Nội dung bài học Tuyên ngôn độc lập phần tác giả Hồ Chí Minh giúp các em hiểu được những nét khái quát về sự nghiệp văn học, quan điểm sáng tác và những đặc điểm cơ bản của phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh. Đồng thời có ý thức trân trọng di sản của Hồ Chí Minh và tự hào về độc lập của dân tộc. Hy vọng sau khi học xong, các em nắm được nội dung kiến thức trọng tâm bài học. Chúc các em có tiết học thành công và hiệu quả.
Rất độc đáo và đa dạng:
Em hãy phân tích sự phong phú và đa dạng trong phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa, chính trị lỗi lạc, một nhà lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Để hiểu sâu sắc về Hồ Chí Minh, các em có thể tham khảo thêm bài soạn Tuyên ngôn độc lập - phần 1: Tác giả.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Để hiểu hơn về cuộc đời và sự nghiệp của tác giả Hồ Chí Minh, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Thuyết minh về tác giả Hồ Chí Minh
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Nêu những hiểu biết về tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh ?
Câu trả lời của bạn
1. Hoàn cảnh ra đời
Tháng 1- 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Bác về nước, để chỉ đạo cách mạng trong nước. Tháng 5 năm ấy Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Ðảng họp ở hang Pác Bó dưới sự chủ tọa của Người, quyết định thành lập Việt nam độc lập đồng minh tức là mặt trận Việt minh để đoàn kết đông đảo nhân dân đánh Pháp đuổi Nhật, giải phóng dân tộc. Cần tranh thủ thêm sự giúp đở của đồng minh, mà đồng minh gần ta nhất là Trung Quốc. Người hiểu biết trung Quốc hơn ai hết nên Trung ương cử Người đi Trùng Khánh nhằm mục đích tranh thủ sự viện trợ của chính phủ Tưởng Giới Thạch, bên trong thì đặt quan hệ với Ðảng Cộng Sản Trung Quốc. Bấy giờ Người đổi tên là Hồ Chí Minh.
Ði suốt trong 10 ngày 5 đêm, đến một thị trấn Túc Vinh thuộc tỉnh Quảng Tây, bị khám xét, đồng chí người Trung Quốc dẫn đường không có giấy tờ bị bắt theo. Bọn bộ hạ của Tưởng cho là Bác sang phá tổ chức Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội của Trương Công Bội và Nguyễn Hải Thần, do chúng đỡ đầu. Cũng bởi thế cho nên những bức điện của Bác gởi cho bọn cầm quyền trong chính phủ Tưởng đều không được trả lời.
Chúng giải Bác đi khắp nơi, tay bị trói cổ mang vòng xích, dầm mưa dãi nắng, trèo núi, vượt truông. Hơn một năm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch Bác đã làm 134 bài thơ in trong cuốn Nhật lý trong tù trong đó có bài Mới ra tù tập leo núi làm sau khi Bác đã ra khỏi tù nhưng nhà xuất bản văn học vẫn in chung trong tập Nhật ký trong tù, xuất bản 1960.
Tháng 5- 1990, kỷ niệm ngày sinh 100 của Bác, người ta đã tìm được 20 bài thơ chữ hán viết trong thời kỳ bác bị giam giữ trong nhà tù Tưởng Giới Thạch. Như vậy, Nhật lý trong tù sẽ có 134 bài thơ bằng chữ Hán.
Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Tây ngày 29-8-1942 được trả tự do ngày 10-9-1943, một năm sau nữa, tháng 9-1944, nhà đương cục Trung Quốc mới để Bác về nước. Bác viết Ngục trung nhật ký trong hoàn cảnh ấy. Ơí đây thơ bật ra ngoài ý muốn của Người.
Nhật ký trong tù là cuốn nhật ký ghi chú sự việc xảy ra trong những ngày Bác bị giam giữ. Nhật ký trong tù viết bằng thơ chữ Hán không phải là một bài thơ trường thiên liền mạch mà là nhiều bài, mỗi bài về một vấn đề, thể điệu có thay đổi nhưng phần lớn là thơ thất ngôn tứ tuyệt.
Thơ văn trong tù xưa nay có nhiều bài nổi tiếng như Thi tù tùng thoại của Huỳnh Thúc Kháng, Xiềng Xích của Tố Hữu. Văn học thế giới có tác phẩm vĩ đại Viết dưới giá treo cổ của Phu Xích và Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh là một điều hiếm có.
2. Nội dung tác phầm Nhật ký trong tù
a. Nhật ký trong tù thực chất là một bức tranh thu nhỏ của xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch
Xã hội Trung Quốc thời kỳ 1942-43 mục ruỗng từ trong ra ngoài, từ phòng giam chật hẹp đến bên ngoài xã hội rộng lớn. Nhật ký trong tù đã ghi lại sự việc Bác đã phải sống, đã chứng kiến. Quang cảnh Bác nhìn thấy ở những nơi bị giam hay bị giải đi qua: chuyện bị bắt ở Túc Vinh, sáng trưa, chiều tối. Chuyện cái cùm, dây trói, cảnh người tù cờ bạc bị chết. Ðây là đặc trưng của bút pháp tả thực, đứng ở một góc độ nhất định để diễn tả được một cách rõ ràng, chính xác… Bác đã đứng ở góc độ người tù nhân đã tường tận nếm trải mọi cực hình, chứng kiến mọi sự việc xảy ra trong nhà tù Tưởng Giới Thạch.
Toàn bộ những cảnh tượng đã xảy ra trong Nhật ký trong tù là hình ảnh thu nhỏ của một xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Biết bao những thối nát bất công và tàn bạo của chế độ Tưởng đang đè nặng lên cuộc sống của dân lành. Nói tới sự bất công ngang trái của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch những bài thơ trong Nhật ký như là một cái tát vào mặt kẻ thù. Chất thép của Nhật ký trong tù là ở đó.
b. Nhật ký trong tù thể hiện một tâm hồn cao đẹp của Người
Nói tới tâm hồn có nghĩa là nói tời tình cảm trước hết nói tới tình yêu thương con người của Bác. Trong văn học nhất là văn học cổ điển, có những trường hợp tư tưởng tác phẩm tự đặt ra những vấn đề mà tác giả không hề nghỉ tới như truyện Kiều của Nguyễn Du. Với Nhật ký trong tù thì trái lại, Bác chưa nói được hết những điều muốn nói. Nhưng không phải vì thế mà phẩm chất đạo đức của Bác không ngời sáng trong thơ. Ðồng chí Viên Ưng một nhà thơ Trung Quốc, sau khi đọc Nhật ký trong tù viết: Chúng ta được gặp tâm hồn vĩ đại của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng…tôi cảm thấy trái tim vĩ đại đó tỏa ánh sáng chói ngời trong một hoàn cảnh tối tăm.
Ánh sáng ấy trước hết là ánh sáng của tình thương người. Ðồng chí Phạm Văn Ðồng nói: Tình nhân đạo, tình thương đồng bào đó là điều sâu sắc nhất và tốt đẹp nhất trong con người Hồ Chủ tịch.
c. Nhật ký trong tù đã thể hiện một tinh thần bất khuất kiên cường
Tình thương người lòng yêu đời, yêu nước trong thơ Bác về một mặt là kế tục truyền thống thơ xưa, nhưng mặt khác lại không giống thơ xưa, nó là tâm tình của một người Cộng sản, nó gắn liền với chiến đấu, vững tin ở chiến thắng. Bác từng nói rất rõ:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
(Cảm tưởng đọc Thiên gia thi)
Ý chí sắt đá và tinh thần rèn luyện cao độ, Bác đã giữ vững qua muôn vàn khổ cực và cũng đã từng nói lên được trong những hình ảnh nên thơ:
“Gạo đem vào giã bao đao đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông”
(Nghe tiếng giã gạo)
Cuộc đời hoạt động của Bác là một bài thơ lớn, tràn đầy sức sáng tạo. Nhật ký trong tù không thể nào sánh được với toàn bộ bài thơ lớn ấy. Bác là người làm thơ trong cuộc đời nhiều hơn văn thơ. Trong sự nghiệp chung của Bác văn thơ chỉ là chuyện phụ.
Trong cuộc sống nghèo nàn ấy, Bác đã tìm đủ đề tài cho hơn một trăm bài thơ. Cơ hồ như đối với Bác chuyện gì cũng thành thơ.Chuyện núi non trăng hoa thành thơ mà chuyện dưa cà mắm muối cũng thành thơ. Bác làm thơ vì một cái răng, một cái gậy, kể cả những chuyện rất ít nên thơ cũng thành thơ. Cho nên khi Bác nói trong thơ nên có thép ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép trong thơ. Có lẽ phải hiểu một cách rất linh hoạt mới đúng.”Không phải chỉ nói chuyện thép và giọng thép mới là có tinh thần thép”. Trong thơ văn cũng như trong cuộc đời cái điều quan trọng nhất vẫn là cái thực chất của con người Nhật ký trong tù ít có những lời hô to nói lớn:
“Giọng của người không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng ấm vào lòng mong ước”
(Sáng tháng năm)
Bác không lên gân, không đao to búa lớn mà toàn bộ tập thơ toát lên một tinh thần thép, tinh thần của một anh hùng bất khuất, luôn luôn vững bước tiến lên, bền gan chiến đấu.
Sống trong tù lúc nào Bác cũng thể hiện được phong thái ung dung, bình tĩnh, phảng phất thơ văn của nhà nho xưa đầy khí tiết. Nhưng cái ung dung ngày trước có khi là cái ung dung của người quay lưng lại với cuộc đời: trả áo mũ về sống ẩn dật, hay bất chấp mọi nỗi thăng trầm của thế sự. Bác hoàn toàn không phải như vậy. Ðồng chí Phạm Văn Ðồng nói:”Hồ Chủ tịch là hình ảnh của sức mạnh bình tĩnh không khiếp sợ, không hoảng hốt, đó là sức mạnh của những người sống một nhịp với trào lưu của thế giới, với quy luật tiến hóa của lịch sử. Chính Bác cũng đã nói:
“Sự vật vẫn xoay đà định sẳn
Hết mưa là nắng ửng lên thôi”
(Trời hửng)
Nhật ký trong tù chúng ta tìm thấy một sức chịu đựng vô cùng mãnh liệt ở Bác. Nhà tù đã đày đọa thân thể Bác, chúng giải Bác đi khắp nhà tù này đến nhà tù khác, tối ngủ chân bị cùm, đi thuyền thì bị treo giò
“Bốn tháng cơm không no
Bốn tháng đêm không ngủ
Bốn tháng không giặt giũ
Bốn tháng không thay quần áo”
Bị giam lâu, chân mềm như trùn, thế mà lúc ra tù, Bác tập leo núi ngay để chờ lúc băng núi rừng về nước. Ðó là cái gương cương nghị ở Bác.
Bài thơ “Bốn tháng rồi” đã tổng kết một chặng đường đấu tranh lâu dài, khốc liệt của Bác ơ trong tù. Chứng kiến những nổi đau khổ đè nặng lên con người Bác, huỷ hoại thân thể Bác chúng ta cảm thấy hết sức đau lòng và càng kính yêu Bác. Chúng ta cũng vô cùng sung sướng tự hào trước chiến thắng của tinh thần Bác, tinh thần của một chiến sỹ công sản vĩ đại đã bất chấp cả bạo lực của kẻ thù. Bằng sức mạnh của nghệ thuật, Người đã truyền cho chúng ta một bài học của một tâm hồn sáng chói, bất diệt:
“Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần “
(Bốn tháng rồi)
Nhờ có tinh thần thép mà mọi gian nguy, hiểm nạn Bác đều vượt qua. Nhờ có tinh thần thép mà mọi thiếu thồn về vật chất Bác đã đẩy lùi. Bác là tinh hoa của lịch sử, khí phách dân tộc, và tâm hồn thời đại.
1, Hoàn cảnh sáng tác.
Tháng 8 năm 1942, với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh và Phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế. Sau nửa tháng đi bộ, đến Túc Vinh, Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ. Trong suốt 14 tháng ở tù (từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943), tuy bị đày ải vô cùng cực khổ, Hồ Chí Minh vẫn làm thơ. Người đã sáng tác 133 bài thơ bằng chữ Hán ghi trong một cuốn sổ tay mà Người đặt tên là Ngục trung nhật kí.
2, Nội dung tập thơ "Nhật kí trong tù".
Tập thơ phản ánh chân thực bộ mặt xấu xa, đen tối của chế độ nhà tù cũng như xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch.
Tập thơ thể hiện tâm hồn phong phú, cao đẹp của người tù vĩ đại. về phương diện này, có thể coi "Nhật kí trong tù" như một bức chân dung tự họa con người tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chân dung Hồ Chí Minh trong tập thơ là hình ảnh nhà ái quốc vĩ đại có dũng khí lớn, lúc nào cũng nóng lòng sốt ruột hướng về Tổ quốc, khát khao tự do, là chiến sĩ cộng sản kiên cường bất khuất. Bị đày đọa trong lao tù, Người vẫn ung dung, tự tại, tràn đầy tinh thần lạc quan.
Chân dung Hồ Chí Minh còn là hình ảnh bậc đại nhân có tình thương yêu bao la, thấu hiểu cảnh ngộ của mọi kiếp người, nhạy cảm với niềm vui, nỗi đau của con người.
Tâm hồn Hồ Chí Minh nhạy cảm với mọi biến thái của thiên nhiên. Tập "Nhật kí trong tù" bộc lộ cốt cách của một thi nhân, một nghệ sĩ lớn. Nhà thơ Hoàng Trung Thông có viết:
"Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình".
- Hoàn cảnh ra đời: Tháng 8 / 1942 HCM với danh nghĩa đại biểu của VN độc lập đồng minh và phân bộ quốc tế phản xâm lược của VN để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế. Sau nửa năm trời đi bộ đến Túc Vinh – Quảng Tây TQ , Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam 13 tháng tù từ ngày 29 /8/ 1942 – 10 /9 /1943, và đày ải qua gần 30 nhà lao của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây .
- Số lượng tác phẩm: 133 bài
- Ngôn ngữ sáng tác: Chữ Hán
- Thể loại : Nhật kí bằng thơ (Thể thơ cơ bản: Thất ngôn tứ tuyệt)
- Nội dung chính:
+ Lên án chế độ nhà tù độc ác dã man, vô nhân đạo của chính quyền Tưởng giới Thạch.
+ Thể hiện chân dung tự họa của người tù vĩ đại
- Nghệ thuật: Kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại.
+ Màu sắc cổ điển : đậm đà nhất trong hồn thơ HCM giàu tình cảm đối với thiên nhiên, bút pháp chấm phá như muốn ghi lấy linh hồn của tạo vật, hình tượng nhân vật trữ tình ung dung nhàn nhã, tâm hồn hòa nhập với thiên nhiên vũ trụ.
+ Tinh thần hiện đại : Hình tượng thơ luôn vân động, hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Trong quan hệ với thiên nhiên, con người là chủ thể, không là ẩn sĩ mà là thi sĩ .
Nêu quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh ?
Câu trả lời của bạn
- Hồ Chí Minh xem văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng. Nhà vă phải có sự gắn bó sâu sắc với cuộc đời để từ đó khám phá và sáng tạo góp phầ vào nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội. Người khẳng định: "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy".
- Hồ Chí Minh chú ý đến đối tượng thưởng thức. Văn chương trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ. Tác phẩm văn chương phải thể hiện tinh thần dâ tộc của nhân dân và được nhân dân yêu thích. Hồ Chí Minh nêu kinh nghiệm chung cho hoạt động báo chí và văn chương: Viết cho ai, viết cái gì? Viết để làm gì? Cách viết thế nào? Bên cạnh đó, Người chú ý đến mối quan hệ giữa phổ cập và nâng cao trong văn nghệ.
- Hồ Chí Minh quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thật. Người yêu cầu nhà văn phải "miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn" sự phong phú của đời sống cách mạng, phải ca ngợi, khẳng định cái cao đẹp, phê phán và phủ nhận cái xấu trong cuộc đời.
Mặt khác, nhà văn phải chú ý đến hình thức biểu hiện sao cho hấp dẫn, tránh lối viết cầu kỳ, xa lạ, nặng nề. Tác phẩm văn chương phải thể hiện được tinh thần dân tộc của nhân dân.
Trình bày hoàn cảnh ra đời, mục đích sáng tác và giá trị của bản “Tuyên ngôn độc lập” (Hồ Chí Minh ) ?
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm chính luận. Mục đích của văn bản chính luận là thuyết phục người khác bằng hệ thống lập luận, với những lí lẽ chắc chắn, những bằng chứng sống động. Trong tranh luận, để bác bỏ một luận điệu của kẻ khác, cách hay nhất là dùng chính lí lẽ của họ.
Đối với dân tộc ta, bản Tuyên ngôn Độc lập mở đầu cho một thời đại mới. Vì thế, nó phải xuất phát từ những nguyên tắc của thời đại. Nguyên tắc ấy, Hồ Chí Minh tìm thấy ở những bản Tuyên ngôn Độc lập cùa nước Pháp và Mĩ, tức là những nước tư bản, đế quốc, họ còn là những nước đồng minh. Nguyên tắc ấy là gì? Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc (Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ) và Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng vè quyền lợi (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền cùa Pháp). Từ những nguyên tắc ấy, Hồ Chí Minh suy rộng ra rằng Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự dovà khẳng định Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Như vậy, trích dẫn tuyên ngôn của các nước, Hồ Chí Minh nêu lên quyền độc lập tự do của các dân tộc, trong đó có dân tộc Việt Nam, là lẽ phải trong quan hệ quốc tế. Lẽ phải ấy không phải do người Việt Nam nghĩ ra, mà chính là do các nước lớn đó xác lập.
-Việc trích dẫn các bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ và Pháp thế hiện Hồ Chí Minh là người hiểu biết sâu sắc và rất trân trọng những giá trị tư tưởng, văn hóa lớn của nhân loại. Đồng thời, đây cũng là cách nhắc khéo thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đừng phản bội lại tổ tiên, đừng đi ngược lại lá cờ nhân đạo mà cha ông họ đã giương lên.
-Cách trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền cùa nước Pháp ở bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa “cũng có nghĩa đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang bằng nhau. Một cách kín đáo hơn, bản Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh dường như muôn gợi lại niềm tự hào của tác giả bài Bình Ngô đại cáo ngày xưa khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế cân xứng như để đặt ngang hàng Triệu, Đinh, Lí, Trần của Nam quốc với Hán, Đường, Tống, Nguyên của “Bắc Quốc”.
Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng cần nêu được những nội dung cơ bản sau :
a. Trong phần mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai bản Tuyên ngôn :
- Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776.
- Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791.
b. Ý nghĩa của việc trích dẫn:
- Tác giả tạo một cơ sở pháp lý vững chắc cho bản tuyên ngôn để khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam là một lẽ phải không ai chối cãi được”, đồng thời tạo tiền đề cho lập luận nêu ở phần sau.
- Tác giả thể hiện thái độ trân trọng tinh hoa văn hóa nhân loại, đề cao truyền thống bình đẳng, nhân đạo, tư tưởng dân chủ tiến bộ của hai nước Pháp và Mỹ để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới.
- Tác giả muốn từ vấn đề nhân quyền để suy rộng ra” và phát triển thành quyền dân tộc. Đây là đóng góp lớn về tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
- Tác giả cũng chỉ ra cho thực dân Pháp thấy rõ: nếu chúng âm mưu tái chiếm nước ta là xúc phạm đến nguyên lý về quyền độc lập tự do mà chính tổ tiên của chúng đã nêu ra trước kia. Đây là lối tranh luận lấy gậy ông đập lưng ông” thể hiện thái độ vừa kiên quyết vừa khôn khéo của tác giả. Mặt khác, khi đặt ba bản tuyên ngôn ngang nhau, tác giả còn bộc lộ sâu sắc niềm tự hào dân tộc.
Nêu hoàn cảnh ra đời bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh ?
Câu trả lời của bạn
Nêu những nét khái quát về di sản văn học của Hồ Chí Minh ?
Câu trả lời của bạn
* Văn chính luận
- Viết nhằm mục đích đấu tranh chính trị, tiến công trực diện kẻ thù, thức tỉnh và giác ngộ quần chúng, tố cáo tội ác của thực dân Pháp, kêu gọi sự đoàn kết đấu tranh...
- Những ánh văn chính luận được viết không chỉ bằng lí trí sáng suốt, trí tuệ sắc sảo, lời văn chặt chẽ, súc tích mà còn bằng cả tấm lòng yêu nước nồng nàn của một trái tim vĩ đại.
- Tiêu biểu : Bản án chế độ thực dân Pháp(1925) ; Tuyên ngôn độc lập(1945) ; Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến(1946)
* Truyện và kí
- Viết nhằm tố cáo tội ác dã man, bản chất tàn bạo, xảo trá của thực dân phong kiến tay sai và đề cao tấm lòng yêu nước của nhân dân.
- Bút pháp hiện đại và nghệ thuật trần thuật linh hoạt, tác giả tạo nên những tình huống truyện độc đáo, bằng trí tưởng tượng phong phú, trí tuệ sắc sảo và vốn kiến thức văn hoá sâu rộng.
- Tiêu biểu : Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922) ; Vi hàng (1923) ; Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925) ; Nhật ký chìm tàu (1931) ; Vừa đi đường vừa kể chuyện (1963)
*Thơ ca
- Đây là lĩnh vực sáng tạo nổi bật nhất trong sự nghiệp văn học của Bác. Thơ của Người thể hiện tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, tài hoa, một tấm gương nghị lực phi thường và nhân cách cao đẹp của một chiến sĩ cách mạng.
- Người để lại hơn 250 bài thơ, được in trong 3 tập thơ: Nhật ký trong tù gồm 134 bài; Thơ Hồ Chí Minh gồm 86 bài; Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh gồm 36 bài.
cho biết tác giả của bài văn sau:
biển là ao lớn
thuyền là con bò
thuyền ăn gió no
lội trên mặt nước
em nhìn thấy trước
anh trông thấy sau
ta lớn mau mau
vượt qua ao lớn
Câu trả lời của bạn
Của Bác Hồ nhé
Tác giả của bài :
Biển là ao lớn
Thuyền là con bò
Thuyền ăn gió no
Lội trên mặt nước
Em nhìn thấy trước
Anh trông thấy sau
Ta lớn mau mau
Vượt qua ao lớn
lÀ của Bác Hồ!
Nêu cảm nhận của em về 4 câu thơ đề từ của tập Nhật kí trong tù:
Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần phải càng cao.
Câu trả lời của bạn
Những bài thơ tả cảnh thể hiện rất rõ cảm hứng dạt dào của Bác trước thiên nhiên. Có bài chỉ vài nét phác họa đơn sơ, song cũng có bài như một bức tranh sơn mài lộng lẫy. Nhưng bao trùm lên tất cả vẫn là vẻ đẹp phong phú, đa dạng của thiên nhiên.
Mặc dù thân thể bị giam cầm trong ngục tối nhưng trái tim nhạy cảm của Bác vẫn dễ dàng rung động trước một ánh nắng mai rọi chiếu nơi cửa ngục âm u:
Trong ngục giờ đây còn tối mịt,
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi.
(“Buổi sớm”).
Hoặc giao cảm chan hòa với đêm trăng đẹp:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
(“Ngắm trăng”).
Bác đã quên đi trong phút chốc cái hiện thực phũ phàng, nghiệt ngã chốn lao tù để thảnh thơi mà “thưởng nguyệt” như cái thú thanh cao của thi sĩ muôn đời. Vẻ đẹp thiên nhiên ở đây giản dị mà độc đáo: ánh trăng soi qua khung cửa sổ nhà lao và trở thành tri âm, tri kỉ của người tù.
Cách ngắm trăng độc đáo có một không hai ấy thể hiện tâm hồn nghệ sĩ đa cảm và tinh tế. Trăng làm đẹp người, người làm đẹp trăng. Cái nhìn thi vị hóa của Bác khiến trăng thêm đẹp và vẻ đẹp của trăng làm cho tâm hồn Bác rung động sâu xa như tâm hồn thi sĩ. Giữa trăng với người có mối giao hòa đặc biệt.
Mặt trời, trăng sao, tiếng chim hót sớm mai, hương hoa hồng thoảng vào trong ngục… tượng trưng cho mơ ước, niềm vui, khát vọng tự do của người tù cộng sản Hồ Chí Minh. Đặc biệt là hình tượng mặt trời xuất hiện nhiều lần trong thơ Bác đã trở thành biểu tượng thiêng liêng của niềm tin vào tương lai tươi sáng của Cách mạng, của cuộc đời. Trên đường chuyển lao, đi trong đêm khuya giá lạnh nhưng Bác vẫn vượt lên gian khổ để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên:
Gà gáy một lần đêm chửa tan,
Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn;
Người đi cất bước trên đường thẳm,
Rát mặt đêm thu, trận gió hàn.
Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng,
Bóng tối đêm tàn, quét sạch không;
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,
Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng.
(“Giải đi sớm”)
Thiên nhiên trong “Nhật kí trong tù” đẹp đẽ và ấm áp tình người. Nó thực sự trở thành nguồn động viên, an ủi to lớn đối với người tù đặc biệt Hồ Chí Minh:
Mặc dù bị trói chân tay,
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng.
Vui say ai cấm ta đừng,
Đường xa âu cũng bớt chừng quạnh hiu.
(“Trên đường đi”).
Có lúc, thiên nhiên hiện lên như những thử thách nghiệt ngã tưởng chừng khó có thể vượt qua: “Đi đường mới biết gian lao. Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” (“Đi đường”). Hoặc đêm thu giá lạnh, gió quất ràn rạt từng trận, từng trận vào mặt “Người đi cất bước trên đường thẳm” (“Chiều tối”). Chiều tàn, Bác vẫn phải dẫn bước trên con đường núi quanh co, hiu quạnh, giữa thiên nhiên dữ dội và khắc nghiệt: “Gió sắc tựa gươm mài đá núi. Rét như dùi nhọn chích cành cây” (“Hoàng hôn”). Vượt qua tất cả những gian nan thử thách ấy, Bác trở nên con người vĩ đại.
Thiên nhiên muôn màu muôn vẻ luôn là người bạn song hành với Bác trong suốt cuộc đời. Bác đã dành cho thiên nhiên một vị trí xứng đáng trong tâm hồn và trong thơ mình. Đó cũng là biểu hiện của tình cảm phong phú cùng tấm lòng nhân ái mênh mông của người chiến sĩ – thi sĩ Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong thế kỉ XX. Ngoài thơ tiếng Việt, Người còn để lại nhiều thơ chữ Hán, tiêu biểu nhất là lập "Nhật kí trong tù" - một tập thơ "trăm bài trăm ý đẹp". Bên cạnh những bài thơ chứa chan tình còn có những bài thơ sáng ngời chất thép. Nói về chất thép trong thơ Hồ Chí Minh, nhà văn Hoài Thanh có viết: "Khi Bác nói trong thơ có thép, ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép ở trong thơ. Có lẽ phải hiểu một cách linh hoạt mới đúng. Không phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép, mới có tinh thần thép". Đó là một nhận xét tinh tế, thú vị.
"Nhật kí trong tù" được viết trong một hoàn cảnh đặc biệt, khi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ (từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943). Trong bài "Cảm tưởng đọc Thiên gia thi", Bác nêu quan điểm của mình "Nay ở trong thơ nên có thép - Nhà thơ cũng phải biết xung phong". Vậy chất thép trong thơ là gì ? Căn cứ vào nội dung thơ Bác, chúng ta hiểu chất thép chính là tinh thần chiến đấu, là tinh thần lạc quan, tin tưởng, là nghị lực lớn lao của người chiến sĩ trong cảnh tù đày. Có điều là chất thép trong thơ Bác có lúc được biểu hiện một cách trực tiếp, có lúc lại diễn tả một cách gián tiếp. Dù ở dạng thức biểu đạt nào, nhưng cách nổi của Bác đều thâm trầm, bình dị, thấm thía.
"Nhật kí trong tù" có một số bài khẳng định dũng khí của người chiến sĩ: "Đề từ", "Bốn tháng rồi", "Nghe tiếng giã gạo"...
"Thân thể ở trong lao
Tinh thần ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao".
(Đề từ)
Hoặc:
"Kiên trì và nhẫn nại
Không chịu lùi một phân
Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần"
( "Bốn tháng rồi”)
Không cao đàm khoát luận. Là trang nhật kí, viết để đối thoại với mình, vần như mang tính "hướng nội", lòng tự nhủ lòng, tự an ủi động viên mình trong những tháng ngày "ác mộng’". "Tinh thần ở ngoài lao" "kiên trì và nhẫn nại", "không chịu lùi...", "không nao núng...", là chất thép, là ý chí kiên cường, là tinh thần bất khuất của người chiến sĩ vĩ đại.
"Nhật kí trong tù" có rất nhiều bài thơ trữ tình không nói đến cách mạng, đến tinh thần chiến đấu, có nghĩa là không hề "nói chuyện thép" và "lên giọng thép", ấy thế nhưng "chất thép" lại ẩn chứa sau từng vần thơ, từng hình ảnh, từng câu chữ, hay đằng sau những nụ cười hóm hỉnh, hài hước hoặc mỉa mai.
Trong tù, chân tay bị cùm trói, muỗi rệp, đói rét, "ghẻ lở mọc đầy thân", mà tù nhân vẫn thưởng thức vẻ đẹp của ánh trăng lọt qua cửa ngục, vẫn làm thơ, và "Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu". Đó là chất thép. Nhìn xiềng xích và dây trói quấn đầy mình lại ví: "Rồng cuốn vòng quanh chân với tay - Trông như quan võ quấn tua vai". Mỗi bước chân đi, tiếng xích sắt kêu loảng xoảng, bất chợt nảy ra so sánh thú vị: "Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung". Cái nhìn ấy, nụ cười hóm hỉnh ấy được hiện ra trong cảnh địa ngục trần gian thì chính đó là chất thép của một con người mà "uy vũ bất năng khuất". Có nhiều bài thơ ghi lại cảnh chuyển lao. Có hành trình "Năm mươi ba cây số một ngày - Áo mũ đầm mưa rách hết giày". Có cảnh bị giải đi "Hôm nay xiềng sắt thay dây trói". Có chặng đường khổ ải: "Gió sắc tựa gươm mài đá núi - Rét như dùi nhọn chích cành cây”. Đó là những gian khổ mà Bác đã nếm trải trên con đường lưu đày. Đó cũng là chất thép. Một nội lực ghê gớm, một bản lĩnh phi thường, một tinh thần bất khuất lạc quan mới có thể làm nên chất thép ấy.
Chất thép trong "Nhật kí trong tù" có khi thể hiện trong cách nhìn của Bác đối với thiên nhiên, có lúc là niềm khoái cảm mà người tù cảm nhận được trong khoảnh khắc "tự do". Một tâm hồn chan hòa với thiên nhiên, luôn luôn làm chủ hoàn cảnh. Phong thái của người tù là cốt cách của một tao nhân mặc khách ung dung, tự tại:
"Mặc dù bị trói chân tay,
Chim cu rộn núi, hương bay ngát rừng.
Vui say ai cấm ta đừng,
Đường xa âu cũng bớt chừng quạnh hiu".
(Đi đường)
Thật là rõ ràng, bài thơ "Đi đường" không hề nói chuyện thép, "lên giọng thép" nhưng nó vẫn sáng ngời chất thép. Một làn gió mát, một mùi hương lạ, một tiếng chim rừng, một ánh trăng thu, một tia nắng sớm chiếu vào cửa ngục, một áng mây chiều, một lò than rực hồng nơi xóm núi, tiếng chuông chùa xa, tiếng sáo mục đồng... đều đem đến cho Bác nhiều xúc động. Thiên nhiên trong "Nhật kí trong tù" được Bác nói đến bằng những vần thơ đẹp mang phong vị Đường thi, biểu hiện một cách đa dạng và phong phú chất thép hàm chứa trong thơ. Chất thép ấy làm cho "Nhật kí trong tù" có sự kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình và chất thép, giữa màu sắc cổ điển và tính chất hiện đại. Đúng như Hoàng Trung Thông đã viết:
"Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình".
Bài thơ "Vọng nguyệt" trong "Nhật kí trong tù" theo ý của nhiều độc giả là một trong những bài thơ có "tinh thần thép" mà không hề "nói chuyện thép", "lên giọng thép".
Ngắm trăng
"Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ".
(Nam Trân dịch)
Hai câu 1, 2 ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện, vốn là thi sĩ đang sống trong một nghịch cảnh: chân tay bị cùm trói, nằm trong ngục đầy muỗi rệp, bên ngoài cửa ngục là cảnh đêm thu rất đẹp. Người tù lấy làm liếc không có rượu ngon, hoa thơm để ngắm cảnh. Lòng Bác bối rối, xúc động vô cùng.
Trăng, hoa, rượu là ba thú vui tao nhã của khách tài tử xưa nay. "Đêm nay" trong tù, Bác thiếu hẳn rượu và hoa để thưởng trăng. Nhưng lòng Bác vẫn dạt dào cảm xúc. Câu thơ nói lên nỗi niềm băn khoăn, bối rối của Bác:
"Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ".
Sự tự ý thức về cảnh ngộ ấy đã làm cho tư thế ngắm trăng của người tù một ý nghĩa sâu sắc hơn các cuộc ngắm trăng, thưởng trăng thường tình. Chẳng phải "Vọng nguyệt hoài viễn" hay "Xuân giang hoa nguyệt dạ". "Đăng sơn vọng nguyệt" v.v... như người xưa. Ở đây qua song sắt nhà tù, Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người thả hồn mình theo mảnh trăng thu vời vợi. Ngắm trăng với tất cả tâm hồn và tâm thế "vượt ngục” đích thực. Song sắt nhà tù không thể nào giam hãm được tinh thần người tù có bản lĩnh phi thường như Bác:
"Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ".
Từ chốn tối tăm, chết chóc ngục tù, Bác hướng tới vầng trăng, hướng tới ánh sáng, làm đẹp tâm hồn mình. Song sắt nhà tù không thể nào ngăn cách được người tù và vầng trăng có nét mặt, có ánh mắt, có tâm tư. Cái nhìn của trăng là cái nhìn của tri âm, tri kỉ. Trăng được nhân hóa, từ viễn xứ lọt qua song sắt nhà tù đến thăm nhà thơ: "Nguyệt tòng song khích thi ". Trăng lặng lẽ ngắm nhà thơ mà ái ngại cam động.
Cầu trúc câu thơ đăng đối, cân xứng hài hòa diễn tả cảnh "đối diện đùm tăm" giữa trăng với nhà thơ:
"Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tong song khích khan thi gia”
Ta thấy: "nhân- nguyệt" rồi lại "nguyệt - thi gia" ở hai đầu câu thơ, còn cái song sắt nhà tù thì chắn lạnh ở giữa. Trăng và tù nhân nhìn nhau, tâm sự với nhau qua cái song sắt nhà ngục. Khoảnh khắc giao cảm giữa thiên nhiên và con người đem đến một sự biến đổi kì diệu: tù nhân trở thành thi gia. Lời thơ đẹp, hồn nhiên, ý vị. Đúng là ý tại ngôn ngoại "Vọng nguyệt" thể hiện một tư thế ngắm trăng rất đẹp và hiếm có xưa nay. Tư thế ấy là phong thái ung dung tự tại, tinh thần lạc quan yêu đời, là tình yêu tự do và yêu thiên nhiên của người chiến sĩ vĩ đại.
"Vọng nguyệt" là một trong những bài thơ trăng tuyệt bút của nhà thơ Hồ Chí Minh. Bác không hề "nói đến thép", "lên giọng thép" mà vạn sáng ngời chất thép. Trong cảnh khổ ải tù đày, Bác vẫn thảnh thơi, ung dung ngắm trăng. Đó là nét vẽ làm rõ thêm nhân cách Hồ Chí Minh, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã ca ngợi:
"Ngục tối trái tim cùng cháy lửa
Xích xiềng không khóa nổi lời ca".
Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, là danh nhân văn hóa thế giới và còn là một nhà thơ lớn của dân tộc. Người đã đặt nền tảng cho thơ ca cách mạng vô sản Việt Nam. “nhật kí trong tù” là một tập thơ bằng chữ Hán đã được sáng tác từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu năm 1943, trên những chặng đường bị tù đày từ tây nam lên đông bắc Tỉnh Quảng Tây khi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Qua nhiều nhà giam nhưng gong cùm của kẻ thù không giam được tinh thần và nghị lực phi thường của Người. Ngay trang đầu của nhật kí đã khẳng định:
“Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao;
Muốn nên sựu nghiệp lớn,
Tinh thần phải càng cao”
Ý chí và nghị lực cao cả ấy được thể hiện rất rõ qua cuộc đời và thơ ca của Bác. Trước hết trên đường chuyển lao gian khổ “năm mươi ba cây số một ngày” và cuộc sống “bốn tháng phi nhân loại”, Bác vẫn coi gian khổ là điều kiện rèn luyện tinh thần. Chính điều này khiến Bác vượt qua tất cả:
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.
Ngục tù đày đọa, trói buộc thân xác nhưng tinh thần Bác vẫn vượt qua ra khỏi sự trói buộc ấy để hòa mình cùng cuộc sống của nhân dân.
Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình
Làng xóm ven sông đông đúc thế
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh…
Thậm chí, trên những chặng đường chuyển lao xa xôi, nhọc nhằn, Bác đã quên đi những nổi đau thể xác để tâm hồn giao hòa với thiên nhiên.
Mặc dù bị trói chân tay,
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng;
Vui say ai cấm ta đừng,
Đường xa âu cũng bớt chừng quạnh hiu.
(trên đường đi)
Trước gian khổ của cảnh tù đày, Bác không hề nao núng, Bác vẫn thản nhiên rút ra bài học kiên trì từ tiếng giã gạo:
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công.
(nghe tiếng giã gạo)
Phải có một nghị lực phi thường, một ý chí kiên định, một trí tuệ sáng suốt thì Bác mới có nhận định:
Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
(đi đường)
Và Bác đã thay thế bao nhiêu đau khổ, bệnh tật thành bấy nhiêu hành động cách mạng. Trên bước đường lưu đày gian khổ, gió lạnh sương sớm không làm nao núng tinh thần, Bác vẫn sẵn sàng đương đầu với thửu thách với tinh thần làm chủ bản thân, làm chủ hoàn cảnh:
Người đi cất bước trên đường thẳm
Rát mặt đêm thu trận gió hàn.
Suốt “Mười bốn trăng tê tái gông cùm” trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, Bác vẫn kiên cường chịu đựng mọi thử thách với một tâm hồn, một trái tim vĩ đại tỏa sáng. ‘Nhật kí trong tù” là thể hiện tinh thần ở ngoài lao giống như Bác khẳng định.
Thơ văn, cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người luôn là ngọn đuốc soi đường, là nguồn nghị lực cho những ai đang trong bước gian nan.
Đối tượng và mục đích sáng tác của bản Tuyên ngôn độc lập?
Câu trả lời của bạn
Hoàn cảnh ra đời:
- Ngày 19/8/1945 ,Cách mạng tháng Tám thành công ở Hà Nội.
- Ngày 26/8/1945 Bác Hồ từ chiến khu Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang Hà Nội, Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2/9/1945 Người đọc bản Tuyên ngôn Độc lập ở Quảng trường Ba Đình- Hà Nội trước 50 vạn dân thủ đô và các vùng lân cận khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.
- Cùng lúc này nhiều lực lượng thù địch đã và đang âm mưu xâm lược nước ta, đặc biệt là thực dân Pháp đang tìm mọi cách để quay trở lại Đông Dương...
Đối tượng : Nhân dân ta ( Hỡi đồng bào cả nước!) và thế giới đặc biệt là Anh, Pháp, Mĩ.
Mục đích : Tuyên bố nền độc lập của nước ta. Tranh luận nhằm bác bỏ luận điệu xảo trá của Thực dân Pháp
lập dàn ý cho đề bài chứng minh bác hồ là người có tình yêu thiên nhiên say đắm
Câu trả lời của bạn
Mở bài:
Bác Hồ có rất nhiều thú vui tao nhã: ngâm thơ, viết bài,… Nhưng trong số đấy, trồng cây là việc làm Bác yêu thích hơn cả vì thiên nhiên cũng là một phần tâm hồn Bác
Thân bài:
Bác Hồ rất yêu thiên nhiên, yêu cỏ cây hoa lá. Nhà thơ Tố Hữu đã khái quát chính xác phẩm chất này của Hồ Chí Minh - nhà nhân văn chủ nghĩa, trong câu thơ: “Yêu từng ngọn lúa mỗi nhành hoa”. Sinh thời có lần Bác đã từng nói Bác không tham danh vọng mà muốn sống hòa cùng thiên nhiên nơi có núi cao rừng biếc và làm bạn với các cụ phụ lão và các cháu thiếu niên nhi đồng. Thời gian rảnh rỗi, Bác vẫn sống như 1 người dân bình thường, hòa mình vào thiên nhiên “Việc quân việc nước đã bàn/ Xách bương dắt trẻ ra vườn tưới rau” Nơi Bác sống và làm việc luôn hòa trong thiên nhiên, cây cối, cỏ hoa. Nếu ai đã được đến thăm lăng Bác thì ta có thể thấy cây cối xung quanh rất xanh và đẹp. Bên dưới nhà sàn nơi Bác ở, cây cối cũng um tùm tươi tốt. Chung quanh đâu đâu cũng là một màu xanh lá thể hiện được bao yêu thương Bác dành cho cỏ cây.
Chính Bác đã nhờ 1 đồng chí cuộn tròn trước rễ đa đã lìa khỏi cành và chôn xuống đất. Ít lâu sau, chiếc rễ đa đã bám rễ và phát triển rất tốt. Và có một sự kỳ thú là đoàn thiếu nhi nào vào thăm vườn Bác, không ai bảo ai, bạn nào cũng thích chơi chui qua chui lại chiếc rễ đa mọc thành hình tròn xinh xẻo kia. Bác chẳng những yêu thiếu nhi mà còn yêu cà chiếc rễ đa, không lỡ vứt nó đi. Bác yêu cây cỏ với tất cả tấm lòng. Bác gửi gắm nơi cây những hình ảnh đẹp đẽ nhất: Hoa râm bụt là một hình tượng về tấm lòng yêu nước của Bác. Cây vú sữa là một hình tượng của tấm lòng Bác luôn nhớ thương đồng bào Nam bộ. Năm 1955, đồng bào miền Nam gửi biếu Bác một cây vú sữa và một quả dừa. Cây vú sữa được Bác trồng giữa bờ ao cạnh ngôi nhà Bác ở đầu tiên trong Phủ Chủ tịch. Ngày ngày, tuy bận trăm công nghìn việc của Chủ tịch nước, nhưng trước giờ làm việc buổi sáng hay sau giờ làm việc buổi chiều, Bác Hồ đều chăm sóc tưới cho cây vú sữa.
Nhìn vào Bác, chúng ta có thể hiểu cây cối chính là người bạn chân tình của Bác và của cả chúng ta.
Kết bài:
Bác đã yêu thiên nhiên như yêu chính bản thân mình. Cũng vì vậy, chúng ta phải biết giữ gìn cây cối, bảo vệ môi trường vì Bác và vì chúng ta.
A, Mở bài
Ở Hồ Chí Minh, thơ văn chính là con người Bác vậy. Qua thơ văn của Bác một người có tâm hồn thi sĩ, ta thấy con người Bác. Điều này được bộc lộ rõ trong thơ của Người, cho dù thơ ấy viết về con người hay thiên nhiên. Qua các bài thơ Chiều tối, Giải đì sớm, Mới ra tùy tập leo núi ta thấy thiên nhiên trong thơ Bác đã phản ánh tâm hồn lớn của nhà thơ Hồ Chí Minh.
B, Thân bài
1, Thế nào là tâm hồn lớn trước thiên nhiên?
– Tâm hồn lớn truowsv thiên nhiên đó trước thiên nhiên, trước hết phải là người yêu thiên nhiên say đắm, giao hòa cùng thiên nhiên cảnh vật như đối với những người tri âm, tri kỉ. Sau nữa, phải nhìn thiên nhiên bằng con mắt lạc quan, yêu đời, bằng một tấm lòng thương yêu, trân trọng.
Những điều này Bác đều có, và lại có ở mức độ cao và đẹp đẽ khiến cho khi tiếp xúc với thiên nhiên trong thơ Bác, chúng ta thường ngạc nhiên và khâm phục trước cái ánh sáng kì diệu của tâm hồn lớn ấy.
2, Tâm hồn lớn của Bác qua thiên nhiên trong ba bài thơ:
a) Bác Hồ là người yêu thiên nhiên say đắm và giao hòa cùng thiên nhiên cảnh vặt:
– Chiều tối: Lưu luyến nhìn theo một cánh chim bay về rừng và một chòm mây trôi trên bầu trời và tìm thấy tâm trạng của mình trong đó (dẫn chứng).
– Giải di sớm: Giữa đêm tối mịt mùng trong cảnh tù đày khắc nghiệt, vẫn không thể bỏ qua một “chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn”, để rồi sau đó, hồn thơ lai láng tràn đầy trước cảnh bình minh rực hồng, thời tiết ấm áp (dẫn chứng).
Mới ra tù, tập leo núi: Bức tranh sơn thủy hữu tình đẹp như trong tranh thủy mạc là bằng chứng của một tình yêu thiên nhiên sâu sắc và đắm say (dẫn chứng).
b) Bác nhìn thiên nhiên bằng con mắt lạc quan yêu đời! Bằng một tấm lòng thương yêu trân trọng’.
– Chiều tối: Thi phẩm đã mang lại sự thông cảm sâu sắc với cánh chim mỏi bay về trời và chòm mây cô đơn đang trôi chầm chậm trên bầu trời. Trong sự thông cảm này dường như có cá sự chia sẻ chia – có cả nỗi lòng của Bác (mặc dù hoàn cảnh của Bác lúc bày giờ thật gian khổ, mệt mỏi, cô đơn và buồn bã).
– Giải di sớm: Bác thấy như trăng sao đang cùng lên đường với mình, và như vậy, người tù không hề cô đơn. Bác nhìn thẳng vào đêm tối “ gió lạnh – đường xa, nhì thắng vào khổ khăn đế bình tinh chủ động dấn bước. Vồ dưới mắt người tù “ chiên sĩ – thi sĩ ấy thì buổi bình minh của thời tiết đã có khí thế như buổi bình minh của thời đại (dẫn chứng).
– Mới ra tù, tập leo núi: cảnh đẹp nhưng không vắng vẻ quạnh hiu như trong thơ xưa, mà ấm áp (núi ấp ôm mây, mây ấp núi) và trong sáng (lòng sông gương sáng bụi không mờ). Con người như đã hài hòa vào với thiên nhiên hùng vĩ, giao hòa tuyệt đẹp trong cảnh trời mây non nước bao la khoáng đạt, trở thành trung tâm của bức tranh thiên nhiên, bởi Bác là chiến sĩ chứ không phải ẩn sĩ (dẫn chứng).
C, Kết bài
Thiên nhiên trong thơ Bác dù là thơ ở trong ngục tù hay trên đường giải tù – bao giờ cũng là một thiên nhiên đẹp và chất chứa đầy sức sống bởi chính tâm hồn lớn của Bác đã tỏa ánh sáng vào thiên nhiên cảnh vật khiến cho “thiên nhiên trong thơ Bác thường chan chứa một niềm vui lớn” như Hoài Thanh cũng đã từng nhận xét.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *