Bài học Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài giúp các em hiểu được cuộc sống cơ cực, tối tăm của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách áp bức của thực dân và chúa đất thống trị, quá trình người dân các dân tộc thiểu số từng bước giác ngộ cách mạng và vùng lên tự giải phóng đời mình, đi theo tiếng gọi của Đảng. Thấy được những nét độc đáo trong nghệ thuật viết truyện của Tô Hoài. Thông qua video bài giảng cùng phần hướng dẫn soạn bài và phần bài học, DapAnHay chúc các em có thêm nhiều tiết học hấp dẫn và hiệu quả hơn tại lớp.
⇒ Cách giới thiệu nhân vật ấn tượng để dẫn dắt vào trình tìm hiểu số phận nhân vật.
⇒ Sống tăm tối, nhẫn nhục, đau khổ, tê liệt về tinh thần, buông xuôi theo số phận.
⇒ Là hành động tất yếu: Đó là con đường giải thoát duy nhất, cứu người cũng là tự cứu mình.
⇒ Tài năng của nhà văn trong miêu tả tâm lí nhân vật: Diễn biến tâm lí tinh tế được miêu tả từ nội tâm đến hành động.
⇒ Tinh thần phản kháng là cơ sở cho việc giác ngộ Cách mạng nhanh chóng sau này.
⇒ A Phủ có số phận tương đồng với Mị, hai nhân vật có những nét tính cách gần nhau nhưng vẫn có những nét riêng. Tuy nhiên tựu chung ở hai nhân vật ta thấy một số phận nô lệ của thần quyền và cường quyền hủ tục. Họ bị đàn áp và họ đã đứng dậy chống lại chế độ hủ tục đó thành công.
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài).
Năm 1952 trong chuyến đi thực tế 8 tháng về Tây Bắc, Tô Hoài đã sáng tác “Truyện Tây Bắc” phản ánh cuộc sống tủi nhục của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách áp bức bóc lột của thực dân – phong kiến và sự giác ngộ Cách mạng của họ. Để dễ dàng trả lời được hệ thống các câu hỏi trong SGK cũng như nắm được nội dung bài học, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Vợ chồng A Phủ.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Tô Hoài thành công với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” không chỉ nhờ vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Để nắm bắt được những chuyển biến tâm lí của các nhân vật cũng như việc phân tích được tác phẩm, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Cảm nhận về hình ảnh nắm lá ngón trong Vợ chồng A Phủ
- Phân tích chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ
- Phân tích ý nghĩa hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ
- Phân tích tâm trạng nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ
- Ý nghĩa tiếng sáo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
- Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân
- So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
- So sánh hai nhân vật A Phủ và Tnú
- Cảm nhận về hành động Mị chạy theo A Phủ và hành động thị chạy theo không Tràng về làm vợ
- Hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
- So sánh nhân vật Mị và người đàn bà làng chài
- Giá trị nhân đạo trong Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ
- Diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
- Hình ảnh tiếng sáo đêm trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ
- Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
- Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
- Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
- Giá trị hiện thực và nhân đạo qua truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ
- Phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng…không bằng con ngựa”. Phân tích đoạn văn trên, nêu rõ cảm nhận về nhân vật Mị và về ngòi bút miêu tả tinh tế, sâu sắc của Tô Hoài.
Câu trả lời của bạn
I. Mở bài
Nếu đoạn đời sống trong địa ngục trần gian ở Hồng Ngài là sự giao tranh âm ỉ quyết liệt giữa số phận bi thảm và sức sống tiềm tàng của Mị, thì cảnh Mị bị A Sử trói đứng vào cột nhà trong bóng tối có thể xem như là hình ảnh thu nhỏ cô đúc và thấm thía của cuộc giao tranh đó. Chỉ có điều nó lại diễn ra trong tâm trạng chập chờn nửa mê, nửa tỉnh của cô gái, và Tô Hoài, như đã nhập thân vào nhân vật để viết nền một đoạn văn thật tinh tế, sâu sắc “Trong bóng tối... không bằng con ngựa”.
II. Thân bài
1. Giữa đoạn văn là một câu rất ngắn, chỉ có bốn chữ: Mị vùng bước đi Trên là âm thanh tiếng sáo, dưới là tiếng chân ngựa. “Mị vùng bước đi” như một cái bản lề khép mở hai thế giới, hai tâm trạng: thế giới của ước mơ với tiếng sáo rập rờn trong đầu và thế giới của hiện thực với tiếng chân ngựa đạp vào vách: tâm trạng của một cô Mị đang mê man chập chờn theo tiếng sáo gọi bạn tình và tâm trạng của một cô Mị đã tỉnh đang “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Thật cô đúc mà thấm thìa. Kiệm lời mà hàm chứa nhiều ý nghĩa.
2. Tiếng sáo: ước mơ - sức sống của Mị
“Mị vùng bước đi”. Câu văn ngỡ như không đúng mà lại rất đúng, lại tinh tế và sâu sắc. Làm sao Mị có thể vùng bước đi khi đã bị trói bằng cả một thúng sợi đay? Nhưng Mị đã vùng bước đi như một kẻ mộng du, như không biết mình đang bị trói. Bởi Mị đang sống với ước mơ, bằng ước mơ chứ không sống với hiện thực, bằng hiện thực. Mị đang sống với tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân ngày trước, đang muốn tìm lại tuổi trẻ, tuổi xuân, tình yêu,hạnh phúc của mình. Hơi rượu còn nồng nàn, trong đầu Mị vẫn rập rờn tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Chính cái tiếng sáo ấy đã gọi Mị vùng bước đi về với cuộc sống thật của mình đã bị cướp mất trong cái địa ngục trần gian này. Mới biết sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đến nhường nào. Sức sống ấy khiến cô quên đi tất cả hiện thực xung quanh, không thấy, không nghe A Sử nói, không biết cả mình đang bị trói! Chỉ còn biết có tiếng sáo, chỉ còn sống với tiếng sáo, mê man chập chờn trong tiếng sáo. Xây dựng nên cái tâm trạng mê man như một kẻ mộng du đi theo tiếng sáo. Tô Hoài đã nói lên rất rõ và sâu sắc cái sức sống mãnh liệt đang trào dâng trong lòng cô lúc bấy giờ. Và tiếng sáo đã thành một biểu tượng sâu sắc và gợi cảm cho ước mơ và sức sống của Mị.
3. Tiếng chân ngựa: hiện thực – số phận của Mị
“Mị vùng bước đi”. Nhưng tay chân đau không cựa được. Tiếng sáo tắt ngay, ước mơ tan biến, và hiện thực trần trụi, phũ phàng hiện ra: chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Mị đã tỉnh hẳn khi dây trói thít chặt lại, đau nhức, và cay đắng nhận ra số phận của mình không bằng con ngựa. Cái dây trói kia chỉ làm đau thể xác. nhưng cái tiếng chân ngựa này mới thực sự xoáy sâu vào nỗi đau tinh thần của Mị khi nó gợi lên một sự so sánh thật nghiệt ngã, xót xa: thân phận con người mà không bằng thân trâu ngựa! Tiếng chân ngựa đã thành một biểu trưng giàu ý nghĩa cho hiện thực và số phận của Mị.
4. Ngòi bút miêu tả tinh tế, sâu sắc của Tô Hoài
Tinh tế trong miêu tả tâm trạng nhân vật ở hai cảnh đối lập nhau: mê man chập chờn theo tiếng sáo như một kẻ mộng du dẫn đến hành động “vùng bước đi”;tỉnh lại và cay đắng xót xa “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” - hai tâm trạng ấy tiếp nối nhau trong sự phát triển biện chứng để hoàn chỉnh chân dung và số phận nhân vật. Sâu sắc trong những chi tiết giàu ý nghĩa, đặc biệt là hai biểu trưng “tiếng sáo” và “tiếng chân ngựa” đối lập nhau và đầy ấn tượng.
III. Kết bài
Đoạn văn ngắn mà bật nổi được bức tranh tối - sáng của nhân vật (số phận và sức sống) một cách sinh động, gợi cảm và có chiều sâu, khiến ta càng hiểu thêm nhân vật, bút pháp Tô Hoài và nhất là tấm lòng đồng cảm yêu thương của nhà văn đối với nhân vật của mình. Đó là một trong những đoạn văn hay nhất, in đậm phong cách Tô Hoài trong truyện ngắn này.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Tóm tắt: Tác phẩm có thể được chia thành 2 phần chính: bóng tối ở Hồng Ngài và ánh sáng ở Phiềng Sa. Đoạn trích chủ yếu xoay quanh phần đầu của tác phẩm. Chính vì thế bao trùm lên toàn bộ không gian văn bản là sự tù túng, mù mờ của những kiếp người chịu đọa đầy. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên có đẹp, có nên thơ nhưng cũng không làm phai mờ dấu vết nô lệ, cuộc đời cay đắng mà Mị cũng như A Phủ phải chịu đựng. Nhân vật chính của tác phẩm: Mị - con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra, còn A Phủ là con ở gạt nợ. Sau nhiều cay đắng, hai người đã tìm thấy nhau, tìm thấy lẽ sống mới và quyết định bỏ trốn để hi vọng một tương lai tươi sáng hơn.
Tóm tắt bài vợ chồng A phủ
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Nhân vật Mị hiện lên trong cách giới thiệu của tác giả ở ngay đầu câu chuyện gợi lên cho người đọc một sự lôi cuốn lạ kì. Chỉ bằng vài câu chữ, tác giả đã cho người đọc hình dung ra được cuộc sống đầy đau khổ mà Mị đang phải hứng chịu trong nhà Pá Tra. "Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".
Hình ảnh người con gái với vẻ mặt và ánh mắt vô hồn bên cạnh cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào "buồn rười rượi". Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng.
Câu trả lời của bạn
Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị, không đủ tiền cưới phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mẹ Mị đã chết, bố Mị đã già mà món nợ mỗi năm phải trả lãi một nương ngô vẫn còn. Năm đó, ở Hồng Ngài tết đến, A Sử con trai thống lí Pá Tra lừa bắt cóc được Mị về làm vợ cúng trình ma. Mị trở thành con dâu gạt nợ. Khổ hơn con trâu con ngựa, lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Mị toan ăn lá ngón tự tử. Thương cha già, Mị chết không đành. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Một cái tết nữa lại đến. Mị thấy lòng phơi phới. Cô uống rượu ực từng bát, rồi chuẩn bị lấy váy áo đi chơi. A Sử đã trói đứng Mị bằng một thúng sợi đay.
A Phủ vì tội đánh con quan nên bị làng phạt vạ một trăm bạc trắng. A Phủ trở thành người ở nợ cho Pá Tra. Một năm rừng động, A Phủ để hổ bắt mất một con bò. Pá Tra đã trói đứng anh vào một cái cọc bằng một cuộn mây. Mấy ngày đêm trôi qua, A Phủ sắp chết đau, chết đói, chết rét thì được Mị cắt dây trói cứu thoát. Hai người trốn đến Phiềng Sa nên vợ nên chồng. A Phủ gặp cán bộ A Châu kết nghĩa làm anh em được giác ngộ trở thành chiến sĩ du kích đánh Pháp.
Câu trả lời của bạn
Tây Bắc là mảnh đất đã gây biết bao thương nhớ cho các nhà văn trong đó có Tô Hoài. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được ông sáng tác năm 1952 và in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế tám tháng lên vùng cao Tây Bắc của nhà văn. Nổi bật trong truyện ngắn này là nhân vật Mị, người đã gây được nhiều ấn tượng, cảm xúc cho bạn đọc.
Mị là nhân vật chính trong phần mở đầu của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Đây là nhân vật tiêu biểu, đại diện cho số phận của những người con dâu gạt nợ ở miền núi. Mị có hoàn cảnh thật đáng thương, bất hạnh. Cô được sinh ra trong một gia đình nghèo khổ. Vì không có tiền cưới vợ nên bố Mị đã vay tiền bố của thống lí Pá Tra, mỗi năm phải nộp lãi một nương ngô. Đến khi mẹ của Mị chết vẫn chưa trả hết số nợ. Trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lí, Mị là cô gái xinh đẹp, có tài thổi kèn lá hay như thổi sáo. Những đêm tình mùa xuân “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị”. Mị có sức hút, sức hấp dẫn như bông hoa rừng đầy hương sắc. Vẻ đẹp của cô gái người Mông khiến chàng trai nào cũng muốn có được.
Mị là cô gái yêu tự do, dám lên tiếng phản đối lệ tục dùng con người làm vật thế mạng cho món nợ vật chất của người thân còn tồn tại trong cuộc sống của người dân Tây Bắc. Khi thống lí Pá Tra nói với bố Mị rằng: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho” thì Mị thẳng thắn trả lời: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Lời nói của Mị đã chứng tỏ cô là một người có nhận thức sâu sắc về cuộc sống, Mị chấp nhận làm nương ngô cả đời để trả nợ chứ không làm con dâu gạt nợ và sống cuộc sống mất tự do trong nhà thống lí.
Khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ, Mị vô cùng đau đớn và phẫn uất: “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Mị chuẩn bị sẵn lá ngón để tự tử nhưng nghĩ đến bố “Mị không đành lòng chết”. Hành động định tự tử của Mị nhìn bề ngoài là hành động tiêu cực nhưng thực chất lại thể hiện sự đấu tranh mãnh liệt đòi giải thoát kiếp trâu ngựa. Hành động ấy còn thể hiện thái độ không chấp nhận cuộc sống thực tại, không chấp nhận thân phận nô lệ của Mị.
Nhưng thời gian trôi đi khiến sự phản kháng trong con người Mị không còn mạnh mẽ nữa. Cô được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của tác giả nên khiến câu chuyện khách quan và chân thực hơn. Hình ảnh người con gái ấy hiện lên qua các công việc “ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước dưới khe suối. Bất kể làm gì thì “cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị gần như câm lặng và cam chịu số phận “Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”.. Gia đình thống lí Pá Tra “có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”, giàu có là vậy nhưng con dâu phải làm việc như thân trâu ngựa. Mị cũng tưởng mình là con trâu, con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi”. Nhưng con trâu, con ngựa “làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ” còn Mị phải làm việc cả đêm lẫn ngày, không một phút nghỉ tay. Những công việc hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ ngô, hái củi, tước sợi đay hiện ra như một dòng chảy không bao giờ ngừng khiến Mị “lùi lũi như con rùa nơi trong xó cửa”. Dường như cuộc sống của người con dâu gạt nợ đã khiến cô trở nên câm lặng, “càng ngày Mị càng không nói”. Không những thế, Mị còn mất hết ý niệm về thời gian, không gian. Điều ấy được tác giả đặc tả qua chi tiết: “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Và chính Mị cũng đã nghĩ rằng “mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”.
Ngỡ tưởng cô gái ấy tồn tại như cái xác không hồn trong nhà thống lí nhưng không khí của mùa xuân đã làm tâm hồn và lòng yêu đời của Mị trỗi dậy. Tiếng sáo rủ bạn đi chơi mang âm hưởng bồi hồi, tha thiết, rạo rực khiến Mị nhớ đến quá khứ, nhớ đến cuộc sống tự do của mình trước đây. Mị nhẩm thầm theo lời bài hát:
“Mày có có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”.
Tiếng sáo có sức quyến rũ đến lạ kì. Nó đưa Mị trở về sống với những cảm xúc của một thời tươi trẻ. Mị không còn “lùi lũi”, chịu đựng nữa. Dường như cô muốn thoát ra khỏi cái vỏ bọc để sống đúng là chính mình. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát” rồi Mị say, “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về những ngày trước”. Trước đây, Mị đã từng là một cô gái thổi sáo giỏi, “có biết bao hiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.
Không khí của những đêm tình mùa xuân tràn về khiến lòng Mị phơi phới trở lại và “đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị nhận ra mình vẫn còn trẻ lắm và cũng muốn đi chơi như bao nhiêu người khác. Ý định muốn đi chơi của Mị đã trở thành hành động khi cô “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào ống đèn cho sáng” rồi “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Hành động ấy của Mị đã thể hiện sự hồi sinh trong tâm hồn, thể hiện một sức sống mãnh liệt mà bấy lâu nay bị những khổ cực đè nén khiến nó không có cơ hội được bộc lộ.
Nhưng giữa lúc lòng yêu đời trỗi dậy mãnh liệt thì cũng là lúc Mị bị vùi dập phũ phàng. A Sử biết Mị muốn đi chơi nên “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà”, A Sử “quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Trong không gian của bóng tối, Mị vẫn nghe thấy những âm thanh dìu dặt của tiếng sáo, nó “đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. A Sử có thể trói buộc Mị về thể xác nhưng không thể trói buộc được Mị về tâm hồn. Tiếng sáo da diết như mời gọi đã khiến “Mị vùng bước đi” nhưng Mị không thể cất bước vì “tay chân đau không cựa được”. Nỗi đau về thể xác khiến Mị quay về thực tại, Mị đau đớn, “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Mị đã ý thức được cuộc sống thực tại và xót xa cho số phận của bản thân mình.
Bằng một sức sống mãnh liệt tiềm ẩn bên trong con người, Mị đã tự giải thoát cho chính mình qua hành động cắt dây trói, giải cứu cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài đến khu du kích Phiềng Sa. A Phủ là người đối đầu với A Sử - con trai thống lí Pá Tra trong lần A Sử cùng chúng bạn kéo vào làng chơi và dọa đánh bọn con trai lạ. Vì đấu tranh cho cái thiện, cho chính nghĩa mà A Phủ bị bắt làm nô lệ cho nhà thống lí. Khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, Mị chợt nhớ lại đêm mình bị A Sử trói đứng như thế. Từ thản nhiên, thờ ơ, Mị đã có sự đồng cảm với tình cảnh, thân phận của A Phủ. Suy cho cùng, cả hai người đều là những vật thế mạng cho món nợ của người thân hoặc của chính mình. Giai cấp thống trị ở miền núi đã lợi dụng lệ tục cổ hủ đó để bóc lột sức lao động của họ biến họ trở thành thân trâu ngựa làm giàu cho mình. Bằng tấm lòng thương người, Mị đã “cắt nút dây mây” và bảo A Phủ “Đi ngay”. Hành động ấy vô cùng táo bạo bởi nếu gia đình thống lí biết thì Mị sẽ là người bị trói thay vào chỗ của A Phủ. Khát vọng giải thoát bản thân và khát vọng về một cuộc sống tự do đã thôi thúc Mị bỏ trốn cùng A Phủ. Sức sống trong cô đã bùng lên mạnh mẽ để đấu tranh chống lại cường quyền, thần quyền và phu quyền. Hành động cắt dây trói cho A Phủ cũng là hành động cắt dây trói cho chính mình, chấm dứt cuộc đời nô lệ, bị áp chế của Mị.
Có thể nói, Mị là linh hồn của phần một trong truyện “Vợ chồng A Phủ”. Nhân vật này được Tô Hoài khắc họa bằng bút pháp cá thể hóa và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế. Qua nhân vật Mị, nhà văn đã thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Đây cũng là một trong những yếu tố góp phần quan trọng làm nên sự thành công của tác phẩm.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
nêu các yếu tố tác động và diễn biến tâm lý nhân vật mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngai
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như “ O chuột”, “Dế mèn phưu lưu ký”. Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”… Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị – người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.
Mị xuất hiện ngay từ phần mở đầu tác phẩm, gây ám ảnh cho người đọc về một kiếp người héo hắt, tàn tạ “ chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mỵ không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bởi số phận – một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.
Mị là cô gái trẻ đẹp là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị tài hoa với điệu sáo làm say mê biết bao nhiêu chàng trai “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị yêu lao động “biết cuốc nương làm ngô”. Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già. Khi biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà thống lý, Mị tha thiết van xin “bố đừng bán con cho nhà giàu”. Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng. Nhưng có ngờ đâu sự hiểm độc của chính sách cho vay nặng lãi của bọn thổ ty phong kiến miền núi như một sợi dây oan nghiệt siết chặt lấy cuộc đời Mị. Đắng cay thay, đêm tình mùa xuân đẹp nhất của đời người con gái đã biến thành một đêm bi kịch, tủi nhục khi A Sử bắt cóc Mị về nhà thống lý. Và một buổi lễ cúng trình ma sáng hôm sau đó đã trói chặt cuộc đời Mị từ đấy.
Lúc đầu mới về “làm dâu” để phản kháng lại cái sự vô lí ấy, Mị đã “hằng mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”. Khóc là biểu hiện của trạng thái tâm lí bị ức chế, không cam chịu, không chấp nhận cái sự thật nghiệt ngã ấy. Mị cũng đã từng nghĩ đến cái chết khi cầm nắm lá ngón về tự tử trước mặt cha nhưng vì thương cha già Mị không đành chết. Mị ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi tuổi trẻ hạnh phúc của mình để quay về nhà thống lý chấp nhận kiếp sống trâu ngựa. Cái địa ngục trần gian ấy đã giam cầm cuộc đời Mị. Tuổi xuân của Mị bị vùi dập đến héo úa, lụi tàn trong căn buồng chỉ độc một cái cửa sổ nhỏ như lòng bàn tay “trông ra ngoài không biết sương hay là nắng”. Mị bị nô lệ hóa trở thành công cụ lao động. Nói đúng hơn là bị bóc lột sức lao động một cách tàn tệ trở thành một súc nô trong nhà thống lý. Cuộc sống của Mị bị vùi vào công việc cả đêm lẫn ngày “tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, cuối mùa thì đi nương bẻ bắp…”. Không chỉ vậy, Mị còn bị bóng ma thần quyền áp chế làm cho tê liệt về tinh thần, mất hết cả ý thức phản kháng. Nhà văn Tô Hoài đã nhiều lần so sánh Mị với con vật (con ngựa, con trâu, con rùa). Từ đó Mị sống trong vô cảm, tâm hồn bị phong kín bởi sự lặng câm, băng giá “càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thử hỏi còn xót xa nào hơn thế nữa không ?
Nhưng bằng cảm quan nhân đạo và tấm lòng yêu thương đồng cảm với số phận con người, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc những thước phim quay chậm về sự bừng lên của một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đang âm ỉ cháy trong con người Mị. Bên ngoài là một cô Mị lầm lũi như cái bóng, như đã chết nhưng bên trong lại ẩn chứa lòng ham sống. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình cơn gió của đêm tình mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch.
Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường”. Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh. Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức tươi đẹp. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng đối lập với một hiện tại buồn mênh mang. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu
Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động “nổi loạn nhân tính”. Mị tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu“ Mị uống ực từng bát rồi say”. Mị uống như nuốt căm hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa mà đã hồi sinh. Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui sướng của Mị “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Còn gì hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình ? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị. Con rùa nuôi trong xó cửa ấy đã không còn lùi lũi nữa rồi. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ “Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát sống, còn muốn yêu thương. Đúng là một cảm xúc bi kịch: nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh đáng thương này thì đúng là bi kịch. Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao Mị vẫn còn là chính mình với trái tim đầy khát vọng.
Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân. Tủi thân khi nghĩ về thực tại. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử – kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu “không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau”. Cảm xúc ấy như một gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu dành dụm. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại cay đắng này.
Nhưng không có nắm lá ngón, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi mà tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo gọi, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy thôi! Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền. Ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Tô Hoài đã diễn tả thật sâu sắc cái khát vọng cháy bỏng ấy của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu nỗi cảm thông chia sẻ. Câu văn ngắn, nhịp gấp thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật “Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Mị hành động thản nhiên, dù Mị biết A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể nào làm gì được Mị nữa rồi. Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi đay, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng đầu được nữa.
Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống bằng tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn của Mị. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình của tuổi trẻ. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”. Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn “Mị vùng bước đi”. Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói (hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác). Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được” lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong “hơi rượu tỏa” cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì “nồng nàn tha thiết nhớ”. Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết “Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai”. Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành đợt sóng thần của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó.
Cũng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử đang đợi A Phủ từng phút từng giây. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn. Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Phải chăng “Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi” nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Và nếu đúng như vậy thì đớn đau thay Mị đã đánh mất đi lòng nhân ái mà trong bản thân người phụ nữ nào cũng có. Khi và chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dấu hiệu của sự chết đã xuất hiện trên khuôn mặt của người nô lệ ấy thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người. Thương người, Mị lại thương mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có «nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được». Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này. Mị càng căm phẫn càng uất hận “chúng nó thật độc ác”. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nhưng Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt chùn lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ. Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn. Chính hành động cắt dứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám dứng lên đương đầu với lũ ác thú. Dù còn là mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh của những nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình. Mị đã làm một việc động trời nhưng đó là tất yếu. Cái giây phút Mị đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối. Lòng Mị rối bời với câu hỏi: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ biết bao nhiêu năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi!… Ở đây thì chết mất”. Đó là câu nói thể hiện niềm khao khát sống và khát khao tự do đến mãnh liệt. Và tiếng gọi tự do đang vẫy gọi họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục.
Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.
Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.
Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua nhân vật Mị nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân văn ngời sáng của tác phẩm.
dcdcdcdcdc
hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 200 từ trình bày suy nghĩ của anh/chị về sức sống tiềm tàng trong mỗi con người từ hình tượng nhân vật Mị
Câu trả lời của bạn
Mỗi chúng ta khi được sinh ra trong thế giới này đã là một niềm hạnh phúc. Tuy nhiên chúng ta không tồn tại như những cá thể độc lập mà hạnh phúc đích thực chỉ nảy sinh khi chúng ta được tắm trong suối nguồn của tình yêu thương.Vì vậy lòng yêu thương con người là một trong những tố chất làm nên ý nghĩa cuộc sống cuả mỗi chúng ta.
Lòng yêu thương là sự đồng cảm, chia sẻ, gắn bó, thấu hiểu ... giữa con người với con người. Đó là một trong những phẩm chất cao đẹp của con người. Lòng yêu thương có sự biểu hiện rất đa dạng và phong phú trong cuộc sống. Chẳng hạn như đó có thể là sự cảm thương, quan tâm, giúp đỡ những người có cảnh ngộ bất hạnh, khó khăn trong cuộc sống; hoặc yêu mến và trân trọng những người có phẩm chất, tình cảm cao đẹp; ...
Trong cuộc sống của chúng ta, lòng yêu thương có một ý nghĩa vô cũng quan trọng vì nó làm cho mối quan hệ giữa người với nguồi trở nên tốt đẹp. Cuộc sống vì thế mà cũng trở nên thân thiện, ấm áp, vui vẻ và hạnh phúc hơn. Ví dụ như trong một gia đình, nếu mọi thành viên thật sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc và chia sẻ với nhau mọi khó khăn trong cuộc sống thì chắc chắn sẽ tạo dựng được một không khí gia đình đầm ấm và hạnh phúc. Lòng yêu thương không phân biệt màu da, ngôn ngữ, khoảng cách giàu nghèo sẽ tạo điều kiện làm cho mọi người xích lại gần nhau hơn. Trong xã hội hiện nay, những hoạt động vì tình thương luôn nhận được nhiều sự đồng tình và ủng hộ như Chương trình vì người nghèo, Ngôi nhà mơ ước, Lục lạc vàng ... Điều đó tuổi trẻ tuổi trẻ hôm nay không thiếu những con người có trái tim giàu lòng nhân hậu. Đó là những trường hợp như chàng trai Nguyễn Hữu An nghèo khó, không chỉ hết lòng chăm sóc mẹ mà còn nhận một người phụ nữ khác làm mẹ nuôi và chăm sóc bà cũng rất tận tình, chu đáo khi bà cũng mắc bệnh ung thư như mẹ mình nhưng lại không có người thân cận lè chăm sóc. Hay như đóa hoa hướng dương Lê Thanh Thúy, tuy mắc bệnh ung thư xương khi mới 16 tuổi nhưng Thúy lại là một tấm gương về nghị lực sống phi thường. Từ nỗi đau cũng mình, Thúy dễ dàng đồng cảm với sự đau đớn của các bệnh nhi bị bệnh ung thư và đã có ý tưởng được cùng với mọi người chăm sóc các bé, giúp các em xoa dịu bớt những nỗi đau về thể xác. Ý tưởng ấy đã được mọi người hưởng ứng và chương trình “Ước mơ của Thúy” đã ra đời với mục đích chăm sóc, hỗ trợ cho các bệnh nhi ung thư và được duy trì tốt đẹp cho đến ngày nay do báo Tuổi trẻ thực hiện. Giờ đây, tuy Thúy đã mất nhưng mọi người ở Bệnh viện Ung bướu Tp.HCM vẫn luôn nhớ mãi hình ảnh một cô bé nhỏ nhắn chống gậy đi khắp các giường bệnh để động viên các bé đáng bị bệnh giống mình.
Lòng yêu thương còn là động lực thúc đẩy ta hoàn công việc tốt hơn, có hiệu quả cao hơn. Đó là kết quả có được khi chúng ta biết sống vì người khác. Ngoài ra, nhờ lòng yêu thương, mọi người sẽ cùng nhau đoàn kết tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để động viên nhau cùng nhau vượt qua gian khổ, thử thách, xóa tan những hận thù và cảm hóa được cả những con người lầm lỗi. Nhờ có lòng yêu thương, sự trợ giúp lẫn nhau mà những tai họa do con người hay thiên nhiên gây ra mau chóng được khắc phục, những mảnh đời bất hạnh tìm thấy niềm vui sống, những con người có ước mơ, hoài bão lớn nhưng không có điều kiện thực hiện đã nhanh chóng đạt được điều mình ao ước ...
Bên cạnh đó, khi chúng ta biết sống yêu thương người khác và nhận được tình yêu thương thì tâm hồn chúng ta sẽ được bồi đắp trở nên trong sáng, cao đẹp hơn. Niềm tin vào con người và cuộc sống vì thế mà sẽ được củng cố, vun vén.
Với những ý nghĩa trên, lòng yêu thương cần phải được nhân rộng và trân quý, ca ngợi trong cuộc sống hôm nay. Mỗi chúng ta cần phải sống có lòng yêu thương với tất cả mọi người, sẵn sàng chia sẻ, cảm thông, giúp đỡ người khác. Song song đó, chúng ta cũng cần phải lên án lối sống thiếu tình yêu thương, ích kỉ, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại, và thẳng thắn phê phán những kẻ lợi dụng tình thương để thể hiện những ý đồ đen tối, để tự đánh bóng tên tuổi mình.
aaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaa a a a a a â a a á a ấ á a á á á a a a
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Lên Tây Bắc ngắm nhìn cảnh sắc núi non điệp trùng, mây cuộn mình trong sương, sương giăng mờ đỉnh núi. Đất trời ưu ái cho Tây Bắc vẻ đẹp miên viễn như huyền thoại, như thi ca. Nhưng ai biết đâu Tây Bắc cũng từng có những ngày chìm trong đêm đen của xã hội phong kiến – thực dân bao phủ. Cái xã hội ấy thật tàn bạo bởi nó đã bóp nghẹt sự sống của con người, tước đoạt ước mơ, giết chết khát vọng. Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là một điển hình.
Tô Hoài là nhà văn có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của đồng bào miền núi cao Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” (1952) chính là “món nợ ân tình” mà Tô Hoài phải trả cho đồng bào nơi đây bởi họ sống ân nghĩa ân tình quá đỗi, Tô Hoài không thể nào quên. Tác phẩm viết về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên đi tìm cuộc sống tự do. Trong truyện, cô Mị là một nhân vật đầy ám ảnh. Hoàn cảnh khốn khổ và tâm lý biến đổi theo thời gian của Mị để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người, đặc biệt là khi cô Mị “Ở lâu trong cái khổ” và từ trong “cái khổ” mà “phơi phới trở lại”, qua đây người đọc nhận ra tư tưởng nhân đạo cao quý của Tô Hoài gửi gắm trong thiên truyện.
Mỗi nhà văn đều có một tạng riêng. Nếu Nam Cao để lại dấu ấn trong lòng người bằng tiếng kêu thống thiết của kiếp người lầm than, đói khổ lay lắt, bị bần cùng hóa, tư sản hóa mà ra; Thạch Lam gây ấn tượng bởi giọng trữ tình đượm buồn nhưng sâu xa, ý nhị về những miền đời bị xã hội bỏ quên; Nguyễn Tuân với câu từ trau chuốt, tỉ mỉ, hình ảnh góp nhặt từ một thời đại nào xa xưa lắm lung linh rực rỡ “đẹp đến toàn thiện toàn mỹ” trên trang văn… thì văn phong Tô Hoài nhẹ nhàng, không lên gân, không “ngùn ngụt sát khí” nhưng đủ sức bóp nghẹt tâm can người đọc, khiến người đọc rưng rưng nước mắt khi cám cảnh cùng cực của kẻ bất hạnh, sống mỏi mòn nhưng không buông xuôi thụ động như nhân vật trong cổ tích. Mị trong “Vợ chồng A Phủ” là cô gái vừa xinh đẹp như bông hoa rừng lại vừa tài hoa, hiếu thảo. Với những phẩm chất tốt đẹp mà Mị có, nếu sống trong một xã hội bình thường chắc chắn Mị sẽ được sống những tháng ngày an yên, hạnh phúc.
Nhưng không, vì nghèo, vì món nợ ngày xưa bố mẹ Mị vay nhà thống lí Pá Tra cùng với phong tục hôn nhân kì lạ của người Mông mà Mị trở thành “con dâu gạt nợ” nhà thống lí, vợ của A Sử. Trên danh nghĩa là dâu, nhưng thực tế Mị lại là con ở không công nhà thống lí. Tại ngôi nhà quyền lực mà u ám này, Mị bị bóc lột sức lao động, bị đầu độc tâm hồn bởi thần quyền và cường quyền, dần dần Mị đã đánh mất chính mình, cô gái xinh đẹp yêu đời năm nào phải ngậm ngùi sống kiếp người đội lốt “con rùa nuôi trong xó cửa”.
Về làm vợ A Sử, con dâu thống lí Pá Tra ít lâu, Mị đã quen dần với cái khổ, từ một cô gái tràn đầy sức sống, khao khát yêu thương bỗng chai sạn tâm hồn, mất nhận thức về thời gian, không gian, cả nỗi khổ mà mình đang gánh chịu. Ở đoạn văn thứ nhất, Tô Hoài đưa người đọc vào không gian mà cô Mị đang sống: khổ cực, tăm tối. Ngay từ những dòng văn đầu, nhà văn đã để lại ấn tượng về khoảng thời gian mà Mị đã sống trong nhà thống lí: “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau”, chỉ mấy năm thôi nhưng chắc là lâu lắm. Đó là quãng thời gian mà Mị nếm trải khổ đau, nếm trải sự xói mòn trong tâm hồn của mình. “Mấy năm” là bao nhiêu năm? Bao nhiêu năm đã chầm chậm trôi qua mà Mị không hề nhớ rõ bởi bấy giờ Mị có còn biết khổ đau, bất hạnh, cơ cực là gì nữa đâu? Cái khoảng thời gian không xác định ấy tưởng chỉ mang tính chất giới thiệu thôi mà ngẫm lại đớn đau khó tả. Hóa ra Mị đã về làm dâu nhà thống lí “Mấy năm” rồi, “bố Mị” – người thân duy nhất của Mị cũng đã bỏ Mị mà đi, còn Mị thì đương sống trong tình trạng sống không ra sống mà chết thì Mị chưa nghĩ đến. Nếu ngày trước Mị đã từng có ý định ăn lá ngón tự tử vì không chịu đựng được nỗi khổ đau thì giờ phút này “Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Lá ngón – một loài lá độc mọc dại ở miền núi cao Tây Bắc – khi đi vào văn chương lại trở thành một chi tiết nghệ thuật nói lên thật nhiều thân phận con người.
Phải khổ đau, uất ức lắm người ta mới tìm đến lá ngón để mưu sinh. Lúc trước Mị định ăn lá ngón để chết, để khỏi phải đối mặt với những cơ khổ và bạo tàn nhà thống lí Pá Tra. Khi Mị muốn chết là lúc khát vọng được sống đúng nghĩa dâng trào. Còn bây giờ… “Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”, nghĩa là Mị chấp nhận khổ đau, cam chịu cảnh sống cực hơn là chết nhà thống lí. Mị không muốn chết bởi Mị đã chai lì, bởi Mị đã “quen khổ rồi”. Môi trường độc địa ấy đã ngấm vào trong Mị, cái khổ đã đồng hóa Mị, khiến Mị quen dần và không một biểu hiện phản kháng. Ngay cả Mị cũng “tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, câu văn chất chứa nỗi xót xa cùng cực của Tô Hoài dành cho nhân vật của mình. Thân phận của Mị chẳng khác nào thân phận “trâu ngựa”.
Con trâu con ngựa suốt tháng suốt năm phải làm việc lam lũ trên nương, khoảnh khắc nghỉ chân của nó thật ngắn ngủi. Mị cũng thế, từ hồi về nhà thống lí Pá Tra làm dâu, quanh năm Mị quanh quẩn trên nương “bẻ bắp”, “hái củi”, “bung ngô”, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Vậy có khác nào con ngựa, con trâu? Con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm” chứ đâu than khổ than cực?! Cô Mị cũng vậy, Mị tất bật với bao nhiêu công việc không lúc nào ngơi tay mà Mị đâu có lời nào vãn than. “Quen khổ”, cái thói quen ấy mới thật khắc khoải làm sao. Đoạn văn thứ nhất đã mở ra thân phận cam chịu, tủi nhục của Mị. Người đàn bà ấy đã gồng gánh gian lao đi qua cơ cực mỏi mòn mà chẳng biết nặng là gì. Rõ là cái xã hội ấy thật bất nhơn, nó tước đoạt đi quyền hạnh phúc, đồng thời cắt đứt mạch sống của người con gái đương phơi phới xuân thì.
Những tưởng đời Mị sẽ không bao giờ “ngóc đầu” lên nổi. Nhưng không, bằng tấm lòng nhân đạo cao quý, Tô Hoài đã cho cô Mị “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” kia “phơi phới trở lại”. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc trong Mị không vĩnh viễn mất đi mà chỉ ngủ quên dưới lớp tro buồn, gặp cơ hội thuận lợi lập tức những hạt mầm ấy lại bén đất đâm chồi non khỏe khoắn. Mùa xuân Hồng Ngài có sắc màu rực rỡ của thiên nhiên, có tiếng sáo gọi bạn tình và hơi rượu đưa Mị trở về miền nhớ xa xăm.
Thuở ấy, Mị được uống rượu, thổi sáo, được đi chơi ngày Tết. Còn bây giờ Mị phải sống trong cảnh cá chậu chim lồng, mà cũng không hẳn bởi Mị đâu chỉ mất tự do như con chim mà còn bị hành hạ, bị đánh đập tàn nhẫn. Khoảnh khắc “ngồi trơ một mình giữa nhà” Mị suy nghĩ biết bao điều. Từ lúc nãy Mị đã “phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mốc thời gian “những đêm Tết ngày trước” là những đêm Tết trước khi Mị về làm dâu nhà thống lí. Thuở ấy Mị được tự do, được bay nhảy, được vui chơi rộn rã cùng bao người. Trong tình cảnh này, Mị nhận ra “Mị còn trẻ lắm”. Từ hồi về làm dâu nhà Pá Tra đến giờ, đây là lần đầu tiên Mị nhận thức được sự trẻ trung vẫn còn nơi mình. Nét đẹp của cô gái Mông Tây Bắc vẫn còn phảng phất trên mặt Mị. Bao nhiêu người con gái Mông có chồng cũng được đi chơi ngày Tết, còn Mị có già dặn gì đâu mà cam chịu cảnh ngồi trong buồng tối không được đi chơi. Dường như “trẻ lắm” trở thành điệp khúc Mị tự nhắc nhở mình dẫn đến hành động “muốn đi chơi”. Có thể nói cô Mị thực sự “nổi loạn” trong đêm tình mùa xuân vì từ trước đến nay Mị chưa từng muốn đi chơi.
Cái ước muốn đơn giản bình dị ấy đã bị kìm lại trong Mị, hoặc Mị không dám nói ra suốt mấy năm Mị làm dâu ở nhà thống lí Pá Tra. Mị nhận ra: “A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!”. Tại sao vậy? “Không có lòng” thôi thì hãy giải thoát cho nhau, cớ gì ép buộc, gò bó nhau cho khổ cực cuộc đời cô Mị? Một lần nữa hình ảnh chiếc lá ngón xuất hiện trong tâm tưởng cô Mị: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Khi đã thức tỉnh, lòng ham sống trở về với Mị, Mị lại muốn ăn lá ngón tự tử.
Ở đây, người đọc nhận thấy có sự đối lập rõ ràng. Sống và chết luôn nằm ở hai đối cực khác nhau, song khoảnh khắc này lại tương hỗ thật nhiều trong cuộc đời cô Mị. Mị muốn chết càng chứng tỏ Mị đã “sống lại” và tỉnh táo hơn bao giờ hết. Chết để được tự do, được thanh thản, để đỡ phải khổ trong chuỗi ngày kế tiếp. Lần này Mị muốn chết nhưng Mị không thể chết vì thực tại Mị đang ở trong buồng, kín mít, mà khát khao đi chơi cũng đang chiếm lĩnh tâm hồn Mị. Lá ngón trong lần xuất hiện này như một giao điểm giữa những ngày thầm lặng, bị đối xử tàn nhẫn, bị bóc lột về thân xác, áp chế về tinh thần với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc cuồng nhiệt như con sóng trong lòng cô Mị ngày xưa. Tóm lại, Mị đã tỉnh sau những tháng ngày u mê, ngủ say dưới lốt của một con rùa nuôi trong xó cửa không hi vọng, không mơ ước gì đến chuyện tương lai.
Hai đoạn văn mở ra hai trạng thái tâm lí của cô Mị, một là “quen khổ rồi”, hai là “phơi phới trở lại”, “muốn đi chơi”. Nếu ở đoạn văn thứ nhất người đọc nhận ra một cô Mị thụ động, cam chịu số phận thì đến đoạn văn thứ hai, dấu ấn về sự “nổi loạn”, bứt phá bắt đầu xuất hiện trong cô gái này. Đó là sự trỗi dậy của Mị, tiền đề cho những phản kháng để giải thoát thân phận ở những diễn biến kế tiếp. Từ đây ta nhận ra cô Mị của Tô Hoài không giống kiểu người hiền hậu khốn khổ như trong cổ tích đã từng dựng xây. Tô Hoài đã thổi vào trang văn của mình cảm hứng của con người hiện đại, không cam chịu đã vùng lên khát khao tìm hạnh phúc, tìm cuộc sống tự do.
Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng chứa đựng thái độ của nhà văn đối với cuộc sống, trước hết là với con người, “Văn học là nhân học” (M. Gorki). “Vợ chồng A Phủ” đã để lộ cái nhìn nhân đạo của Tô Hoài. Nhà văn đã phát hiện ra sự trỗi dậy mạnh mẽ của Mị, ngòi bút của ông luôn đau đáu tìm hướng dắt dìu cô Mị từ trong đau khổ đứng lên hướng về phía niềm vui, phía ánh sáng. Trước sau Tô Hoài vẫn tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghiệt đến mấy cũng không thể tiêu diệt hoàn toàn khát vọng cao cả trong Mị. Vì vậy mà Mị đã sống lại bằng tuổi trẻ, bằng nỗi day dứt về thân phận của mình. Chính cái khát vọng sống mãnh liệt không thể chết được ở Mị, giúp Mị tự giải thoát khỏi cái chốn địa ngục trần gian để làm lại cuộc đời, để sống như một con người. Tô Hoài đã phản ánh cuộc sống tối tăm, tủi nhục của người lao động nghèo vùng cao Tây Bắc trước Cách mạng, đồng thời đanh thép tố cáo tội ác, thế lực thực dân phong kiến, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, khẳng định sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ, quá trình vùng lên giải phóng của người lao động Tây Bắc.
Bằng giọng văn mềm mại cùng lối kể chuyện hấp dẫn, Tô Hoài đã đưa người đọc vào thế giới Hồng Ngài xinh đẹp mà u buồn, ở đó có bóng dáng cô Mị sống lầm lũi, bĩ cực đang lao đao đi tìm lẽ sống cho riêng mình. Nhà văn đã phát huy biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế để từ đó nhân vật của ông sống dậy, vùng vẫy, run rẩy phập phồng trên trang văn dày đặt ngôn từ. Trên hết vẫn là tư tưởng nhân đạo cao quý mà Tô Hoài đã gửi gắm. Chất nhân đạo góp phần làm nên tác phẩm văn học chân chính, có lẽ vì thế mà hơn nửa thế kỉ trôi qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” vẫn đủ sức ám ảnh tâm trí bạn đọc. Và bao giờ cũng vậy, mỗi lần nghĩ về Tây Bắc hoặc có dịp lên Tây Bắc ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên, lập tức bóng dáng vợ chồng A Phủ lại hiện ra trước mắt người đọc. Nhưng không phải một cô Mị tủi buồn và một chàng A Phủ bất lực khóc ròng trong đêm bị trói. Mà là một khung cảnh tươi sáng hơn, cô Mị với nụ cười tươi rói trên môi bởi cô đã cùng A Phủ sống những tháng ngày thật sự ý nghĩa, góp sức cho Cách mạng, giải phóng quê hương.
Câu trả lời của bạn
I love everybody
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *