. Tất cả thật dữ dội, mà ý nghĩa thì lớn lao: sự sống luôn tồn tại, bất chấp cái chết...
Việc hai người xa lạ bỗng gắn bó với nhau trong cơn đói kém, chứng tỏ quyết tâm nghĩ đến cái sống của hai người, đem lại cho họ - trước hết là Tràng một niềm vui lớn lao. Trong truyện ngắn, hơn hai mươi lần nhà văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của Tràng, khi đã có vợ. Tình yêu của hai người, có sức cải biến thật lớn.
"Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa... Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy...". Đúng vậy. Niềm vui lớn nhất đời anh đã thành sự thực: có vợ. Cái "mới mẻ", "lạ lẫm" ấy là tinh thần trách nhiệm của một người chủ gia đình sẽ phải lèo lái con thuyền nhà - gia đình qua thời điểm khó khăn, vươn lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt để xây dựng cuộc sống. Tràng bỏ sau lưng tất cả những tiếng hờ khóc, tiếng quạ kêu...
Chỉ sau một đêm "nên vợ, nên chồng", Tràng thấy mình có sự đổi khác: "Trong người êm ái lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hấn vẫn còn ngỡ như không phải...". Chuyện được "vợ nhặt" của Tràng ngỡ như đùa nhưng lại là sự thật; bao nhiêu sự sống, sinh khí trở lại với Tràng, với gia đình sau khi anh có vợ. Và cũng từ buổi "sáng hôm sau đó", dường như tất cả sự thực chết chóc không còn tồn tại nữa, Tràng chỉ nghĩ đến sự gây dựng cuộc sống, hướng về sự sống mà tạo lập hạnh phúc: "Tràng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cũng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa, che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này"...
Có thể nói, đó là biểu hiện cao nhất của tinh thần hướng về sự sống, quên đi cái chết đang bủa vây.
Vợ Tràng là một nhân vật khá độc đáo. Chị không có tên, không tuổi, không đặc điểm nhận dạng và quê quán. Tưởng rằng, khi chị theo Tràng đi về nhà, với sự chao chát, chỏng lỏn, văn học Việt Nam lại có thêm một nhân vật "không bình thường". Nhưng không, ngòi bút Kim Lân chưa bao giờ để nhân vật của mình tha hóa, biến chất đến độ ấy. Khi về đến nhà Tràng, con người thật của chị mới hiện lên đầy đủ. Chị cứ "ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng". Vì sao vậy? Cái thế ngồi rụt rè, chông chênh ấy cũng là cái thế của lòng chị, trăm mối ngổn ngang. Liệu chỗ ngồi ấy có phải là chỗ của chị không? Nhà này có phải chốn để chị dung thân?
Và cũng như Tràng, sau một đêm làm vợ, chị đã thay đổi hẳn: "Trông chị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực...". Cái đói một khi được xua đi, thì sự tốt đẹp đúng như bản chất hiền trở lại với chị. Ấy cũng là lúc chị nghĩ đến sự sống, lo cho gia đình mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang... Có bàn tay săn sóc của chị, căn nhà trở nên gọn gàng, sáng sủa. Sự sống trở về với người với cảnh...
Bà cụ Tứ càng để lại cho người đọc những thiện cảm tốt đẹp. Thấy con lấy vợ trong hoàn cảnh khó khăn, bà không khỏi bùi ngùi, thương xót: "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái, mở mày mở mặt sau này. Còn mình thì...". Nhưng, bà thực sự vui mừng khi con trai đã yên bề gia thất: "Bà lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên...". Rồi trong bữa cơm, cả ba mẹ con đều quên đi hiện thực đau lòng để hướng đến một tương lai tươi đẹp hơn:
"Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại, chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...".
"Nghĩ đến cái sống, không nghĩ đến cái chết là ở chỗ đấy. Bà cố gắng xua đi thực tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho các con. Tuy nhiên, món chè cám đã nhắc họ về với thực tại. Chao ôi, chè cám! Phải đói đến một mức nào đó, người ta ăn cám mới cảm thấy ngon! Cuộc sống khắc nghiệt, đày đọa, bắt họ phải sống cuộc sống loài vật, nhưng nào có dập tắt được phần NGƯỜI đáng quý trong mỗi con người. Cái phần NGƯỜI ấy, sẽ giúp họ vượt qua giai đoạn khó khăn này.
Sẽ là thiếu sót lớn nếu bỏ qua hình ảnh những người nông dân trên đê Sộp cùng nhau đi phá kho thóc, khi nói đến những kẻ hấp hối trong vòng tử địa vẫn hướng tới cuộc sống. Đó là hình ảnh không hề ngẫu nhiên chút nào, được nhà văn chuẩn bị từ trước. Nó là dấu hiệu của "bước đường cùng", không còn cách giành sự sống nào khác, phải vùng dậy đấu tranh, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng thấy "ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu" bởi anh chưa bắt được mạch nguồn cách mạng. Trước mắt người đọc lúc này, sự sống trở thành mục đích chung của mọi người; họ đấu tranh, đoạn tuyệt dứt khoát với cái chết. Và chắc chắn, mẹ con Tràng sẽ tiếp nối dòng người kia, giành sự sống cho mình.
Vợ nhặt là thành công xuất sắc của nền văn học cách mạng. Với truyện ngắn này, Kim Lân bày tỏ thiện cảm sâu sắc với những người nghèo khổ, nhưng giàu lòng nhân ái. ông luôn khẳng định cái đói khát, chết chóc không thể giết chết niềm tin vào cuộc sống. Năm tháng qua đi, còn mãi với thời gian là chất nhân văn cao cả của một nghệ sĩ nhân đạo.
So sánh kết thúc của hai truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân và Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài?
Câu trả lời của bạn
Tô Hoài và Kim Lân đều là một trong những tác giả tiêu biểu của văn xuôi thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm của họ đều lấy cảm hứng từ cuộc sống hiện thực của người nông dân Việt Nam trước CMT8. Hai tác phẩm “Vợ Nhặt” và “Vợ chồng A Phủ” tuy phản ánh số phận của hai người nông dân khác nhau nhưng đều mang một kết thúc mở. Nơi mà niềm hy sinh về cuộc sống mới tự do và hạnh phúc của họ được gửi gắm.
Khái quát về hai tác phẩm “Vợ Nhặt” và “Vợ chồng A Phủ” thì cả hai tác phẩm đều có nhân vật chính là người nông dân Việt Nam trước CMT8 năm 1945. Cuộc sống của họ đều điểm chung là khó khăn bất hạnh nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất cao đẹp và điều đặc biệt là họ đang trong quá trình giác ngộ cách mạng.
Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện kể về nhân vật Mị là một cô gái vùng cao nghèo khó. Nhưng dẫu cuộc sống khó khăn vẫn luôn luôn yêu đời và tin tưởng vào lao động. Mị bị bán cho nhà Thống Lí Pá Tra để làm dâu gạt nợ. Mặc dù phải sống trong thân phận nô lệ bị đầy đọa quanh năm làm việc quần quật khổ cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng Mị vẫn luôn ham sống. A Phủ cũng vì đánh con quan nên bị bắt về nhà thống Lí bị đánh đập rồi phải trở thành người đi ở đợ cho nhà thống lí. Hai thân phận nô lệ đã gặp nhau cảm thông và giải thoát cho nhau. Trong một đêm đông Mị đang ngồi sưởi lửa hơ tay thì bắt gặp “Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Chính giọt nước mắt đấy đã tác động đến nhận thức của Mị khiến cô có hành động táo bạo “Lấy con dao nhỏ cắt lúa cắt nút dây mây” để giải thoát cho A Phủ. Sau đó Mị cũng chạy theo A Phủ bởi Mị biết một điều rằng “Ở đây thì chết mất”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau chạy xuống dốc núi. Trong cái đêm tối mịt mù đó hai người dìu nhau chạy một mạch. Những chi tiết đấy đã thể hiện cho sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người dưới sự áp bức đè nén của bọn phong kiến. Nếu như trước đây “Sống lâu trong cái khổ Mị quen rồi” thì nay Mị đã có ý thức vùng lên để giành quyền sống. Hành động của Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ tuy là hành động tự phát nhưng có thể nhận thấy không thể sống ở đây được. Phải có một sức sống tiềm tàng thì mới có thể vực Mị từ một người đã quyết ăn lá ngón tự tử đến việc vùng lên mạnh mẽ trong đêm tình mùa xuân. Và đến hành động táo bạo là giải thoát cho A Phủ. Kết thúc của truyện thể hiện cho tinh thần đấu tranh của người dân chống lại bọn địa chủ phong kiến với quy luật tất yếu là “có áp bức là có đấu tranh”.
Truyện ngắn “Vợ Nhặt” trích trong tập tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau khi CMT8 thành công. Nội dung chính của truyện là phản ánh cuộc sống của những người nông dân ở xóm ngụ cư. Mà trong đó nhân vật chính là anh cu Tràng làm nghề chở xe bò thuê. Vì cái đói cái nghèo nên Tràng không có nổi một đám cưới đàng hoàng. Tràng nhặt được vợ một cách ngẫu nhiên trên đường về nhà và đám cưới cũng chỉ là một bữa cơm thảm hại “Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo”. Trong ngày đón nàng dâu mới về chưa kịp vui thì họ đã nghe thấy tiếng trống thúc thuế, tiếng hờ khóc của người hàng xóm vì gia đình có người ra đi từ xa vọng về. Truyện kết thúc với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Hình ảnh lá cờ cuối tác phẩm được xem là chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Kết thúc đó cũng có cơ sở từ những thực tiễn của đời sống. Câu chuyện có bối cảnh là nạn đói năm 1945 một thời điểm lịch sử có thật khi mà người dân phải chịu áp bức, bóc lột, một cổ ba tròng. Trong hoàn cảnh cùng cực đó người nông dân đã đứng lên khởi nghĩa phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Trải qua khó khăn áp bức những người nông dân đó đã biết đứng lên đấu tranh và tìm kiếm con đường cho mình bằng cách tìm đến với cách mạng như một điều tất yếu.
Hai câu chuyện kể về hai số phận của người nông dân khác nhau. Nhưng kết thúc cùng chung một kết thúc mở. Kết thúc của hai tác phẩm cũng nhấn mạnh cho sự thay đổi tư tưởng của các nhà văn. Nếu trước đây nhà văn Nam Cao cũng viết về đề tài nông dân với tác phẩm Chí Phèo có kết thúc đi vào ngõ cụt thì nay trong tác phẩm “Vợ Nhặt” và “ Vợ chồng A Phủ” chúng ta đã thấy được tương lai tươi sáng cho những người nông dân. Đó là CMT8 thành công chế độ phong kiến hủi lậu bị lật đổ.
Cảm nhận nồi chè khoán trong truyện ngắn Vợ nhặt?
Câu trả lời của bạn
Vợ Nhặt của Kim Lân lấy bối cảnh nước ta trong nạn đói năm 1945, thời gian đó người ta sống trong hoàn cảnh “ngụ cư” và phải chịu rất nhiều tấn khổ cực. Bi kịch của kiếp người là những cái chết ngả rạ, chết vì đói, mà cũng có thể là chết vì…no. Vì vậy, Kim Lân đã đặc biệt xây dựng thành công một hình ảnh “nồi chè khoán” vô cùng đặc biệt. Liệu đó có phải nồi chè khoán thật hay không? Tại sao trong một gia đình có mối nghèo truyền kiếp và hai miệng ăn còn không đủ no, lại có được một thức ăn đặc sản như thế trong những ngày đói cùng cực như vậy?
Hình ảnh nồi chè khoán của bà cụ Tứ hiện lên trong hoàn cảnh vô cùng ý nghĩa. Đó là nồi chè bà đã cất công làm ra để thiết đãi cô con dâu mới – Thị vừa mới về làm dâu với anh Cu Tràng, con trai bà cụ Tứ. Bà cụ Tứ bưng bát cháo ra với tâm trạng vui phơi phới, và cố kiềm đi nỗi tủi cực của một hoàn cảnh nghèo khó, mà vui vẻ nói: “chúng mày đợi nhá. Tao có cái này hay lắm cơ” rồi bà bưng ra một cái nồi bốc khói lên nghi ngút, và lại vui vẻ nói tiếp: “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ” nhưng thực ra đây đâu có phải chè khoán? Bà cố tình vui vẻ thế thôi, vui vẻ trước mặt cô con dâu mới, vui vẻ để truyền niềm vui, lạc quan hi vọng vào các con. Thể hiện tâm trạng của một người mẹ nghèo trong nạn đói Ất Dậu 1945. Hơn thế, đó còn là sự biểu hiện một tâm trạng vui mừng của bà cụ Tứ trong ngày hạnh phúc của con trai mình. “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để” lời nói trong vui mà có buồn, nỗi xót xa như ứ đọng nhưng buộc phải vui để mà sống. Vì vậy ta càng cảm nhận hơn một trái tim ấm áp, tấm lòng nhân hậu và vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng.
Là một chi tiết đắt giá trong truyện, hình ảnh “nồi cháo khoán” còn có ý nghĩa rất cao về nghệ thuật. Là một trong những chi tiết có tính thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa rõ nét tính cách, và tâm lí hành động của người mẹ nghèo nhưng rất thương con. Tuy là một chi tiết nhỏ, nhưng lại mang sức gợi rất cao. Đó là sự tin tưởng, một khát vọng sống vươn lên hoàn cảnh, và còn là sức mạnh của tình thương, một trái tim đẹp của con người dành cho nhau.
Kim Lân đã vô cùng tài hoa khi xây dựng được một chi tiết có nhiều giá trị nghệ thuật và nội dung đến như vậy. Thông qua đó còn gửi gắm một tấm lòng nhân đạo của ông dành cho con người, luôn tôn vinh và ngợi ca họ dù trong hoàn cảnh khó khăn và khốn cùng của kiếp người. Và nhờ chi tiết độc đáo “nồi cháo khoán” đã cho ta thấy một tầm vóc lớn của một nhà văn giàu lòng nhân đạo. Chi tiết đã nâng tầm của câu truyện lên và khiến cho ta, về sau khi đọc lại, vẫn sẽ luôn nhớ mãi một chi tiết “nồi cháo khoán” giản dị như một hơi ấm nhen lên giữa những ngày đau thương của dân tộc.
So sánh hình ảnh bức tranh phố huyện nghèo trong hai tác phẩm “Vợ Nhặt” của Kim Lân và “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam?
Câu trả lời của bạn
Thạch Lam và Kim Lân là hai trong số những tác giả văn học tiêu biểu trong giai đoạn văn học trước CMT8 năm 1945. Các tác phẩm của họ đều đi theo chủ nghĩa hiện thực phản ánh chính xác về đời sống khó khăn của người nông dân trong tình cảnh một cổ hai tròng bị thực dân và phong kiến áp bức. Điều này được phản ánh rõ nhất qua hình ảnh phố huyện nghèo xơ xác trong hai tác phẩm “Vợ Nhặt” của Kim Lân và “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
Mặc dù cùng miêu tả về hình ảnh phố huyện nghèo nhưng hai tác giả lại có những cách tiếp cận khác nhau từ thời gian, âm thanh, mùi…Tổng hòa những yếu tố trên đây mới tạo nên được bức tranh phố huyện một cách rõ nét nhất.
Trong tác phẩm “Vợ Nhặt” chúng ta thấy hình ảnh phố huyện nghèo theo chiều rộng và sâu hơn. Với hình ảnh “xóm ngụ cư” cho đến khu nhà kho, quán chợ nghèo nàn với đám người sắp chết đói đang ngồi vật vờ. Bóng đen của nạn đói năm Ất Dậu đã phủ kín trên không gian phố huyện. Ngay từ những dòng đầu tiên tác giả đã mô tả hình ảnh phố huyện qua những con đường ngoằn nghèo đi vào xóm chợ. Đi theo con đường này những thân phận con người được làm rõ hơn.
Trong tác phẩm “Vợ Nhặt” không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi trộn với mùi gây của xác người chết. Mùi đốt đống rấm ở những căn nhà không may có người thân qua đời thoảng vào gió khét lẹt. Âm thanh của phố huyện là tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo cứ gào lên thảm thiết. Xen lẫn trong đó tiếng hờ khóc tỉ tê của những gia đình có người chết đói. Tiếng trống thúc thuế dồn dập khiến cho đàn quạ trên những cây gạo bay tán loạn.
Hình ảnh con người trong phố huyện của Kim Lân là đám người đói khắp nơi “lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ…” Không một sáng nào mà “không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”. Những con người còn sống thì cũng được ví như những bóng ma dật dờ đi lại.
Hình ảnh phố huyện nghèo trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam được hiện ra nhẹ nhàng hơn so với “Vợ Nhặt”. Phố huyện có mùi ẩm mốc bốc lên từ bãi rác và hơi nóng của ban ngày trộn với mùi cát bụi từ những con đường. Âm thanh của phố huyện được hiện lên qua tiếng trống thu không báo hiệu buổi chiều. Tiếng trống cầm canh điểm nhịp trong đêm. Tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng. Tiếng muỗi vo ve, tiếng cót két của chiếc chõng tre sắp gãy mà chị em Liên đang ngồi. Tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi điên. Những âm thanh rất quen thuộc gợi lên một phố huyện yên bình.
Con người trong phố huyện của Thạch Lam khá ít ỏi. Hai chị em Liên, gia đình nhà bác hát xẩm, bà cụ Thi điên, bác Siêu bán phở, hai mẹ con nhà chị Tý, vài anh lính canh đi tuần đêm. Không gian phố thị khá vắng vẻ sự xuất hiện của những con người cũng mờ nhạt vì dụng ý tác giả tập trung vào miêu tả hai nhân vật chính nhiều hơn.
Từ những nét miêu tả trên đây ta thấy khung cảnh phố huyện ở xóm ngụ cư và phố huyện của hai chị em Liên có nhiều nét tương đồng về không gian. Đều lột tả được sự nghèo đói xác xơ của những con người nơi phố huyện. Nhưng trong văn của Thạch Lam thì đó là những kiếp người tàn tạ, quẩn quanh trong nhịp sống đơn điệu tẻ nhạt. Và mong ước của chị em Liên là có một đời sống tinh thần phong phú hơn.
Còn với Kim Lân ông mô tả phố huyện dưới nạn đói một cách khốc liệt. Nạn đói hoành hành dữ dội bốc lên mùi tử khí. Nhưng âm thanh thê lương của tiếng khóc hờ, tiếng quạ kêu xao xác đến nao lòng. Những con người nơi phố huyện nghèo của Kim Lân chỉ mong có cái ăn để sống qua ngày. Và vì miếng ăn mà họ đành bán rẻ nhân cách, bán rẻ cả bản thân để có thể được sống.
Bằng nghệ thuật tả cảnh xuất sắc cả Kim Lân và Thạch Lam đã vẽ thành công hình ảnh phố huyện nghèo trong tác phẩm của mình. Nếu như phố huyện của Thạch Lam mang đến nét bình yên và mộc mạc. Thì phố huyện của Kim Lân lại hiện lên ai oán với tiếng khóc và hình ảnh những bóng ma dật dờ trong nạn đói năm Ất Dậu 1945.
Ngọn lửa tình người thắp lên giữa đêm đen cuộc sống cảm nhận Vợ nhặt của Kim Lân?
Câu trả lời của bạn
"Đó là những người cầm bút có biệt tài có thể chọn trong cái dòng xuôi chảy một khoảng thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh khắc với một vài sự diễn biến sơ sài và cũng bình thường thôi, nhưng bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi đó là khoảnh khắc chứa cả một đời người, một đời nhân loại...". Mỗi lần đọc và giảng truyện ngắn Vợ nhặt, tôi lại nhớ tới ý kiến rất sâu sắc ấy của nhà văn quá cố Nguyễn Minh Châu. Quả vậy, cây bút truyện ngắn biệt tài Kim Lân đã chọn được một khoảnh khắc thời gian thật tiêu biểu để dựng nên tác phẩm, ấy là buổi chiều "nhá nhem" không chỉ vẩn lên mùi ẩm thôi, đi vào một đêm đen thỉnh thoảng vẳng ra tiếng hờ khóc tỉ tê, và tiến đến một buổi sớm mai mùa hè "sáng loá". Câu chuyện như một mảnh vẹn nguyên cuộc sống được xắn ra, vật lên trên trang giây - cuộc sống của những lao động Việt Nam xanh xám, vật vờ, tối đen trong giờ phút lụi tàn của xã hội thực dân phong kiến, chuẩn bị cho Cách mạng tháng tám năm 1945. Viết về xã hội cũ, song nhà văn không miêu tả những bi kịch của kiếp người như những cây bút hiện thực thời kỳ ấy. Chọn thời điểm giáp ranh Cách mạng, cho tác phẩm ra đời năm 1962 trong tập truyện nổi tiếng Con chó xấu xí, tác giả Vợ nhặt cũng không dùng giọng văn ngắn mang âm hưởng sử thi ca ngợi. Ngòi bút Kim Lân hướng vào chuyện duyên kiếp, tình nghĩa của con người, tỏa hơi ấm từ tình người. Tình người - trước hết là ở những người lao động bé nhỏ, dưới đáy xã hội - đã được nhen nhóm, thắp sáng giữa đêm đen của cuộc sống.
Chao ôi, cái đêm đen cuộc sống ở một xóm nghèo ven thành phố của những người ngụ cư mới khủng khiếp làm sao! Cái đói, cái chết hiện hình thành những rìu sắc, đường nét rõ rệt, ngay trước mắt con người: đường vào tối om, bóng người đói với những khuôn mặt xanh xám đi lại dật dờ như những bóng ma - Cái đói, cái chết cất lên trong "tiếng quạ gào từng hồi thê thiết trên mây cây gạo ngoài bãi chợ", trong tiếng "hờ khóc tỉ tê" của những gia đình vừa chôn cất người thân. Rồi nó "vẩn thành mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người", "mùi đốt đống rấm - đốt những vật dụng của người vừa chết - bốc lên khét lẹt". Trong tiến trình văn học Việt Nam, nhiều nhà thơ đã viết về nạn đói: Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tuỳ bút kể chuyện mùa màng thất bát, cả một vùng rộng lớn ở Thái Bình lúa ngô chết rục, chỉ thấy chồn, cáo chạy nhông, đào bới...Nguyễn Du trong Sở kiến hành tả cảnh một gia đình đói rách đi xin ăn... Và Thạch Lam, và Nguyễn Công Hoan, và Ngô Tất Tố... Song dường như chưa một ai đặc tả, cực tả rõ nét cái nạn đói năm ất Dậu - 1945 - ở một thời gian cụ thể, một không gian đậm đặc như Kim Lân đã làm. Trong truyện Đôi mắt, năm 1948 Nam Cao cũng từng dự cảm về "Cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, đọc Vợ nhặt của Kim Lân, chúng ta không chỉ nghe lời kể của nhà văn mà như phải trực tiếp sống giữa cái thời điểm, cái nơi chôn đói nghèo ất Dậu ấy, nhìn rõ cỏ cây, nhà cửa, bóng người, nghe rõ những tiếng quạ kêu, tiếng người khóc, ngửi thấy mùi gây, mùi khét. Chúng ta không chỉ "rùng mình", còn khiếp sợ, còn xót thương, ngột ngạt, tưởng chừng không sống nổi. Văn chương hay chính đây đích thực cuộc đời đang hiện về? Từng màu sắc, từng âm thanh, từng mùi vị... Một cảnh điêu tàn, rữa nát. Cái chết lan tràn, bao phủ. Đêm đen buông xuống. Đời người, kiếp nhân sinh giống như một đống tro tàn, lạnh ngắt.
Vậy mà giữa bóng đen, giữa khí lạnh cuộc đời, hai kiếp người - anh con trai mệt mỏi bởi những lo lắng chật vật hàng ngày và chị con gái tả tơi, gầy sọp, xám xịt - đã tình cờ gặp nhau, cưới nhau, cùng nhau nhen nhóm ngọn lửa... Bắt đầu là Tràng, rồi cô vợ. Họ được cả làng xóm dõi nhìn, cuối cùng được bà mẹ chấp nhận bằng một tấm lòng ngọt ngào, ấm áp. Họ sưởi ấm cho nhau, cùng thắp sáng ngọn lửa sự sống, ngọn lửa tình người. Lần theo từng dòng chữ từng đoạn văn trong Vợ nhặt, chúng la dễ dàng nhận ra ngòi bút tinh tế của nhà văn khi ông - như có chủ đích - đan xen những âm thanh thê thảm, đau xót và những tiếng nói, giọng cười vui vẻ tuế toái, đan xen những bóng đen, màu xám và những tia sáng, những ánh hồng. Câu chuyện được kể thật nhẹ nhàng, thấm thía, theo một trình tự thời gian ngắn gọn từ chiều tà, vào đêm tối, đến sáng hôm sau và cũng theo một trình tự của phép biện chứng tâm hồn, ánh sáng của niềm vui, hơi ấm của hạnh phúc gia đình, ngọn lửa tình người được nhen nhóm rồi thắp lên, để cuối cùng "sáng lóa " trong ánh nắng một rạng đông mùa hè ba kiếp người đói rách ngồi bên nhau chuyện trò, nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật cứu đói, hướng lời Việt Minh, tới những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm, lá cờ đỏ bay phấp phới...
Có thể nói cuộc gặp gỡ của đôi trai gái - anh cu Tràng và cô vợ - những phút đầu đúng là một câu chuyện tầm phào theo cách nghĩ của Tràng. Song, khi cả đôi anh chị cùng cất lời, đưa mắt thì... dường như lửa và rơm đã bắt đầu bén Chỉ vừa nghe anh cái tiếng "Muôn ăn cơm trắng với giò...", chị đã "nhà : ơi"... rồi "liếc mắt cười tít". Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế! Rồi hắn toét miệng cười và cũng biết tình tứ lại chẳng kém gì cô em: "Này, hãy ngồi xuống ăn miếng giầu đã". Ai dám chê cái anh chàng đẩy xe bò đầu trọc nhẵn, lưng to rộng như lưng gấu này không có duyên! Song, giữa cái thời bên bờ vực chết đói này, duyên hay tình, hay gì gì đi nữa trước hết phải là miếng ăn, là sự sống. Do đó sau khi biết đích xác chàng trai có tiền, rồi lại được ăn liền một lúc bốn bát bánh đúc hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, rồi ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà, ngon!... "Này, nói đùa chứ có về ở với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về...". Nói thế, Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngỡ thị về thật. Câu chuyện ái tình của họ được Kim Lân miêu tả bằng một giọng văn tưng tửng, như bỡn cợt, đùa vui, song hoàn toàn không phải là bèo bọt trăng gió vu vơ. Nó nghiêm túc, càng về sau càng nghiêm túc. Giữa thời thóc cao, gạo kém, mỗi người chưa chắc đã nuôi nổi cái thân mình, họ nhặt được nhau, rồi đưa nhau về, sau cái chặc lưỡi liều lĩnh, song táo bạo như một lời thách đố đã diễn ra. Hai anh chị đi bên nhau đàng hoàng cứ hệt như chú rể đưa cô dâu về nhà chồng. Anh: nét mặt phởn phơ khác thường, tủm tỉm cười nụ và hai con mắt thì sáng lên lấp lánh. Chị: đầu hơi cúi, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất nửa mặt, rón rén e thẹn. Cả làng xóm như bừng dậy. Trẻ con hò reo, có đứa gào lên: "chông vợ hài", người lớn bàn tán, hỏi han, phán đoán. Những khuôn mặt u tối hốc hác bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Tiếng cười, nói, tiếng mời gọi râm ran. Có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói tối tăm ấy của họ. Câu đố dường như dần dần được giải đáp, mặc cho làng khen chê, đàm tiếu, Tràng vẫn cứ vênh mặt lên tự đắc, lấy làm thích ý. Vì đến lúc này anh mới thực sự cảm nhận ý vị cuộc gặp gỡ tình cờ, cái ý định chớp nhoáng, táo bạo mà đúng đắn của mình. Đi bên người đàn bà ngượng nghịu trước lời khen của ai đó: ''khéo mà vợ anh cu Tràng thật, trông ta e thẹn hay đáo để", Tràng như quên hết những cảnh sống tăm tối hàng ngày. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà ... Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng. Đó là tình yêu? Là hạnh phúc tuổi trẻ? Là ánh sáng đổi đời? Có lẽ là tất đối với hai kiếp người tối tăm, vờ vật, chắp nối lại cùng nhau để thành vợ, thành chồng. Cái giây phút quan trọng nhất của lời thách đố là lúc Tràng đi sát bên người con gái, ngẫm nghĩ một lúc, rồi giơ cao cái chai con lên khoe: -Đầu tối thắp đây này... Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chẳng nhẽ chưa tối đã rúc ngay vào, hì hì...". Tràng đã nói ra được cái ý nghĩa thô mộc mà thiêng liêng nhất: "Vợ mới, vợ miếc". Cô gái cũng đáp lại được bằng " một lời nói suồng sã nhất: "khỉ gió", và một cử chỉ cởi mở nhất "phái đánh đét vào lưng hắn", khiến cho "hắn thích chí ngửa cổ cười khanh khách". Vậy là, những e thẹn, những rụt rè, ngượng nghịu của ái tình trai gái đã được bước qua để tới ngưỡng cửa của quan hệ vợ chồng rồi. Chuẩn bị cho ngày vui đón vợ mới, anh chẳng có bạc vàng, rượu thịt cao sang gì, chỉ có cái chai con đựng ít dầu thắp để... "cho nó sáng sủa một tí chứ"! vậy mà em vẫn khen "sang nhỉ" rồi lại chuyên răn anh "hoang nó vừa vừa chứ". Thật xót xa, mà cảm động, một cuộc rước dâu chỉ có hai người rách rưới, vêu vao đi bên nhau với một ít dầu thắp tối. Song cũng thật đàng hoàng, trịnh trọng, bởi vì họ tự đến với nhau, tin cậy, hoà hợp. "Đôi ta như lửa mới nhen, như trăng mới mọc, như đèn mới khêu". Cái mối tình dân dã của anh Tràng và cô vợ nhặt ngẫm ra cũng có ánh sáng, có lửa ấm đấy chứ!
Khi hai vợ chồng về tới nhà, giới thiệu vợ với mẹ, anh cu Tràng nói: "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là cái số cả...". Giọng tuy ngập ngừng, song lời lẽ thật chững chạc. Mỗi chữ mỗi câu vừa ấm tình người vừa sâu nghĩa lý. "Nhà tôi làm bạn .. duyên ... kiếp... cái số cả...", ấy là những ngọn lửa Tràng thắp lên ừa để sưởi ấm, vừa để soi sáng cái đầu óc chậm chạp già nua của bà cụ Tứ. Với chính Tràng, ngọn lửa ấy cũng thắp sáng lên trong lòng một quyết tâm. Nói tới "duyên - kiếp" là chạm vào vùng thiêng liêng nhất trong mảnh đất của đôi gái, trai. "Duyên" là sự hấp dẫn, lôi cuốn gọi mời, là tình yêu giữa hai người. "Kiếp" là đời sống cơ cực cùng cảnh ngộ, cùng thuyền, cùng hội mà tạo hoá đẩy, trôi đến gần nhau, cảm thông với nhau, rồi chia sẻ và thương nhau. Từ câu chuyện "tầm phào" ở bên đường bữa nọ, rồi tới lúc đưa cô ả đi qua ngõ xóm lời bỡn cợt "vợ mới, vợ miếc", giờ đây giữa mái ấm của căn nhà, trước mặt mẹ Tràng đã thực sự coi mối quan hệ giữa mình với người con gái như có tiền định có lương duyên do trời sắp xếp, do đời run rủi, ràng buộc. Có thể khi nói, Tràng chưa nghĩ được những điều sâu xa như vậy, song cái cách anh ta "tươi cười" mời mẹ "ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện" rồi nhắc mẹ: "Nhà tôi nó chào u", rồi bước lại gần... vừa giới thiệu cô gái trong tư cách "nhà tôi" vừa khẳng định "duyên số" hai người trong giọng điệu rành rẽ, đứng đắn, ai nghe chẳng cảm động, đồng tình. Vì vậy, bà cụ Tứ đã hiểu, hiểu việc con làm, hiểu ra, biết bao nhiêu cơ sự khác nữa. Bà mẹ nghèo khổ ấy vừa ai oán vừa xót thương cho đời mình, đời con. Bà thấm thía, tủi hờn về hoàn cảnh, về trách nhiệm mẹ trước việc trăm năm hạnh phúc của con cái., rồi bà cảm động đăm đăm nhìn cô gái, như chấp nhận, như hàm ơn: Người ta gặp bước khó khăn , đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ... Bà nhắc lại ý con để nói với "nàng dâu mới": ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng". Con tin yêu mẹ. Mẹ già cũng tin yêu, tôn trọng dâu con. Mẹ chồng và nàng dâu mới trò chuyện thật cởi mở, thân tình. Bà mẹ dạy con: "Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn", phát ra một tương lai "rồi ra may mà ông giời cho khá...". Rồi an ủi, động viên: "con ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân... cốt chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...". Đọng lại ở câu chuyện giữa hai kiếp người tuy khi nhau về tuổi tác mà thật giống nhau trong cảnh ngộ làm người là ở chỗ "thương", ấy là tình người, lòng bao dung nhân hậu của những người mẹ, người phụ nữ Việt Nam. Nói được những lời gan ruột ấy, hẳn bà cụ Tứ vơi đi biết bao đau khổ, giải toả biết bao lo lắng, tủi nhục. Trái tim người mẹ như nghẹn lại. Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Phải chăng lúc đó là nước mắt của niềm vui, của hạnh phúc nhỏ nhoi, hạnh phúc được chia sẻ giãi bày? Khi thấy con trai đánh diêm đối đèn, bà cụ vội vàng lau nước mắt, ngửng lên nói như reo: "Có đèn đây à? ừ thắp lên một tí cho sáng sủa...". Một câu nói của nhân vật, một chi tiết thật đơn giản mà chứa đựng bao nhiêu ý nghĩa. Chắc hẳn đã lâu lắm rồi căn nhà lụp xụp rách rưới của hai mẹ con bà Tứ không có ánh đèn. Đêm buông xuống, bóng tối cũng ùa vào, che phủ. Chắc hẳn đã lâu lắm rồi, hai mẹ con sống lủi thủi, âm thầm, hết kiếm ăn ban ngày ở đầu đường góc chợ, đêm về nhà vật mình xuống vì mệt nhọc, chẳng cần đèn đóm, chuyện trò. Nay nhà có người mới:. con trai có vợ mới, mẹ già có nàng dâu mới, thắp đèn lên cho sáng sủa! Ngọn đèn, hay chính là ngọn lửa của tình người mà ánh sáng đã được nhen từ trong trái tim của mỗi con người? ở Tràng, đó là ánh sáng từ sự ngẫu nhiên, tình cờ đến một quyết tâm, một khát vọng, ở người vợ nhặt, đó là ánh sáng của duyên kiếp, của cảnh ngộ, ngẫu nhiên mà như số trời ràng buộc, xe kết. Ở bà cụ đó là ánh sáng của tình thương, lòng bao dung, nhân hậu. Họ nhắc nhau thắp lửa để... đêm tối "sáng lên một tí", để căn nhà toả ra hơi ấm, lòng người có thêm chút lửa để quyết sống, quyết vượt qua tao đoạn này - cái tao đoạn tăm tối đau thương nhất của đất nước bấy giờ. Có thể nói. nhà văn Kim Lân thắp vào giữa căn nhà bà cụ Tứ một ngọn lửa - dù chỉ là của ngọn đèn dầu, thứ của cải đắt đỏ bây giờ - đồng thời thắp trong lòng mình, lòng người đọc một niềm vui, niềm tin yêu, trân trọng trước bản lĩnh sống của con người - những con người trong tăm tối vẫn nhen nhóm và cố thắp sáng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống cho ra con người, nên người.
Nếu ở phần trước, các chi tiết, các sự việc của câu chuyện diễn biến trong sự lan xen bóng tối và ánh sáng, thì đến phần sau, nhà văn dựng một không gian nghệ thuật cả bề mặt và chiều sâu, đầy ... ánh sáng, cả khung cảnh và nhân vật đều tắm trong ánh sáng, chan hoà ánh sáng, ánh sáng bừng lên như một chuyển động tự nhiên, vì nhà văn kể về buổi sáng hôm sau. Song ánh sáng ấy cũng đâu phải ngẫu nhiên. Nó biểu hiện một cảm hứng lạc quan, nó soi tỏ một ngày mới, một trang mới của tâm hồn, sự sống mỗi nhân vật, mỗi kiếp người. Nó cũng là kết quả đẹp đẽ của ngọn lửa tình người.
Một buổi sớm mai đẹp đẽ xiết bao! Nắng mùa hè sáng loá. Nhà cửa, sân vườn được quét tước thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa được đem ra hong nắng. Hai cái ang nước vẫn để khô cong, nước đầy ăm ắp. Đống rác ngay lối đi đã được hót sạch... Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ Tràng đang quét sân, tiếng chổi kêu sàn sạt trên mặt đất... Tất cả như đang đổi thay, mới mẻ. Một nguồn sống mới, vui sướng, ngọt ngào của hạnh phúc gia đình trỗi dậy, tràn ngập trong lòng. Anh cảm thấy mình đã "nên người", thấy thương yêu, gắn bó với căn nhà, với những người thân, ý thức về sự "nên người" khiến cho Tràng trưởng thành, đổi thay cả về tâm tính lẫn hành động. Anh thấy mình phải có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này. Anh xăm xắn chạy ra giữa sân, muốn làm một việc gì để góp phần tu sửa lại căn nhà. Người đàn bà - vợ nhặt của Tràng cũng đã đổi thay, khác hẳn. Rõ là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Rõ là người vợ biết chăm sóc chồng lam làm vun vén cho cái tổ ấm vừa xây dựng. Nhìn ở đâu cũng thấy có bàn tay chị. Nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, áo quần giặt giũ, ang nước đầy, cái bếp ấm lửa. Nhà văn không miêu tả chi tiết mà chỉ phác qua một nét nhẹ nhàng bằng cảm nhận của Tràng - người chồng - hình ảnh người vợ vẫn hiện lên thật đáng yêu. Bà cụ Tứ chợt thấy con giai, nhẹ nhàng bảo nàng dâu: "Anh ấy dậy rồi đây. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn". Vợ Tràng đáp: "Vâng", rồi lẳng lặng đi vào trong bếp. Sự việc diễn ra thật đơn sơ mà thấm thìa làm sao! Mẹ chồng nàng dâu như đã sống với nhau, gắn bó thương yêu, kính trọng nhau, thông thuộc việc nhà như đã hàng chục năm rồi. Cái nền nếp, gia phong như đã được đắp xây bền vững từ lâu lắm rồi. Người đàn bà ấy, đối với Tràng không còn là của "nhặt" được nữa, mà thực sự đã là "vợ" rồi, là "nàng dâu" của mẹ anh rồi. Như vậy, chị ta cũng đã "nên người", xứng đáng "con người". Còn cụ Tứ - người mẹ nghèo khổ, chậm chạp, già yếu - cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường. Cái mặt bủng beo u ám rạng rỡ hẳn lên. Bà xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, sai bảo, dạy dỗ con dâu, nhắc nhở, động viên con trai. Tâm hồn người mẹ chan hòa một nguồn sáng mới - nguồn sáng của niềm tin yêu, hy vọng.
Ánh sáng của niềm tin yêu, hy vọng từ trong người mẹ, toả sáng đôi vợ chồng mới. Vì thế bữa cơm thảm hại của ngày đói - có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo loãng - cả nhà vẫn vui vẻ ăn rất ngon lành. Bà lão bàn chuyện ngăn bếp nuôi gà. "Khi nào có tiền, ta mua lấy đôi gà. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem". Một đôi gà thoáng trong tích tắc đã hoá "đàn gà". Có một ông bụt, một bà tiên nào đã nhập vào lời bà cụ, hay chính bà cụ đang hóa thành tiên, bụt để đem đũa thần biến những khổ đau, tăm tối của cuộc đời mình, cuộc đời dâu, con thành niềm vui, ánh sáng? Nồi cám đắng chát nối sau hai lưng cháo loãng trong tay bà biến thành "cái này hay lắm cơ...", thành "chè đây, chè khoán đây". Hình ảnh bà cụ "lật đật chạy xuống bếp", rồi "lễ mễ bưng ra một nồi khói bốc nghi ngút", cùng cái cử chỉ "cầm muôi khuấy khuấy" múc từng bát cám và câu nói: "ngon đáo để... ngon đáo để..." được nhà văn đặc tả vừa như chân thực vừa như lãng mạn như trong một câu chuyện cổ tích vậy, cổ tích trong vẻ đẹp của hình tượng nhân vật, song vẫn hiện đại, chân thực trong những từ ngữ đời thường chắt lọc, nhất là những từ láy đặc sắc: lật đật, lễ mễ, nghi ngút, khuấy khuấy, ngon đáo để. Càng về cuối, câu chuyện càng giản dị, song vẫn bất ngờ, hấp dẫn, và thật cảm động. Ngọn lửa tình người, ngọn lửa sự sống, niềm khao khát hạnh phúc, ấm no sự gắng gượng vui sống, niềm hy vọng ngày mai cuộc sống tốt đẹp hơn... cứ nóng dần, lan tỏa trong từng chi tiết truyện, từng câu, từng chữ. Cuối cùng, từ chuyện gia đình, chuyện nồi cháo cám đắng chát mà vẫn "ngon đáo để", ba con người khốn khổ ấy cố quên đi những đắng chát trong túp lều nhỏ hẹp để lắng nghe tiếng vọng ở ngoài đời rộng lớn. Đó là tiếng trống thúc thuế, còn phá cả kho thóc Nhật, chia cho người nghèo đói... Từ lời kể của vợ, Tràng như bừng tỉnh. Anh nhớ tới cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sập, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm, lá cờ của Việt Minh dân đoàn người đi phá kho thóc chia cho người đói. Khi vợ và mẹ đứng dậy, Tràng vẫn còn mơ màng nghĩ tới "đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...". Câu chuyện về những người nghèo đi phá kho thóc Nhật chia cho dân ở nơi này, nơi kia, hình ảnh lá cờ đỏ hai lần hiện lên trong tâm trí Tràng, phải chăng là một luồng sáng mới? Luồng khởi quang cách mạng đó, tuy ba con người nghèo khổ chưa nhận thức được rõ ràng song vẫn lung linh, chấp chới một dự cảm ấm lòng. Nó nuôi dưỡng niềm tin cuộc sống. Nó thắp sáng thêm ngọn lửa tình người, giục giã con người tiếp tục gắng gỏi vươn lên, xé tan màn đêm vây bủa để đi tới một buổi mai của khát vọng làm người, khát vọng hạnh phúc. Chi tiết cuối cùng "lá cờ đỏ bay phấp phới" như một vĩ thanh buông ngân từ tác phẩm một âm hưởng lạc quan. Cuộc đời chưa diễn ra,sóng ánh sáng hồng một đời mới như đang ở ngay trước mặt, thắp trong người đọc một niềm vui để càng thêm yêu và tin ở con người, ở tình người.
Đặt trong tiến trình văn học hiện đại Việt Nam, có người tiếc cho Vợ nhặt không chào đời cùng lúc với Tắt đèn, Chí Phèo, Bỉ vỏ, hoặc đúng dịp Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chúng ta được biết, nhà văn Kim Lân khởi thảo tác phẩm năm 1940, chắc đã thai nghén những nhân vật, những tình huống chi tiết truyện sớm hơn nữa. Trải qua hai cái mốc lớn của dân tộc: cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống Pháp, qua sự trải nghiệm cuộc đời với độ lùi thời gian và độ chín của tư duy sáng tạo, nhà văn mới hoàn thiện và công bố tác phẩm. Do đó tác phẩm có dáng hình giống những áng văn hiện thực trước năm 1945, song âm hưởng khác hẳn. Nó không tăm tối, ngột ngạt đến bế tắc. Điều đặc sắc nhất ở ngòi bút Kim Lân là ông đã chọn được một khoảnh khắc của mỗi đời người, của cả dân tộc mà cuộc sống đẩy con người vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, ẩn náu sâu kín nhất chứa đựng sức sống cả một đời người, một đời nhân loại. Tác phẩm Vợ nhặt vì thế, không chỉ có ý nghĩa của câu chuyện duyên kiếp mà còn thấm thía một lẽ sống ở đời. Trong những lúc cuộc đời tăm tối nhất, con người vẫn cố gắng thắp sáng ngọn lửa tình người, ngọn lửa khát khao hạnh phúc. m hưởng ngân nga trong từng dòng, từng đoạn là hiện thực và lãng mạn đan xen, tiếng khóc và tiếng cười đan xen, bóng tối và ánh sáng giành giật, để cuối cùng mở ra một ngày sáng loá, có ánh hồng của mặt trời, sắc đỏ của lá cờ Cách mạng. Cảm hứng nhân văn - tinh thương và niềm tin ở con người, trước hết với nhân dân lao động - của Vợ nhặt dường như đã mang nét mới của thời đại, vương lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Và điều đặc sắc nữa ở ngòi bút Kim Lân là giọng kể, những tình huống truyện trớ trêu mà giản dị, thô mộc mà hấp dẫn, là những từ ngữ dân gian mà giàu lính nghệ thuật, là những chi tiết hiện đại mà như trong cổ tích. Biết đâu, các nhà từ điển ngày mai sẽ đưa từ mới "Vợ nhặt" - sáng tạo riêng của Kim Lân - vào kho từ vựng văn chương hiện thực và nhân đạo Việt Nam. Và ... biết đâu, sau này con cháu chúng ta sẽ đọc Vợ nhặt như đọc một truyện cổ tích - cổ tích về duyên kiếp những con người đói khổ có nồi cháo cám ăn mừng ngày nên vợ nên chồng, có bà mẹ nghèo hiền hậu như một bà tiên, có lá cờ đỏ báo hiệu giấc mơ sắp thành hiện thực.
Phân tích sức mạnh của tình yêu thương con người thể hiện qua “Vợ nhặt” của Kim Lân và “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài?
Câu trả lời của bạn
Một tác phẩm có nhiều thước đo giá trị, trong đó tình người, lòng yêu thương lẫn nhau chính là thước đo chủ yếu và cơ bản nhất, quyết định sức sống của tác phẩm đồng thời qua đó, thể hiện thái độ, tình cảm và cách nhìn nhận của nhà văn đối với con người và cuộc sống. Hai truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Vợ nhặt (Kim Lân), đều toát lên được tình người mà tác giả dành cho các nhân vật của mình, khác với văn xuôi thời kỳ trước 1945, đây là giá trị nhân đạo mới.
Macxim Gorki đã nói “Văn tức là người”. Đối tượng phản ánh trung tâm của văn học là con người. Nhà văn chân chính đi tìm bề sâu và mọi tâm trạng tinh vi, phức tạp nhất của tâm hồn con người để hiểu và yêu con người. Chính vì thế giá trị nhân đạo luôn là vấn đề cấp thiết trong văn chương mọi thời đại. Số phận con người, những khát vọng của con người không bao giờ lại cũ cả.
Sức mạnh của tình thương yêu con người được thể hiện rõ nét nhất qua đoạn Mị cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) và Tràng đối với cô vợ theo (Vợ nhặt – Kim Lân)
Đầu tiên là tác phẩm “Vợ chồng A phủ” qua hành động Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ là biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con người:
Lúc đầu, Mị dửng dưng vô cảm trước cái chết cận kề của A Phủ. Nhưng sau đó, dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã thức dậy lòng thương người trong Mị. Lòng thương người ấy đã làm sống dậy trong Mị sức phản kháng mạnh mẽ. Nếu nói đêm tình mùa xuân là “tia lửa nhỏ” thì đêm cứu A Phủ là “đám cháy lớn”. Đám cháy ấy bùng lên khi Mị nhận thức được tội ác cha con nhà thống lý “Trời ơi chúng trói người ta đến chết thì thôi, chúng nó trói chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này. Chúng nó thật độc ác”. Nhận thức ấy là nhận thức hoàn toàn bằng lí trí, bằng sự tỉnh táo. Từ nhận thức ấy mà sự nổi loạn thứ hai của Mị mới thật là mong muốn của người đọc. Mị đã cắt đứt dây trói cho A Phủ. Rồi Mị cũng vụt chạy theo A Phủ vì theo Mị “Ở đây thì chết mất”. Hơn một lần trong truyện này Mị sợ chết. Lần đầu là thức dậy sau đêm bị trói nghĩ đến người đàn bà đời trước bị trói đến chết trong căn nhà này “Mị sợ quá. Mị cựa quậy xem mình còn sống hay là đã chết”. Lần thứ hai là lúc Mị cắt đứt xong dây trói cho A Phủ. Như vậy, sợ chết là biểu hiện cao độ nhất của lòng ham sống. Đó là vẻ đẹp sức sống tiềm tàng của con người lao động Tây Bắc và niềm tin của nhà văn vào khả năng vươn dậy của nhân vật.và đó cũng chính là tình yêu thương con người, giữa con người với con người.
Sau những hành động của mình vừa làm, Mị cảm thấy “hốt hoảng”, rồi đột nhiên “vụt chạy” đuổi theo A Phủ, và nói “A Phủ cho tôi đi!… Ở đây thì chết mất!” đây chính là lúc mà tình yêu thương con người được đẩy lên cao trào, bắt đầu hành trình từ “thung lũng đau thương” đến “cánh đồng vui” ở mảnh đất Phiềng Sa.
Mị và A Phủ từ tăm tối đau thương đã vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm. Họ đã cùng nhau đạp qua đêm tối, vươn đến ngày mai ở Phiềng Sa, nên vợ nên chồng. Cả hai người đã theo Cách mạng, theo Đảng, đánh giặc, bảo vệ quê hương và thay đổi số phận của mình. Cũng qua đó, tác giả đã bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống của con người và là bài ca ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặc biệt là sức sống tiềm tàng và hành động tự giải phóng của nhân vật, đồng thời đặt niềm tin và sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng sống tốt đẹp của con người dù bị đày đọa đau khổ.
Chỉ cần những hành động của Mị đó thôi, tuy có vẻ rất đơn giản nhưng phải có dũng khí lắm, người con gái đã từng cảm chịu kiếp sống trâu bò đó mới có thể dám làm, nếu không xuất phát từ tình thương người thì chắc chắn Mị đã không hành động như thế. Vì vậy hành động đó có ý nghĩa to lớn vì nó là sự hồi sinh, làm thức tỉnh một kiếp người, đồng thời là biểu tượng của tinh thần phản kháng quyết liệt với cái ác, cái xấu. Sự hồi sinh đó xuất phát từ tình yêu thương con người sâu sắc mà xã hội cũ đang cố tình vùi dập nó.
Còn trong tác phẩm “vợ nhặt” của Kim Lân, tình yêu thương con người được thể hiện qua hành động của Tràng, và Mị: Mị và A Phủ từ tăm tối đau thương đã vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm. Họ đã cùng nhau đạp qua đêm tối, vươn đến ngày mai ở Phiềng Sa, nên vợ nên chồng. Cả hai người đã theo Cách mạng, theo Đảng, đánh giặc, bảo vệ quê hương và thay đổi số phận của mình. Cũng qua đó, tác giả đã bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống của con người và là bài ca ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặc biệt là sức sống tiềm tàng và hành động tự giải phóng của nhân vật, đồng thời đặt niềm tin và sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng sống tốt đẹp của con người dù bị đày đọa đau khổ.
Đầu tiên là ngượng ngùng, xấu hổ. Từ khi rơi vào tình cảnh theo không Tràng làm vợ, cô vợ nhặt trên đường theo Tràng về bộc lộ rõ nét tâm lý ngượng ngùng, xấu hổ. Bên cạnh dáng vẻ phởn phơ, tự đắc của Tràng, thì cái vẻ thèn thẹn của người vợ càng lộ rõ. Thậm chí trước lời bàn tán của dân xóm ngụ cư, thị “ngượng ngùng chân nọ díu vào chân kia, thị chỉ dám càu nhàu ở trong miệng”, càu nhàu khẽ đến mức Tràng đi bên cạnh mà không nghe rõ. Ra thế, những nét đanh đá, chỏng lỏn, sống sượng không phải là bản chất mà là sản phẩm của hoàn cảnh năm đói, vẫn còn đó nguyên vẹn trong chị vẻ thuần hậu của người phụ nữ lao động thôn quê.
Trên đường gần về nhà Tràng, người vợ nhặt rơi vào tâm trạng lo âu, phấp phỏm, điều này được thể hiện rõ qua những câu hỏi dồn dập của thị với Tràng: “Nhà có ai không?”, “Sắp đến chưa?”,”Sao lâu thế?”….Bởi chị theo không Tràng là bất đắc dĩ, là để tránh cái đói quay quắt, không biết những gì đang đợi chị ở phía trước cho nên trong lòng lo lắng, bất an. Rồi khi trông thấy gia cảnh nhà Tràng chỉ là một “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm ngổm những bụi cỏ dại”, người vợ nhặt không nén nổi tiếng thở dài ngao ngán. Khi bước vào nhà, chị đứng khép nép tay vân vê tà áo rách, mặt bần thần. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả thật tinh tế tâm lý của người vợ nhặt khi rơi vào tình huống theo không Tràng về làm vợ.
Kim Lân rất tinh tế, chỉ điểm thoáng qua vài biểu hiện thất vọng ở người phụ nữ rồi ông chuyển sang một nét nhân bản hơn; không tránh được cái đói, cái rách, không tránh được cái nghèo, cái khổ, người vợ nhặt đã tìm được một điểm tựa tinh thần. Đó là mái ấm gia đình. Vì vậy có những lúc người vợ nhặt bộc lộ niềm vui, phấn chấn, hạnh phúc qua ngôn ngữ và cử chỉ thân mật như mắng Tràng “hoang nó vừa vừa chứ”…” chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. “Đồ khỉ gió”. Có lúc khặm mặt lại, lườm Tràng một cách tình tứ. Cái lườm của cô vợ nhặt gợi cho ta nhớ đến câu nói nổi tiếng của Nam Cao trong kiệt tác Chí Phèo: “Người đàn bà dù xấu đến đâu, khi yêu cũng lườm”. Cái lườm của người vợ nhặt ở đây quả là đã vượt lên trên cái đói, cái khát để đi đến một niềm hạnh phúc rất đời thường.
Được sống trong tình thương ấm áp của gia đình bà cụ Tứ, người vợ nhặt đã có được những thay đổi rõ nét: dịu dàng, đôn hậu trở lại, cùng bà mẹ chồng “xăm xắn” quét dọn vườn tược, nhà cửa. Việc quét dọn nhà cửa trong những ngày tháng ấy xét về mặt kinh tế thì vô nghĩa nhưng nó lại có ý nghĩa to lớn về mặt giá trị tinh thần nhân văn.Tràng, cô vợ nhặt, bà cụ Tứ không chấp nhận lối sống tạm bợ qua ngày, họ vẫn hướng tới một cuộc sống bền vững, tốt đẹp hơn. Sự thay đổi của cô vợ nhặt cũng khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: ” nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.” Không chỉ vậy, cô vợ nhặt còn có những dự cảm tốt đẹp về tương lai. Cuối tác phẩm, cô vợ nhặt nhắc đến truyện ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Câu chuyện tưởng vu vơ này nhưng lại bộc lộ một dự cảm đổi đời, một cuộc thay đổi số phận trong đó có người vợ nhặt.
Qua hai tác phẩm trên ta mới thấy được sức mạnh của tình thương yêu nó cao như thế nào, giúp con người vượt qua tất cả. Bằng tình thương và cái nhìn nhân đạo, nhà văn đã ngợi ca vẻ đẹp của người lao động và luôn muốn tìm cho nhân vật của mình một hướng đi mới và tươi sáng hơn.
Bên cạnh những cái chung, điểm giống nhau của hai tác phẩm thì hiện thực cuộc sống được phản ánh trong hai tác phẩm khác nhau:
Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là bối cảnh sau cách mạng và trong kháng chiến ở miền núi Tây Bắc. Nói về những con người lao động ở vùng núi cao và chế độ phong kiến vẫn còn đang đè nặng lên chính những con người nơi đây.
Còn “Vợ nhặt” của Tô Hoài lại lấy bối cảnh là nạn đói trước cách mạng và ở miền xuôi. Vào năm 1945 khi mà nạn đói hoành hành và phải khiến hơn 2 triệu người Việt Nam phải chết đói trong đợt đói đấy
Đối với Mị, Mị là nạn nhân của chế độ chúa đất phong kiến ở miền núi. Giá trị con người không được xem trọng, đưa ra đong đếm, mua bán, gán nợ như đồ vật hay trâu bò vậy. Còn vợ nhặt, cô là nạn nhân của nạn đói do bọn phong kiến, thực dân, phát xít gây ra.
Phong cách nghệ thuật, bút pháp miêu tả của mỗi tác giả khác nhau: Kim Lân chú ý khai thác từ tình huống và tâm lí nhân vật. Trong khi Tô Hoài có lối miêu tả nhân vật độc đáo.
Qua nhân vật và tình huống truyện, không những nhà văn phản ánh một mặt trận đen tối trong hiện thực xã hội, cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm hồn của họ. Đó là niềm cảm thông sâu sắc với nỗi đau của con người, sự nâng niu nét đẹp tâm hồn mà hơn cả là sự hướng tới giải phóng cho con người.
Phân tích những điểm giống và khác nhau của hai truyện ngắn "Một đám cưới" (Nam Cao) và "Vợ nhặt" (Kim Lân)?
Câu trả lời của bạn
Một đám cưới gồm sáu người lủi thủi đi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ... Một đám cưới vẻn vẹn có hai người bước trên con đường về xóm ngụ cư tồi tàn, trong cái cảnh tối sầm vì đói khát, giữa không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người... Hai đám cưới tựa như hai bức tranh minh họa cho cái vụ đói khủng khiếp diễn ra ở miền Bắc nước ta hồi tháng 3/ 1945. Tuy có những mảng màu sáng tối khác nhau nhưng cả hai đều được vẽ nên từ chất liệu hiện thực cuộc đời và tinh thần nhân đạo đậm nét. Nam Cao và Kim Lân đã để lại cho chúng ta hai "đám cưới" thật đặc sắc và cảm động.
Trong cuộc sống, có những sự kiện đặc thù giúp chúng ta nhìn rõ hoàn cảnh xã hội. Đám cưới là một sự kiện như vậy. Đây là cảnh tượng biểu hiện rất tập trung trạng thái nhân thế, phong hóa xã hội; là sự kiện vui nhất của một đời người. Ấy vậy mà hai đám cưới ở đây được miêu tả khác hẳn. Bao trùm lên tất cả là một không khí buồn bã, ảm đạm và những giọt nước mắt. Đó là nét chung đầu tiên mà người đọc cảm nhận được qua "Một đám cưới" (Nam Cao) và "Vợ nhặt" (Kim Lân).
Nam Cao viết "Một đám cưới" năm 1944, khi mà cái đói mon men tới gần, len lách vào từng ngõ nhỏ cuộc đời những người dân lao động, vốn đã cơ cực, triền miên trong bần cùng khốn khó, nay họ lại lao đao trước vực thẳm của sự đói nghèo. Qua đám cưới của Dần, một cô bé mới 14, 15 tuổi, tác giả đã tái hiện một cách rất chân thực không khí của những ngày đói kém. Còn Kim Lân, qua câu chuyện anh cu Tràng "nhặt" được vợ cũng góp phần làm sinh động hơn vụ đói khủng khiếp ấy. Cả hai tác phẩm đều thuộc dòng văn học hiện thực, đối tượng mà Nam Cao và Kim Lân miêu tả đều là những người dân lao động lam lũ trong những làng quê nghèo khó. Điều đó cũng dễ hiểu. Bởi lẽ nạn đói lan đến đâu thì người khổ nhất, đói nhất vẫn là những người dân ấy. Đặc biệt, cả hai tác giả đều nhân sự kiện "cưới chạy đói" ở nông thôn thời ấy để phản ánh hiện thực. Có lẽ chính vì vậy mà giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm càng trở nên sâu sắc. Cả hai tác phẩm đều mang cái không khí ảm đạm, buồn thảm của đói kém nhưng lại có cái ấm áp của tình yêu thương đùm bọc trong một gia đình nông dân nghèo, của sự chia sẻ, cảm thông giữa những người khốn khổ trong cơn bĩ cực.
Có ngẫu nhiên chăng khi người khốn khổ trong cơn bĩ cực. Có ngẫu nhiên chăng khi người chồng của Dần (Một đám cưới) và người vợ của Tràng (Vợ nhặt) đều là những nhân vật không tên? Phải chăng đó đều là dụng ý nghệ thuật của tác giả. Tuy có nhiều điểm chung nhưng hai tác phẩm cũng thể hiện những nét khác biệt. Đám cưới của Dần dẫu sao cũng có vẻ "sang" hơn đám cưới của Tràng. Cô bé ấy được cưới xin cẩn thận. Còn Tràng, chỉ vài câu bông đùa, mấy bát bánh đúc thế mà tự nhiên có vợ. Truyện ngắn của Kim Lân hấp dẫn người đọc có lẽ cũng bởi tình huống truyện độc đáo ấy. Nhưng người đọc đều nhận thấy cả hai kiểu "nên vợ nên chồng" ấy đều toát lên cái nghèo khó, thảm hại. Đám cưới của Dần, đầy đủ hơn nhưng vẫn phô bày nguyên trạng một đám cưới chạy đói. "Chú rể xách một chẽ cau chừng một chục quả, bà mẹ khoác cái áo nâu dài đã bạc ở trên vai.. Dần mặc những áo váy' ngày thường nghĩa là một cái quần cồng cộc xẫng và đụp những miếng vá thật to, một cái áo cánh nâu bạc phếch vá cũng vá nhiều chỗ lắm, một bên tay rách quá, đã xé cụt gần đến nách". Còn vợ Tràng "cắp cái thúng con đầu hơi cúi xuống", cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt". Một đám cưới đi trong đêm sương lạnh, một đám cưới về trong chiều tàn u uất, ảm đạm.
Dù là ngòi bút của Nam Cao hay Kim Lân cũng có những đoạn văn ám ảnh về cái đói lan tràn. "Dưới những gốc đa, góc gạo xù xì bóng người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết". Khung cảnh ấy khiến ta không thể không liên tưởng đến ý nghĩ lễ rước dâu của Tràng đang diễn ra bên cạnh những bóng ma đói vật vờ. Cái đói đang gặm nhấm những con người ở xóm ngụ cư tồi tàn. Những cuộc đời mỏi mòn đang sống dật dờ bên lề số phận như một quá trình chết mòn. Họ đợi chờ một cái chết dần dần như ngọn lửa ăn từ từ vào thân nến. Nam Cao cứ nhẩn nha miêu tả cái đói. "Cuộc sống mỗi ngày một khó thêm. Gạo kém, thóc cao. Ngô, khoai cũng khó chuốc được mà ăn. Thậm chí đến hạt muối cũng sinh ra hiếm nốt..". Đằng sau những lời văn tưởng như sắc lạnh ấy là một tâm hồn tràn ngập lòng thương cảm của tác giả. Bữa cơm cưới của Dần diễn ra âm thầm, trong một không khí nặng nề, buồn bã. "Ba bố con lặng lẽ ăn. Người cha ăn vài lượt cơm, rồi buông bát đũa..
Thằng lớn và cơm phùng mồm ra bị nghẹn mấy lần". Bữa cơm của gia đình Tràng diễn ra còn thảm hại hơn nhiều. "Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và đĩa muối ăn với cháo". Món "chè khoán" của bà cụ Tứ khiến cho cảm giác buồn tủi, cay đắng trong gia đình tăng thêm "miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong, tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người". Dần đi lấy chồng và có lẽ cô bé hiểu được vì sao phải làm thế. Tràng có vợ mà vẫn chưa hết ngạc nhiên. Hai bà mẹ trong hai tác phẩm thì hoàn toàn khác nhau. Mẹ chồng Dần nhanh nhảu, khéo ăn khéo nói, với suy nghĩ phải khôn ngoan làm sao cho được việc. "Tài ăn nói của người ta, một đời mới có dịp dùng đến độ vài lần... công việc của bà, mười phần đã xong đến chín phần rồi. Còn một tí chút nữa mà thôi. Tội gì không ngọt ngào với người ta cho yên ổn cả". Ngược lại, bà cụ Tứ sau cái giây phút ngỡ ngàng thì tràn ngập tình thương đối với đôi vợ chồng mới. Bà không mau mồm mau miệng, bà rất kiệm lời nhưng người đọc lại dành cho bà một tình cảm lớn. Đọc "Một đám cưới", người đọc lại bắt gặp những giọt nước mắt.
Từ hình ảnh Dần "khóc hu hu" khi về thăm nhà, "khóc đến quá nửa đêm" khi biết phải đi lấy chồng đến khi "khóc nấc lên" lúc phải xa cha. Trong tác phẩm còn có những giọt nước mắt thổn thức rơi trong lòng người bố. "Vợ nhặt" có xen cả những tiếng cười. Ngoài dòng nước mắt thương con, tủi phận của bà cụ Tứ, tiếng hờ khóc tỉ tê, câu chuyện dường như tươi sáng hơn nhờ những tiếng cười. Đó là tiếng "reo cười" của bọn trẻ con, "cười hềnh hệch" của Tràng, nhưng cũng đủ làm "cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc". Chi tiết này làm chúng ta nhớ đến cái xôn xao của phố huyện mỗi lần chuyến tàu đêm chạy qua trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" (Thạch Lam). Tiếng cười "rung rúc" của người dân xóm chợ, tiếng "cười khanh khách" của Tràng, cái cười "đon đả" của mẹ Tràng...
Tất cả những chi tiết Kim Lân miêu tả tiếng cười trong truyện làm cho không khí của "Vợ nhặt" đỡ u ám hơn "Một đám cưới". Chính điều này cũng làm cho chủ đề hai tác phẩm có những nét khác biệt. Đọc "Một đám cưới" của Nam Cao, bên cạnh bức tranh hiện thực xám xịt là một tấm lòng trong trẻo, hiếu thảo của Dần. Mới 14, 15 tuổi, cô bé ấy đã quán xuyến, xếp đặt công việc nhà cửa rất chu đáo. Ta như được gặp lại cô bé Liên đảm đang, chịu khó (Hai đứa trẻ). Không chỉ có thể, qua cách nói chuyện với bố, ta còn nhận thấy một tâm hồn nhạy cảm, một nếp suy nghĩ "già" hơn tuổi của nó rất nhiều. Phải chăng cũng như Liên, Dần là một trái cây chín sớm bởi nắng gió cuộc đời. Yêu thương, hiếu thảo với cha mẹ, Dần đi ở từ năm mười hai. Chi tiết ấy còn gợi lại cho chúng ta hình ảnh cái Tí (Tắt đèn) lúc bị bán cho nhà Nghị Quế. Cũng vì thương cha và các em, Dần đi lấy chồng. Dân được Nam,Cao miêu tả khóc nhiều lần, nhưng có lẽ chỉ một lần Dân khóc cho mình. Ay là khi cô bé "khóc hu hu" đòi ở nhà chịu khổ chứ không ở cho nhà bà Chánh nữa, khi ấy Dần mới mười hai tuổi. Cho đến tận lúc ta nghe thấy tiếng nức nở cuối cùng của Dần "Thầy đừng... đi... lên rừng", ta chợt hiểu thêm tấm lòng của cô bé ấy. Tất cả những lần khóc sau này, cô cũng chỉ nghĩ đến thương cha, thương em mà thôi. Nam Cao đã khắc họa rất thành công vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, giản dị, đức hi sinh thầm lặng, cao đẹp của cô bé.
"Vợ nhặt" của Kim Lân mang một chủ đề khác. Cũng trên cái nền hiện thực xanh xám, lởn vởn những bóng ma, giữa bầu không khí tưởng như ngạt thở ấy là một khát vọng vươn lên sống, khát khao hạnh phúc, vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, mà hy vọng. Ta cũng nhận thấy bầu không khí của chuyện khi chùng khi giãn, xen kẽ buồn vui. Giữa cái đói đang giằng xé, những người dân xóm chợ vẫn có giây phút "khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ". Thì ra họ vẫn còn yêu cuộc đời lắm. Có yêu cuộc đời họ mới "bàn tán" trước cảnh Tràng đi với cô "vợ nhặt". Họ vẫn còn quan tâm đến cuộc sống của người khác dù sau tiếng cười vui, hiện thực lại xuất hiện trong mắt họ "Biết có nuôi nhau sống qua được cái thì này không?" Và họ nín lặng.
Nhưng ta tin vào khát vọng sống của họ biết bao. Trong gia đình Tràng cũng có những lúc không khí "co giãn" như thế. Sau cái buổi tối kết thúc bằng tiếng hờ khóc ngoài xóm vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ, thì sáng hôm sau Tràng tiếp xúc với bầu không khí khác hẳn. Trước mắt anh ta là một "cảnh tượng thật đơn giản, bình thường" mà "lại rất thấm thìa cảm động" để rồi bỗng nhiên nhen nhóm trong Tràng tình cảm yêu thương gắn bó với gia đình. Giữa cái nạn đói - cái nạn đói mà lịch sử nước ta có lẽ chẳng thể nào quên ấy - có được những tia sáng của hy vọng và niềm tin vào cuộc đời như vậy thật đáng trân trọng.
Trước cách mạng, Nam Cao chưa có cái nhìn tươi sáng như thế. Kết thúc của câu truyện "Một đám cưới" để lại cho người đọc những dòng suy nghĩ không dứt, những câu hỏi xung quanh cái kết mà như mở ấy. Rồi Dần sẽ sống ra sao? Bố Dần có lẽ vẫn quyết định lên rừng một chuyến? Số phận của những đứa em Dần liệu có sáng sủa lên không? Kim Lân thì khác. Cái kết của "Vợ nhặt" để lại một niềm tin rằng Tràng rồi cũng sẽ tham gia vào đoàn người phá kho thóc Nhật. "Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đội và lá cờ đỏ bay phấp phới...". Hình ảnh lá cờ đỏ trong đầu Tràng tựa như một nguồn sáng tỏa ấm, phá vỡ cái bầu không khí thảm đạm, tưởng như bế tắc của cuộc sống. Đến một người như Tràng - một người tưởng như chả suy ngẫm gì nhiều - mà còn có được suy nghĩ như thế thì chắc chắn những người dân xóm chợ cũng ý thức được điều đó.
Cả Nam Cao và Kim Lân đều có chung một kiểu kết cấu truyện. Mở đầu là không gian của hiện tại và xen giữa hiện tại là các khoảng hồi tưởng về quá khứ rồi kết thúc ở hiện tại. Điều này rất thường gặp ở những truyện ngắn của Nam Cao. Mặc dù "Một đám cưới" mở ra lúc trời chưa sáng "còn tối om" hay "Vợ nhặt" bắt đầu vào chập tối "lúc chạng vạng mặt người" thì hai khoảnh khắc ấy dường như rất gần nhau. Cái thê thảm, nhợt nhạt của cuộc sống đói quay đói quắt càng được nổi rõ qua màu thời gian nhờ nhờ, tôi tối ấy. Tuy nhiên, Nam Cao khép câu chuyện lại trong một không gian tối, còn Kim Lân kết thúc ở khoảng sáng của một ngày mới. Tính về thời gian, hai chuyện diễn ra trong hai khoảng thời gian gần như bằng nhau. Tuy nhiên chính cách chọn thời điểm để mở và kết truyện cũng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm.
Thế là đã có hai đôi "nên vợ nên chồng". Một người vì thương cha, thương em mà lấy chồng. Một người vì thương thân, vì miếng ăn mà cũng liều nhắm mắt sàng ngang. Cả hai đám cưới đều là để chạy đói, để duy trì sự sống. Chọn sự kiện này, Nam Cao và Kim Lân đã phản ánh rất chân thực về cái đói, về cuộc sống khốn khó của những người dân. Tuy nhiên nếu chỉ xét ở khía cạnh ấy thì thật khập khiễng.
Có lẽ cái cốt yếu chung nhất của hai tác phẩm là cái gốc nhân đạo cao cả và sâu sắc của các tác giả. Cuộc đời của Dần coi như đã định sẵn nhưng còn lại trong ấn tượng của người đọc không phải là một đám cưới buồn lặng, sầu tủi. Ấn tượng in đậm nhất vẫn là tấm lòng hiếu thảo của một cô bé thông minh, chịu khó. Người con gái không tên kia dẫu có vì miếng ăn mà lấy chồng thì ta cũng không trách thị. Bởi còn lại trong ta không phải là sự u ám, xác xơ, heo hút, điêu tàn của xóm ngụ cư mà là không khí đầm ấm, đùm bọc, yêu thương lẫn nhau. Đặc biệt là khát vọng sống mãnh liệt vươn lên trong mỗi người dân lao động nơi đây. Dù có những nét tương đồng và khác biệt, dù là cách diễn đạt này hay diễn đạt kia thì Nam Cao và Kim Lân vẫn xuất phát từ một điểm chung: nhân đạo.
Chẳng phải thế sao? Ca ngợi, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp ở con người cũng là nhân đạo. Phản ánh hiện thực cũng bắt nguồn từ nhân đạo. Nói lên khát vọng, mơ ước cao đẹp của con người là gì nếu không phải từ lòng nhân đạo? Chính vì thế, nhìn từ góc độ này ta thấy nó giống nhau, nhìn từ góc độ kia ta lại thấy hoàn toàn khác. Cái chung là từ những cái riêng. Riêng và chung, tương đồng và khác biệt nhiều khi là một. Cho nên, không đúng và cũng thật khó khăn nếu có ai đó định tìm sự hơn hẳn của tác phẩm này với tác phẩm kia. Chúng ta cần phải công nhận rằng đó là hai bức tranh rất độc đáo, đặc sắc và tiêu biểu cho nền văn học hiện thực lúc bấy giờ.
Đọc "Một đám cưới" của Nam Cao và "Vợ nhặt" của Kim Lân tôi chợt nhớ đến một câu nói của Lỗ Tấn trong tác phẩm Cố hương: "Trên thế giới này vốn làm gì có đường mòn. Người ta đi mãi thì thành đường thôi...". Quả đúng như thế. Nam Cao và Kim Lân cũng đều đi trên một con đường mà thôi - con đường được xây nên bằng mối quan hệ hiện thực và nhân đạo. Chỉ có điều mỗi nhà văn có cách đi riêng của mình và họ đã bước những bước chân không trùng nhau.
Nghị luận Vợ nhặt của Kim Lân để thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc?
Câu trả lời của bạn
Cái vị đời này người ta luôn có một sự khao khát về tình yêu và hạnh phúc. Trong cái xã hội này, cái tình người luôn là một ngọn lửa đem lại sự ấm áp đem lại một niềm tin mới một sức sống mới cho những người khốn khổ. Khi con người ta rơi vào một bước đường cùng, cái khao khát về một cuộc sống thực sự mạnh mẽ. Và khi đọc tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân chúng ta sẽ thấy được cái sự khao khát đó.
Câu chuyện kể về anh cu Tràng. Một anh chàng nhà nghèo đã nhặt được vợ trong cái hoàn cảnh xóm ngụ cư người chết đói đầy đường. Tác phẩm đã phản ánh được số phận của những con người trong cái xã hội đó trước khi cách mạng bùng nổ. Họ có một sự khao khát về một cuộc sống, về một tình yêu hạnh phúc. Những khao khát thực sự bình dị của những con người nghèo khó.
Tác phẩm “Vợ nhặt” là một tác phẩm được đánh giá là có giá trị nhất trong nền văn chương Việt Nam khi nói về nạn đói năm 1945. Khi mà chưa có tác phẩm nào thể hiện được hay và xúc động như thế. Cảm hứng về sự nhân đạo trải dài khắp câu chuyện.
Khi đọc tác phẩm “Vợ nhặt” chúng ta thấy được nỗi đau khổ tột cùng của người dân. Nạn đói Ất Dậu 1945 đã cướp đi sinh mạng của bao con người. Những xác chết ngổn ngang khắp các lều chợ, đoàn người đói ăn dắt díu nhau “xam xám như những bóng ma”. Quạ đen bay từ những ngọn cây bay vù lên “Như những đám mây đen” chờ ăn xác chết. Mùi xác người khắp các xóm chợ, chết như ngả rạ. Cái cảnh đó lúc nào cũng hiện hữu vào những buổi sáng, có ít nhất bốn năm cái thây chết còng queo bên đường. Thực sự là một sự đớn đau đến tột cùng.
Trong cái cảnh đó, đói chết đâu có tha cho bất cứ ai. Mẹ con Tràng cũng “rúm ró” trong cái nhà vắng teo trong cái mảnh đất mọc phủ đầy cỏ dại. Tấm phên cửa rách nát, mọi thứ bừa bộn khắp mọi nơi trên đường dưới đất. Nhìn thấy cái sự thực đó nàng dâu mới của Tràng cũng phải thấy thực sự thất vọng “nén một tiếng thở dài”.
Bà cụ Tứ “mặt bủng beo u ám”. Anh cu Tràng “bước mệt mỏi”. Cái đầu “trọng nhẵn chúi về đằng trước’’ với bao lo lắng, chật vật. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch thế, giờ đây chúng “ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích”. Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái “ngồi vêu ra”. Đặc biệt nhân vật “thị”, cái đói đã đi tất cả. Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh em. Không quê hương bản quán. Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần “tả tơi như tổ đỉa “gầy sọp hẳn đi”, khuôn mặt lưỡi cày “xám xịt”, chỉ còn thấy hai con mắt.
Phía trước con đường đó chính là vực thẳm, cái đói đã cướp đi tất cả những gì “thị” có. Chỉ nghe thấy Tràng nói “muốn ăn gì thì ăn”. Con mắt của thị cũng bừng sáng lên “trũng hoáy”. Và trong cái cơn đói đó, một người người cũng trở nên thô lỗ, “thị” đã ăn một chặp bốn bát bánh đúc. Nhưng trong cái hoàn cảnh đó người ta chỉ thấy được một sự đáng thương, không hề đáng chê. Đói đến sắp chết đến nơi, mà nhặt được miếng ăn, thì người ta sẽ phải ăn để có thể sống. Không chỉ riêng “thị” mà bất cứ ai trong cái nạn đói Ất Dậu năm đó đều cũng có thể như vậy mà thôi. Đó là cuộc sống đói khát của những người nghèo thời bấy giờ.
Cái xóm ngư cụ càng về chiều “càng xơ xác, heo hút”. Nhà cửa “úp súp,tối om”, những khuôn mặt “hốc hác u tối”. Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo cám. Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể “nhặt” được. Thị lấy chồng không một quả cau, không một lá trầu, chẳng có quan tám tiền cheo, quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau”. Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới “khép nép”. “Cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Tối tân hôn “tiếng khóc tỉ tê” của những gia đình có người mới chết đó vọng đến thê thiết não nùng.
Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi “dồn dập, vội vã”. Bằng những chi tiết rất hiện thực, rất điển hình. Kim Lân đã thể hiện tình cảm xót thương, lo âu cho số phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói đang hoành hành. Đáng quý hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân. Về phía người nghèo vạch trần và tố cáo tội ác của Nhật – Pháp, bắt trồng đay, bắt đóng thuế. Bóc lột dân ta đến tận xương tủy, gây ra trận đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân đã nói lên sự trân trọng với hạnh phúc của con người. Câu chuyện với lối kể hóm hỉnh về việc anh cu Tràng nhặt được vợ. Chỉ vài câu “tầm phơ tầm phào” rồi cho thị bốn bát bánh đúc thế là nhặt được thị làm vợ.
Nhưng nhặt được thị Tràng vẫn nghĩ phải liều “Chặc, kệ”. Nghĩ đến gạo không đủ để nuôi thân còn “đèo bòng”. Trên đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mở cờ trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch này để làm nổi bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Các hình ảnh Tràng “phởn phơ khác thường”, “tủm tỉm cười nụ”, hai mắt “sáng lên lấp lánh”, mặt “vênh vênh tự đắc”. Tác giả đã lột tả được sự khao khát về một cuộc sống hạnh phúc của một con người nghèo khó lớn đến dường nào.
Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông “hay đáo để”. Tràng khoe hai hào dầu, rồi cười hì hì, bị thị “phát đánh đét” vào lưng với câu mắng yêu: “Khỉ gió”, nghểnh cổ thổi tắt phụt ngọn đèn con. Bị thị mắng: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Những tình tiết ấy rất hay nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết.
Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm. Bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con và thương mình. Bà nhận nàng dâu mới: “Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này. Mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được…”.
Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là “con”. Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con: năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá. Qua đó ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ đứng trước tai họa, họ đã dựa vào nhau. San sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách. Hướng tới ngày mai với niềm tin và hy vọng: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời…”. Người đọc cảm thấy ngọn đèn “vàng đục” chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng, là ngọn đèn hy vọng và hạnh phúc ấm no.
Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong truyện Vợ nhặt. Bà cụ Tứ gọi là “chè khoán… ngon đáo để”. Bà tự hào nói với hai con là “xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Trong bữa cháo cám, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cái gia đinh mẹ con vô cùng “đầm ấm hòa hợp” hạnh phúc. Sau này, vợ chồng cái Tràng có thể có những bữa cơm nhiều thịt cá ngon lành hơn. Nhưng không bao giờ có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy. Vị cháo “đắng chát” mà lại ngọt ngào chứa đựng bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu sắc tâm lý, tình cảm của họ.
Ông đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời của ông cảm nhận được cái hương đời. Cái tình thương của lòng mẹ, mà không một cao lương mĩ vị nào có thể sánh được?.
Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đời của người dân cày Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ tinh nghịch reo lên: “chông vợ hài”. Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm cảm thấy “có một cái gì lạ lùng và tươi mát. Thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ”. Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm tươi tỉnh “rạng rỡ hẳn lên”.
Vợ Tràng trở thành người đàn bà “hiền hậu đúng mực”. Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy lửng lơ”. Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn “vẫn ngỡ ngàng như không phải”.
Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang được kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được sạch. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng cảm thấy hắn đã “nên người”, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này!
Trong tác phẩm một chi tiết nói về việc Cách mạng sắp đến. Nạn đói bị đẩy lùi đó là khi vợ Tràng nghe tiếng trống thúc thuế báo tin ở Thái Nguyên, Bắc Giang. Người ta đã phá kho thóc của Nhật chia cho người đói, người ta không phải nộp thuế nữa. Hình ảnh lá cờ đỏ cách mạng trong truyện “Vợ nhặt” thể hiện một dự cảm về một tương lai tương đẹp, ấm no, hạnh phúc và nó làm đậm lên giá trị nhân đạo của tác phẩm. Hạnh phúc của Tràng, niềm vui của người mẹ già mặc dù có đôi chút muộn màng nhưng thực sự đáng quý và đáng trân trọng.
Có lẽ đời này chắc chẳng có ai nhặt được vợ như thế. Cái cuộc sống đói khác, đường cùng đó do bè lũ xâm lược Nhật – Pháp đã gây ra thực sự đáng hận. Nhưng cũng chính trong cái sự khốn cùng đó lại toát lên được cái khát khao sống, cái khát khao hạnh phúc. Vị đời thực sự có nhiều thứ quá ngọt ngào, tình người ấm áp đã làm tỏa sáng cái giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn người vợ nhặt và Thị Nở
Câu trả lời của bạn
Có thể thấy, tiêu biểu và thành công nhất khi viết về đề tài người phụ nữ đó là hình ảnh người vợ nhặt của Kim Lân và Thị Nở của Nam Cao. Khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy ở hai nhân vật này có những điểm chung của người phụ nữ Việt Nam đồng thời mang những nét rất riêng và độc đáo.
Kim Lân là nhà văn chuyên về nông thôn, những điều gần gũi, mộc mạc và giản dị, gần gũi với người nông dân. Truyện ngắn ”Vợ nhặt” của Kim Lân tái hiện lại nạn đói thê thảm của nước ta năm 1945, đồng thời thể hiện vẻ đẹp tình người sức sống kì diệu của người nông dân: bên bờ vực chết, họ vẫn hướng tới sự sống, khát khao tổ ấm gia đình thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Nội dung nhân đạo sâu sắc cảm động thể hiện qua tình tiết truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí tinh tế, dựng đối thoại sinh động. Không chỉ thành công với nhân vật Tràng, tác phẩm còn để lại người đọc nhiều suy nghĩ, trăn trở đối với nhân vật Thị. Thông qua nhân vật Thị, ta càng thấu hiểu và cảm thông hơn tình cảnh của người phụ nữ giai đoạn trước cách mạng tháng Tám.
Song song cùng với Thị, Thị Nở của Nam Cao cũng có một số phận bất hạnh không kém. Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm Chí Phèo nói lên số phận bi thảm của người nông dân nghèo mà đầy lương thiện đã bị xã hội thực dân phong kiến xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi không có lối thoát. Thị Nở là một trong những nhân vật trung tâm của tác phẩm, góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác giả.
Nhà văn là người song hành trong cuộc tìm kiếm vẻ đẹp khuất lấp ấy để trân trọng, nâng niu và cảm thông với những nỗi thống khổ của nhân vật. Vậy nên khi so sánh nhân vật Thị và người vợ nhặt ta sẽ hiểu đồng thời khai thác và phân tích rõ nét hơn số phận cũng như nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ ở hai thời kì khác nhau.
Khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy ở hai nhân vật này đều có một điểm chung đó là cả hai đều có số phận bất hạnh, có những bi kịch riêng của đời mình.
Trước hết, phân tích nhân vật Thị trong tác phẩm Vợ nhặt, Thị là một người con gái có số phận bất hạnh. Thị sống trong thời kì nạn đói đang tràn về khắp xóm ngụ cư. Cái đói qua ngòi bút của Kim Lân khiến chúng ta kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết”.
Không chỉ vậy, cô sẵn sàng theo không Tràng về nhà chỉ qua vài câu nói bông đùa, sẵn sàng theo một người mà cô chẳng biết rõ nhà cửa họ như thế nào. Thị theo Tràng đơn giản vì khát khao được sống, khao khát mưu cầu hạnh phúc. Chết đói là điều cầm chắc, vì vậy Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Đây cũng là những khao khát rất bình dị của tất cả mọi người.. Bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi, thật đáng thương! Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh. Tưởng chừng Thị là một người phụ nữ táo bạo vô duyên nhưng thực chất cũng vô cùng e lệ và suy nghĩ như một người phụ nữ.
Không chỉ riêng Thị mà Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao cũng có số phận bất hạnh không kém. Thị Nở là người đàn bà xấu xí, dở hơi, lại thuộc dòng họ nhà có hủi. Trong con mắt của người dân làng Vũ Đại, thị là người đáng bỏ đi. Thị Nở nghèo, cái nghèo đeo bám. Cả làng Vũ Đại ai cũng biết đến Thị bởi ngoại hình thô kệch và gia cảnh nghèo. Thị đã phải đi gánh nước thuê để kiếm sống qua từng ngày.
Thị cũng như Chí Phèo, không được ai yêu thương. Và phải chăng ẩn sâu bên vỏ ngoài thô kệch kia là một trái tim ấm nóng, đang từng ngày khao khát yêu và được yêu. Và có lẽ, bất hạnh nhất đời người là bị cả xã hội chối bỏ, chê cười.
So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta không chỉ thấy số phận bất hạnh của họ mà qua đó ta còn thấy được rất nhiều điều tốt đẹp ở hai nhân vật này mà ngòi bút tài tình của nhà văn đã thể hiện được. Đằng sau vẻ rách rưới, xấu xí của hai nhân vật này là một khát vọng sống mạnh liệt. Nhân vật Thị Nở được khắc họa qua đêm gặp Chí Phèo, qua chi tiết bát cháo hành, qua từng cử chỉ ân cần và lời hỏi thăm dành cho Chí. Có lẽ đây là đoạn văn thấm đẫm tình yêu thương, là vẻ đẹp giữa những con người cùng cực, bế tắc trong xã hội.
Thị thương Chí, một tình thương xuất phát từ trái tim với lòng cảm thông sâu sắc, không toan tính và vụ lợi. Chỉ đơn giản đó là tình yêu. Chí Phèo – con quỷ làng Vũ Đại, nhưng hắn cũng là người, cũng cần được yêu thương. Cả cuộc đời này, hắn cần Thị – người đàn bà mang đến sự ấm áp…
Trong “Vợ nhặt” của Kim Lân, người vợ nhặt cũng vậy, thị theo Tràng về chẳng qua cũng vì muốn tìm một mái ấm gia đình, một nơi được bao bọc trong tình yêu thương. Thị đã khơi dậy ở Tràng hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới và đám người đói đi phá kho thóc của Nhật - đó là minh chứng rõ nhất cho khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc đang rực cháy trong tâm hồn thị.
Thị Nở chính là hiện thân cho sự khao khát tình yêu đôi lứa dung dị, chân thành và đầy mãnh liệt. Đây chính là tình cảm mà Chí vốn luôn khát khao nhưng lại không có được.
Người đọc đã có nhiều ám ảnh với nhân vật Thị Nở của tác giả bởi ngòi bút “nghệ thuật vị nhân sinh” này. Giá trị nhân văn của thiên truyện chính là tấm lòng vị tha, yêu thương và đồng cảm mà Nam Cao đã chăm chút dành cho nhân vật của mình.
Còn với nhân vật người vợ nhặt, cô cũng là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam xưa. Dù có vẻ ngoài xấu xí, kệch cỡm, thô lỗ nhưng cô là một người vợ hiền hậu đúng mực, thương chồng và là một người con dâu lễ phép, biết điều và sẵn sàng vun đắp xây dựng gia đình dù người chồng ấy chẳng có gì trong tay. Đây chính là những nét đẹp rất tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam.
Vẻ đẹp con người không phải ở ngoại hình, lời nói mà ở hành động, cử chỉ, ở cách họ đối đãi với người khác. Những phẩm chất đáng quý đó không phải ai cũng thấy được, chúng ta phải biết nhìn, thấu hiểu, khám phá bản chất thực sự bên trong. Vậy nên khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy cụ thể những phẩm chất ấy.
Ở cả hai tác phẩm đều mang những thông điệp hết sức nhân văn, thể hiện giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực của tác phẩm. Khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy ở hai nhân vật này chính là tinh thần nhân đạo mà nhà văn đã gửi gắm. Nhà văn đã cảm thông với số phận đau khổ của những con người nhỏ bé, bất hạnh. Tố cáo các thế lực gây ra đau khổ cho con người. Phát hiện, khám phá và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con người bất hạnh đồng thời đấu tranh cho khát vọng chân chính, tốt đẹp của con người.
Không chỉ có giá trị hiện thực, thông qua hai nhân vật này tác giả còn tố cáo hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Nhà văn đã phơi bày chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi khổ về vật chất hay tinh thần của những con người bé nhỏ, bất hạnh. Với mỗi tác phẩm cụ thể, giá trị hiện thực đều được biểu hiện cụ thể và đầy tính đa dạng. Từ đó thể hiện cái nhìn sâu sắc của nhà văn đối với nhân vật của mình.
Phân tích số phận của người phụ nữ xưa thông qua hai tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ?
Câu trả lời của bạn
Số phận người phụ nữ xưa luôn là đề tài nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà văn nhà thơ. Nó trở thành đề tài nhân văn, nhân đạo vô cùng sâu sắc, tạo ra nhiều tác phẩm hay bất hủ như tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân và “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài.
Trong hai tác phẩm này ta thấy Mị và bà cụ Tứ, cũng như vợ cu Tràng đều là những người phụ nữ khốn khổ, chịu nhiều tai ương trong cuộc sống.
Hoàn cảnh sống khó khăn đã khiến cho những người phụ nữ sống thu mình, chịu đựng tới mức chai lì và mất dần cảm xúc trong của con người.
Trong tác phẩm vợ nhặt hình ảnh vợ cu Tràng hiện lên chanh chua, là người không có lòng tự trọng, chỉ vì sự đói khổ mà cô có thể gạ gẫm người khác mời ăn, rồi ngồi xuống húp hết một chập bốn bát bánh đúc một cách ngon lành. Rồi những lời nói bông đùa mà theo người ta về nhà làm vợ. Không cần cưới xin, hai họ làm chứng…
Chính sự đói khổ đã khiến con người trở nên không còn lòng tự trọng, không còn sự lựa chọn nào khác, nên người phụ nữ trở nên như vậy. Họ bị tước đoạt mọi quyền sống, quyền hạnh phúc, sự lạc hậu nghèo đói đã khiến cho người phụ nữ thay đổi, không còn giữ được phẩm hạnh, lòng tự trọng của mình. Nhưng tự trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc. Một gia đình, đúng nghĩa quây quần sớm tối bên nhau.
Thân phận người phụ nữ xưa dù bị dòng đời xô đẩy nghiệt ngã tới mức nào thì vẫn luôn giữ cho mình một tấm lòng thủy chung son sắc. Đúng như bài thơ của Hồ Xuân Hương đã viết:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Vợ cu Tràng tuy có vẻ ngoài “chỏng lỏm”, chua ngoa, đanh đá nhưng thực chất bên trong cô lại là người vô cùng hiền thục. Từ khi trở thành vợ cu Tràng cô đã thay đổi hoàn toàn, dù thấy cái nghèo đói nhà chồng hiện ra trước mặt nhưng vẫn điềm nhiên chấp nhận, nén lại tiếng thở dài.
Cô biết cùng mẹ chồng chăm lo vun vén nhà cửa, biết chuẩn bị bữa sáng trong gia đình chồng. Trở thành người phụ nữ đúng nghĩa.
Nội tâm cô gái này là người yêu hạnh phúc gia đình và mong ước có một gia đình, một tổ ấm thật sự. Chính vì vậy khi được Tràng và bà cụ Tứ chấp nhận cô đã biến đổi hoàn toàn gỡ bỏ lớp gai xù xì của mình để trở thành người con dâu đảm đang hiền lành.
Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” Mị là nhân vật vô cùng đáng thương, cô vì món nợ của gia đình với nhà thống lý Pá Tra mà trở thành con dâu bắt nợ của họ. Phải sống cuộc sống câm lặng như con rùa rúc đầu trong xó cửa hết ngày này qua tháng khác, cam chịu cảnh bị đè nén, đánh đập làm việc như con trâu con bò trong nhà họ. Tới con trâu khi làm việc còn có buổi tối được nghỉ ngơi, nhưng số phận Mị sống trong nhà thống lý thì không có giây phút nào được nghỉ.
Mị nhiều lần định ăn lá ngón để kết thúc số phận mình nhưng cô lại nghĩ tới những người thân của mình. Nếu cô chết đi thì gia đình nhà thống lý sẽ ép cha mẹ cô không thể nào sống nổi trong bản này. Chính vì thương gia đình mà Mị cam chịu cuộc sống nô lệ bị đày đọa cả về thể xác lẫn tâm hồn trong gia đình quyền hành đó.
Mị sống mà như đã chết, cuộc sống chẳng khác nào địa ngục trần gian cô thường bị chồng mình là A Sử trói vào đánh đập khi không làm theo ý nó. Những khi nó chán đời hay buồn bực việc gì nó cũng sẵn sàng mang cơn tức giận trút lên thân thể cô. Sống lâu trong cái khổ Mị quen dần Mị coi như mình là người đã chết tâm hồn cô đã chết, chỉ có thể xác là lay lắt sống qua ngày mà thôi.
Nhưng rồi mọi chuyện đã thay đổi khi Mị nghe tiếng sáo gọi bạn ở chợ tình mùa xuân. Tiếng nhạc đó đã thức tỉnh tâm hồn tưởng như đã chết trong Mị từ lâu khiến Mị cảm thấy mình còn trẻ lắm.
Mị muốn đi chơi, nhiều người phụ nữ có chồng có con vẫn đi chơi chợ tình trong mùa xuân có sao đâu. Mị muốn đi chơi, chính sự chuyển biến tâm lý đó của Mị đã khiến cô bị trả giá. Cô bị A Sử trói vào cột nhà đánh tới tấp, nhưng chính trận đòn đó đã thức tỉnh ý thức làm người trong Mị thôi thúc Mị vùng lên đấu tranh đòi quyền sống.
Hành động Mị cởi trói cho A Phủ và giải phóng mình khỏi nhà thống lý là một hành động đòi quyền làm người vô cùng chính đáng. Nó thể hiện chân lý “Con giun xéo mãi cũng quằn”.
Thông qua hai tác phẩm “Vợ nhặt” và “Vợ chồng A Phủ” ta thấy những số phận phụ nữ xưa vô cùng đau khổ. Họ bị tước đoạt mọi quyền sống quyền làm người, quyền hạnh phúc. Nó thể hiện sự tàn ác của chế độ cũ.
Phân tích nhân vật người vợ nhặt, từ đó làm nổi bật lên số phận của người dân Việt trước Cách mạng?
Câu trả lời của bạn
Ai nói chiến tranh là âm thanh dữ dội của bom đạn hay tiếng gào thét của dân đen vô tội? Không, nó im lặng. Vì khi đã chết, chúng ta không thể lên tiếng. Phát xít Nhật càn qua quê hương ta, đất Việt lầm than với hai triệu người con chết vất vưởng. Nhưng chính trong tận cùng ta thấy đối cực, trong cái chết và màu đen, chúng ta thấy tình yêu và sắc sáng. Truyện "Vợ nhặt" là thế, một minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của sự sống, sống với nhọc nhằn khổ ải, sống với cái nghèo đến tột độ về vật chất, nhưng chỉ cần hi vọng, một sự hy vọng trù phú và vững chãi. Họ, chúng ta, tất thảy sẽ vượt qua.
Tràng xấu, xấu là xấu trai, nhưng được cái tốt bụng và dễ gần. Xóm làng nghĩ Tràng không thể có vợ. Cũng đúng, với cái thời đói đến ăn cám hay ánh sáng vào đêm là thứ xa xỉ vậy người vừa nghèo vừa xấu thì ai dám gởi thân?
Xóm tản cư nheo nhóc và hoang tàn. Đông thì có đông nhưng xóm làng như vẻ không người, chỉ là những cái bóng nhếch nhác lê gót trên những con đường quanh co. Xác chết nhiều hơn thực thể di động. Bóng đen gần như chiếm lĩnh cả, mặt trời vẫn sáng đó, nhưng đôi mắt của dân chúng ở đây cứ tối sầm sầm lại.
Ấy vậy mà Tráng có vợ. Xóm làng bị đói quật mà biểu hiện rõ nhất là lũ trẻ. Sự hoạt bát bình thường thay cho cái im ỉm thụ động, chắc không ai dạy nhưng chúng biết bớt vận động là bớt bầu bạn với đói. Nhưng Tràng lấy vợ! Bản năng làm chúng tò mò. Chúng nhốn nháo cả một đoạn.
Đường dài quanh co, sự dài ấy như trêu chọc cái e thẹn ban đầu của đôi uyên ương. Nghĩa chữ uyên ương cũng không hợp trong hoàng cảnh này, khi người ta hay dùng chữ mĩ miều đó cho những đám cưới linh đình. Nay, trên con đường về nhà chồng với xác chết cạnh đường đủ gần để nhìn thấy sự phân hủy hoặc cứ văng vẳng bên tai tiếng khóc tang gia; thiết nghĩ ngày cưới cũng đáng nhớ thật.
Tình yêu luôn là trò phiêu lưu. Vì rằng chúng ta không biết sẽ gặp ai, hoặc chi chúng ta không biết sẽ đi về đâu và kết quả thế nào với sự chọn lựa đó. Tràng và vợ đã tham gia cuộc phiêu lưu đó. Tràng vẫn lo đau đáu về tương lai. Một miệng nuôi không xong, giờ gánh thêm chẳng phải hại lấy thân và cả người? Đến với nhau tốt đẹp thì đó là duyên lành, nhưng lôi nhau xuống cùng cực thì lại là nợ đời với nhau. Tràng lại nhớ về cái sự chẳng biết duyên hay nợ kia. Một câu hò cho quên khổ lao động, một cái đáp của tuổi trẻ thanh xuân, hai người quen nhau. Lại cộng hưởng giữa đói và sự tốt bụng, họ lại gần nhau hơn. Giờ quay lại với sự thật ngay trước mắt, Tràng có vợ và mẹ anh thì vẫn chưa về.
Sự xuất hiện của người mẹ là cái nhấn cho sự khổ của đôi bên. Qua người vợ như tấm gương, ta nhìn thấy cả ba gương mặt đói hốc trong đấy. Và như mọi bà mẹ Việt Nam, bà đã khóc. Khóc vì thương, thương cho đứa con mình đã có vợ, thương cả đứa con dâu cũng cùng quẫn chẳng khác gì con mình. Khóc vì tủi, tủi cho cái phận nghèo không dễ có được một đám cưới đủ nghi thức hay gần hơn là đủ no, chỉ vài câu chào, vài ánh mắt nhìn thẳng nhau, vậy là họ thành gia đình. Và khóc với một chút nghi ngờ, phải chăng vì đến đường cùng, người ta mới gởi thân cho con trai nhà mình? Nước mắt tuôn ra cho lời định nói đến. Bà chỉ chúc cho hai con sống bình yên bên nhau, còn tương lai là sự bấp bênh không muốn nghĩ.
Vợ Tràng, thành viên mới của gia đình, chắc cũng lo xốn xang trăm bề. Mà không, phải chắc chắn chứ. Phụ nữ Việt vốn giỏi lo toan; công, dung, ngôn, hạnh là vốn liếng mà họ lận lưng khi về nhà chồng. Nhưng với cái quá mới thế này chị chưa thể chứng minh gì.
Rồi trời cũng tối. Chu kỳ vẫn thế. Sáng giăng mắt ra Tràng mới dậy. Đời hay nói mỗi ngày là một ngày mới, và điều đó ập ngay cho Tràng thấy. Nhà cửa gọn hơn, có cái gì đó ấm cúng hơn, chỉnh chu và cảm giác như đang và sẽ chuẩn bị cho tương lai.
Bữa cơm tới. Biết rằng đói thì luôn đói nhưng cơm thì vẫn phải theo bữa. Và họ, dùng từ cơm như thói quen, thứ đáng ra bữa ăn chỉ là cháo và cám. Trời đánh tránh bữa ăn, thằng Nhật thì không. Lại vang lên tiếng đòi thuế. Thuế, thuế, lại thuế!
Như vết thưởng mở miệng, mỗi ngày một bào mòn đến cùng kiệt sức khỏe. Thuế từng ngày là nỗi ám ảnh của dân đen, dân đói. Ruộng vẫn còn, nhưng chúng bắt trồng đay. Lúa vẫn có, nhưng là cho chúng nó. Dân ta chết, làm phân bón cánh đồng.
Tràng đờ ra. Cái đờ ra như sự nhu nhược không đề kháng. Cuộc sống của anh là sự chịu đựng và ám ảnh riết thành thói quen, anh quy đồng tương lai cho cái hiện tại khốn khổ này. Không riêng anh, mà có lẽ xóm làng này, không riêng xóm làng này, mà có lẽ cả một nước Việt này sự đờ ra kia như bao phủ tất thảy.
Việt Minh! Hả!? Việt Minh! Tràng như sực tỉnh. Cái tên này nghe mang máng ở đâu. Anh đã từng sợ, vì anh không hiểu gì. Nhưng vợ nói, rồi phong phanh tin nghe đồn, sao anh thấy họ thân quen.
Tràng như bị cuốn vào dòng suy nghĩ đó, với quật khởi, với cờ đỏ. Họ chính là ta, ta hòa với họ. Việt Minh không xa lạ mà chính là bản thể này. Tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Nhưng! Không còn là tiếng trống hoang mang lo sợ, âm thanh như tức lồng ngực giờ là tiếng trống trận cho cả một tầng lớp bị chà đạp. Sống với niềm tin, họ sẽ sống!
Truyện kết lửng lơ, với Tràng còn ngồi với bữa cơm dang dở. Nhưng cái dang dở kia là khởi đầu cho trường kỳ kháng chiến của một dân tộc, mà trong đó hình thành từ từng cá thể. Tràng, vợ Tràng và cả mẹ già, giơ tay sẽ cùng chung sức cho hành trình dài của triệu dân đất Việt. Pháo đài hòa bình và độc lập vững chãi trên từng viên gạch tin tưởng và hy vọng.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *