Bài học Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi giúp các em hiểu được hiện thực đau thương, đầy hi sinh gian khổ nhưng rất đỗi anh dũng, kiên cường, bất khuất của nhân dân miền Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước...Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ, nắm những nét đặc sắc về nghệ thuật của truyện ngắn Những đứa con trong gia đình. Thông qua video bài giảng và bài học, DapAnHay chúc các em có thêm nhiều tiết học hấp dẫn và hiệu quả hơn tại lớp.
⇒ Nhà văn có điều kiện nhập sâu vào thế giới nội tâm nhân vật để dẫn dắt câu chuyện.
⇒ truyền thống gia đình trong mối quan hệ với truyền thống Cách mạng, dân tộc tạo nên 1 dòng sông truyền thống.
⇒ Mỗi con người trong gia đình là một khúc sông trong dòng sông truyền thống. Mỗi khúc sông có một đặc điểm riêng nhưng họ vẫn hướng về tô đậm hơn, phát huy hơn truyền thống gia đình gắn chặt trong mối tình đất nước thời kháng chiến chống Mỹ.
Phân tích nhân vật Việt trong đoạn trích “Những đứa con trong gia đình” – Nguyễn Thi.
=> Việt là người giàu tình cảm.
⇒ Với 2 phẩm chất trên Việt toát lên vẻ đẹp đời thường.
⇒ Việt là chiến sĩ trẻ tuổi nhưng anh hùng.
Gợi ý làm bài
Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông được mọi người gọi với cái tên rất gần gũi “Nhà văn của người dân Nam Bộ”. Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm gắn liền với tên tuổi của ông. Trong những tác phẩm đặt sắc ấy nổi lên truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” (Năm 1978). Để nắm được những nội dung kiến thức cần đạt khi học văn bản này, các em có thể tham khảo thêm bài soạn Những đứa con trong gia đình.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Truyện Những đứa con trong gia đình viết về những ngày chiến đấu gian khổ, khó khăn của chiền trường miền Nam. Qua đó, người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ: tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước trong cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt dưới ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Thi. Để cảm nhận được những điều ấy cũng như dễ định hướng khi viết bài văn viết về tác phẩm này, các em có thể tham khảo thêm những bài văn mẫu dưới đây:
- So sánh hai nhân vật Chiến và Việt trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi
- So sánh chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình
- Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi
- Đặc sắc nghệ thuật trong Những đứa con trong gia đình
- Phân tích nhân vật Việt trong Những đứa con trong gia đình
- Phân tích nhân vật Chiến trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi
- Có một dòng sông truyền thống liên tục chảy trong Những đứa con trong gia đình
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Ý nghĩa nhan đề Những đứa con trong gia đình?
Câu trả lời của bạn
Ý nghĩa nhan đề:
Chủ đề: Truyện về những con người trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hương cách mạng. Chính sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Vẻ đẹp con người Nam bộ trong kháng chiến chống Mỹ qua tác phẩm Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi?
Câu trả lời của bạn
Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không khí của những ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng. Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình lớn cách mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con người Nam Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương, trung thành với cách mạng.
Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của anh tân binh Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm gia đình – quê hương – cách mạng. Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều. Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai. Chính những nét tiêu biểu đó đã góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quí của những con người quê hương Nam bộ giàu lòng yêu nước, căm thù giặc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về một thời đại hào hùng và giá trị nhân bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Những nhân vật trong gia đình được giới thiệu gắn với hình ảnh thân thương của quê hương và những kỷ niệm cụ thể thời thơ ấu dữ dội của anh tân binh Việt. Chiến đấu giữa bầy giặc Mỹ, bị thương, lạc đồng đội, người chiến sĩ ấy giữa cơn mê tỉnh chập chờn đã nhớ về những hình ảnh thân thương nhất từ thời ấu thơ. Dường như đó chính là nguồn sức mạnh giúp anh vượt qua cái chết tìm về sự sống, tìm về đồng đội. Những con người trong gia đình Việt gắn với hồi ức thiêng liêng và cảm động làm sống dậy cả một quá khứ yêu thương và căm thù: chị Chiến, má, chú Năm. Hiểu theo một nghĩa rộng, đó cũng là những đứa con trong gia đình lớn: cách mạng.
Tất cả những con người ấy cùng giống nhau ở lòng căm thù giặc sâu sắc, vì những tội ác mà chúng đã gây ra với người thân trong gia đình. Gắn bó với mảnh đất quê hương, những con người ấy còn giàu tình nghĩa, trung thành với cách mạng bởi cách mạng đã đem lại cho họ sự đổi đời thật sự. Dường như anh chiến sĩ Việt đã thừa hưởng được từ thế hệ đi trước, chú Năm và má, hành động dũng cảm gan góc và lòng say mê khao khát được đánh giặc. Trong các nhân vật được tái hiện, chú Năm và má được khắc hoạ với những nét riêng độc đáo.
Chú Năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phác, giàu cảm xúc mơ mộng nội tâm. Một người từng trải qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.Chất Nam bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu. Néy đặc biệt độc đáo ở người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầy đủ những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ, như minh chứng cho tấm lòng thuần hậu của ông. Đó còn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em Chiến và Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước.
Má của Chiến và Việt là hội tụ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nam bộ anh hùng trong kháng chiến. Những ấn tượng tác giả để lại đậm nét trong người đọc về nhân vật này là về tính gan góc từ khi còn là con gái. Người đàn bà hết lòng thương yêu chồng con ấy đã phải trải qua thời khắc dữ dội khi kẻ thù chặt đầu chồng, nhưng má đã vượt lên đau thương để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành. Hình ảnh người mẹ ấy đối mặt với họng súng quân thù như gà mẹ xoè cánh che chở đàn con, khiến kẻ thù phải run sợ trước đôi mắt của người vượt sông vuợt biển. Nuôi con và cả con của đồng chí, má là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu tranh, với đức hy sinh vô bờ bến lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong giọt nước mắt lặng lẽ kín đáo. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy là tình yêu lớn lao, ý chí bất khuất kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng sống vì cách mạng.
Hai chị em Chiến và Việt đã được thừa hưởng tất cả những vẻ đẹp của thế hệ đi trước, tính cách được tạo nên từ truyền thống gia đình, từ hoàn cảnh đặc trưng: thương cha má, cùng chung lo toan công việc cách mạng, giàu tình nghĩa với quê hương. Không phải ngẫu nhiên hai chị em đã cùng xung phong tòng quân một ngày, để trả mối thù cha bị chặt đầu, má bị trái cà nông quân thù sát hại. Trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến đấu, biết căm thù cũng là một phẩm chất cần thiết, bởi căm thù giặc tàn phá quê hương, sát hại người thân cũng là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với quê hương, gia đình! Bởi vậy đêm tòng quân không chỉ có hai chị em tranh nhau ghi tên mà thanh niên trong xã ghi tên tòng quân cũng rất đông. Hành động của hai chị em có sự đồng tình của chú Năm, như một điểm nhấn hành động này hoàn toàn không phải là tự phát mà gắn với ý thức giác ngộ của tuổi trẻ trên quê hương đau thương và anh dũng.
Kí ức của Việt gắn với hình ảnh của chị Chiến, với kỷ niệm tuổi thơ trong trẻo của hai chị em. Người con gái ấy có cá tính riêng, có những nét giống má, gan góc, chăm chỉ, đảm đang tháo vát. Hai chị em kề tuổi nên có lúc còn rất trẻ con, nhưng bao giờ trong những lần cãi vã thì chị cũng nhường em. Đến khi tham gia công việc cách mạng, Chiến tỏ ra chín chắn hơn Việt. Những mất mát đau thương đã khiến cô gái ấy sớm trưởng thành, nhưng không hề làm chai sạn tâm hồn giàu nữ tính. Lúc nào Chiến cũng có cái gương nhỏ, như những người con gái mới lớn nào cũng thích làm duyên. Câu chuyện của hai chị em trước đêm tòng quân đã chứng tỏ khả năng quán xuyến, thay thế vai trò của mẹ để chăm em, khiến cho bản thân cậu em thân thiết phải ngạc nhiên vì chứng kiến một chị Chiến giống in như má, răm rắp nghe theo sự cắt đặt của chị.
Một trong những tình tiết truyện tạo được xúc động mạnh cho người đọc là hình ảnh hai chị em trước đêm tòng quân khiêng bàn thờ má qua gửi chú Năm. Hai chị em đã làm cho người chú phải ngạc nhiên vì sự trưởng thành trước tuổi. Đó là chi tiết cho thấy những đứa con trong gia đình cách mạng này đã ý thức rõ chỉ có lên đường diệt giặc mới trả được mối thù giặc Mỹ đè nặng hai vai. Việc nhà việc nước vẹn toàn, lời động viên của chú Năm dành cho hai chị em đã thể hiện niềm tin tưởng vào thế hệ trẻ thời chống Mỹ.
Xuyên suốt mạch truyện là dòng hồi ức của Việt, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Người chiến sĩ ấy vốn là đứa trẻ gan dạ từng chứng kiến cảnh kẻ thù quăng đầu cha mà xông tới nhằm thằng liệng đầu mà đá. Được dìu dắt từ ấu thơ, Việt cũng đã biết làm cảnh giới, chiếc ná cao su thành vật báo hiệu khi có động. Bản tính hồn nhiên của một cậu bé mới lớn thể hiện ra ở sự hiếu thắng, lúc nào cũng giành phần hơn, nhưng từ sâu thẳm là tình cảm yêu thương những người ruột thịt, tự hào với truyền thống quê hương. Những lần ngất đi tỉnh lại của Việt giữa bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc đã giúp anh có thêm sức mạnh tình thương vượt lên cái chết để trở về đội ngũ. Nguyễn Thi đã thành công khi không miêu tả vào những chiến công của anh chiến sĩ mà đã chỉ ra cho người đọc vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người cầm súng. Vẻ đẹp ấy là hội tụ của ý chí, quyết tâm và trên hết là tình thương yêu sự gắn gó với người thân và sau này là tình cảm chan hoà thân ái giữa cậu Tư với đồng chí đồng đội như trong một nhà.
Tác phẩm thành công khi đã đem lại cho người đọc sự hình dung về mảnh đất Nam Bộ anh dũng và đau thương trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Đặc biệt, bằng sự am hiểu sâu sắc bản chất của người dân Nam Bộ yêu nước, tác giả đã dựng nên những con người vừa bình thường giản dị nhưng lại có vẻ đẹp, tầm vóc phi thường của con người thời đại chống Mỹ cứu nước. Giọng kể chuyện giản dị, xây dựng đối thoại tự nhiên và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc đã để lại ấn tượng khó quên về những đứa con trong gia đình cách mạng. Đồng thời còn phát hiện sâu sắc về sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến đấu. Vẻ đẹp ấy kết tinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm gương cho thế hệ sau noi theo.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong Những đứa con trong gia đình Nguyễn Thi?
Câu trả lời của bạn
Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không khí của những ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng. Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình lớn cách mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con người Nam Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương, trung thành với cách mạng.
Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của anh tân binh Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm gia đình – quê hương – cách mạng. Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều. Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai. Chính những nét tiêu biểu đó đã góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quí của những con người quê hương Nam bộ giàu lòng yêu nước, căm thù giặc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về một thời đại hào hùng và giá trị nhân bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Những nhân vật trong gia đình được giới thiệu gắn với hình ảnh thân thương của quê hương và những kỷ niệm cụ thể thời thơ ấu dữ dội của anh tân binh Việt. Chiến đấu giữa bầy giặc Mỹ, bị thương, lạc đồng đội, người chiến sĩ ấy giữa cơn mê tỉnh chập chờn đã nhớ về những hình ảnh thân thương nhất từ thời ấu thơ. Dường như đó chính là nguồn sức mạnh giúp anh vượt qua cái chết tìm về sự sống, tìm về đồng đội. Những con người trong gia đình Việt gắn với hồi ức thiêng liêng và cảm động làm sống dậy cả một quá khứ yêu thương và căm thù: chị Chiến, má, chú Năm. Hiểu theo một nghĩa rộng, đó cũng là những đứa con trong gia đình lớn: cách mạng.
Tất cả những con người ấy cùng giống nhau ở lòng căm thù giặc sâu sắc, vì những tội ác mà chúng đã gây ra với người thân trong gia đình. Gắn bó với mảnh đất quê hương, những con người ấy còn giàu tình nghĩa, trung thành với cách mạng bởi cách mạng đã đem lại cho họ sự đổi đời thật sự. Dường như anh chiến sĩ Việt đã thừa hưởng được từ thế hệ đi trước, chú Năm và má, hành động dũng cảm gan góc và lòng say mê khao khát được đánh giặc. Trong các nhân vật được tái hiện, chú Năm và má được khắc hoạ với những nét riêng độc đáo.
Chú Năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phác, giàu cảm xúc mơ mộng nội tâm. Một người từng trải qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.Chất Nam bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu. Néy đặc biệt độc đáo ở người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầy đủ những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ, như minh chứng cho tấm lòng thuần hậu của ông. Đoócòn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em Chiến và Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước.
Hai chị em Chiến và Việt đã được thừa hưởng tất cả những vẻ đẹp của thế hệ đi trước, tính cách được tạo nên từ truyền thống gia đình, từ hoàn cảnh đặc trưng: thương cha má, cùng chung lo toan công việc cách mạng, giàu tình nghĩa với quê hương. Không phải ngẫu nhiên hai chị em đã cùng xung phong tòng quân một ngày, để trả mối thù cha bị chặt đầu, má bị trái cà nông quân thù sát hại. Trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến đấu, biết căm thù cũng là một phẩm chất cần thiết, bởi căm thù giặc tàn phá quê hương, sát hại người thân cũng là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với quê hương, gia đình! Bởi vậy đêm tòng quân không chỉ có hai chị em tranh nhau ghi tên mà thanh niên trong xã ghi tên tòng quân cũng rất đông. Hành động của hai chị em có sự đồng tình của chú Năm, như một điểm nhấn hành động này hoàn toàn không phải là tự phát mà gắn với ý thức giác ngộ của tuổi trẻ trên quê hương đau thương và anh dũng.
Kí ức của Việt gắn với hình ảnh của chị Chiến, với kỷ niệm tuổi thơ trong trẻo của hai chị em. Người con gái ấy có cá tính riêng, có những nét giống má, gan góc, chăm chỉ, đảm đang tháo vát. Hai chị em kề tuổi nên có lúc còn rất trẻ con, nhưng bao giờ trong những lần cãi vã thì chị cũng nhường em. Đến khi tham gia công việc cách mạng, Chiến tỏ ra chín chắn hơn Việt. Những mất mát đau thương đã khiến cô gái ấy sớm trưởng thành, nhưng không hề làm chai sạn tâm hồn giàu nữ tính. Lúc nào Chiến cũng có cái gương nhỏ, như những người con gái mới lớn nào cũng thích làm duyên. Câu chuyện của hai chị em trước đêm tòng quân đã chứng tỏ khả năng quán xuyến, thay thế vai trò của mẹ để chăm em, khiến cho bản thân cậu em thân thiết phải ngạc nhiên vì chứng kiến một chị Chiến giống in như má, răm rắp nghe theo sự cắt đặt của chị.
Một trong những tình tiết truyện tạo được xúc động mạnh cho người đọc là hình ảnh hai chị em trước đêm tòng quân khiêng bàn thờ má qua gửi chú Năm. Hai chị em đã làm cho người chú phải ngạc nhiên vì sự trưởng thành trước tuổi. Đó là chi tiết cho thấy những đứa con trong gia đình cách mạng này đã ý thức rõ chỉ có lên đường diệt giặc mới trả được mối thù giặc Mỹ đè nặng hai vai. Việc nhà việc nước vẹn toàn, lời động viên của chú Năm dành cho hai chị em đã thể hiện niềm tin tưởng vào thế hệ trẻ thời chống Mỹ.
Xuyên suốt mạch truyện là dòng hồi ức của Việt, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Người chiến sĩ ấy vốn là đứa trẻ gan dạ từng chứng kiến cảnh kẻ thù quăng đầu cha mà xông tới nhằm thằng liệng đầu mà đá. Được dìu dắt từ ấu thơ, Việt cũng đã biết làm cảnh giới, chiếc ná cao su thành vật báo hiệu khi có động. Bản tính hồn nhiên của một cậu bé mới lớn thể hiện ra ở sự hiếu thắng, lúc nào cũng giành phần hơn, nhưng từ sâu thẳm là tình cảm yêu thương những người ruột thịt, tự hào với truyền thống quê hương. Những lần ngất đi tỉnh lại của Việt giữa bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc đã giúp anh có thêm sức mạnh tình thương vượt lên cái chết để trở về đội ngũ. Nguyễn Thi đã thành công khi không miêu tả vào những chiến công của anh chiến sĩ mà đã chỉ ra cho người đọc vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người cầm súng. Vẻ đẹp ấy là hội tụ của ý chí, quyết tâm và trên hết là tình thương yêu sự gắn gó với người thân và sau này là tình cảm chan hoà thân ái giữa cậu Tư với đồng chí đồng đội như trong một nhà.
Tác phẩm thành công khi đã đem lại cho người đọc sự hình dung về mảnh đất Nam Bộ anh dũng và đau thương trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Đặc biệt, bằng sự am hiểu sâu sắc bản chất của người dân Nam Bộ yêu nước, tác giả đã dựng nên những con người vừa bình thường giản dị nhưng lại có vẻ đẹp, tầm vóc phi thường của con người thời đại chống Mỹ cứu nước. Giọng kể chuyện giản dị, xây dựng đối thoại tự nhiên và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc đã để lại ấn tượng khó quên về những đứa con trong gia đình cách mạng. Đồng thời còn phát hiện sâu sắc về sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến đấu. Vẻ đẹp ấy kết tinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm gương cho thế hệ sau noi theo.
Ý nghĩa cuốn sổ gia đình?
Câu trả lời của bạn
Chú Năm viết chữ không đẹp vì mới thoát nạn mù chữ. Nhưng với cuốn sổ gia đình, chú không ghi qua loa mà rất cụ thể: “thím Năm chèo xuồng đi rọc lá chuối bị đại bác bắn bể xuồng, khi chết còn mặc cái quần mới, trong túi có hai đồng bạc”, bà nội bị lính Tổng phòng bắt, vết đạn bắn thằng giặc trên sông Định Thủy của Chiến và Việt,…Cuốn sổ gia đình ấy đã ghi dấu lại truyền thống yêu nước của gia đình qua các thế hệ. Nó là niềm tự hào về truyền thống kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm của một gia đình Nam Bộ. Nhưng bên cạnh đó, nó còn là bản án ghi lại rành rành tội ác của kẻ thù. Để những thế hệ đi sau mỗi khi đọc lại vẫn còn cảm nhận được máu và nước mắt đang nóng hổi trên từng trang giấy mà khắc sâu lòng căm thù và quyết tâm trả thù.
Phân tích nhân vật Việt và Chiến trong Những đứa con trong gia đình?
Câu trả lời của bạn
Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không khí của những ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng. Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình lớn cách mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con người Nam Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương, trung thành với cách mạng.
Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của anh tân binh Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm gia đình – quê hương – cách mạng. Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều. Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai. Chính những nét tiêu biểu đó đã góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quí của những con người quê hương Nam bộ giàu lòng yêu nước, căm thù giặc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về một thời đại hào hùng và giá trị nhân bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Những nhân vật trong gia đình được giới thiệu gắn với hình ảnh thân thương của quê hương và những kỷ niệm cụ thể thời thơ ấu dữ dội của anh tân binh Việt. Chiến đấu giữa bầy giặc Mỹ, bị thương, lạc đồng đội, người chiến sĩ ấy giữa cơn mê tỉnh chập chờn đã nhớ về những hình ảnh thân thương nhất từ thời ấu thơ. Dường như đó chính là nguồn sức mạnh giúp anh vượt qua cái chết tìm về sự sống, tìm về đồng đội. Những con người trong gia đình Việt gắn với hồi ức thiêng liêng và cảm động làm sống dậy cả một quá khứ yêu thương và căm thù: chị Chiến, má, chú Năm. Hiểu theo một nghĩa rộng, đó cũng là những đứa con trong gia đình lớn: cách mạng.
Tất cả những con người ấy cùng giống nhau ở lòng căm thù giặc sâu sắc, vì những tội ác mà chúng đã gây ra với người thân trong gia đình. Gắn bó với mảnh đất quê hương, những con người ấy còn giàu tình nghĩa, trung thành với cách mạng bởi cách mạng đã đem lại cho họ sự đổi đời thật sự. Dường như anh chiến sĩ Việt đã thừa hưởng được từ thế hệ đi trước, chú Năm và má, hành động dũng cảm gan góc và lòng say mê khao khát được đánh giặc. Trong các nhân vật được tái hiện, chú Năm và má được khắc hoạ với những nét riêng độc đáo.
Chú Năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phác, giàu cảm xúc mơ mộng nội tâm. Một người từng trải qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.Chất Nam bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu. Nét đặc biệt độc đáo ở người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầy đủ những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ, như minh chứng cho tấm lòng thuần hậu của ông. Đoócòn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em Chiến và Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước.
Má của Chiến và Việt là hội tụ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nam bộ anh hùng trong kháng chiến. Những ấn tượng tác giả để lại đậm nét trong người đọc về nhân vật này là về tính gan góc từ khi còn là con gái. Người đàn bà hết lòng thương yêu chồng con ấy đã phải trải qua thời khắc dữ dội khi kẻ thù chặt đầu chồng, nhưng má đã vượt lên đau thương để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành. Hình ảnh người mẹ ấy đối mặt với họng súng quân thù như gà mẹ xoè cánh che chở đàn con, khiến kẻ thù phải run sợ trước đôi mắt của người vượt sông vượt biển. Nuôi con và cả con của đồng chí, má là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu tranh, với đức hy sinh vô bờ bến lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong giọt nước mắt lặng lẽ kín đáo. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy là tình yêu lớn lao, ý chí bất khuất kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng sống vì cách mạng.
Hai chị em Chiến và Việt đã được thừa hưởng tất cả những vẻ đẹp của thế hệ đi trước, tính cách được tạo nên từ truyền thống gia đình, từ hoàn cảnh đặc trưng: thương cha má, cùng chung lo toan công việc cách mạng, giàu tình nghĩa với quê hương. Không phải ngẫu nhiên hai chị em đã cùng xung phong tòng quân một ngày, để trả mối thù cha bị chặt đầu, má bị trái cà nông quân thù sát hại. Trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến đấu, biết căm thù cũng là một phẩm chất cần thiết, bởi căm thù giặc tàn phá quê hương, sát hại người thân cũng là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với quê hương, gia đình! Bởi vậy đêm tòng quân không chỉ có hai chị em tranh nhau ghi tên mà thanh niên trong xã ghi tên tòng quân cũng rất đông. Hành động của hai chị em có sự đồng tình của chú Năm, như một điểm nhấn hành động này hoàn toàn không phải là tự phát mà gắn với ý thức giác ngộ của tuổi trẻ trên quê hương đau thương và anh dũng.
Kí ức của Việt gắn với hình ảnh của chị Chiến, với kỷ niệm tuổi thơ trong trẻo của hai chị em. Người con gái ấy có cá tính riêng, có những nét giống má, gan góc, chăm chỉ, đảm đang tháo vát. Hai chị em kề tuổi nên có lúc còn rất trẻ con, nhưng bao giờ trong những lần cãi vã thì chị cũng nhường em. Đến khi tham gia công việc cách mạng, Chiến tỏ ra chín chắn hơn Việt. Những mất mát đau thương đã khiến cô gái ấy sớm trưởng thành, nhưng không hề làm chai sạn tâm hồn giàu nữ tính. Lúc nào Chiến cũng có cái gương nhỏ, như những người con gái mới lớn nào cũng thích làm duyên. Câu chuyện của hai chị em trước đêm tòng quân đã chứng tỏ khả năng quán xuyến, thay thế vai trò của mẹ để chăm em, khiến cho bản thân cậu em thân thiết phải ngạc nhiên vì chứng kiến một chị Chiến giống in như má, răm rắp nghe theo sự cắt đặt của chị.
Một trong những tình tiết truyện tạo được xúc động mạnh cho người đọc là hình ảnh hai chị em trước đêm tòng quân khiêng bàn thờ má qua gửi chú Năm. Hai chị em đã làm cho người chú phải ngạc nhiên vì sự trưởng thành trước tuổi. Đó là chi tiết cho thấy những đứa con trong gia đình cách mạng này đã ý thức rõ chỉ có lên đường diệt giặc mới trả được mối thù giặc Mỹ đè nặng hai vai. Việc nhà việc nước vẹn toàn, lời động viên của chú Năm dành cho hai chị em đã thể hiện niềm tin tưởng vào thế hệ trẻ thời chống Mỹ.
Xuyên suốt mạch truyện là dòng hồi ức của Việt, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Người chiến sĩ ấy vốn là đứa trẻ gan dạ từng chứng kiến cảnh kẻ thù quăng đầu cha mà xông tới nhằm thằng liệng đầu mà đá. Được dìu dắt từ ấu thơ, Việt cũng đã biết làm cảnh giới, chiếc ná cao su thành vật báo hiệu khi có động. Bản tính hồn nhiên của một cậu bé mới lớn thể hiện ra ở sự hiếu thắng, lúc nào cũng giành phần hơn, nhưng từ sâu thẳm là tình cảm yêu thương những người ruột thịt, tự hào với truyền thống quê hương. Những lần ngất đi tỉnh lại của Việt giữa bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc đã giúp anh có thêm sức mạnh tình thương vượt lên cái chết để trở về đội ngũ. Nguyễn Thi đã thành công khi không miêu tả vào những chiến công của anh chiến sĩ mà đã chỉ ra cho người đọc vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người cầm súng. Vẻ đẹp ấy là hội tụ của ý chí, quyết tâm và trên hết là tình thương yêu sự gắn bó với người thân và sau này là tình cảm chan hoà thân ái giữa cậu Tư với đồng chí đồng đội như trong một nhà.
Tác phẩm thành công khi đã đem lại cho người đọc sự hình dung về mảnh đất Nam Bộ anh dũng và đau thương trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Đạc biệt, bằng sự am hiểu sâu sắc bản chất của người dân Nam Bộ yêu nước, tác giả đã dựng nên những con người vừa bình thường giản dị nhưng lại có vẻ đẹp, tầm vóc phi thường của con người thời đại chống Mỹ cứu nước. Giọng kể chuyện giản dị, xây dựng đối thoại tự nhiên và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc đã để lại ấn tượng khó quên về những đứa con trong gia đình cách mạng. Đồng thời còn phát hiện sâu sắc về sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến đấu. Vẻ đẹp ấy kết tinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm gương cho thế hệ sau noi theo.
Ý kiến của anh (chị) về vấn đề: “Trong thiên truyện của Nguyễn Thi quả đã có 1 dòng sông truyền thống liên tục chảy từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha, cho đến lớp người đi sau: chị em Chiến và Việt”.
Câu trả lời của bạn
Dòng sông của “Những đứa con trong gia đình” không chỉ là dòng sông “đẹp, lắm nước ngọt, nhiều phù sa” và sinh ra “vườn ruộng mát mẻ” mà còn là dòng sông của truyền thống gia đình liên tục chảy từ lớp người đi trước. Cũng như trăm con sông khác, con sông này cũng chảy ra biển, “mà biển thì rộng lắm, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”.
Trong thiên truyện của mình, Nguyễn Thi đã xây dựng nên một dòng sông chảy dài xuyên suốt. Đó là dòng sông của gia đình chị em Chiến Việt mà mỗi thế hệ là một “khúc” của dòng sông để rồi tất cả đều được ghi vào đó. “Những đứa con trong gia đình” là sự tiếp nối huyết thống từ bao đời, nhưng không dừng lại ở đây, mỗi thế hệ còn là cầu nối của truyền thồng vĩ đại – truyền thống chống giặc ngoại xâm từ tổ tiên, ông cha và cho đến đời của chị em Chiến Việt. Con sông ấy cứ chảy qua bao thế hệ mà chính chú Năm lại là kết tinh của “con sông truyền thống”. Từ lâu rồi, chú Năm gắn bó với vùng sông nước Bến Tre, mưu sinh từ những con sông, con nước. Nhưng bật lên trong con người chú là một tâm hồn nhơn nghĩa, đạo lí. Cái đạo lí của một “ông già Nam Bộ” chất phác, rạch ròi nhưng rất cảm động được thể hiện qua những ước vọng của chú: “…rán cho mau lớn. Chừng nào bay trọng trọng rồi tao giao cuốn sổ cho chị em bay”. Ước mong của chú là vậy, mong cho chị em Chiến Việt mau lớn để giao lại “cuốn sổ gia đình” cũng chính là cả con sông truyền thống. Ông già Nam bộ này còn răn đe: “… thù cha thù mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu…”. Lời răn yêu ấy cũng chính là tâm nguyện của chú gửi đến “khúc” hạ lưu của dòng sông với long yêu thương vô bờ. Chú Năm như một cuốn gia phả sống, ghi chép tất cả những câu chuyện của gia đình với những nét chữ “lọng cọng”. Những sự việc trong “cuốn sổ – truyền thống” chính là những nỗi đau và niềm tự hào của gia đình. Thật cảm động khi đọc những câu chuyện: “Thím Năm bơi xuồng rọc lá chuối bị cano Mỏ cày bắn bể xuồng… Ông nội nghe súng nổ, sợ bò đứt day ra năm giàm bò, bị lính Tổng phòng […] bắn giữa bụng… tía Việt bị lính Tây Kinh Ngang bắt chặt đầu…”. Những câu chuyện của gia đình xét cho cùng là bản tố cáo tội ác của bọn giặc Tây mà Nguyễn Thi gián tiếp viết ra.
Song song với hình ảnh chú Năm – ông già Nam Bộ với tính tình chấc phát, thiệt thà, luôn sống và hướng đến truyền thống, ta lại bắt gặp hình ảnh của mẹ Việt, người mẹ Nam Bộ và rất Nam Bộ. Mẹ Việt cũng là một khúc sông chảy cùng vị trí với “khúc sông chú Năm” trong con sông lớn của gia đình. Mẹ Việt hiện lên là người phụ nữ chịu thương, chịu khó sực mùi “lúa gạo và mùi mồ hôi” đến nỗi “lưng áo bà ba đẫm mồ hôi và đen lại”. Dường như mẹ Việt sinh ra là để nuôi con, để đánh giặc. Bản tính của người phụ nữ Nam Bộ đôi khi cọc cằn nhưng hiền dịu, gan lì với giặc nhưng lại hết mực chiều chuộng, yêu thương con cái của mình. Mẹ Việt còn “thừa hưởng” cái gọi là “dạn” từ ba Việt nữa. Chồng bị chặt đầu, mẹ Việt cắp rổ đi đòi, tay thì bế thằng Út và theo sau là lũ con nhỏ và “mỗi lần địch bắn đùng đùng trên đầu… lòng dạ đâu còn rảnh mà để sợ, mà khóc, chỉ thương con thôi”. Mẹ Việt yêu thương con hết mực, luôn chăm chút từng miếng ăn cho con cái đến cả những cách con làm cứ như phù sa sông bồi đắp vào bãi ngày này qua ngày nọ, năm này qua tháng nọ vậy. Với hình ảnh của mẹ Việt, ta dễ dàng liên tưởng đến nét kiên cường của chị Út Tịch (người mẹ cầm súng), tình yêu thương chồng con của chị Dậu (tắt đèn) và cả sự đấu tranh kiên cường, cứng cõi của Chị Sứ (hòn đất),… nói cách khác, mẹ Việt là con sông phản chiếu của những người phụ nữ thời chiến: “kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Quả là khúc sông thật cao cả và chảy dài mạnh mẽ…
Nếu so với “khúc sông mẹ - chú Năm”, thì Chiến và Việt là hai khúc sông sau mà khúc sông sau thì lúc nào cũng chảy xa hơn khúc sông trước, cứ như vậy, nối tiếp nhau mà chảy. Ở chị Chiến có cái gì “in như mẹ vậy” từ vẻ bề ngoài chắc nịch đến cả cái gáy đỏ, bắp tay to khỏe nửa,… và còn đến cả lời nói, cử chỉ và sự suy tính ra dáng của một người trưởng thành, chu toàn, êm đẹp… bên cạnh đó, “khúc sông” Việt tuy có nhỏ hơn “khúc sông Chiến”, vẫn còn nét lộc ngộc, vô tư của một thanh niên mới lớn, nhưng trong Việt đã chứa đựng chất anh hùng biểu hiện ở những suy nghĩ táo bạo của mình. Lúc bị thương nặng, Việt vẫn cố gắng lên nòng súng sẵn sàng chiến đấu, cả những suy nghĩ của Việt, ta lại thấy một người lính rất chững chạc: “Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao”. Quả thật, khúc sông “Chiến-Việt” đã chảy xa hơn đại diện cho sức trẻ tiến công. Trong khi mẹ Việt mang nỗi đau mất chồng và chưa thể cầm súng để trà thù thì chiến và Việt lại cầm súng vì nỗi đau mất cha mất mẹ quyết tòng quân đánh giặc. Có thể nói, khúc sông Chiến - Việt là khúc sông nhận lưu lượng nhiều hơn, chảy mạnh hơn và xa hơn những khúc sông trước đó vì 2 khúc sông này là cả hy vọng của một gia đình truyền thống bao thế hệ.
Những khúc sông của gia đình cứ như thế nối tiếp nhau chảy, chảy hoài, chảy mãi như máu chảy trong người vậy. Rồi con sông của gia đình lại chảy về biển cũng như trăm con sông khác. Nguyễn Thi đã buộc ta phải liên tưởng đến biển đến đại dương bao la rộng lớn. Biển ấy là biển của cách mạng cả nước mênh mông, rộng lớn và vĩnh cữu. Còn đại dương ấy chính là đại dương cách mạng của những quốc gia đang bị xâm lược trên thế giới. Cũng như dòng chảy của máu trong cơ thể được lưu thông bằng tim, thì dòng chảy của con sông cách mạng được khơi nguồn và duy trì bằng những con tim cách mạng “còn nóng hôi hổi” chứa những sự mất mát đau thương nhưng lại rạng ngời niềm hy vọng.
Hãy phân tích hình tượng nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi?
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Thi là cây bút khá nổi tiếng của văn xuôi thời kháng chiến chống Mỹ. Truyện của Nguyễn Thi đã phản ánh khá sinh động cuộc sống của nhân dân Miền Nam dưới sự đàn áp dã man của Mỹ và chính quyền Sài Gòn; đồng thời cũng làm nổi bật vẻ đẹp của con người Miền Nam trong cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù để giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, giành độc lập, tự do về cho dân tộc. Trong những sáng tác của mình, Nguyễn Thi đi sâu khai thác đề tài: chủ nghĩa yêu nước anh hùng cách mạng của nhân dân Nam Bộ. Đó là những tập thể anh hùng được làm nên bởi mọi lứa tuổi. Trong đó, tầng lớp thiếu niên đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên bức tranh hào hùng này như nhân vật Việt trong “Những đứa con trong gia đình” của ông.
Thật vậy, Việt là nhân vật trung tâm của câu chuyện. Việt xuất thân trong một gia đình lớn, gia đình cách mạng. Những con người trong gia đình ấy đã gắn bó với nhau trong một mối tình ruột thịt, người nào cũng đáng yêu, đáng quý, người nào cũng có bản chất riêng, nhưng lại thống nhất với nhau về bản chất đó là: lòng căm thù giặc sâu sắc, hành động dũng cảm, gan góc trong chiến đấu, có niềm say mê và khao khát được đánh giặc, rất tình nghĩa, rất đỗi thủy chung với gia đình, với cách mạng và Tổ quốc. Hơn nữa, Việt xuất thân trong một gia đình mang nặng thù nhà, nợ nước. Ông nội của Việt bị lính tổng Phòng bắn vào giữa bụng, bà nội bị lính quận Sơn hành hạ, đánh đập. Ba của Việt thì bị giặc chặt đầu, má Việt thì bị trái ca nông của Mỹ giết chết khi đi đấu tranh ở Mỏ Cày, thím Năm thì bị giặc bắn bể xuồng chết khi đi rọc lá chuối... những người thân trong gia đình của Việt lần lượt bị giặc sát hại. Những đau thương mất mát này đã sớm khơi dậy lòng căm thù giặc của Việt, đồng thời cũng sớm khơi dậy ý thức đấu tranh để trả thù nhà và góp phần vào việc đấu tranh giải phóng miền Nam của Việt.
Việt là một cậu con trai mới lớn, ngây thơ và hiếu động. Việt đã tiến xa hơn thế hệ của ông cha mình. Lúc nhỏ Việt đã rất gan , đúng như lời nhận xét của chú Năm: “Việt là một thằng nhỏ nhưng rất gan lì". Trước nỗi đau mất cha, cậu bé Việt không còn biết sợ hãi là gì, Việt đã đi theo má mà la “Trả đầu ba! Trả đầu ba!”, rồi khi thằng giặc liệng đầu ba vào ngực mẹ, làm máu me văng cùng đầu chị em Việt. “Đầu ba ở dưới không lượm” mà Việt “cứ nhè cái thằng liệng đầu mà đá”. Lòng căm thù giặc đã dậy lên trong lòng Việt. Càng lớn lên ý thức và hành động của Việt càng chín chắn hơn. Việt đã cùng chị đánh giặc trên sông Định Thủy, rồi lại cùng chị tranh nhau xin đi bộ đội. Ý thức đấu tranh quyết liệt đã thể hiện ở Việt ngay trong câu chuyện giữa hai chị em trong cái đêm cả hai đều được đi bộ đội. Khi Chiến nói với Việt: “Chú Năm nói mày với tao kỳ này là ra chân trời mặt biển, xa nhà thì ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu”, thì Việt trả lời ngay với chị: “Chị có bị chặt đầu thì chặt chứ chừng nào tôi mới bị".
Câu nói ấy của Việt đã thể hiện một thái độ khá dứt khoát, một ý chí quyết ra đi trả thù cho ba má Việt. Và ngay sau khi vào bộ đội, tân binh Việt đã lập nên chiến công trong một trận đánh quyết liệt với quân thù. Việt đã diệt được một xe đầy Mỹ và bắn nhào một xe tăng. Việt bị thương ở hai mắt, không còn thấy được gì cả. "Việt cảm thấy chân tay tê dại, khắp người nước hay máu không biết, chỗ ướt, chỗ sũng, chỗ dẻo quẹo, chỗ đã khô cứng", “người Việt khô khốc”, “chỗ nào đụng tới, ruồi cũng bay lên như vải trấu...”. Thế mà Việt vẫn quyết bò đi tìm đồng đội “Việt cho mũi lê đi trước, rồi tới hai cùi tay, hai cái chân nhức nhối cho nó đi cuối cùng. Cái nào không chịu đi thì bắt phải đi”. Trong cơn mê Việt nhớ lại những gì đã xảy ra trong gia đình mình. Việt nhớ má, nhớ chú Năm, nhớ chị Chiến... tỉnh ra Việt càng cảm thấy căm thù, càng có ý thức quyết tâm chiến đấu. Nghe tiếng máy bay và tiếng xe bọc thép của địch rú lên, Việt không hề run sợ mà trong tư thế sẵn sàng chiến đấu: Được, tao cứ nằm đây! Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này có còn mình tao cũng bắn được mày. Nghe súng nổ các anh sẽ tới đâm mày! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Như vậy, là Việt đã đi xa hơn khúc sông truyền thống gia đình. Việt chủ động đi tìm giặc mà đánh. Việt chính là hình tượng nhân vật điển hình cho tầng lớp thanh niên thời đánh Mỹ tham gia vào cuộc kháng chiến với tất cả nhiệt huyết và niềm hăng say của tuổi trẻ, làm nên khúc sông truyền thống dào dạt hơn, rộng lớn hơn trước khi đổ vẻ biển cả.
Tuy chiến đấu rất dũng cảm nhưng ở Việt vẫn còn mang tính chất trẻ con: rất thương chị nhưng không biết lo toan cùng chị, chỉ biết đi chiến đấu. Đi chiến đấu mà Việt vẫn giắt sau lưng một chiếc ná thun. Khi bị thương Việt có thoáng nghĩ đến cái chết, nhưng Việt cũng chưa hiểu cái chết là như thế nào: “Chết là gì nhỉ? Chắc là đau gấp mấy lần bị thương. Hay chết là người thật biến lên trên nóc nhà, còn người giả thì nằm lại đó? Việt chưa bao giờ nghỉ tới cái chết, mà cũng chưa nghe ai nói rõ nó ra xao”. Và Việt không hề biết sợ chết, chỉ sợ là “không còn được ở chung với anh Tánh và cũng không được đi bộ đội nữa thì buồn lắm”. Những điều suy nghĩ của Việt thật ngây thơ và thật đáng yêu làm sao. Trước sau, trong hoàn cảnh nào Việt cũng nghĩ đến chiến đấu. Đó chính là bản chất vốn có của Việt và cũng chính là bản chất tốt đẹp của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.
Tóm lại, trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình Nguyễn Thi đã xây dựng khá thành công hình tượng nhân vật Việt - một nhân vật tiêu biểu cho tuổi trẻ miền Nam, tuổi trẻ của cả đất nước anh hùng. Sức mạnh của tuổi trẻ không gì ngăn nổi, hứa hẹn sẽ mở ra những khúc sông hào hùng hơn, vẻ vang hơn để đổ về biển lớn của cách mạng.
Phân tích tư tưởng của Nguyễn Thi được thể hiện qua lời nói của nhân vật chú Năm?
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài:
Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Hoàng Ca. ông còn có bút danh khác là Nguyễn Ngọc Tấn. Nguyễn Thi quê ở Quần Phương Thượng, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, nhưng ông vào Sài Gòn từ nhỏ. Năm 1955, ông tập kết ra Bắc. Năm 1962 ông trở lại miền Nam, hoạt động trong lực lượng Văn nghệ giải phóng với bút danh Nguyễn Thi. Ông đã sống gần gũi và gắn bó với con người miền Nam. Do đó, những sáng tác của ông đều phản ánh khá chân thật và sinh động cuộc sống và tính cách của con người miền Nam - những con người hồn hậu, chân chất trong cuộc sống đời thường nhưng có lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc sâu sắc, luôn giữ vững và phát huy truyền thống cách mạng, sẵn sàng chiến đấu và hi sinh cho đất nước. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nói về vẻ đẹp của con người miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ là truyện ngắn Những đứa con trong gia đình. Trong truyện ngắn này, một ý tưởng của
Nguyễn Thi được thể hiện qua lời nói của nhân vật chú Năm: “Chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc để ghi vào đó. Trăm sông đổ về một biển, con sông gia đình ta cũng chảy về biển mà biển thì rộng lắm”.
2. Thân bài:
Ý nghĩa của nhan đề và nội dung của câu truyện: Đúng như tên gọi của thiên truyện ở đây, Nguyễn Thi đã dựng lên hình tượng những con người trong một gia đình lớn; gia đình cách mạng. Họ gắn bó với nhau trong một mối tình ruột thịt, người nào cũng đáng yêu, đáng quý, người nào cũng có bản chất riêng, nhưng lại thống nhất với nhau về bản chất. Những đặc điềm chung ấy là: lòng căm thù giặc sâu sắc, hành động dũng cảm, gan góc trong chiến đấu, niềm say mê và khao khát được đánh giặc, rất tình nghĩa, rất đỗi thủy chung với gia đình, Cách mạng và Tổ quốc. Có thể kể đó là những nhân vật như chú Năm, mẹ Việt và đặc biệt là hai chị em Chiến và Việt.
Những khúc sông của dòng sông truyền thống: Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, ta thấy một tư tưởng được cô đúc lại trong toàn bộ thiên truyện đã thể hiện trong câu nói của chú Năm với chị em Chiến và Việt: “Chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc để ghi vào đó. Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển mà biển thì rộng lắm”. Câu nói của chú Năm có vẻ văn hoa, mang tính chất triết lí nhưng rất thực tế. Đó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, yêu cách mạng từ đời này qua đời khác. Mỗi thành viên trong gia đình chú Năm là một khúc sông, để tạo nên dòng sông truyền thống ấy: “Trăm sông đổ về một biển" hay cũng chính là dòng sông truyền thống của gia đình chú Năm sẽ đổ về một xã hội lớn hơn, hòa trong biển lớn cách mạng của đất nước.
Thật vậy, gia đình chú Năm là một gia đình cách mạng, mang nặng thù nhà, nợ nước. Ông nội của Chiến và Việt bị lính tổng Phòng bắn vào giữa bụng, bà nội bị lính quận Sơn hành hạ, đánh đập. Ba của Chiến và Việt thì bị chặt đầu, má thì bị trái ca-nông của Mỹ giết chết khi đi đâu tranh ở Mỏ Cày, thím Năm thì bị giặc bắn bể xuồng chết khi đi rọc lá chuối... Những người thân trong gia đinh lần lượt bị sát hại. Những đau thương, mất mát này được chú Năm ghi lại một cách tỉ mỉ trong một cuốn sổ tay, để làm nên những khúc sông trong dòng sông truyền thống gia đình. Trong những khúc sông ấy có chú Năm, ba Chiến, mẹ Chiến, đặc biệt được kết thúc một cách ào ạt hơn, mãnh liệt hơn, hào hùng hơn ở Chiến và Việt.
Những nhân vật chính làm nên những khúc sông:
a) Chú Năm: Chú Năm là một con người nghĩa khí, chất phác, bộc trực nhưng thâm trầm, sâu sắc, giàu tình yêu thương, gắn bó thủy chung với cách mạng, luôn luôn hướng về truyền thống, sống với truyền thống, ghi chép truyền thống, giữ gìn và phát huy truyền thống. Chất truyền thống nơi chú phảng phất tính chất đạo lí cổ truyền từ ngàn xưa của dân tộc “gọn bề gia thế, đặng bề nước non”. Chú ghi chép gia phả của dòng họ một cách rất tỉ mỉ, từ những sự việc xảy ra đến những ngày giỗ của từng người trong gia đình và những chiến công của Việt và Chiến trên sông Định Thủy, tỉ mỉ đến độ “thỏn mỏn". Lời lẽ chú mộc mạc, “nét chữ lòng còng", nhưng đấy là tất cả tấm lòng của chú, tình yêu thương lẫn căm thù của chú và đó còn là ý thức giữ gìn truyền thống cho gia đình của chú nữa.
Chú Năm tuy chưa già nhưng mái tóc đã đốm bạc. Trước kia chú sống bằng nghề sông nước, “đi chèo ghe mướn ở Sài Gòn, Lục Tỉnh". Chú thường kể chuyện cho chị em Chiến, Việt nghc và "chú hay kể sự tích của gia đình và cuối cùng câu chuyện thế nào chú cũng hò lên mấy câu”. Những câu hò của chú “nói về cuộc đời cơ cực của chú và những chiến công của đất này". Hình như chú muốn gửi gắm tất cả tấm lòng, bao điều tâm sự và mong ước của chú vào Việt qua tiếng hò: “Lúc đó, gân cổ chú nổi đỏ lên, tuy chú đặt lên vai Việt, đôi mắt chú mở to, làm như Việt là nơi cụ thể để chú gửi gắm những câu hò đó, hoặc chính Việt là những câu hò đó. Theo từng câu hò, khi thì Việt biến thành tấm áo vá quàng hoặc con sông dài cá lội của chú, khi thì Việt biến thành những nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công, hoặc ngôi sao sáng Tháp Mười”.
Những lần như thế, chị Chiến “bịt miệng cười nhìn chú, Việt cũng vậy" và có một lần chú bảo với Chiến và Việt “Cười đi con, ráng cho mau lớn. Chừng nào bây trọng trọng, tao giao cuốn sổ này cho chị em bây”.
Những hành động, những câu nói ấy của chú Năm đã thể hiện rõ những tình cảm cao đẹp của chú, nhất là chú muốn luôn luôn giữ gìn truyền thống gia đình.
b) Má của Chiến và Việt:
Má của Chiến và Việt là hình tượng nhân vật điển hình cho người phụ nữ Việt Nam “anh hung, bất khuất, trung hậu, đảm đang". Má Việt cũng là hình ảnh khúc sông truyền thống gia đình. Đây là hình ảnh một người mẹ không hề yếu đuối mà thật chắc khỏe về thể xác lẫn tinh thần. Hình như người mẹ ấy sinh ra để chống chọi với bao sóng gió của cuộc đời và trong chiến đấu. Nguyễn Thi đã miêu tả những nét tính cách ấy của người mẹ khá cụ thể: “Má bơi xuồng thiệt khỏe, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách mướt để lộ cái gáy đo đỏ và đôi vai lực lưỡng. Chiều về, xuồng còn giữa sông, má đã gọi: “Việt à, ra phụ má nghe con!”, xuồng cập bến, mặt má vẫn đỏ rực, cái nón rách đã ngả ra làm quạt, lưng áo bà ba đẫm mồ hôi đã đen lụi không còn thấy bạc nữa”.
Ở má Việt, tình yêu chồng, lòng thương con, sự căm thù, lòng dũng cảm, ý thức đấu tranh như hòa quyện vào nhau. Điều đó đã thể hiện khá đầy đủ trong lời má Việt nói với Việt: “Tao dạn là nhờ ba mày. Ba mày bị Tây nó chặt đầu, tao cứ đi theo thằng xách đầu mà đòi. Đi từ ấp trong tới ấp ngoài, nó qua sông tao cũng qua sông, nó về quận tao cũng tới. Một tay tao bồng em mày, một tay tao cắp rổ. Chị hai mày đang nấu cơm, cũng mang cẻ đũa bếp chạy theo, tóc tai xuống mặt, chỉ ló có một con mắt ra nước mắt chảy ròng ròng. Mày với con Chiến thì chạy theo chị hai mày mà la: "Trả đầu ba! Trả đầu ba!". Tao muốn là cho chị em bây ở nhà. Đi mình tao, tao chửi nó, nó có bắn thì cũng còn chị em bây trả thù cho ba mày. Mỗi lần nó bắn đùng đùng trên đầu, chị em bây lại níu chân tao. Lòng dạ tao đâu còn rảnh để mà sợ, mà khóc, chỉ thương con thôi”. Mất chồng, má xót xa lặng lẽ khóc trong đêm, nhớ lại những kĩ niệm với chồng từ lúc hai người mới quen nhau tới khi chồng chết. Rồi người mẹ ấy cũng trông cho con mau lớn để làm một cái gì đó vui lòng chồng và “dường như cả cuộc đời vất vả của má, mọi ý nghĩ đã trải qua một cách không hề sợ hãi đó, tất cả đều được gom lại và dồn vào trong ý nghĩ cuối cùng này”. Đau đớn xót xa nhưng người mẹ ấy không hề bi lụy, biến đau thương, căm thù thành ý thức đấu tranh và đã chết trong đấu tranh. Ở nhân vật này, nhà văn Nguyễn Thi đã khắc họa nổi bật hình tượng người phụ nữ miền Nam với đầy đủ những phẩm chất đạo đức tốt và anh hùng. Đó là tượng đài bất tử của người mẹ Việt Nam.
c) Chiến: Chiến rất giống mẹ ỏ tính gan góc, chăm chỉ, đảm đang, tháo vát, rất yêu thương cha mẹ, sôi sục căm thù, muốn gia nhập bộ đội để trả thù cho cha mẹ. Biết thu xếp việc nhà trước khi lên đường: đem bàn thờ má gửi chú Năm... Chiến có một ý thức, một quyết tâm cao trong chiến đấu. Câu nói của Chiến với Việt đã thể hiện rõ ý thức và tinh thần ấy của Chiến: "Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!",
Cho dù vẫn cho mình là chị (rất thương em và lo lắng cho em, nhường nhịn em tất cả) nhưng nhiều lúc Chiến vẫn mang tính trẻ con (tranh công bắt ếch, tranh công bắn tàu giặc trên sông Định Thủy, tranh phần nhập ngũ của em...).
Chiến là hình ảnh kế thừa của người mẹ, lại tiếp khúc sông truyền thống của gia đình, không làm phụ lòng mẹ. Chiến đã tiến xa hơn một bước so với mẹ. Chiến được cầm súng đi đánh giặc, cái điều mà mẹ Chiến chưa có được.
d) Việt: Việt là một cậu con trai mới lớn, ngây thơ và hiếu động. Việt đã tiến xa hơn thế hệ của ông cha mình. Lúc nhỏ Việt rất gan lì, đúng như lời nhận xét của chú Năm: “Việt là một thằng nhỏ nhưng rất gan lì”. Trước nỗi đau mất cha, cậu bé Việt không còn biết sợ hãi là gì, Việt đã đi theo má mà la: “Trả đầu ba! Trả đầu ba!”, rồi khi thằng giặc liệng đầu ba vào ngực mẹ, làm máu me văng cùng đầu chị em Việt. “Đầu ba ở dưới không lượm" mà Việt “cứ nhè cái đầu thằng liệng đầu mà đá”. Lòng căm thù giặc đã dậy lên trong lòng Việt. Càng lên ý thức và hành động của Việt càng chín chắn hơn. Việt đã cùng chị đánh địch trên sông Định Thủy, rồi lại cùng chị tranh nhau xin đi bộ đội. Ý thức đấu tranh quyết liệt đã thể hiện ở Việt ngay trong câu chuyện giữa hai chị em trong cái đêm mà cả hai đều được đi bộ đội. Khi Chiến nói với Việt: “Chú Năm nói mày với tao kì này là ra chân trời mặt biển, xa nhà thì ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu”, thì Việt trả lời ngay với chị: “Chị có bị chặt đầu thì chặt chừng nào tôi mới bị".
Câu nói ấy của Việt đã thể hiện một thái độ khá dứt khoát, một ý trí quyết ra đi trả thù cho ba má Việt. Và ngay sao khi vào bộ đội, tân binh Việt đã lập chiến công trong một trận đánh quyết liệt với quân thù. Việt đã diệt được một xe đầy Mĩ và bắn nhào một xe tăng. Việt bị thương ở hai mắt, không còn thấy được gì cả. Việt cảm thấy chân tay tê dại, khắp người nước hay máu không biết. Chỗ ướt, chỗ sũng, chỗ dẻo quẹo, chỗ đã khô cứng", “người Việt khô khốc", “chỗ nào đụng tới, ruồi cũng bay lên như vãi trấu... ”, thế mà Việt vẫn quyết bò đi tìm đồng đội “Việt cho mũi lê đi trước, rồi tới hai cái tay, hai cái chân nhức nhối cho nó đi cùng. Cái nào không chịu đi thì bắt nó phải đi". Trong cơn mê Việt nhớ lại những gì đã xảy ra trong gia đình mình. Việt nhớ má, nhớ chú Năm, nhớ chị Chiến... tỉnh ra, Việt càng cảm thấy căm thù, càng có ý thức quyết tâm chiến đấu. Nghe tiếng máy bay và tiếng xe bọc thép của địch rú lên, Việt không hề run sợ và trong tư thế sẵn sàng chiến đấu: “Được, tao cứ nằm đây! Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này có còn mình tao cũng bắn được mày. Nghe súng nổ các anh sẽ tới đâm mày! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Như vậy, là Việt đã đi xa hơn khúc sông truyền thống gia đình. Việt chủ động đi tìm giặc mà đánh. Việt chính là 1 hình tượng nhân vật điển hình cho tầng lớp thanh niên thời đánh Mỹ tham gia vào cuộc kháng chiến với tất cả nhiệt huyết và niềm hăng say của tuổi trẻ, làm nên khúc sông truyền thống dào dạt hơn, rộng lớn hơn trước khi đổ về biển cả.
3. Kết bài:
Tóm lại, câu nói của chú Năm với hai chị em Chiến, Việt: “Chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc để ghi vào đó. Trăm sông đổ về một biển, con sóng gia đình ta cũng chảy về biển mà biển thì rộng lắm”... là câu nói thể hiện toàn bộ ý tưởng của Nguyễn Thi trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình. Ý tưởng này không chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình, mà còn có ý nghĩa khái quát, rộng lớn hơn. Đó là cả một đại gia đình cách mạng miền Nam trong thời kì chống Mỹ cứu nước. Câu nói này của chú Năm nói riêng và toàn bộ nội dung câu chuyện nói chung đã cho ta hiểu thời kì chống Mỹ ở miền Nam là một thời kì gay go, quyết liệt, nhân dân miền Nam phải sống trong đau khổ với biết bao hi sinh mất mát dưới sự đàn áp dã man của quân thù. Nhưng tinh thần yêu nước, yêu chân lí cách mạng, ý chí quật khởi của nhân dân miền Nam dưới ánh sáng của lí tưởng cách mạng đã bùng lên mãnh liệt, không sức gì ngăn nổi. Đó chính là truyền thống gia đình, truyền thống cách mạng, góp phần làm nên bề dày truyền thống của dân tộc.
Phân tích giá trị hiện thực của Những đứa con trong gia đình?
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Thi là một nhà văn - chiến sĩ mà cuộc đời và sự nghiệp sáng tác đã để lại nhiều bài học lớn cho cả một thế hệ nhà văn thời chống Mĩ. Ông đã hi sinh ở mặt trận Sài Gòn trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Trong di sản viết về chiến tranh của ông, có tác phẩm đã hoàn chỉnh, có tác phẩm mới ở dạng phác thảo nhưng tất thảy đều ngồn ngộn chất sống và giàu tính thẩm mĩ chứng tỏ tác giả của nó là một tài năng văn học lớn.
Từng sống ở Nam Bộ trước cách mạng và sau này lại tham gia chiến đấu trên chiến trường ấy, Nguyễn Thi rất am hiểu con người và cảnh vật nơi này. Có thể nói ông là nhà văn của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ác liệt. Ông đã trút tâm huyết xây dựng họ thành những nhân vật văn học đáng nhớ đầy cá tính, có lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc, sống bộc trực, hồn nhiên, giàu tình nghĩa.
Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi rút từ tập Truyện và kí xuất bản năm 1978. Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân một lòng một dạ đi theo cách mạng và có những mối thù riêng với quân giặc. Chiến và Việt – hai chị em đồng thời là hai nhân vật chính của tác phẩm không còn cha mẹ. Cha bị địch giết hồi chín năm (kháng chiến chống Pháp), còn mẹ thì chết vì trúng đạn đại bác Mĩ. Họ lớn lên trong sự dìu dắt, đùm bọc của ông Năm (người chú ruột) và sau này là của đoàn thể, đồng đội (một gia đình mới thân thiết của hai chị em). Tuy nói chuyện một gia đình nhưng tác phẩm của Nguyễn Thi có khả năng ôm trùm hiện thực rộng lớn. Số phận của mấy chị em ở đây cũng như cảnh ngộ gia đình họ không phải chỉ có Ý nghĩa cá biệt. Có biết bao người, bao gia đình cũng phải gánh chịu những mất mát và đã vượt lên như thế trong cuộc chiến tranh khốc liệt này. Hình tượng cuốn sổ gia đình được nhắc tới mấy lần trong truyện có nghĩa nghệ thuật rất quan trọng. Nó hé lộ cho ta Ý đồ nghệ thuật của nhà văn muốn qua câu chuyện một gia đình để đề cập đến những vấn đề khái quát hơn. Lời của chú Năm trong truyện đã nói lên điều đó: “Chú thường ví chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó. Chú kể chuyện con sông nào ở nước ta cũng đẹp, cũng lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt của con người cũng sinh ra từ đó. Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, chị em Việt lớn lên rồi sẽ biết, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài nước ta”. Thông thường, sự kháo quát nghệ thuật của Nguyễn Thi là như vậy. Nó luôn tự nhiên như đời sống do bắt mạch thực sự được vào cuộc sống.
Trên một ý nghĩa khác, hình tượng cuốn sổ ngầm chứa chức năng lí giải chiều sâu hành động hiện tại của các nhân vật. Cuốn sổ ghi chép đủ những sự việc đáng nhớ xảy ra với gia đình lớn của chị em Việt - Chiến, từ chuyện người nào bị giặc giết chết vào ngày nào đến chuyện ai bị chúng nhục mạ ra sao. Đặc biết, cuốn sổ kể khá tỉ mỉ từng chiến công đánh giặc của các thành viên gia đình, trong đó có chiến công của Chiến và Việt theo du kích bắn tàu Mĩ trên sông Định Thủy. Cuốn sổ ấy là lịch sử một gia đình, nó cho thấy truyền thống và sự tiếp nối. Nó là một hình thức giáo dục lòng tự hào về truyền thống mà chú Năm rất có ý thức xây dựng cho thế hệ con cháu. Chú nói: “Chừng nào bây trọng trọng, tao giao cuốn sổ cho chị em bây”. Câu nói ấy cũng rất mực tự nhiên mà chứa đầy ý nghĩa. Chính thế hệ mới sẽ là người viết tiếp những trang mới, vẻ vang cho truyền thống. Không thể nói mọi chiến công mà Chiến, Việt lập được lại không liên quan đến cuốn sổ gia đình này. Kể lại sự việc nhưng không bao giờ quên khám phá chiều sâu của nó chính là thuộc tính bản chất của ngòi bút Nguyễn Thi.
Nguyễn Thi rất có biệt tài dựng người, dựng cảnh. Vốn sống của ông phong phú khiến cho các chi tiết mà ông lẩy ra bao giờ cũng như giẫy trên trang sách, rất sinh động. Nhiều nhân vật chỉ xuất hiện thoáng qua trong truyện nhưng đã kịp để lại một ấn tượng khó quên, cả về hành động lẫn ngôn ngữ. Chú Năm của Chiến, Việt thật dễ nhớ với “giọng hò đã đục và tức như tiếng gà gáy” (“Chú hay kể sự tích của gia đình và cuối câu chuyện, thế nào chú cũng hò lên mấy câu”). Giọng hò của người đàn ông trung niên này tuy không hay nhưng chứa đựng mọt cái gì đó thật tha thiết khiến cho chị em Chiến, Việt tuy rất thấy buồn cười nhưng vẫn rất cảm động. Theo như lời kể trong tác phẩm, ông ít nói, nhưng những câu nói của ông được hai chị em nhân vật chính khắc ghi trong tâm khảm. Nó tương tự như những châm ngôn kết tinh của cả một đời từng trải sông nước, lăn lộn với ruộng vườn và chung thủy một dạ với cách mạng.
Bên cạnh nhân vật chú Năm, hình ảnh người má của hai chị em Chiến, Việt cũng hiện lên với những nét chạm khắc rạch ròi. Đó là người đàn bà xốc vác, gan dạ, giỏi thu xếp cả việc chung lẫn việc riêng. Nguyễn Thi đã chọn được nhiều chi tiết thật tài tình để xây dựng chân dung con người ấy. Nào là chuyện bà đi đấu tranh về bị cà nông giặc bắn đuổi theo, một trái rơi bịch trước mặt, không nổ, “bà đến dòm dòm rồi bỏ luôn vào rổ, cắp về”; nào là chuyện bà bế con, dắt con đi đòi đầu chồng từ ấp trong tới ấp ngoài, vượt qua sông về tới quận; nào là chuyện bà tần tảo sớm hôm làm lụng nuôi con, miệng nói, tay làm, chưa dứt câu dặn con mà chân đã “đẩy xuồng ra tuốt giữa sông”… Đặc biệt, chi tiết bà đối mặt với quân thù hai bàn tay to bản “phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân” hoặc “dùa đàn con lại đằng sau tránh đạn” đã cho ta hình dung đặc biệt rõ nét hình ảnh một người mẹ nơi Thành đồng Tổ quốc những năm đánh Mĩ.
Hai nhân vật được khắc họa rõ nét trong tác phẩm là Chiến và Việt. Chiến là chị. Theo lời chú Năm, cô “không khác mẹ một chút nào”. Ngay cả Việt cũng nhận thấy thế. Cô có đức tính kiên trì, chịu khó, chỉ nội một việc bỏ ăn để đánh vần cuốn sổ gia đình suốt từ trưa cho đến lúc trời chạng vạng đã đủ chứng tỏ điều đó. Cô cũng thừa hưởng ở mẹ đức tính han góc. Trong ngày tòng quân, cô nói với em: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái thì ra đi tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Ở cô, khả năng vun vén, thu xếp gia đình cũng thể hiện rất rõ. Trước khi cùng em đi bộ đọi, mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ chu đáo, “nói nghe thiệt gọn” khiến cho chú Năm cũng phải có chút sững sờ, “nhìn hai cháu thiệt lâu” rồi nói: “Khôn! Việc nhà nó thu gọn đươc thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước”. Câu nói của chú Năm thể hiện sự yên tâm của thế hệ trước đối với lớp người sau. Rõ ràng, họ đã trưởng thành, có thể gánh vác được những việc lớn của đất nước.
Khác với chị Chiến đã có dáng dấp của một người lớn thực thụ dù đôi lúc còn tranh giành với em, Việt cong giữ nguyên tính chất của một cậu bé. “Cậu Tư” này trong gia đình có điệu cười “lỏn lẻn” rất dễ thương. Cậu ta thường ngày vẫn hay tranh phần hơn với chị, từ chuyện bắt ếch đến chuyện đòi đi bộ đội trước chị. Cậu còn vô tâm vô tính, phó mặc chuyện nhà cho chị “Tôi nói chị tính sao cứ tính mà”. Trong khi chị bàn những việc phải làm ngày mai, Việt vẫn đùa nghịch “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay” và thú vị quan sát điệu bộ cử chỉ, cách nói năng “in hệt má” của chị. Vào bộ đội rồi, cậu ta “giấu chị như giấu của riêng vậy” vì sợ mất chị trước những lời gạ gẫm đùa tếu của anh em. Trong hành trang người lính của mình, ngoài cái võng, bộ quân phục, Việt còn mang theo cái ná thun - một vật bất lí thân từng gắn bó với Việt từ ngày cậu còn “để đầu trần, mình mẩy tèm lem sình đất từ chỗ móc mương lên, lội tắt trong vườn, đi tìm chim”. Tuy còn rất trẻ con như thế, Việt đã chiến đấu rất dũng cảm không thua kém ai. Việt đã dùng thủ pháo tiêu diệt được một chiếc xe bọc thép của địch. Bị thương, Việt quyết bò đi tìm đồng đội. Nghe tiếng xe, pháo của giặc, Việt nằm chờ với tâm niệm “Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này chỉ còn có mình tao. Mày có bắn táo thì tao cũng bắn dược mày. Nghe súng nổ, các anh tao sẽ chạy tới đâm mày! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Có bao nhiêu là sự coi thường, khinh bỉ kẻ thù thể hiện qua lời độc thoại ấy. Quả thực, Việt đã là một người lính chững chạc trong khi còn mang đayaf đủ nét thơ ngây, trong sáng, đáng yêu của một cậu bé vừa đến tuổi thành niên.
Nhìn chung, trong khi xây dựng nhân vật, Nguyễn Thi rất quan tâm đến việc cá thể hóa. Nhân vật nào cũng có những nét riêng, độc đáo, hiện lên mồn một trước mắt độc giả. Chú Năm nói khác mấ Việt, và Việt nói khác chị Chiến. Lời nói của ai thể hiện rõ tính cách người đó. Nhưng mặt khác, nhà văn cũng có Ý thức nhấn mạnh điểm giống nhau giữa họ. Chẳng thế mà ông nhiều lần qua lời chú Năm, qua lời Việt so sánh Chiến với người má của cô, và để người má ấy nói về Việt: “Đó, lại giống cái thằng cha nó rồi!”. Nói đến điểm giống nhau ở đây là nói đến nét bền vững trong truyền thống một gia đình giàu tinh thần cách mạng, có lòng căm thù giặc sâu sắc, sống rất mực tình nghĩa thủy chung. Đây chính là điểm nút sẽ giúp ta lí giải được sức mạnh tinh thần giúp các nhân vật vượt qua được thử thách lớn lao, gay gắt đến như vậy. Mở rộng ra, đấy cũng chính là điểm nút khiến mọi chi tiết , sự việc được miêu tả trong tác phẩm quy rụ lại thống nhất ở tinh thần chung là khẳng định những phẩm chất đẹp đẽ của người dân Nam Bộ trong chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Nhiều câu nói thốt ra từ miệng chú Năm hay từ miệng má Việt, vì vậy có tầm khái quát triết lí, mang âm vang triết lí của cả một dân tộc bất khuất, dù nó được biểu hiện ra trong một hình thức rất mực giản dị – giản dị đến bất ngờ như câu nói của má Việt: “Người chết có cái vui của người chết, nếu khong người ta sanh con ra làm gì?”. Ở đây, ta có thể nhận ra một đặc điểm trong sáng tác Nguyễn Thi: tính triết lí rất cao nhưng đấy là triết lí của chính cuộc đời- một cuộc đời được tái hiện sinh động qua những biểu hiện mang tính bản chất. Ta có thể chứng minh thêm cho điều vừa nói bằng chi tiết: hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm: “Chị Chiến đứng ra giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước, chị Chiến khiêng lịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên, Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được vì nó đang đè nặng trên vai. Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác”. Khó mà không dẫn hết ra đoạn văn đầy xúc động này. Nó đã nói lên hết sức cô đọng về cuộc chiến đấu của chúng ta: có yêu thương, có căm thù, có cái mất mát nhưng có cái vĩnh hằng, có cái quyết liệt nhưng cũng có sự thanh thản, có yếu tố hành động nhưng cũng có yếu tố tâm linh… Và mùi hoa cam, nó chỉ thoảng qua một lần mà thơm mãi. Trong văn Nguyễn Thi, mùi hương trữ tình này thường chỉ được dùng rất dè sẻn, nhưng chính vì vậy mà nó vô cùng quí, để lại trong lòng người đọc những cảm nghĩ sâu xa.
Một thành công nữa rất cơ bản của Nguyễn Thi trong Những đứa con trong gia đình là nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Ta đã thấy phần nào điều đó qua việc phân tích cái tài của ông khi lựa chọn các chi tiết đặc sắc làm nổi bật cá tính nhân vật ở trên. Cần đặc biệt lưu Ý rằng truyện ngắn này được tổ chức dựa trên dòng hồi ức của nhân vật Việt khi bị thương trên trận địa. Miêu tả tâm lí của người tỉnh táo đã khó mà ở đây lại là tâm lí của người luôn nằm trong trạng thái giữa mê và tỉnh, hiển nhiên nhiệm vụ nghệ thuật đặt ra càng khó bội phần. Nhưng nhà văn đã thể hiện một cách xuất sắc trạng thái “chập chờn cơn tỉnh cơn mê” đó của nahan vật. Bốn lần Việt tỉnh dậy trrn trận địa, mỗi lần Việt nhớ gì, nghĩ gì đều được nhà văn miêu tả rất cụ thể, tinh tế và chính xác. Thông thường, mạch hồi tưởng của nhân vật trong bước khởi đầuphụ thuộc rất nhiều vào yếu tố dẫn dụ của ngoại cảnh. Tác giả hiểu điều đó rất rõ. Tâm lí con người tuy phức tạp nhưng vẫn diễn biến một cách lô gic. Lần thứ hai Việt tỉnh dậy, nghe tiếng ếch nhái kêu dậy lên, Việt tự nhiên nhớ về những đêm đi soi ếch, nhớ “Khi đổ ếch vào thùng, chú Năm thế nào cũng sang”. Thế là hình ảnh chú Năm hiện lên với những câu hò và cuốn sổ gia đình cùng Ý nghĩa của nó. Lần thứ ba Việt tỉnh dậy, tiếng cu rừng nhắc Việt nhớ tới chiếc ná thun, rồi chiếc ná thun nhắc tới hành trang trong chiếc ba lô ngày nhập ngũ, ngày nhập ngũ là ngày má Việt vừa mất, thế là nỗi nhớ “chuyển vùng” sang hình ảnh của người má thân yêu. Việt tỉnh dậy lần thứ tư trong tiếng súng thôi thúc. Sự thôi thúc ấy khiến Việt liên hệ tới Ý nghĩ thôi thúc ngày đi bộ đội, liên hệ tới chuyện chị em giành nhau nhập ngũ trước, sau đó là chuyện mang bàn thờ má đi gửi bên nhà chú… Nhìn chung, nhà văn nắm rất chắc quy luật diễn biến tâm lí con người. Ông đã khéo léo tạo cho tác phẩm một hình thức kết cấu độc đáo tương đồng với kết cấu của những giấc mơ chập chờn, từ đó cứ mở rộng dần đối tượng được miêu tả và đi mỗi lúc một sau vào đời sống tâm hồn của nhân vật.
Trong khi làm sáng tỏ tâm lí nhân vật, nhà văn đã sử dụng một ngôn ngữ trần thuật đặc biệt phù hợp. Đấy là ngôn ngữ của chính nhân vật nói về mình và kể về người khác, mặc dù bề ngoài có vẻ là ngôn ngữ khách quan của người trần thuật. Điều đó thể hiện ngay ở cách xưng hô rất đỗi thân thương, gắn bó: “Việt” chứ không phải anh hay chú bé, “chị Chiến” chứ không phải cô, chị, “chú Năm” chứ không phải ông Năm, … Điều đó cũng thể hiện ở màu sắc địa phương của lời trần thuật: “Chú nói ít, nhưng đã nhậu vào ba hột là chú nói tới”, “Thím Năm vừa khóc vừa kể thôi là kể”, “hai bên giáp mặt, ba cười hề hề, nhưng má chẳng thèm dòm, hai mắt hứ một cái “cóc”, rồi đi thẳng” … Thật khó kể hết được những ví dụ sinh động như thế. Nhiều người từng biểu dương Nguyễn Thi rất thạo ngôn ngữ Nam bộ. Cần phải thấy rằng, cách sử dụng ngôn ngữ của ông ở đây trước hết có tác dụng làm nổi bật tâm lí những con người sống ở vùng đất ấy, sau nữa mới gọi dậy không khí của một vùng, một thời…
Những đứa con trong gia đình thể hiện khá rõ tài năng của Nguyễn Thi trên nhiều mặt: khả năng khái quát cao, khả năng dựng cảnh, dựng người và mô tả tâm lí sâu sắc, khả năng vận dụng ngôn ngữ Nam Bộ đầy linh hoạt, biến hóa và cả chất triết lí rất riêng toát lên từ chính hiện thực chứ không phải từ những lời trữ tình ngoại đề của tác giả. Tất nhiên, những phương diện tài năng ấy không biểu lộ riêng rẽ. Chúng hòa lẫn vào nhau hết sức tự nhiên đưa đến sức thuyết phục lớn cho tác phẩm, làm cho độc giả khi đọc tác phẩm không còn thấy đó là văn mà chỉ thấy đó là cuộc đời.
Hãy phân tích tâm lí và tính cách nhân vật Chiến?
Câu trả lời của bạn
Chiến sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, cha mẹ của Chiến bị kẻ thù giết hại rất dã man. Chị sớm gánh trên vai mối thù sâu nặng.
Chiến giống mẹ ở tính gan góc, chăm chỉ đảm đang, biết thu xếp việc nhà việc cửa đâu vào đấy trước lúc lên đường. Chiến cũng giống mẹ cả ở ngoại hình "thân người to và chắc nịch”, “bắp tay tròn vo sạm đỏ màu nắng”. Nhân vật chú Năm nhận xét: “Chiến là một đứa con gái không khác mẹ chút nào”.
Do trải qua hoàn cảnh bi thương của gia đình, Chiến sớm trưởng thành, già dặn trước tuổi. Chị luôn tự hào về gia đình và sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ quê hương.
Chiến dồn tình thương vào đứa em côi cút, hết lòng chăm sóc, nhường nhịn em (từ việc đi bắt ếch đến chuyện thành tích bắn chết tên lính Mĩ). Ngoại trừ việc đi bộ đội và khí phách thì không nhường Việt.
Từ ngôn ngữ đến cử chi, hành động của nhân vật Chiến đều gợi ra hình ảnh người con gái Nam Bộ thật thà, chất phác, duyên dáng, đảm đang, tháo vát... Đó cũng là hình ảnh của người con gái Việt Nam nói chung.
Màu sắc Nam Bộ trong truyện Những đứa con trong gia đình của tác giả Nguyễn Thi?
Câu trả lời của bạn
Truyện Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi là khúc tráng ca của tuổi trẻ miền Nam anh hùng thời đánh Mĩ.
Một trong những nét đặc sắc về nghệ thuật là Nguyễn Thi đã tạo nên màu sắc Nam Bộ, một dấu ấn tuyệt đẹp mà độc giả dễ dàng nhận thấy.
Màu sắc Nam Bộ biểu hiện rõ nhất là ở cảnh vật được miêu tả, ở sự việc được nói đến, ở tính cách và ngôn ngữ nhân vật được khắc họa (má Tư Năng, chú Năm, chị Chiến, Việt..).
Cảnh tượng chiến trường ở nơi nào, ở thời nào chẳng giống nhau, nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Thi, chiến trường sau tiếng bom rền đạn réo lại có nét riêng, rất Nam Bộ. Giữa đồng không mông quạnh “một sự vắng lặng như từ trên trời lao xuống.. ”, “tiếng dế gáy u u cao vút mãi lên” giữa đêm sâu thăm thẳm. Chính giữa không gian ấy, người chiến sĩ bị thương nặng, lạc đơn vị mới cảm thấy rõ nhất mình đang trở về kỉ niệm tuổi thơ, mình đang sống giữa quê hương (một nơi trên vùng đồng bằng Nam Bộ): “Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao trùm lẩy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vòm sông, cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà, Việt nằm thở dốc...".
Ngôi nhà má Tư Năng cũng như hàng ngàn hàng vạn mái nhà của bà con khắp vùng Hậu Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu, Bến Tre... ở cạnh các vàm, các kênh, bao trùm bởi màu xanh của rặng bần, của khóm đước, mà người Bắc rất dễ nhận ra: “Nhà day cửa ra sông, trong đêm vui náo nức này, đom đóm từ ngoài rặng bần cũng kéo vào đẩy nhà. Chúng bay chớp chớp như dò trên nóc rồi sà xuống mặt Việt”.
Màu sắc Nam Bộ được thể hiện ở những vật dụng, ở cái gia tài của má Tư Nàng để lại. Đó là “năm công ruộng hồi trước mấy chú cấp cho ba má”, là "hai công mía để dành làm đám giỗ ba má”, là những thứ làm ăn của nhà nông nghèo khó, lam lũ: nồi, lu, chén, đĩa, cuốc, vá, đèn soi mà chị em Việt sẽ gửi lại chú Nam, trước khi đi đánh giặc.
Cảnh đêm tòng quân của tuổi trẻ vùng đồng bằng Nam Bộ vui như ngày hội, bà con cô bác cả xã kéo đến, “dàn sáng rực”, hai chị em Chiến và Việt tranh giành nhau, làm cho anh các bộ “đã cầm viết rồi lại dật xuống”, chú Năm phải “nheo mắt nhìn” đứng ra phân xử: “Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cả hai. Việc lớn là tính theo việc lớn, còn việc thỏn mọn trong nhà tôi thu xếp khác xong”. Đó là tầm lòng, là ý nghĩ, là cách nói chất phác cùa bà con cô bác nơi miệt vườn vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Cảnh hỗn chiến giữa ta và giặc, cảnh tấn công như vũ bão của quân ta. qua sự lắng nghe, sự cảm nhận của Việt vừa hồi tỉnh sau cơn mê cũng mang nét rất riêng của Nam Bộ thời đánh Mĩ: “Việt góc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Đó là tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời đất hồi Đồng khởi”.
Màu sắc Nam Bộ được thể hiện rõ nhất ở tính cách và ngôn ngữ của các nhân vật như má Tư Năng, chú Năm, của Chiến, Việt.
Hình ảnh má Tư Năng dẫn đàn con đi đòi đầu ba, hình ảnh má Tư Năng hiên ngang, thách thức: “Vợ Tư Năng đây!” khi đứng trước mũi súng và lời hăm dọa của lũ giặc: “Vợ Tư Năng đâu?’'. Bọn lính bắn vọt qua đầu má, má đưa hai bàn tay to bản phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân. Má chèo xuồng, mà đi làm thuê, mà đi đấu tranh chính trị, má coi thường cái chết, vì má tin một cách mộc mạc, giản dị rằng “người chết có cái vui của người chết, nếu không, người ta sanh con ra làm gì?” Hình ảnh má Tư Năng làm ta nhớ đến câu nói: “Còn cái lai quần cùng đánh” của chị út Tịch trong Người mẹ cầm súng.
Cái cuốn sổ ghi bao việc “thỏn mọn” trong gia đình bằng thứ chữ “lòng còng" Chuyện thím Năm, ông nội, bác Hai, tía của Việt... bị giặc giết như thế nào, các chiến tích của ông nội, của thằng Hai, của chị em Việt, chú đều ghi rõ. Cuốn sổ ấy là truyền thống cách mạng của gia đình má Tư Năng, cũng là của hàng vạn gia đình nông dân Nam Bộ trong suốt ba mươi năm trời đánh Pháp, đánh Mĩ.
Nguyễn Thi có tài sử dụng một số chi tiết nghệ thuật bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, nâng lên tầm khái quát, tô đậm màu sắc Nam Bộ. Tiếng hò của chú Năm là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc, độc đáo của Nguyễn Thi tạo dựng nên. Giọng hò của chú Năm “đục và tức như gà gáy". Đã nhiều lần chú cất giọng hò. Trước bữa cúng má Tư Năng, chị em Việt Chiến sắp lên đường ra trận, chú Năm cất giọng hò: “Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngất lại như một lời thề dữ dội”.
Chị Chiến giống má như đúc. Chiến cũng có hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng như má. Tiếng “cóc”, tiếng “nghen”, tiếng “ừ”, tiếng chân bước *bịch bịch " của Chiến có khác nào má, “in như má vậy”. Bàn việc thu xếp nhà cửa trước khi đi đánh giặc, nghe em nói, Chiến “hứ một cái “cóc" rồi trở mình. May mà chị không bẻ tay rồi đập vào bắp vế than mỏi” như má. Chiến đảm đang, sớm biết lo liệu, thường nhường nhịn em, chú Năm đã hết lời ca ngợi: “Không! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, nặng nề nước non”. Chiến có tư thế hiên ngang, quyết liệt như các o du kích vườn dừa Bến Tre: “Đã làm thân con gái ra đi thì tao chí có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”.
Việt là hình ảnh đẹp nhất, in đậm màu sắc Nam Bộ nhất trong truyện Những đứa con trong gia đình. Nụ cười “lỏn lẻn”, hai gò má “cũng mướt như da trái vú sữa", cái ná thun của tuổi thơ vẫn mang theo khi đi bộ đội, Việt rất giống ba, mỗi lần nghe tiếng ná thun của Việt, má Việt lại nói: “Đó, lại giống cái thằng cha nó rồi!”. Việt hồn nhiên, trong sáng hay tranh giành với chị, nhưng lại “giấu chị như giấu của riêng’’ trước đồng đội. Dũng cảm trong chiến đấu, không sợ giặc nhưng lại sợ “thằng chỏng thụt lười”, ‘‘con ma cụt đầu"... Mới hai tuổi quân dã lập công tiêu diệt một xe bọc thép Mĩ; bị trọng thương, lạc đơn vị, nằm giữa chiến trường, tuy chỉ còn một viên đạn đã lên nòng. Việt “vẫn sẵn sàng nổ súng", “Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”... Hình ảnh Việt theo má lên tới quận “đòi đầu ba", hình ảnh Việt trong đêm tòng quân, trong cảnh cùng chị gái khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm đã làm ta nhớ mãi, nhớ đứa con trai má Tư Năng, nhớ một chàng trai mới lớn vùng miệt vườn đồng bằng sông Cửu Long thời chống Mĩ. Việt là hình bóng của quê hương; Việt là hiện thân trong câu hò của chú Năm: "... khi thì Việt biến thành tấm áo vá quàng hoặc con sông dài cá lội cùa chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công, hoặc ngôi sao sáng ờ Tháp Mười”.
Thời chống Mĩ, tuổi trẻ cả nước ta nung nấu một lời thề: “Ra đi chỉ một lời thề - Chưa giết hết giặc chưa về quê hương”. Việt và chị gái khi khiêng bàn thờ má đi gửi cũng đinh ninh một lời thề: “Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập, con lại đưa má về”.
“Những đứa con trong gia đình'’ đã kết tinh nghệ thuật của ngòi bút Nguyễn Thi. Nghệ thuật kể chuyện, dựng cảnh, tạo hình, chọn chi tiết điển hình, phân tích tâm lí nhân vật, cá biệt hóa ngôn ngữ nhân vật... tất cả đều mang màu sắc và hương vị Nam Bộ. Màu sắc Nam Bộ tạo nên hồn cốt phong cách ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Thi trong Người mẹ cầm súng và Những đứa con trong gia đình.
Sự thành công đó đã khẳng định vị thế được tôn vinh của Nguyễn Thi là "nhà văn của người nông dân Nam Bộ thời chống Mĩ”.
Có ý kiến cho rằng: “Nguyễn Thi là nhà văn của những người nông dân Nam Bộ” trong thời kì ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Câu trả lời của bạn
Chúng ta đã được học và đọc những tác phẩm cùa Nguyễn Thi viết về đề tài người nông dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Trong các tác phẩm ấy, Nguyền Thi đã tỏ ra xứng đáng là nhà văn của người nông dân Nam Bộ. Nhà văn thật sự gần gũi với người nông dân, đã phản ánh và thể hiện đúng phẩm chất, tính cách của người nông dân Nam Bộ trong thời kì ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình là một minh chứng cho nhận định đó.
Nguyễn Thi sinh ra ở Hải Hậu (Nam Định), nhưng có mối duyên ràng buộc với vùng đất Nam Bộ và trở thành cây bút nói lên tiếng nói tâm tình của miền nắng gió. Sau những năm tháng lăn lộn ở Sài Gòn kiếm sống, được tập kết ra Bắc, rồi lại trở vào Nam sát cánh cùng nhân dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến. Nguyễn Thi đã có một vốn hiểu biết sâu sắc, có sự đồng cảm và gắn bó máu thịt với vùng đất sông nước này.
Truyện Những đứa con trong gia đình kể về sự tiếp nối của nhiều thế hệ khác nhau trong một đại gia dinh, cùng một chí nguyện đánh giặc, hết giặc Pháp đến giặc Mĩ. Thế hệ trước hết là ba má của Chiến, Việt, và chú Năm, sau đó là chị em Chiến và Việt... ở mỗi thế hệ đều ghi dấu ấn riêng và truyền thống của gia đình.
Những đứa con trong gia đình ấy, đầu tiên là ba, má, chú Năm. Người còn, người mất, nhưng họ chính là đại diện cho truyền thống đẹp đẽ của cha ông. Trong gia đình ấy, nhiều người đã chết vì bị giặc giết, còn lại chú Năm - một người “đi đây đi đó nhiều”, và đặc biệt là “cũng ham sông ham bến". Chú Năm chính là cuốn gia phả sống của gia đình, là đại diện cho truyền thống gia đình đánh giặc.
Trong cả truyện, chỉ có chú Năm là hay hò nhất. Chú Năm hò không hay, bởi vì “giọng hò ấy đã đục và tức như gà gáy”, mỗi khi chú cất giọng thì chị em Chiến đều bịt miệng cười. Mỗi khi cất giọng “đôi mắt chú mở to, đọng nước, nhìn thẳng vào mắt Việt, đầu chú lắc lư, nhắn nhủ, làm như Việt chính là nơi cụ thể để chú gửi gắm những câu hò đó... Và chú chỉ cất giọng hò khi chú kể sự tích gia đình và cuối câu chuyện thế nào chú cũng hò lên mấy câu, những câu nói về cuộc đời cơ cực của chú và những chiến công của đất này”. Theo tiếng hò của chú, khi thì Việt biến thành tấm áo vá quàng hoặc con sông dài cá lội của chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định. ngọn đèn biển Gò Công hoặc ngôi sao sáng ở Tháp Mười”. Qua những hình ảnh như “tấm vá quàng”, “sông dài cá lội”... trong câu hò, người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công ấy đã nhắc nhở con cháu nhớ về ngọn nguồn, về hồn thiêng sông núi của cha ông bốn nghìn năm nay.
Cùng với tiếng hò, chú Năm còn tạo nên ấn tượng cho người đọc bởi chi tiết: chú có một cuốn sổ - đó là biên niên sử của cả gia đình. Cuốn sổ đặc biệt ấy lại được ghi bằng một thứ chữ cũng đặc biệt không kém. “Chữ chú lòng khòng vì hồi đi đánh Tây, chú mới được học”. Cuốn sổ còn đặc biệt vì nó được chép bằng lời văn mộc mạc, nó ghi lại cả việc “thím Năm bị bắn bể xuồng khi rọc lá chuối”, chết còn mặc quần mới, trong túi còn hai đồng bạc”, hay chuyện ông nội ra nằm giàn bò bị lính bắn chết... Rồi cặn kẽ hơn nữa, ngày bà nội bị chúng đánh: chính xác, cặn kẽ đến mức đánh ba roi... chú gọi đấy là những việc “thỏn mỏn”, nhưng đó chính là những bằng chứng xác thực nhất về nợ máu của kẻ thù đối với vùng đất và con người chốn này. Cuốn sổ ấy, với chú Nàm là một bảo vật, chú cất giữ rất kĩ càng, để truyền lại cho các thế hệ sau.
Bên cạnh chú Năm là má của Chiến và Việt, một người phụ nữ mà cả cuộc đời dành cho chồng con và cho cách mạng. Đó là một người mẹ có vẻ đẹp mạnh mẽ. “Cái gáy đó, đôi vai lực lưỡng, chiếc nón rách, tâm áo bà ba đẫm mồ hôi chồng hoạt động cách mạng, bị chặt đầu nhưng má cố kìm nén không để rơi nước mắt: ‘‘Chiều hôm ấy, về tới nhà má mới khóc... Bao nhiêu năm sau đó cũng vậy, lúc nào nói đến chuyện trên, má cũng không khóc”. Mà nếu có lệ ứa ra thì “má chỉ nằm khóc chứ không kể lể chi hết”. “Ba mày bị Tây chặt đầu, tao cứ đi theo cái thằng xách đầu mà đòi. Đi từ ấp trong đến ấp ngoài, nó qua sông tao cũng qua, nó về quận tao cũng tới. Một tay tao bồng em mày, một tay cắp rổ...”. Câu chuyện về cái chết của người thân yêu trong gia đình cũng được kể bằng các giọng thật hồn nhiên.. Sự yêu thương, tình nghĩa đối với người phụ nữ ấy cũng được thể hiện một cách đau đớn, và mạnh mẽ dường ấy. Một người vợ tay bồng con, tay cắp rổ đi theo giặc để đòi đầu chồng. Một người mẹ dám hiên ngang không ai sinh ra là để đương đầu với hiện thực khốc liệt của xứ này. Nguyễn Thi đã tạo nên một hình tượng bình thường mà rất lạ về người mẹ mộc mạc, chất phác, mạnh mẽ ở một vùng đất có quá nhiều thử thách khốc Liệt.
Người mẹ ấy cuối cùng cũng ngã xuống vì bom đạn của kẻ thù, của chiến tranh tàn bạo. Truyền thống của gia đình lại được bồi thêm một dòng máu nóng của tinh thần chống giặc ngoại xâm.
Trong thế hệ hiện tại của gia đình có Chiến và Việt - những đứa con nối tiếp truyền thống vẻ vang của gia đình. Chiến có vóc dáng giống mẹ: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng”, và thân hình thì “to và chắc nịch”. Chiến không chỉ giống mẹ ở hình thức bên ngoài mà còn ở cả tính cách mạnh mẽ, xốc vác. Nói đến giống má, thì không có chỗ nào Chiến giống má như cái đêm hai chị em bàn tính việc nhà để đi bộ đội. Từ câu nói khẳng khái với chú Năm: “Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn, thì tao mất, vậy à”, đến những tính toán để lo sao cho chu đáo việc nhà; từ việc gửi bàn thờ má, thằng út sang nhà chú Năm cho đến việc chi bộ mượn nhà, bàn ghế để mở lớp học; từ việc hôm nay, chị Chiến cũng ở nằm ở buồng trong với thằng Út nói ra cho đến cái “cóc” rồi trở mình. Đến nỗi có tới ba lần Việt thấy chị Chiến giống y như má. Chính chị Chiến đêm nay dường như đang hòa vào trong mẹ: "Tao lựa ý nếu má còn sống, chắc má cũng tính vậy”... trong cái thời điểm linh thiêng ấy. người mẹ hiện diện rõ nét, nhất trong những đứa con của mình: “Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến thành đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa cầm nón quạt”.
Chiến giống má, đó là điều không ai phủ nhận, nhưng trong dòng chảy của dòng sông gia đình, chị là khúc sông sau, mà khúc sông sau bao giờ cũng thế, cũng đi xa hơn, chảy xa hơn. Chiến khác mẹ không phải là ở chiếc giường ở trong túi mà trong tưởng tượng của Việt, nó theo Chiến ra tận chiến trường cũng không phải là cái dáng trẻ trung “kẹp một nhúm tóc mai bó vào miệng", hay tính thích cười. Người mẹ trước nỗi đau mất chồng chỉ biết kìm nén, nuốt vào sâu thẳm tâm hồn những đau đớn mất mát. Chiến không thể trưởng thành, Chiến đi bộ đội để trả thù nước, đòi nợ nhà với một quyết tâm sắt đá: Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã là thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”... Với người con gái ấy, yêu thương gắn liền với căm thù, và tình cảm ấy biến thành những hành động cụ thể là: giết giặc. cứu nước. Đó là lời thề sắt đá, là quyết tâm của cô gái trẻ, như chân lí sống đau khổ nhưng hào hùng của cả một thời đại.
Nhân vật trung tâm của truyện là Việt, cậu em trai còn mang nhiều nét tính cách trẻ con nhưng cũng là một đứa con rất đỗi tự hào trong gia đình có truyền thống đánh giặc.
Nét nổi bặt trong hình ảnh của Việt tạo nên ấn tượng trong lòng người đọc đó chính là cái vẻ “tộc ngộc”, vô tư cua một cậu con trai đang tuổi ăn tuổi lớn. Chiến nhường nhịn bao nhiêu thì Việt lại hay tranh giành bấy nhiêu. Việt tranh với chị từ việc ai bắt được ếch nhiều hơn để mồi lần chú Năm lại phải đứng ra để phân xử, cho đến việc ai được đi bộ đội trước. Trong cái đêm trang trọng trước khi đi bộ đội, mặc cho chị Chiến sắp xếp, tính toán, Việt lúc thì “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, lúc lại chụp một con đom đóm trong bàn tay”. Với cậu, đi bộ đội là mục đích lớn nhất đã được thỏa mãn thì bây giờ tất cả những việc khác dường như không đáng để lưu tâm. Cậu còn mang tính cách trẻ con ngay khi đã vào bộ đội. Chị Chiến mang đi cái gương, vật tùy thân của người con gái, thì Việt đi bộ đội nhưng lại mang một ná thun - một trò chơi của tuổi thơ.
Bên cạnh thành công trong việc xây dựng những tính cách điển hình của người nông dân Nam Bộ, truyện ngắn ngày còn có một thành công đặc sắc trong việc lựa chọn cách kể chuyện mà chúng ta thường gọi là nghệ thuật tự sự. Câu chuyện về gia đìah được thuật lại không phải hoàn toàn theo trật tự thời gian tuyến tính mà chủ yếu là theo nhịp dòng hồi tướng đứt đoạn của Việt khi Việt tỉnh dậy rồi lại ngất đi vì bị thương. Nguyễn Thi đã ý thức được điểm mạnh của lối trần thuật này. Nó có thế xóa nhòa những giới hạn của không gian và thời gian, nó có thể đi từ hiện tại về quá khứ trong dòng hồi tưởng của nhân vật.
Chẳng hạn, khi Việt tỉnh dậy lần thứ hai “lúc trời đã lất phất mưa. Tiếng máy bay tắt hẳn, chỉ còn hơi gió lạnh lùa trên má. Ếch nhái kêu dậy lên”. Tiếng kêu của ếch nhái dẫn Việt trở về với kỉ niệm của những ngày chưa đi bộ đội. Cứ trời dứt hột Việt đã cởi trần ra hai chị em hai cái đèn soi lóp ngóp đi. Cười từ lúc đi cho đến lúc về. Từ những tiếng ếch của đêm mưa, dòng hồi tưởng của nhân vật cứ miên man. Các nhân vật cứ thế xuất hiện, rất tự nhiên.
Cậu con trai mang cái vẻ tộc ngộc, vô tư đáng yêu ấy dám xông vào đá cái thằng đã giết cha mình. Lớn hơn một chút, Việt đã bắn cháy tàu của Mĩ trên sông Định Thủy, mà theo lời của chú Năm, để công bằng, chú đã ghi tên cả hai chị em trong chiến công đó. Đến khi đi bộ đội bị thương vào mắt, hai bàn tay đau đớn. nhưng Việt vẫn quyết tâm sống mái với kẻ thù: “Trên trời có mày, dưới đất có mày, khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Việt không chịu lùi bước, không chịu thất bại, mỗi khoảnh khắc đều là ý thức đương đầu sống chết với kẻ thù. Việt giản dị. tự nhiên như cánh đồng nước, con sông, cây cối của xứ sở này. Vậy nên, dù là đánh giặc hay đi bắt ếch hoặc bắn ná thun trong vườn chim, tất cả đều hồn hậu, chất phác, bình dị...
Những đứa con trong gia đình là câu chuvện của một gia đình cụ thể của đồng bào Nam Bộ, nhưng qua đó tác giả đã khái quát được không khí của cả một thời đại, một dân tộc trong hai cuộc kháng chiến trường kì chống Pháp và chống Mĩ. Ở đây, con người đã thích nghi với hoàn cảnh chiến trường, và điều đáng quý là họ không bao giờ chịu khuất phục, dẫu có phải hi sinh nhiều thế hệ nhưng vẫn một lòng một dạ kiên trung, quyết đánh giặc đến hơi thở cuối cùng.
Qua sự hồi tưởng của nhân vật, gợi lại những câu chuyện đời thường của một gia đình có truyền thống đánh giặc. Nguyễn Thi muốn phản ánh và ngợi ca tinh thần bất khuất, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta nói chung và đồng bào Nam Bộ nói riêng. Trong tác phẩm, truyền thống ấy được thể hiện một cách đặc trưng qua tính cách của những người nông dân Nam Bộ trong cuộc chiến ác liệt chống giặc Mĩ. Họ “hồn nhiên, vui đời, bộc trực nhưng căm thù ngùn ngụt đối với quân cướp nước - những con người vô cùng gan góc, dường như sinh ra để cầm súng giết giặc, sẵn sàng chết vì quê hương mình, vì đồng bào mình”.
Phân tích tâm lí, tính cách nhân vật Việt trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi?
Câu trả lời của bạn
Việt là cậu con trai mới lớn, có vẻ đẹp riêng của người con trai Nam Bộ.
Việt hồn nhiên trong sáng: gửi người giữ cái ná thun khi đi đánh giặc; thương yêu chị đến nỗi sợ mất chị nên giấu thật kĩ việc mình có chị gái; khi bị thương Việt không sợ chết mà sợ bóng đêm, sợ ma; tranh giành việc đi soi ếch đến việc lập công, đi bộ đội với chị gái. Nguyễn Thi chú ý tô đậm tiếng cười trẻ trung, trong trẻo của Việt.
Việt thương yêu gia đình, luôn trân trọng những kỉ niệm sâu nặng về quê hương, về tuổi thơ: thương mẹ, thương chị và chú Năm; cùng chị chuyển bàn thờ cha mẹ qua gửi chú Năm; khi bị thương nặng hình ảnh của cha mẹ cứ chập chờn ẩn hiện trong ánh hào quang kí ức của Việt; ... Tất cả những điều này góp phần khẳng định sự thực: chính sức mạnh tinh thần to lớn đã giúp Việt vượt qua cái chết để tồn tại.
Việt mang trong mình phẩm chất người anh hùng: chiến đấu dũng mãnh “gan lì”, cùng chị bắn cháy tàu giặc; dù bị thương và kiệt sức nhưng vẫn cố gắng chiến đấu Việt tiếp nối và làm rạng rỡ truyền thống đánh giặc cứu nước của gia đình. Chẳng phải ngẫu nhiên, Nguyễn Thi (qua lời nhân vật chú Năm) ví gia đình Việt với hình ảnh một con sóng mà mỗi người ứng với một khúc của con sông đó. Việt và người chị của mình trở thành khúc sông sau nối dòng sông chảy ra biển lớn.
Đoạn kể lại hai chị em Việt, Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm gây cho người đọc nhiểu xúc động trong Những đứa con trong gia đình. Hãy chứng minh.
Câu trả lời của bạn
Đoạn kể lại hai chị em Việt, Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm gây cho người đọc nhiều xúc động.
Đoạn kể hai chị em Việt, Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm có giá trị tư tưởng đặc sắc. Đoạn văn ấy chẳng những bộc lộ lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm trả thù cho ba má, quê hương mà còn cho thấy tâm tình thành kính thiêng liêng của hai người con đối với cha mẹ. Chiến tỏ ra chu đáo đảm đang. Việt đồng lòng nhất trí với cách làm của chị. Cả hai chị em biết bảo nhau, thương yêu nhau, biết thu vén trọn vẹn chuyện gia đình để yên tâm lên đường đánh giặc. Những tình tiết ấy gây xúc động xâu xa đối với người đọc.
Phân tích chất Nam Bộ thể hiện ở tính cách và ngôn ngữ các nhân vật Chiến, Việt và chú Năm trong Những đứa con trong gia đình?
Câu trả lời của bạn
Chất Nam Bộ thể hiện ở tính cách và ngôn ngữ các nhân vật Chiến, Việt và chú Năm:
Phân tích nét đặc sắc về tầm khái quát nghệ thuật đồng hiện trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi?
Câu trả lời của bạn
Nhà văn Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, người Nam Hà. Ông vào Nam từ năm 1945, gia nhập quân đội và viết văn dưới bút danh Nguyễn Khọc Tấn. Tập kết ra Bắc năm 1954, năm 1962 ông trở lại miền Nam lần thứ hai, viết văn dưới bút danh Nguyễn Thi. Năm 1968, ông hi sinh tại Sài Gòn trong lúc ngòi bút còn đầy sung sức và nhiệt huyết. Là nhà văn chiến sĩ, Nguyễn Thi có nhiều đóng góp cho nền văn học cách mạng. Một trong những đóng góp đáng kể của ông về nghệ thuật là sự thể hiện thành công nghệ thuật đồng hiện ở truyện Những đứa con trong gia đình (1966).
Theo nghĩa đen “đồng hiện” là “cùng thể hiện”. Trong truyện, đây chỉ là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc về kết cấu tác phẩm, một yếu tố thuộc về hình thức. Như ta đã biết , kết cấu là việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố nội dung trong văn bản tác phẩm để nó đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất. Thủ pháp đồng hiện góp một vai trò quan trọng trong công việc này. Nó là một trong những thủ pháp tạo ra được lối kết cấu độc đáo. Từ đó, cốt truyện, nhân vật, chủ đề được thể hiện, gây hiệu quả nghệ thuật tác động đến độc giả... Nét độc đáo của nghệ thuật đồng hiện là cùng một lúc các sự kiện, các tình tiết, các nhân vật (hay các nét tính cách của nhân vật) được thể hiện trong một thời gian, một không gian hay trong một mảnh thời gian và không gian khác nhau.
Trong truyện Những đứa con trong gia đình nghệ thuật đồng hiện được thể hiện khá tinh tế. Dựa trên kết cấu lấy dòng suy tưởng làm nền. Nguyễn Thi đồng thể hiện các sự kiện trong một thời điểm, các nhân vật (và các nét tính cách của nó) trong cả hai mảnh thời gian hiện tại và quá khứ đan xen nhau rất có hiệu quả.
Trước hết xin nói về cách đồng hiện các sự kiện trong một thời điểm ở truyện Những đứa con trong gia đình.
Sau cuộc giao tranh ác liệt giữa đơn vị của Việt và một chiến đoàn Mĩ, Việt bị thương nặng, ngất đi. Việt tỉnh dậy, trận địa vắng tanh, “trừ tiếng máy bay”. Chiến trường vẫn còn nguyên vẹn với những chiếc xe tăng, xe bọc thép cháy, những vỏ đạn tanh máu, xác lính Mĩ bốc mùi... “Việt cho mũi lê đi trước”, “Lên đạn”... sẵn sàng “phụ với các anh”, trận đánh được miêu tả hình như chưa kết thúc. Thời điểm để nhà văn chọn miêu tả thời gian trước và sau trận đánh hình như là thời điểm ở giữa thời gian này? Mặt khác, những chi tiết truyện, theo phân tích trên, không phải là đã kết thúc, cũng không phải là đang xảy ra. Nó là sự kiện đang xảy ra. đã xảy ra và được nhìn trong cái đã kết thúc, sắp kết thúc. Nói cho dễ hiểu hơn, người ta thấy được trận đánh đã và sẽ xảy ra như thế nào ở một thời điểm ở trong nó. Nhìn vào những gì xảy ra ở thời điểm đó, người ta thấy tất cả.
Bây giờ thì Việt đã ở quân y viện. Anh có thời gian trị vết thương, đồng thời cũng có cả thời gian để mà ôn lại, nhớ lại. Thành ra anh có thể thấy được cả mảng đời trong hiện tại của mình và có thể nhớ lại cả mảng đời của gia đình mình trong quá khứ. Anh như lần về quá khứ từ gần đến xa lắc. Thông qua dòng độc thoại diễn ra trong Việt ở các thời điểm nằm ở quân y viện kia bao nhiêu sự kiện vui buồn, bao nhiêu số phận con người trong chiến tranh như cùng về một lúc. Lần lượt nhưng không theo một trình tự nào, Những đứa con trong gia đình giàu truyền thông cách mạng của anh được tái hiện ở những nét tính cách chung và riêng rẽ như họ đang ở trước mặt.
Nhân vật trung tâm là Việt. Dù ở thời gian, không gian nào, nhân vật cũng được khắc họa song song hai nét tính cách cơ bản: chiến sĩ - trẻ thơ.
Ở quân y viện “Hai mắt còn khăng kín mít” dấu tích của người lính dũng cảm. Việt “với cây viết chì... mò mò viết thử". Anh không dám nhờ người khác viết thư cho chị. Anh sợ cái tiếng “cậu tư”. Sợ mất “chị ba” quyết chiến. Anh “giấu chị như giấu của riêng vậy”. Thật là ngây thơ! Cái ngây thơ đáng yêu của một anh lính trẻ, dũng cảm thật đấy mà cũng khờ khạo thật đấy trước cuộc đời. Ngay cả chuyện đùa vui của anh em theo lối tếu táo của lính anh cũng tưởng là chuyện thật!
Trên chiến trường ngổn ngang xác giặc, Việt ngất đi rồi tỉnh lại nhiều lần dù đã kiệt sức, người lính trẻ ấy vẫn sẵn sàng chiến đấu tiếp nếu kẻ thù xuất hiện. Thế mà khi nghe “ếch nhái kêu dậy lên”, Việt bỗng trở thành chú bé con có “hai cái đèn soi, lóp ngóp đi” soi ếch cùng chị. “Chiến và Việt ai cũng giành phần nhiều là của mình ", em cũng không chịu nhường ai đi trước, chú Năm phải đứng ra “xin trên cứ ghi tên cho cả hai”...
Qua một vài điều đã nói trên, ta thấy thủ pháp nghệ thuật để thực hiện nghệ thuật đồng hiện trong khi khắc họa nhân vật Việt, chủ yếu dựa trên cơ sở của phép liên tưởng, phép bắc cầu từ sự kiện này sang sự kiện khác; từ chi tiết, nhân vật này sang chi tiết nhân vật kia... Trong sự liên kết đó, dòng hồi tưởng của nhân vật vẫn là sợi dây nối quan trọng nhất. Từ chi tiết anh em trong quân y viện gọi anh là “cậu tư”. Việt chợt nhớ tới chị Chiến, nhớ tới tiểu đội trưởng Tánh. Anh muốn viết thư cho chị nhưng khó có thế viết được vì hai mắt vẫn còn bị băng kín. Thế là Việt nhớ lại lần chị bị trúng bom, nhớ lại trận đánh của chính mình. Việt nhớ lại trong trận đánh, anh đã ngất đi; tỉnh lại, bỗng nghe thấy tiếng ếch và cùng lúc đó, tuổi thơ, những ngày xa xưa uất hận cùng ùa về trong trí nhớ... Các tình tiết truyện diễn ra rất tự nhiên. Thủ pháp nghệ thuật này ta đã gặp ở truyện: Đôi mắt của Nam Cao. Ở đó, câu chuyện cũng diễn ra theo dòng hồi tưởng của nhân vật Độ. Khác chăng là Nam Cao để Độ xưng “tôi” và tự kể. Còn ở đây, Nguyễn Thi trực tiếp miêu tả diễn biến tâm trạng Việt. Ông vừa miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật vừa để cho tâm trạng ấy nói lên câu chuyện mình muốn kể. Có lẽ đây cũng là một lối kể chuyện độc đáo, sáng tạo.
Vẫn bằng cách trên, theo dòng độc thoại của nhân vật Việt, tác giả lần lượt cho xuất hiện và đồng hiện các nhân vật Chiến, chú Năm, ba má Việt, Tánh.
Cũng như Việt, Chiến tòng quân và chiến đấu trong một tiểu đội bộ đội nữ địa phương. Chị đã chiến đấu dũng cảm, coi cái chết cũng chỉ như “chết giấc", 'như ta đang ngủ vậy". Chiến chỉ khác Việt ở chỗ, là người chị cả trong gia đình nên sớm trường thành. Chị theo mẹ nuôi và dạy dỗ em, lo toan tính toán tất cả mọi việc trong nhà. Là người chị cả của gia đình, Chiến dứt khoát không nhường em là việc ghi tên để tòng quân. Nhớ và nghĩ về người chị, dòng tâm tưởng của Việt như cố dừng lại ở những kỉ niệm đẹp khó quên.
Chú Năm cũng chỉ là một nhân vật thoáng qua trong dòng tâm tưởng, gợi lên từ một tiếng ếch trên chiến địa đã im tiếng súng.. Mỗi lần Việt và Chiến soi ếch về, chú đều “kiếm con trọng trọng đem về nhậu”. Có hai đoạn văn đẹp như thơ là đoạn chú Năm “nhậu vào ba hột là chú nói tới", hay “hò lên mấy cáu”. Câu hò khiến chú xúc động “đôi mắt mở to, đọng nước. Đoạn văn khác kể về cuốn sổ gia đình chú ghi, hầu để sau này “giao... cho chị em bây”. Cuốn sổ lần về quá khứ lẫn trong hiện tại, không theo năm tháng. Đó là chứng tích lịch sử được khơi dậy lại, chéo lại bởi cái nhìn, cái cảm, cái yêu, cái ghét cùa một tính cách Nam Bộ trọng nghĩa, bộc trực, sôi nổi, yêu đời.
Ba và má Việt hiện về trong Việt như những kỉ niệm về lòng yêu thương và căm thù. Tình yêu cùa ba má, con đường của ba và tội ác của giặc khiến chị em Việt không thể không lên đường cứu nước. Những đoạn văn này Nguyễn Thi như đồng cảm với nhân vật và viết nên bằng nước mắt. Đọc, thấy xúc động cùng nhân vật; đau nỗi đau cùng nhân vật...
Hai nét chính yếu của Nghệ Thuật đồng hiện trong Những đứa con trong gia đình mà ta vừa phân tích trên, có nhiều tác dụng đối với truyện. Chính nó làm cho câu chuyện thảm khốc và hào hùng, đậm đà tình người... tưởng như chập chờn, dứt nối, rời rạc., liền lại trong mạch ngầm tâm tường khá chặt chẽ. Chặt chẽ nhưng vẫn giữ được cái vẻ bề bộn của tầng tầng lớp lớp chi tiết trong cuộc sống thường và trong chiến trận hồi chiến tranh. Các mảng sự kiện, những đoạn đời trong quá khứ và hiện tại như được cố tình đan chéo vào nhau, bố sung cho nhau một cách hợp lí, làm cho tính cách nhân vật được khác họa rõ nét và chủ đề truyện được bộc lộ khá nổi bật. Lối kết cấu đặc biệt này buộc tác giả phải đi đến tận cùng trong việc phân tích và diễn đạt diễn biến phức tạp nhưng tinh tế của tâm lí nhân vật. Nó cũng đòi hòi nhà văn phải nhập thân như người trong cuộc, am hiểu và đồng cảm với nhân vật. Tất cả những điều này, Nguyễn Thi đều vượt qua và thể hiện rất thành công.
Nghệ thuật đồng hiện trong Những đứa con trong gia đình có tầm khái quát bởi những thủ pháp chính của lối kết cấu này hầu hết đã được Nguyễn Thi thể hiện thành công trong truyện. Thực ra lôi kết cấu này không mới. Cái mới ở đây là nó được thực hiện khá toàn diện và đạt được những đỉnh cao. Những đỉnh cao này ghi dấu những đóng góp quý báu của Nguyễn Thi trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, đặc biệt là bộ phận văn học viết về đề tài chiến tranh và cách mạng.
Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Thi là nhà văn của những người nông dân Nam Bộ trong thời kì ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Qua truyện ngắn Những đứa con trong gia đình, hãy làm sáng tỏ nhận định trên?
Câu trả lời của bạn
Chúng ta đã được học và đọc những tác phẩm của Nguyễn Thi viết về đề tài người nông dàn Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Trong các tác phẩm ấy, Nguyễn Thi đã tỏ ra xứng đáng là nhà văn của người nông dân Nam Bộ. Nhà văn thật sự gần gũi với người nông dân, đã phản ánh và thể hiện đúng phẩm chất, tính cách của người nông dân Nam Bộ trong thời ki ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình là một minh chứng cho nhận định đó.
Nguyễn Thi sinh ra ở Hải Hậu (Nam Định), nhưng có mối duyên ràng buộc với vùng đất Nam Bộ và trở thành cây bút nói lên tiếng nói tâm tình của miền nắng gió. Sau những năm tháng lăn lộn ở Sài Gòn kiếm sống, được tập kết ra Bắc. rồi lại trở vào Nam sát cánh cùng nhân dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến. Nguyễn Thi đã có một vốn hiểu biết sâu sắc, có sự đồng cảm và gắn bó máu thịt với vùng đất sông nước này.
Truyện Những đứa con trong gia đình kể về sự tiếp nối của nhiều thế hệ khác nhau trong một đại gia đình, cùng một chí nguyện đánh giặc, hết giặc Pháp đến giặc Mĩ. Thế hệ trước hết là ba má của Chiến, Việt, và chú Năm sau đó là chị em Chiến và Việt...ở mỗi thế hệ đều ghi dấu ấn riêng và truyền thống của gia đình.
Những đứa con trong gia đình ấy, đầu tiên là ba, má, chú Năm sau đó là chị em Việt và Chiến,họ chính là đại diện cho truyền thống đẹp đẽ của cha ông.
Trong gia đình ấy, nhiều người đã chết vi bị giặc giết, còn lại chú Năm - một người “đi đây đi đó nhiều”, và đặc biệt là “cũng ham sông ham bến". Chú Năm chính lá cuốn gia phả sống của gia đình, là đại diện cho truyền thống gia đình đánh giặc.
Trong cả truyện, chỉ có chú Năm là hay hò nhất. Chú Năm hò không hay, bởi vì “giọng hò ấy đã đục và tức như gà gáy”, mỗi khi chú cất giọng thì chị em Chiến đều bịt miệng cười. Mỗi khi cất giọng “đôi mắt chú mở to, đọng nước, nhìn thẳng vào mắt Việt, đầu chú lắc lư, nhắn nhủ, làm như Việt là nơi cụ thể để chú gứi gắm những câu hò đó... Và chú chỉ cất giọng hò khi chú kể sự tích gia đình và cuối câu chuyện thế nào chú cũng hò lên mấy câu, những câu nói về cuộc đời cơ cực của chú và những chiến công của đất này"Theo tiếng hò của chú, khi thì Việt biến thành tấm áo vá quàng hoặc con sông đầy cá lội của chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biến Gò Công hoặc ngôi sao sáng ở Tháp Mười” Qua những hình ảnh như “tấm vá quàng”, “sông dài cá lội”... trong câu hò, người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công ấy đã nhắc nhở con cháu nhớ về ngọn nguồn, về hồn thiêng sông núi của cha ông bốn nghìn năm nay.
Cùng với tiếng hò, chú Năm còn tạo nên ấn tượng cho người đọc bởi chi tiết: chú có một cuốn sổ - đó là biên niên sử của cả gia đình. Cuốn sổ đặc biệt ấy lại được ghi bằng một thứ chữ cũng đặc biệt không kém. “Chữ chú lòng khòng vì hồi đi đánh Tây, chú mới được học”. Cuốn sổ còn đặc biệt vì nó được chép bằng lời văn mộc mạc, nó ghi lại cả việc “thím Năm bị bắn bể xuồng khi rọc lá chuối”, chết còn mặc quần mới, trong túi còn hai đồng bạc”, hay chuyện ông nội ra nằm giàn bò bị lính bắn chết... Rồi cặn kẽ hơn nữa, ngày bà nội bị chúng đánh: chính xác, cặn kẽ đến mức đánh ba roi... chú gọi đấy là những việc “thỏn món”, nhưng đó chính là những bằng chứng xác thực nhất về nợ máu của ké thù đối với vùng đất và con người chốn này. Cuốn sổ ấy, với chú Năm là một bảo vật, chú cất giữ rất kĩ càng, để truyền lại cho các thế hệ sau.
Bên cạnh chú Năm là má của Chiến và Việt, một người phụ nữ mà cả cuộc đời dành cho chồng con và cho cách mạng. Đó là một người mẹ có vẻ đẹp mạnh mẽ. “Cái gáy đỏ, đôi vai lực lưỡng, chiếc nón rách, tấm áo bà ba đẫm mồ hôi. Chồng hoạt động cách mạng, bị chặt đầu nhưng má cố kìm nén không để rơi nước mắt: ‘‘Chiều hôm ấy về tới nhà má mới khóc... Bao nhiêu năm sau đó cũng vậy lúc nào nói đến chuyện trên, má cũng không khóc”. Mà nếu có lệ ứa ra thì “má chi nằm khóc chứ không kể lể chi hết”. “Ba mày bị Tây chặt đầu, tao cứ đi theo cái thằng xách đầu mà đòi. Đi từ ấp trong đến ấp ngoài, nó qua sông tao cũng qua, nó về quận tao cũng tới. Một tay bồng em mày, một tay cắp rổ...”. Câu chuyện về cái chết của người thân yêu trong gia đình cũng được kể bằng các giọng thật hồn nhiên.. Sự yêu thương, tình nghĩa đối với người phụ nữ ấy cũng được thể hiện một cách đau đớn, và mạnh mẽ dường ấy. Một người vợ tay bồng con, tay cắp rổ đi theo giặc để đòi đầu chồng. Một người mẹ dám hiên ngang không ai sinh ra là để đương đầu với hiện thực khốc liệt của xứ này. Nguyễn Thi đã tạo nên một hình tượng bình thường mà rất lạ về người mẹ mộc mạc, chất phác, mạnh mẽ ở một vùng đất có quá nhiều thử thách khốc liệt.
Người mẹ ấy cuối cùng cũng ngã xuống vì bom đạn của kẻ thù, của chiến tranh tàn bạo. Truyền thống của gia đình lại được bồi thêm một dòng máu nóng của tinh thần chống giặc ngoại xâm.
Trong thế hệ hiện tại của gia đình có Chiến và Việt - những đứa con nối tiếp truyền thống vẻ vang của gia đình. Chiến có vóc dáng giống mẹ: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng”, và thân hình thì “to và chắc nịch”. Chiến không chỉ giống mẹ ở hình thức bên ngoài mà còn ở cả tính cách mạnh mẽ xốc vác. Nói đến giống má, thì không có chỗ nào Chiến giống má như cái đêm hai chị em bàn tính việc nhà để đi bộ đội. Từ câu nói khẳng khái với chú Năm: “Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn , thì tao mất, vậy à”, đến những tính toán đế lo sao cho chu đáo việc nhà; từ việc gửi bàn thờ má, thằng út sang nhà chú Năm cho đến việc chi bộ mượn nhà. bàn ghế để mờ lớp học; từ việc hôm nay, chị Chiến cũng nằm ở buồng trong với thằng Út nói ra cho đến cái “cóc” rồi trở mình. Đến nỗi có tới ba lần Việt thấy chị Chiến giống y như má. Chính chị Chiến đêm nay dường như đang hòa vào trong mẹ: "Tao lựa ý nếu má còn sống, chắc má cũng tính vậy”... trong cái thời điểm linh thiêng ấy. người mẹ hiện diện rõ nét nhất trong những đứa con của mình : “Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến thành đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa cầm nón quạt”.
Khi Chiến đi bộ đội để trả thù nước, đòi nợ nhà với một quyết tâm sắt đá: Tao đã thưa với chu Năm rồi. Đã là thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”... Với người con gái ấy yêu thương gắn liền với căm thù, và tình ấy biến thành những hành động cụ thể là: giết gặc, cứu nước nước. Đó là lời thề sắt đá, là quyết tâm của cô gái trẻ, như chân lí sống đau khổ nhưng hào hùng của cả một thời đại.
Nhân vật trung tâm của truyện là Việt, cậu em trai còn mang nhiều nét tính cách trẻ con nhưng cũng là một đứa con rất đỗi tự hào trong gia đình có tuyền thống đánh giặc.
Nét nổi bật trong hình ảnh của Việt tạo nên ấn tượng trong lòng người đọc đó chính là cái vẻ “tộc ngộc”, vô tư của một cậu con trai đang tuổi ăn tuổi lớn. Chiến nhường nhịn bao nhiêu thì Việt lại hay tranh giành bấy nhiêu. Việt tranh với chị từ việc ai bắt được ếch nhiều hơn đến mỗi lần chủ Năm lại phải đứng ra để phân xử cho đen việc ai được đi bộ đội trước. Trong cái đêm trang trọng trước khi đi bộ đội, mặc cho chị Chiến sắp xếp. tinh toán, Việt lúc thì lăn kềnh ra ván cười khì khì”, lúc lại chụp một con đom đóm trong bàn tay”. Với cậu, đi bộ đội là mục đích lớn nhất đã được thỏa mãn thì bây giờ tất cả những việc khác dường như không đáng để lưu tâm. Cậu còn mang tính cách trẻ con ngay khi đã vào bộ đội. Chị Chiến mang đi cái gương, vật tùy thân của người con gái thì Việt đi bộ đội nhưng lại mang một ná thun - một trò chơi của tuổi thơ.
Bên cạnh thành công trong việc xây dựng những tính cách điển hình của người nông dân Nam Bộ truyện ngắn này còn có một thành công đặc sắc trong việc lựa chọn cách kể chuyện mà chúng ta thường gọi là nghệ thuật tự sự. Câu chuyện về gia đình được thuật lại không phải hoàn toàn theo trật tự thời gian tuyến tính mà chủ yếu là theo nhịp dòng hồi tưởng đứt đoạn của Việt khi Việt tỉnh dậy rồi lại ngất đi vì bị thương. Nguyễn Thi đã ý thức được điểm mạnh của lối trần thuật này. Nó có thế xóa nhòa những giới hạn của không gian và thời gian, nó có thể đi từ hiện tại về quá khứ trong dòng hồi tưởng của nhân vật.
Chẳng hạn, khi Việt tỉnh dậy lần thứ hai “lúc trời đã rất phất mưa. Tiếng máy bay tắt hẳn, chỉ còn hơi gió lạnh lùa trên má ếch nhái kêu dậy lên”. Tiếng kêu của ếch nhái dẫn Việt trở về với kỉ niệm của những ngày chưa đi bộ đội. Cứ trời dứt hột Việt đã cởi trần ra hai chị em hai cái đèn soi lóp ngóp đi. Cười từ lúc đi cho đến lúc về. Từ những tiếng ếch của đêm mưa, dòng hồi tưởng của nhân vật cứ miên man. Các nhân vật cứ thế xuất hiện, rất tự nhiên.
Cậu con trai mang cái vẻ tộc ngộc vô tư đáng yêu ấy dám xông vào đá cái thằng đã giết cha mình. Lớn hơn một chút, Việt đã bắn cháy tàu của Mĩ trên sông Định Thủy, mà theo lời của chú Năm để công bằng, chú đã ghi tên cả hai chị em trong chiến công đó. Đến khi đi bộ đội bị thương vào mắt, hai bàn tay đau đớn nhưng Việt vẫn quyết tâm sống mái với kẻ thù: “Trên trời có mày, dưới đất có mày, khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Việt không chịu lùi bước, không chịu thất bại, mỗi khoảnh khắc đều là ý thức đương đầu sống chết với kẻ thù. Việt giản dị, tự nhiên như cánh đồng nước, con sông, cây cối của xứ sở này. Vậy nên, dù là đánh giặc hay di bắt ếch hoặc bắn ná thun trong vườn chim, tất cả đều hồn hậu, chất phác, bình dị...
Những đứa con trong gia đình là câu chuyện của một gia đình cụ thể của đồng bào Nam Bộ, nhưng qua đó tác giả đã khái quát được không khí của cả một thời đại. một dân tộc trong hai cuộc kháng chiến trường kì chống Pháp và chống Mĩ. ở đây, con người đã thích nghi với hoàn cảnh chiến trường, và điều đáng quý là họ không bao giờ chịu khuất phục, dẫu có phải hi sinh nhiều thế hệ nhưng vẫn một lòng một dạ kiên trung, quyết đánh giặc đến hơi thở cuối cùng.
Qua sự hồi tưởng của nhân vật, gợi lại những câu chuyện đời thường của một gia đình có truyền thống đánh giặc. Nguyễn Thi muốn phản ánh và ngợi ca tinh thần bất khuất, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta nói chung và đồng bào Nam Bộ nói riêng. Trong tác phẩm, truyền thống ấy được thế hiện một cách đặc trưng qua tính cách của những người nông dân Nam Bộ trong cuộc chiến ác liệt chống giặc Mĩ. Họ “hồn nhiên, vui đời, bộc trực nhưng căm thù ngùn ngụt đối với quân cướp nước - những con người cô cùng gan góc, dường như sinh ra để cầm súng giết giặc, sẵn sàng chết vì quê hương mình, vì đồng bào mình”.
Phân tích tâm lí, tính cách nhân vật Chiến trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi?
Câu trả lời của bạn
Chiến sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, cha mẹ của Chiến bị kẻ thù giết hại rất dã man. Chị sớm gánh trên vai mối thù sâu nặng.
Từ ngôn ngữ đến cử chi, hành động của nhân vật Chiến đều gợi ra hình ảnh người con gái Nam Bộ thật thà, chất phác, duyên dáng, đảm đang, tháo vát... Đó cũng là hình ảnh của người con gái Việt Nam nói chung
Em hãy phân tích nét đặc sắc về tầm khái quát nghệ thuật đồng hiện trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình?
Câu trả lời của bạn
Nhà văn Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, người Nam Hà. Ông vào Nam từ năm 1945, gia nhập quân đội và viết văn dưới bút danh Nguyễn Ngọc Tấn. Tập kết ra Bắc năm 1954, năm 1962 ông trở lại miền Nam lần thứ hai, viết văn dưới bút danh Nguyễn Thi. Năm 1968, ông hi sinh tại Sài Gòn trong lúc ngòi bút còn đầy sung sức và nhiệt huyết. Là nhà văn chiến sĩ, Nguyễn Thi có nhiều đóng góp cho nền văn học cách mạng. Một trong những đóng góp đáng kể của ông về nghệ thuật là sự thể hiện thành công nghệ thuật đồng hiện ở truyện Những đứa con trong gia đình (1966).
Theo nghĩa đen “đồng hiện” là “cùng thể hiện”. Trong truyện, đây chỉ là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc về kết cấu tác phẩm, một yếu tố thuộc về hình thức. Như ta đã biết , kết cấu là việc tổ. chức, sắp xếp các yếu tố nội dung trong văn bản tác phẩm để nó đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất. Thủ pháp đồng hiện góp một vai trò quan trọng trong công việc này. Nó là một trong những thủ pháp tạo ra được lối kết cấu độc đáo. Từ đó, cốt truyện, nhân vật, chủ đề được thể hiện, gây hiệu quả nghệ thuật tác động đến độc giả... Nét độc đáo của nghệ thuật đồng hiện là cùng một lúc các sự kiện, các tình tiết, các nhân vật (hay các nét tính cách của nhân vật) được thể hiện trong một thời gian, một không gian hay trong một mảnh thời gian và không gian khác nhau.
Trong truyện Những đứa con trong gia đình nghệ thuật đồng hiện được thể hiện khá tinh tế. Dựa trên kết cấu lấv dòng suy tưởng làm nền. Nguyền Thi đồng thể hiện các sự kiện trong một thời điểm, các nhân vật (và các nét tính cách của nó) trong cả hai manh thời gian hiện tại và quá khứ đan xen nhau rất có hiệu quả.
Trước hết xin nói về cách đồng hiện các sự kiện trong một thời điểm ở truyện Những đứa con trong gia đình.
Sau cuộc giao tranh ác liệt giữa đơn vị của Việt và một chiến đoàn Mĩ, Việt bị thương nặng, ngất đi. Việt tinh dậy, trận địa vắng tanh, “trừ tiếng máy bay”. Chiến trường vẫn còn nguyên vẹn với những chiếc xe tăng, xe bọc thép cháy, những vỏ đạn tanh máu, xác lính Mĩ bốc mùi... “Việt cho mũi lê đi trước”, “Lên đạn”... sẵn sàng “phụ với các anh”, trận đánh được miêu tả hình như chưa kết thúc. Thời điểm để nhà văn chọn miêu tả thời gian trước và sau trận đánh hình như là thời điểm ở giữa thời gian này? Mặt khác, những chi tiết truyện, theo phân tích trên, không phải là đã kết thúc, cũng không phải là đang xảy ra. Nó là sự kiện đang xảy ra. đã xảy ra và được nhìn trong cái đã kết thúc, sắp kết thúc. Nói cho dễ hiểu hơn, người ta thay được trận đánh đã và sẽ xảy ra như thế nào ở một thời điểm ở trong đó. Nhìn vào những gì xảy ra ở thời điểm đó, người ta thấy tất cả.
Bây giờ thì Việt đã ở quân y viện. Anh có thời gian trị vết thương, đồng thời cũng có cá thời gian để mà ôn lại, nhớ lại. Thành ra anh có thể thấy được cả mảng đời trong hiện tại của mình và có thế nhớ lại cả mảng đời của gia đình mình trong quá khứ. Anh như lần về quá khứ từ gần đến xa lắc. Thông qua dòng độc thoại diễn ra trong Việt ở các thời điểm nằm ở quân y viện kia bao nhiêu sự kiện vui buổn, bao nhiều số phận con người trong chiến tranh như cùng về một lúc. Lần lượt nhưng không theo một trình tự nào, Những đứa con trong gia đình giàu truyền thông cách mạng của anh được tái hiện ở những nét tính cách chung và riêng rẽ như họ đang ở trước mặt.
Nhân vật trung tâm là Việt. Dù ở thời gian, không gian nào, nhân vật cũng được khắc họa song song hai nét tính cách cơ bản: chiến sĩ - trẻ thơ.
Ở quân y viện “Hai mắt còn băng kín mít” dấu tích của người lính dũng cảm. Việt “với cây viết chì... mò mò viết thử". Anh không dám nhờ người khác viết thư cho chị. Anh sợ cái tiếng “cậu tư”. Sợ mất “chị ba” quyết chiến. Anh “giấu chị như giấu của riêng vậy”. Thật là ngây thơ! Cái ngây thơ đáng yêu của một anh lính trẻ, dũng cảm thật đấy mà cũng khờ khạo thật đấy trước cuộc đời. Ngay cả chuyện đùa vui của anh em theo lối tếu táo của lính anh cũng tưởng là chuyện thật!
Trên chiến trường ngổn ngang xác giặc, Việt ngất đi rồi tỉnh lại nhiều lần dù đã kiệt sức, người lính trẻ ấy vẫn sẵn sàng chiến đấu tiếp nếu kẻ thù xuất hiện. Thế mà khi nghe “ếch nhái kêu dậy lên”, Việt bỗng trở thành chú bé con có “hai cái đòn soi, lóp ngóp đi” soi ếch cùng chị. “Chiến và Việt ai cũng giành phần nhiều là của mình ", em cũng không chịu nhường ai đi trước, chú Năm phải đứng ra “xịn trên cứ ghi tên cho cả hai”...
Qua một vài điều đã nói trên, ta thấy thủ pháp nghệ thuật để thực hiện nghệ thuật đồng hiện trong khi khắc họa nhân vật Việt, chủ yếu dựa trên cơ sở của phép liên tường, phép bắc cầu từ sự kiện này sang sự kiện khác; từ chi tiết, nhân vật này sang chi tiết nhân vật kia... Trong sự liên kết đó, dòng hồi tưởng của nhân vật vẫn là sợi dây nối quan trọng nhất. Từ chi tiết anh em trong quân y viện gọi anh là “cậu tư”. Việt chợt nhớ tới chị Chiến, nhớ tới tiểu đội trưởng Tánh. Anh muốn viết thư cho chị nhưng khó có thể viết được vì hai mắt vẫn còn bị bâng kín. Thế là Việt nhớ lại lần chị bị trúng bom, nhớ lại trận đánh của chính mình. Việt nhớ lại trong trận đánh, anh đã ngất đi; tỉnh lại, bỗng nghe thấy tiếng ếch và cùng lúc đó, tuổi thơ, những ngày xa xưa uất hận cùng ùa về trong trí nhớ... Các tình tiết truyện diễn ra rất tự nhiên. Thủ pháp nghệ thuật này ta đã gặp ờ truyện: Đôi mắt của Nam Cao. Ớ đó, câu chuyện cũng diễn ra theo dòng hồi tưởng cùa nhân vật Độ. Khác chăng là Nam Cao để Độ xưng “tôi” và tự kể. Còn ở đây, Nguyễn Thi trực tiếp miêu tả diễn biến tâm trạng Việt. Ông vừa miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật vừa để cho tâm trạng ấy nói lên câu chuyện mình muốn kể. Có lẽ đây cũng là một lối kể chuyện độc đáo, sáng tạo.
Vẫn bằng cách trên, theo dòng độc thoại của nhân vật Việt, tác giá lần lượt cho xuất hiện và đồng hiện các nhân vật Chiến, chú Năm, ba má Việt, Tánh.
Cũng như Việt, Chiến tòng quân và chiến đấu trong một tiểu đội bộ đội nữ địa phương. Chị đã chiến đấu dũng cám. coi cái chết cũng chỉ như “chết giấc", 'như ta đang ngủ vậy". Chiến chỉ khác Việt ớ chỗ, là người chị cả trong gia đình nên sớm trường thành. Chị theo mẹ nuôi và dạy dỗ em, lo toan tính toán tất cả mọi việc trong nhà. Là người chị cả của gia đình, Chiến dứt khoát không nhường em là việc ghi tên để tòng quân. Nhớ và nghĩ về người chị, trong tâm tưởng của Việt như cố dừng lại ở những kỉ niệm đẹp khó quên.
Chú Năm cũng chỉ là một nhân vật thoáng qua trong dòng tâm tướng, gợi lên từ một tiếng ếch trên chiến địa đã im tiếng súng.. Mỗi lần Việt và Chiến soi ếch về, chú đều “kiếm con trọng trọng đêm về nhậu”. Có hai đoạn văn đẹp như thơ là đoạn chú Nãm “nhậu vào ba hột là chú nói tới", hay “hò lên mấy câu”. Câu hò khiến chú xúc động “đôi mắt mở to, đọng nước. Đoạn văn khác kể về cuốn sổ gia đình chú ghi, giấu để sau này “giao... cho chị em bây”. Cuốn sổ lần về quá khứ. lẫn trong hiện tại, không theo năm tháng. Đó là chứng tích lịch sử được khơi dậy lại, chéo lại bởi cái nhìn, cái cảm, cái yêu, cái ghét cùa một tính cách Nam Bộ trọng nghĩa, bộc trực, sôi nổi, yêu đời.
Ba và má Việt hiện về trong Việt như những kỉ niệm về lòng yêu thương và căm thù. Tình yêu của ba má, con đường của ba và tội ác cùa giặc khiến chị em Việt không thể không lên đường cứu nước. Những đoạn văn này Nguyền Thi như đồng cảm với nhân vật và viết nên bằng nước mắt. Đọc, thấy xúc động cùng nhân vật; đau nỗi đau cùng nhân vật...
Hai nét chính yếu của nghệ thuật đồng hiện trong Những đứa con trong gia đình mà ta vừa phân tích trên, có nhiều tác dụng đối với truyện. Chính nó làm cho câu chuvện thảm khốc và hào hùng, đậm đà tình người... tưởng như chập chờn, dứt nối, rời rạc., liền lại trong mạch ngầm tâm tưởng khá chặt chẽ. Chặt chẽ nhưng vẫn giữ được cái vẻ bề bộn của tầng tầng lớp lớp chi tiết trong cuộc sống thường vả trong chiến trận hồi chiến tranh. Các mảng sự kiện, những đoạn đời trong quá khứ và hiện tại như được cố tình đan chéo vào nhau, bổ sung cho nhau một cách hợp lí, làm cho tính cách nhân vật được khắc họa rõ nét và chủ đề truyện được bộc lộ khá nổi bật. Lối kết câu đặc biệt này buộc tác già phải đi đến tận cùng trong việc phân tích và diễn đạt diễn biến phức tạp nhưng tinh tế của tâm lí nhân vật. Nó cũng đòi hòi nhà văn phải nhập thân như người trong cuộc, am hiếu và đồng cảm với nhân vật. Tất cả những điều này, Nguyễn Thi đều vượt qua và thể hiện rất thành công.
Nghệ thuật đồng hiện trong Những đứa con trong gia đình có tầm khái quát bởi những thủ pháp chính của lối kết cấu này hầu hết đã được Nguyễn Thi thể hiện thành công trong truyện. Thực ra lối kết cấu này không mới. Cái mới ở đây là nó được thực hiện khá toàn diện và đạt được những đỉnh cao. Những đỉnh cao này ghi dấu những đóng góp quý báu của Nguyễn Thi trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, đặc biệt là bộ phận văn học viết về đề tài chiến tranh và cách mạng.
Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình là sáng tác xuất sắc của nhà văn Nguyễn Thi về những người nông dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lâu dài và gian khổ. Phân tích hình tượng hai chị em Chiến và Việt trong tác phẩm này?
Câu trả lời của bạn
Những đứa con trong gia đình là một sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Thi - cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam trong những năm chống Mĩ.
Nhân vật chính trong thiên truyện là những thanh niên lứa tuổi mười tám đôi mươi, và chúng đã kịp thời trớ thành những chiến sĩ xông pha trận mạt.
Nhưng điều bất ngờ là dù thế, tác giả vẫn thể hiện họ chủ yếu trong tư cách những đứa con. Họ, những thanh niên ấy, quả có được miêu tả nhiều hơn trong quan hệ với anh em đồng đội. Thế nhưng họ vẫn được miêu tả nhiều hơn trong quan hệ với gia đình.
Nhìn những chiến sĩ trong tập thể chiến đấu như những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi đã có một cảm xúc nghệ thuật lí thú. Góc nhìn ấy sẽ cho phép nhà văn lí giải, cắt nghĩa phẩm chất của con người không chỉ trong mối quan hệ ngang với một thời đại, mà còn trong mối quan hệ dọc và một truyền thống, một nếp nhà.
Cảm hứng nghệ thuật lí thú ấy đã tìm được cách biểu hiện cũng không kém phần lí thú. Câu chuyện được thuật lại không theo một trật tự thời gian mà chủ yếu là nhịp theo dòng hồi tưởng miên man, đưa nối của một chiến sĩ trẻ tên là Việt., bị thương, cứ liên tục ngất đi rồi lại tỉnh lại trong hoàn cánh chi có một mình giữa một chiến trường mênh mông bóng tối (anh không nhìn thấy gì vì đã bị thương ở mắt) và vừa trở nên vắng lặng hẳn sau một trận đọ lê.
Truyện nói về những đứa con của một truyền thống gia đình yêu nước của người nông dân Nam Bộ, tác giả đã làm rõ cái truyền thống đã sinh thành ra những đứa con.
Trong truyện, truyền thống ấy được hiện lên trước hết qua hình ảnh chú Năm. Đây là hình tượng của con người giữ gìn truyền thống, báo lưu truyền thống, qua những câu hò thiết tha và mênh mông sông nước về một thời nghèo cực mà anh dũng, hào hùng qua cuốn sổ gia đình - mà thực chất là một cuốn gia phả độc đáo - ghi lại những nợ máu của quân giặc và sự dũng cảm kiên cường của dòng họ trong chiến đấu cách mạng. Chủ yếu cũng vì lẽ ấy mà tác giả đã sáng tạo ra chi tiết: chị em Chiến - Việt rước bàn thờ má đặt tại nhà chú Năm trước ngày lên đường đi chiến đấu.
Còn người mẹ thì cuộc đời đó chính là truyền thống. Người mẹ này thuộc vào số những hình tượng phụ nữ mang rõ dấu ấn khá riêng của phong cách Nguyền Thi. Đó là một con người rất phụ nữ nhưng không hề mảnh mai, mềm yếu mà ngược lại, bà khỏe chắc về thể chất và dũng cảm về mặt tinh thần. Con người ấy bộc lộ phẩm chất phụ nữ của mình ở sự tảo tần, xốc vác, ở sức chịu đựng phi thường, ở khả năng ghìm nén đau thương để sống, để nuôi nấng, che chở, tranh đấu. Người mẹ nông dân bình dị ấy, cũng như mọi người mẹ, là hiện thân của yêu thương, của sự hết lòng với chồng con. Nhưng ở đây, cảm hứng của Nguyễu Thi về tình yêu của người mẹ là cảm hứng với một tinh cảm có sức khiến con người không biết sợ, không chùn bước. Bồng con, cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng, hiên ngang đối đáp với kẻ thù mà bàn tay to bản vẫn phủ lên đầu đàn con đứng nép dưới chân - đây là những hình ảnh có giá trị biểu tượng về người phụ nữ ở một đất nước như đất nước chúng ta: quá cực khổ nhưng rất đỗi kiên cường, hết sức đau thương nhưng vô cùng cao cả.
Dù người mẹ đã mất, truyền thống ấy sẽ tiếp tục sống trong những đứa con.
Trước hết. truyền thống ấy thể hiện ớ người con gái, cô Chiến. Chiến không chỉ mang vóc dáng của mẹ, với khổ người to chắc. Chiến còn mang cái nết của mẹ: gan góc, tháo vát., biết tính toán, xếp đặt, lo toan, nói về việc “nghe in như má”. Đó đúng là một đứa con trong gia đình, nối tiếp được truyền thống của gia đình.
Nhưng Chiến không phải là bán sao cùa mẹ. Cô có những nét mới của thế hệ sau: hồn nhiên, vui tươi, hay cười, còn chú ý làm đỏm nữa. Và điều quan trọng hơn là người mẹ trong truyện suốt đời không cầm súng và chỉ quanh quấn ở quê nhà. Chiến bắn được tàu giặc từ khi còn nhỏ. Và người con gái ấy sẽ đi xa trong cuộc đời. với một ý nghĩ anh hùng không kém nam nhi: “Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”.
Việt - người con trai - cũng thế. Cậu thừa hướng ở mẹ cha, từ khi còn bé, cái tính không hề biết sợ, cái thái độ coi việc đánh giặc cũng tự nhiên như hít thở khí trời, không có gì đáng phải phân vân, đắn đo.
Nhưng Việt không hoàn toàn giống Chiến. Việt là em, lại là em trai, đang trong tuổi ăn, tuổi lớn. Chính vì thế, nhân vật này mang rất nhiều cái duyên dáng của Nguyễn Thi. Việt anh hùng, nhưng không vì thế mà mất đi dáng vẻ vô tư, lộc ngộc của một chàng trai mới lớn. Nhưng dù có thế, thì Việt vẫn là khúc sông trong dòng sông truyền thống của gia đình: đi chiến đấu xa nhất, lập công lớn nhất, và là người tiêu biểu nhất cho tinh thần chiến công cách mạng.
Trên cơ sở của ý tướng trên, thiên truyện quả đã cho ta hình dung thấy: đã có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy từ những thế hệ cha anh đến đời hai chị em Chiến, Việt.
Đấy là một dòng sông mà khúc thượng nguồn đã được nhà văn cho thấp thoáng hiện ra qua hình tượng chú Năm.
Rồi đến khi gần gũi hơn với những đứa con - khúc sông đời mẹ.
Những đứa con trong gia đình, đến lượt mình, sẽ tiếp bước của những khúc sông trước đó, kế thừa truyền thống được cha anh đổ vào cho khúc sông của đời mình. Nhưng họ là khúc sông sau, họ sẽ chảy xa hơn.
Nhưng đó không phải là dòng sông đơn độc. Dòng sông ấy sẽ hòa vào biển cả. Cũng giống như những con người trong gia đình, họ luôn gắn mình, gắn gia đình mình với số phận của Tổ quốc, nhân dân, cách mạng. Đó là hiện thân của sức trẻ tiến công và đó cũng là hình ảnh của người nông dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lâu dài, gian khổ.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *