Nội dung của bài học Người lái đò sông Đà giúp các em nhận rõ và yêu quý hơn vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người lao động Việt Nam. Cảm phục, mến yêu tài năng sáng tạo của Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ uyên bác, tài hoa đã dùng văn chương để khám phá và ca ngợi vẻ đẹp của nhân dân và Tổ quốc. Ngoài ra, HỌ247 mời các em xem thêm video bài giảng của cô Phan Thị Mỹ Huệ. Bài giảng được trình bày một cách chi tiết, dễ hiểu và dễ ghi nhớ giúp các em thuận tiện hơn trong quá trình tiếp thu bài học. Mời các em cùng theo dõi!
Phân tích hình tượng ông lái đò trong đoạn trích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
Phân tích hình ảnh sông Đà, con sông Tây Bắc hung bạo mà trữ tình.
Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân kể về người lái đò, một người nghệ sĩ tài hoa trên sông nước nhưng đồng thời cũng là một người lao động giản dị bình thường. Để cảm nhận được sự hấp dẫn cũng như nắm được nội dung của tác phẩm, các em có thể tham khảo bài soạn Người lái đò sông Đà.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Người lái đò sông Đà là tùy bút hay của Nguyễn Tuân, cái hay, cái tài của nhà văn Nguyễn Tuân không chỉ dừng lại ở việc miêu tả, tái hiện hình ảnh con người - ông lái đò Lai Châu mà còn thể hiện rất rõ, vô cùng sâu sắc qua hình tượng thiên nhiên được tác giả dày công miêu tả. Để lập được dàn ý và viết bài văn hoàn chỉnh về tác phẩm này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- So sánh cảnh cho chữ của Huấn Cao và cảnh vượt thác sông Đà
- Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò sông Đà
- Cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà
- Phân tích cảnh vượt thác trong tác phẩm Người lái đò sông Đà
- Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
- Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân qua Người lái đò sông Đà
- Hình tượng con sông Đà trong Người lái đò sông Đà
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà trong Người lái đò sông Đà
- Bình luận về vẻ đẹp hình tượng ông lái đò trong Người lái đò sông Đà
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
So sánh hình tượng người lái đò và nhân vật Huấn Cao?
Câu trả lời của bạn
A. Mở bài
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) được mệnh danh là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp của cuộc đời và viết lên những áng văn hay cho hậu thế. Trước CMT8 năm 1945, quan niệm cái đẹp của Nguyễn Tuân là những thứ chỉ còn xuất hiện trong quá khứ ở những bậc cao nhân tài hoa. Còn sau cách mạng với sự thay đổi của thời đại quan điểm cái đẹp của ông đã thay đổi gắn liền với cuộc sống thường nhật từ những gì dung dị nhất. Thông qua hai nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” và ông lái đò trong “Người lái đò sông Đà” ta thấy rõ nhất sự chuyển dịch trong cảm hứng sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân.
B. Thân bài
1. Phân tích nhân vật người lái đò sông Đà:
Vài nét về hình ảnh con sông Đà: Sông Đà hiện lên thật hung dữ nhưng cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình là cái nền để người lái đò xuất hiện..
Nhân vật người lái đò sông Đà:
a. Ông lái đò có ngoại hình và những tố chất khá đặc biệt: tay “lêu nghêu”, chân “khuỳnh khuỳnh”, “giọng ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh”, “nhỡn giới vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó”… Đặc điểm ngoại hình và những tố chất này được tạo nên bởi nét đặc thù của môi trường lao động trên sông nước.
b. Ông lái đò là người tài trí, luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ: ông hiểu biết tường tận về “tính nết” của dòng sông, “nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở”, biết rõ từng cửa tử, cửa sinh trên “thạch trận” sông Đà. Đặc biệt, ông chỉ huy các cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn những thử thách đã qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn…
c. Ông lái đò rất mực dũng cảm trong những chuyến vượt thác đầy nguy hiểm: tả xung hữu đột trước “trùng vi thạch trận” của sông Đà, kiên cường nén chịu cái đau thể xác do cuộc vật lộn với sóng thác gây nên, chiến thắng thác dữ bằng những động tác táo bạo mà vô cùng chuẩn xác, mạch lạc (tránh, đè sấn, lái miết một đường chéo, phóng thẳng…).
Nhân vật Huấn Cao:
a. Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng.
b. Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.
c. Hình tượng ông Huấn Cao là hình tượng điển hình cho vẻ đẹp "vang bóng một thời” nay đã lùi vào quá khứ chỉ còn dư âm trong tâm trạng của những tấm lòng tích cổ thương kim ( Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ - Vũ Đình Liên)
C. Kết bài
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng người lái đò sông Đà?
Câu trả lời của bạn
Với một tâm hồn luôn khát khao hướng tới cái đẹp, Nguyễn Tuân đã tìm đến nó như một địa chỉ lớn của thi ca, nhạc hoạ để rồi biến vùng sông nước ấy thành nghệ thuật. Và cũng từ đó ta bắt gặp một Sông Đà như một sinh thể có linh hồn, có tâm trạng phức tạp để từ đó nhà văn nâng người lái đò Sông Đà lên bậc nghệ sĩ tài hoa, anh hùng trên sông nước. Nhưng bao trùm lên tất thảy vẫn là văn phong độc đáo và một tình yêu tha thiết với thiên nhiên đất nước và sự tôn kính công sức lao động của con người.
Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, con Sông Đà hiện lên không còn là dòng sông vô tri vô giác mà là một sinh thể có hồn, có tâm trạng , ở đó luôn có sự hội tụ hai đặc điểm hung bạo và trữ tình.
Trước hết phải nói đến tính cách hung bạo của sông Đà. Nếu đã có một lần xuôi ngược trên dòng sông này, ắt hẳn không mấy ai quên được tính cách dữ dội của sông Đà dù đi vào mùa đông nước cạn hay mùa hè nước nổi . Cái đáng sợ của sông Đà còn ở toàn bộ môi trường và cảnh quan hùng vĩ với vẻ huyền bí hoang sơ của dòng sông chảy giữa chốn núi non trùng điệp của Tây Bắc xa xôi . Sông Đà dữ, cát sông Đà cũng dữ “Nó đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vệt hà đục thủng đáy tàu thuyền”. Bờ sông Đà chẳng hiền hoà “Nó dựng vách thành, mặt sông chỉ lúc đúng ngọ mới trông có mặt trời. Có vách thành chẹt lòng sông lại như một cái yết hầu. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia . Ngồi trong khoang đò qua chỗ ấy giữa mùa hè cũng cảm thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng dưới một cái ngõ mà ngóng lên khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện … ”. Tổng hợp các giác quan khác nhau và có những so sánh táo bạo, mới mẻ, bất ngờ, Nguyễn Tuân đã tạo được ấn tượng sâu sắc về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút khôn cùng . Tất cả các chuyển động đều náo động. Người đọc như có cảm giác đang ngồi trên một con đò mà phóng đi vun vút trên sông, băng băng xuống thác để thấy được quanh mình tiếng nước hò reo bốn mặt và cả những hòn đá ngỗ ngược phía trước như “nhất tề nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”, để ra oai hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi chiến đấu, để thách thức chiếc thuyền có giỏi thì tiến vào … Cái dáng đá hất hàm ấy trông ngỗ ngược, hỗn hào, du côn một cách rất hiện đại . Những hòn đá nằm, ngòi, nổi, chìm tưởng như tuỳ thích lại được sông Đà giao cho mỗi hòn một nhiệm vụ để bày thạch trận tiêu diệt chiếc thuyền.
Sông Đà hung bạo không chỉ ở thạch trận, ở bờ sông dựng vách thành. Nước sông Đà cũng vào hùa như tiếp thêm cái oai linh hùng vĩ đó. Và sự dữ dội của nó cứ thế nhân mãi lên. Những câu văn có kết cấu trùng điệp, nhịp điệu khẩn trương gấp gáp giống như sự chuyển vận của gió to và sóng lớn: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy ”. Rồi “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn” … Những cái giếng nước sâu nước ặc ặc như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm dưới dòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.
Nói đến sông Đà không thể bỏ qua những con thác nguy hiểm. Sông Đà có cả thảy bảy mươi ba cái thác như bảy mươi ba cạm bẫy luôn rình rập tàu thuyền. Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá. Ban đầu là cung bậc nỉ non của dòng thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích. Thế rồi âm thanh đó bất ngờ được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng hét lên như một khúc nhạc của một thiên nhiên dang ở đỉnh điểm của sự phấn khích mạnh mẽ và man dại. Trong đó âm vang cuồng loạn của núi rừng được đưa vào để thanh viện cho sự diễn tả con thác giận dữ ầm ầm và va đập vào bờ đá. Tiếng sóng thác rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa đổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng . Nước, đá, sóng hỗ trợ cho nhau tạo nên thế thạch trận, mai phục hết trong lòng sông. Chúng hung hăng, bạo ngược, hùng vĩ và hiểm trở, trở thành hiểm hoạ của con người, trở thành kẻ thù số một của những người lái đò trên sông Đà.
Bên cạnh tính cách hung bạo, Nguyễn Tuân còn chú trọng khắc hoạ tính cách trữ tình của sông Đà. Lời văn Nguyễn Tuân như bồng bềnh với bầu trời của mùa xuân, mùa thu, nơi tác giả từ trên tàu bay mà nhìn xuống từng nét sông núi tải ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con sông Đà được ví như một mĩ nhân kiều diễm, xinh đẹp. Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Miêu tả dòng sông từ nhiều góc độ, nhiều không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra một cách tinh tế màu sắc của nước sông Đà. Khi xuân về, dòng sông xanh màu ngọc bích, còn khi thu sang thì nước sông lừ lừ chín đỏ như mặt người bầm đi vì rượu bữa … Hơn thế, sông Đà còn hiền từ, dịu dàng đằm đằm âm ấm như một cố nhân xa lâu thì nhớ mà gặp lại thì cuống quýt mừng vui. Lúc đầu chỉ là cảm giác mơ hồ về sự thèm chỗ thoáng, do đi rừng dài ngày, thậm chí còn quên đi là mình đang đổ ra sông Đà. Rồi dòng sông hiện ra, nhưng chỉ một chút thôi, loang loáng như trẻ con nghịch gương chiếu vào mắt. Để rồi kịp nhận ra được dòng sông, người bạn cũ thì sao mà nó ngẩn ngơ đến thế trong cái màu nắng rất Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Tác giả khéo làm cho cái ùa vui đó trải dài ra thành nhịp điệu: bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Ít nhiều hiểu được vì sao cái vui của tác giả khi gặp lại sông Đà lại đằm đằm âm ấm như gặp lại cố nhân đến vậy, nó cứ thấm thía thêm niềm hạnh phúc, niềm hân hoan được sống và tồn tại trên đất nước này của nhà văn.
Nhưng ấn tượng nhất đối với người đọc có lẽ là đoạn văn bắt đầu từ câu: Thuyền tôi trôi trên sông Đà … Câu văn viết toàn thanh bằng đẹp như một lời thơ. Mà cả đoạn văn ấy cũng là một đoạn thơ. Nguyễn Tuân đã tạo được sự lặng lẽ đầy thơ mộng của một mũi đò lừ lừ trôi giữa đôi bờ sông tiền sử, về một nỗi niềm cổ tích hay hoài niệm về thời Lí, thời Lê …
Và cả cái lặng lẽ mơ màng đến độ con người chờ mong một sự giật mình để rũ bỏ ra khỏi giấc mơ xưa mà không được. Mùa xuân dòng sông Đà được nhà văn cho e ấp tỏ mình qua mấy lá non nhú lên trên một nương ngô và những nõn búp của tranh đồi núi. Cả dòng nước lững lờ trôi vì nhớ thương những con thác trên thượng nguồn … cũng góp phần làm cho dòng sông thêm trữ tình, thơ mộng.
Nhưng tác phẩm không chỉ đề cập đến dòng sông Đà, Nguyễn Tuân dành nhiều trang văn của mình để nói đến người lái đò sông Đà. Ở ông không chỉ có lòng dũng cảm của một người anh hùng mà còn thể hiện cái tài hoa của một người nghệ sĩ. Chở đò không chỉ là một nghề khó nhọc mà còn là cả một nghệ thuật cao cường, đầy tài hoa, đạt đến độ tinh vi, siêu hạng. Ông lão tự tin, bình tĩnh khi đối diện với thác nước sông Đà vì ông thấu hiểu qui luật của thần đá, thần sông, nhớ mặt từng hòn đá trên sơ đồ thạch trận mà chúng giăng ra đánh bẫy những con đò. Với người lái đò này, tài nghệ ở chỗ khong được phép sai lầm bởi chỉ cần một phút lơi là, thiếu sự phối hợp là có thể phải trả giá bằng chính mạng sống của bản thân mình. Tác giả miêu tả người lái đò phải luôn mắt luôn tay, luôn chân như một nghệ sĩ xiếc trên sân khấu, vừa phải lanh lẹn, vừa phải khéo léo.
Tính cách nghệ sĩ của người lái đò sông Đà còn được thể hiện ở chỗ: những công việc gian nan đem lại hứng thú cho ông. Bởi vì khi con đò đã về xuôi, đã hết thác ghềnh thì người lái đò chân tay như tê dại và buồn ngủ. Vượt qua cuộc chiến đấu sinh tử với thiên nhiên, con người lại trở về với cuộc sống thanh bình. Khi làn sóng thác lèo xèo tan trong trí nhớ, song nước lại thanh bình thì chả ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến đấu vừa qua . Cuộc chiến đấu sống chết vừa rồi hoá ra không có gì đáng hồi hộp, đáng nhớ. Nhà thơ đã mượn cho kí ức của con người vẻ đẹp thênh thang của bờ cát bên sông. Và những người lái đò đêm ấy đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và chỉ toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh …
Nhà Văn làm cho ta thấy họ lớn hơn bậc nữa vì họ có thể hồn nhiên quên đi cái lớn của mình. Hay nói đúng hơn họ không cho là lớn, cái chúng ta thấy rõ ràng là vĩ đại. Ta thấy trong tính cách này của người lái đò sông Đà có một chút khinh bạc và kiêu ngạo của Nguyễn Tuân. Người lái đò gan góc là thế nhưng cũng chính là người nhớ tiếng gà gáy, buộc cái bu gà theo đuôi thuyền để nó gáy cho đỡ nhớ ruộng, nhớ nương, nhớ bản, nhớ mường. Thì ra ông lái đò không chỉ là anh hùng mà còn là nghệ sĩ, một tay lái tài hoa như Nguyễn Tuân đã gọi.
Với vốn hiểu biết sâu rộng và một tài năng thiên bẩm về nghệ thuật sáng tạo hình tượng nghệ thuật, với cái nhìn mọi sự vật ở góc độ tài hoa nghệ sĩ, ở phương diện văn hoá, Nguyễn Tuân đã dựng lên một hình tượng sông Đà sống động, một người lái đò tài hoa anh dũng nhưng cũng rất đỗi đời thường . Đem đến cho người đọc những cung bậc cảm xúc khác nhau khi say sưa dõi theo vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Và cái được nhất của tác phẩm chính là dấu ấn Nguyễn Tuân đóng vào tâm trí độc giả.
Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu cho bút pháp Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám. Tác phẩm thể hiện một cách sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà văn, đồng thời khẳng định cái đẹp, cái tài hoa không thuộc về một bộ phận nào, conngười nào, cảnh sắc nào cụ thể mà là ở quanh ta, ở trong chính mỗi con người. Điều cốt lõi là cái nhìn và tâm hồn của người thưởng thức.
Câu trả lời của bạn
Hãy liệt kê các chi tiết miêu tả sông đà ở mặt ghềnh hát lóong
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Tuân (1910-1987) là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Với phong cách viết tài hoa uyên bác, Nguyễn Tuân đã có đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà, góp phần đưa thể loại truyện ngắn và tùy bút lên một tầm cao mới. Tiêu biểu cho sang tác của NT là tác phẩm Người lái đò Sông Đà. Thành công nhất ở tác phẩm này là bởi Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng con sông Đà với hai tính cách hùng vĩ hung bạo và thơ mộng trữ tình.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân trước hết con Sông Đà hiện lên mang một vẻ đẹp hùng vĩ và hung bạo. Sự hùng vĩ hung bạo của dòng sông Đà được thể hiện qua cả diện mạo và tâm địa.
a. Sự hùng vĩ hung bạo qua diện mạo
Với con mắt của nhà điêu khắc, Nguyễn Tuân đã có những so sánh liên tưởng đầy mới lạ và bất ngờ. “ cảnh đá bờ sông dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. “ Có vách đá thành chẹt lòng sông như một cái yết hầu”. Có những quãng lòng sông hẹp tới mức con nay con hổ có thể vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia. Bằng những lời văn gây ấn tượng mạnh pha chút hóm hỉnh, những trang văn của NT đã khiến người đọc liên tưởng đến những bài ca dao khi nói về mơ ước xưa của cô gái khi yêu: “Ước gì sông…chơi”. Nhà văn tiếp tục tấn công vào giác quan của người đọc khi ông nói ngồi trên khoang đò quãng ấy đã mùa hè vẫn thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng ở hẻm một con ngõ mà ngóng vọng lên cái cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy vừa tắt phụt ánh điện.
Bằng cách miêu tả bờ đá và vách đá Sông Đà, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên khung cảnh một dòng sông heo hút đến rợn ngợp.
Con sông Đà có tất cả 73 con thác trải dài từ biên giới Việt – Trung về tới thác bờ thác ở đây dữ dội tạo thành những mặt ghềnh của sóng
+ Đặc tả mặt ghềnh Hát loong
Sông Đà nơi ghềnh Hát Loong “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt bất cứ con thuyền nào tóm được qua đây”. Những âm thanh của gió của nước và gió đã tạo thành một bản hợp xướng hùng vĩ đang đang ầm ập, đổ sập lao tới. Câu chữ của Nguyễn Tuân dường như cũng xô đuổi nhau trong cái âm hưởng cuồn cuộn gùn ghè của nước sông Đà. Đặc điểm ấy của khúc sông khiến nó giống như một kẻ lưu manh lúc nào cũng thích gây gổ, lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt người lái đò.
+ Đặc tả thác nước
Thác ở đây từ rất xa đã nghe thấy âm thanh hãi hùng ghê rợn của nước. Âm thanh ấy khi thì như là “oán trách gì” rồi lại như là “ van xin”, rồi lại như là khiêu khích, giọng “gằn và chế nhạo”. Một câu văn ngắn mà đủ các cung bậc âm thanh của tiếng thác vừa thể hiện vốn từ phong phú vùa thể hiện trình độ thẩm âm tinh tế của tác giả.
Không chỉ như vậy âm thanh của thác nước còn được so sánh âm thanh “ rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Bằng nghệ thuật so sánh kết hợp với liên tưởng mở rộng nhà văn Nguyễn Tuân đã giúp người đọc như nghe thấu được những âm thanh đa dạng của thác nước Sông Đà từ đó khắc họa tính cách hung bạo của con sông.
Với việc sử dụng những động từ mạnh: giống nổ lửa, phá tuông, gầm thét, cháy bùng bùng khiến câu chữ như đập mạnh vào giác quan người đọc. Từ đó tính chất hung bạo của con sông như hằn lên nổi lên thành hình thành khối đang gào thét trong muôn vàn âm thanh. Cảnh vật cũng như náo động, chuyển động qua hàng loạt ngôn từ nhân hóa.
Lời văn cũng thể hiện sự liên tưởng tài hóa và lối chơi ngông trong cách nói của Nguyễn Tuân . Trong ngũ hành, thủy và hỏa vốn là hai yếu tố tương khắc với nhau, dân gian có câu “ kỵ nhau như nước với lửa”. Vậy mà ở đây Nguyễn Tuân lại dùng lửa để tả nước, lấy núi rừng để tả dòng sông từ đó làm nổi bật sự tương giao về sức mạnh của những hiện tượng tự nhiên. Tiếng thác nước như được phóng to lên hết kích cỡ giống như bản nhạc của thiên nhiên mà các nhạc khí đều bừng bừng ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại. Những âm thanh cuồng loạn như thanh viện hỗ trợ làm cho sự giận dữ của nước sông như tăng lên gấp bội. Chúng va đập vào vách đá tạo nên một sức mạnh hoang dại ghê gớm khủng khiếp, sức mạnh hoang dại ấy của Sông Đà mang đến cho người đọc cảm giác sợ hãi như phải chứng kiến trận động đất trấn động khiến núi lửa phun trào hay một cơn đại hồng thủy với sóng thần cao ngất.
Bằng biện pháp nghệ thuật so sánh liên tưởng tài hoa độc đáo và cách dùng động từ mạnh nhà văn Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên chân dung của con sông Đà hung hãn quái dị và đáng sợ.
+ Ấn tượng về sự sợ hãi và chết chóc được tạo ra rất rõ ở đoạn văn nói về những cái hút nước. Về hình thù nó giống như cái giếng bê tông thả xuống để chuẩn bị làm móng câu. Về âm thanh nước ở đây thở và kêu như của cống cái bị sặc, nó kêu ặc ặc như tiếng rót dầu sôi. Với cách dùng từ tượng thanh “ ặc ặc”, nhà văn Nguyễn Tuân đã khiến người đọc như được nghe thấy âm thanh của một con thủy quay khổng lồ đang bị bóp cổ. Điều đó đã khiến chúng ta sởn gai ốc khi nghe cái âm thanh quái lạ của cái hút nước này.
Sự chết chóc hiện ra khi nhà văn so sánh “ trên mặt cái hút xoáy tít đáy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”, rồi tường thuật “ có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
Thay vì kể lại nỗi sợ hãi, Nguyễn Tuân đã bắt người đọc phải chiêm nghiệm tự mình phải trải qua nỗi sợ hãi khi nhà văn nhấn mạnh cái dữ dội ấy qua góc nhìn điện ảnh. Ông hình dung có một nhà quay phim nào đó dũng cảm dám ngồi trên chiếc thuyền thúng cùng với máy quay, để cái hút nó hút cả thuyền, cả người và máy quay xuống tít đáy thế rồi quay ngược ống kính lên thu ảnh. Cái thước phim màu quay tít ấy đã truyền cảm giác sợ hãi đặc biệt cho người đọc. Nó giống như chúng ta đang sợ hãi ghì chặt lấy mép ghế khi phải ngồi xem cái cảnh tượng hãi hùng của một thước phim 3D.
Với phong cách viết tài hoa kết hợp với vốn kiến thức uyên bác Nguyễn Tuân đã tạo ấn tượng mạnh mẽ mạnh vào giác quan người đọc một hình ảnh dữ dội đến khủng khiếp khi miêu tả những hút nước của sông Đà.
b. Sự hùng vĩ hung bạo qua tâm địa
Điều đó thể hiện qua những trùng vi thạch trận dưới lòng sông. Đá Sông Đà là một đạo quân thiện chiến được tương trợ bởi những boongke chìm những pháo đài nổi. Với những thạch trận nham hiểm và dữ dội, Sông Đà đã quyết tiêu diệt hết thảy các thủy thủ và thuyền trưởng trên sông.
Những trùng vi thạch trận trên Sông Đà như những trận đồ bát quái với nhiều cửa tử mà chỉ có duy nhất một cửa sinh. Vòng đầu nó bày ra năm cửa trận trong đó có tới 4 cửa tử mà chỉ có một cửa sinh duy nhất, cái cửa sinh nằm lập lờ nơi phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai nó lại tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh chúng chuyển mãi qua phía bờ hữu ngạn. Vòng thứ ba thì cả hai bên gần tả hữu bờ sông đều là luồng chết, cửa sinh duy nhất nằm ở giữa hòn đá hậu vệ của con thác.
Mỗi hòn đá trên Sông Đà đều thiện chiến liều mạng và có nhiệm vụ riêng. Chúng chia ra làm hàng tiền vệ và hậu vệ, chúng dàn hang ngang để chặn đánh và đòi ăn chết con thuyền muốn vượt. Đá ở đây hàng ngàn năm vẫn mai phục kiên nhẫn và bền bỉ dưới lòng sông. Cứ thấy con thuyền nào đi qua là như một đám lưu manh ngỗ ngược và hung hãn, những hòn đá lại giáng tai họa cho những con thuyền trên sông. Chúng nhất tề nhổm cả dậy vồ lấy thuyền. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng như muốn khắc sâu cho người đọc ấn tượng về những hòn đá sông Đà nên ông đã không chỉ thổi hồn mà còn tạo ra diện mạo cho từng viên đá. Là đá mà mặt thằng nào cũng nhăm nhúm, méo mó, ngỗ ngược. Với nghệ thuật nhân hóa, Nguyễn Tuân đã làm sống dậy một cách dữ dội hình thù của những viên đá vô tri: “ một hòn trông nghiêng thì y như đang hất hàm hỏi con thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào.”
Sự kết hợp giữa những trùng vi thạch trận với sóng nước Sông Đà đã tạo nên chân dung loài thủy quái khổng lồ hung hãn bạo ngược và vô cùng nham hiểm xảo quyệt. Nó như một hung thần với một sức mạnh hủy diệt ghê gớm. Trong cuộc chiến với người lái đò, Sông Đà đã giở ra đủ mọi mánh khóe mưu ma để đánh lừa con thuyền vào thế trận đã bày sẵn hướng người lái đò vào những cửa tử.
Chỗ ngoặt sông thì nó đánh phục kích, giữa lòng sông thì lại tỏ ra sơ hở để dụ con thuyền theo vào để rồi bất ngờ đánh khuýp vu hồi, khi giáp lá cà thì nó giở mọi ngón đòn hiểm ác như đánh đòn âm, đòn tỉa, đá trái, thúc gối vào bụng vào hông, tóm thắt lưng, bóp chặt bộ hạ… vừa đánh vừa hò la vang trời để áp đảo tinh thần đối phương.
Dưới con mắt nhìn của Nguyễn Tuân hầu như tất cả những gì thuộc về sông Đà đều dữ dội. Gió thì gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt bất cứ con đò nào tóm được trên sông. Cát Sông Đà thì đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vết hà, đục thủng đáy và mạn dưới con thuyền.
Với lời văn góc cạnh câu văn giàu tính tạo hình lại kết hợp với các động từ mạnh, lối ví von ẩn dụ tượng trưng tác giả đã có những liên tưởng bất ngờ thú vị về sự khôn ngoan mưu trí hiểm ác của con Sông Đà. Nó thực sự là một kẻ thù số một trong cuộc đấu trí, đấu lực với con người.
Qua phân tích trên chúng ta thấy Sông Đà vừa mang vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội vừa hung bạo và nó thực sự đã trở thành một loài thủy quái nham hiểm và độc ác, nó đúng là kẻ thù số một của con người.
Sông Đà thơ mộng trữ tình
Bên cạnh vẻ hùng vĩ hung bạo dòng Sông đà còn mang một vẻ đẹp thơ mộng trữ tình. Điều này được tác giả khắc họa thong qua dáng vẻ và tâm hồn của dòng sông.
Sông Đà mang một dáng vẻ rất mực nên thơ và gợi cảm.
Bản quyền bài viết này thuộc về https://vanhay.edu.vn. Mọi hành động sử dụng nội dung web xin vui lòng ghi rõ nguồn
Khi nhìn từ trên cao nhà văn Nguyễn Tuân cảm nhận “ Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.Nhà văn Nguyễn Tuân đã có cách dùng từ thật độc đáo:Từ “áng” vốn là từ thường được đi liền với tác phẩm văn học lớn nhưng ở đây nhà văn lại dùng từ “áng” để miêu tả dòng Sông Đà . Bằng cách này Nguyễn Tuân đã khiến người đọc cảm nhận dòng Sông Đà giống như một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Hơn nữa tác giả lại có cách kết hợp từ vô cùng thú vị. Từ “ áng” lại đi liền với “tóc” và “tóc’’ đi liền với “trữ tình”, cách kết hợp này cho ta thấy dòng Sông Đà đẹp như một cô gái Tây Bắc với mái tóc dài duyên dáng đang thả dài trong sương khói. Cách viết của tác giả còn gợi lên một dòng sông vừa mang dáng vẻ yểu điệu trong những sắc màu, vừa mang cái huyền ảo mềm mại trong khói sương của những dòng sông từng xuất hiện trong ca dao:
Dòng sông như dải lụa đào.
Sông Đà còn rất đẹp với sắc màu của nước thay đổi theo mùa. “Mùa xuân dòng sanh ngọc bích”. Màu ngọc bích là màu vừa có sắc vừa có ánh sáng, thứ ánh sang mát dịu mà quyến rũ toát ra từ bên trong. Mùa thu “ nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Chính sự thay đổi màu nước ấy đã khiến dòng sông luôn luôn mới mẻ. Trên sông còn có những con thuyền đuôi én lướt trên sông, có những con cá dầm xanh, cá anh vũ “bụng trắng như bạc rơi thoi” quấy vọt lên mặt nước.
Tất cả đem đến cho Sông Đà một vẻ đẹp vừa hiện thực vừa huyền ảo lại rất duyên dáng dịu dàng giàu chất thơ.
– Qua nhiều lần đi thực tế Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã cảm nhận dòng sông như một cố nhân. Cảnh sông nước êm đềm đã khơi gợi ở lòng người bao ý tình lãng mạn. Nhà thơ Tản Đà đã từng lấy tên núi tên sông làm bút danh thì cảm nhận: “ Dải sông Đà bọt nước lênh đênh/ Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.” Còn Nguyễn Tuân, ông thấy dòng sông như một người tình nhân chưa quen biết. Rồi có lúc Nguyễn Tuân lại thấy Sông như một Cố nhân. Hai chữ cố nhân thật khiến người ta bùi ngùi bao cảm xúc. Đó là người bạn tâm giao, một người bạn khi gần thì dạt dào cảm xúc mà khi xa thì muôn vàn nhung nhớ.
Giọng văn của tác giả ở đây bỗng trở nên tươi tắn lạ thường khi nói đến Sông Đà: “ bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi! Trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm âm ấm như gặp lại cố nhân”. Có thể nói nhà văn đã lồng cảnh vào cảnh, tình vào tình để thú nhận với chính mình về nỗi đắm say, phải lòng trước vẻ đẹp duyên dáng tuyệt mỹ của sóng nước Đà giang và mây trời Tây Bắc, để cảm xúc thăng hoa, để thi ca lai láng, để dòng Sông Đà hiện lên với cảnh sắc đắm say lòng người.
Sắc màu cổ tích được thể hiện trong một đoạn văn vừa đặc sắc vùa giàu chất thơ. “ Thuyền tôi trôi trên Sông Đà…” Câu văn mở đầu toàn thanh bằng, nhẹ nhàng và êm ái. Như thể nó chứa đựng bên trong lời tự tình của con sông, tạo tâm thế của một cuộc du ngoạn, gợi hình ảnh con đò lặng lẽ trôi. Nó đưa người đọc vào thế giới cổ tích, vào không gian yên ắng lặng lờ thời tiền sử xa xưa.
Ghềnh thác đã lùi xa, dòng sông bỗng dịu dàng mê đắm, cảnh ven sông trở nên lặng lờ thơ mộng. “ Hình như từ đời Lý, Trần, đời Lê quãng sông này cũng chỉ lặng lờ đến thế mà thôi”.
Cái độc đáo của nhà văn khi miêu tả bờ sông là ở chỗ, người ta thường lấy cái cụ thể để so sánh làm rõ cái trừu tượng hoặc ít cụ thể hơn. Nhưng ở đây Nguyễn Tuân lại là ngược lại ông đã lấy cái trừu tượng để so sánh làm mờ cái cụ thể: “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Điều này khiến người đọc như chìm sâu hơn vào ảo giác, như trở về thời ấu thơ với câu những chuyện “ngày xửa ngày xưa” của bà của mẹ. Ta hiểu vì sao ở đây tác giả lại thèm nghe một tiếng còi sương. Phải chăng nhà văn Nguyễn Tuân đang thèm muốn một âm thanh để thoát khỏi cái “lặng tờ” của cảnh vật? Chính điều này đã khiến cả cảng vật và con người đều như đang chìm vào không gian đượm màu cổ tích.
=> Qua phân tích trên quả thật chúng ta thấy dòng sông Đà không chỉ mang vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội mà còn có một vẻ đẹp thơ mộng trữ tình. Với những câu văn tả sông Đà nới đồng bằng nhà thơ như muốn đề thơ vào sóng nước Đà giang.
Với Nguyễn Tuân, sông Đà mang một vẻ đẹp hoàn mĩ , trở thành một sinh thể sống động, có hồn.Dòng sông vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình. Phải là một con người yêu mến tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước , nhà văn mới có thể miêu tả được Sông Đà như thế. Có thể nói , qua lời văn ca ngợi sông nước Đà giang, ta thấy được sự gắn bó của Nguyễn Tuân đối với quê hương đất nước.Tác phẩm Người lái đò sông Đà tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân . Tác giả quan niệm cái đẹp phải là cái gây cảm giác mạnh, đập mạnh vào cảm giác người đọc. Cho nên đẹp thì phải đến mức tuyệt mỹ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp. Sông Đà đúng là thứ Vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc mà nhà văn luôn khao khát kiếm tìm và thể hiện trong các sáng tác của mình.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
1. Phân tích đề
- Yêu cầu của đề bài: phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh
- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong bài thơ Quê hương.
- Phương pháp lập luận chính : Phân tích.
2. Hệ thống luận điểm
Những luận điểm chính cần triển khai khi phân tích Người lái đò sông Đà:
- Luận điểm 1: Phân tích ý nghĩa của lời đề từ.
- Luận điểm 2: Hình tượng dòng sông Đà (nét hung bạo, nét trữ tình)
- Luận điểm 3: Hình tượng người lái đò sông Đà (về lai lịch, tài năng và tâm hồn, công việc,...)
- Luận điểm 4: Đánh giá khái quát phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, giá trị nội dung của tác phẩm.
3. Lập dàn ý chi tiết
a) Mở bài
- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Tuân
+ Nguyễn Tuân (1910 - 1987) là một nhà văn tài hoa uyên bác, có phong cách nghệ thuật độc đáo, cái tôi đầy cá tính, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa thẩm mĩ.
- Khái quát về tác phẩm Người lái đò sông Đà:
+ Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút Sông Đà (1960) - thành quả nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc.
b) Thân bài
* Khái quát về hoàn cảnh sáng tác
- Tác phẩm được sáng tác trong gian đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc.
- Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho ông nguồn cảm hứng sáng tạo trong công cuộc tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là "chất vàng mười".
* Ý nghĩa lời đề từ
- “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” : thể hiện cảm xúc trào dâng mãnh liệt trước tiếng hát, vẻ đẹp của dòng sông.
- “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu” : gợi cho người đọc cảm nhận ấn tượng về sự độc đáo, của một cá tính mạnh mẽ, của một cá tính riêng biệt của dòng sông Đà, đó là con sông hung bạo.
* Hình tượng dòng sông Đà
+) Dòng sông “hung bạo”
- “Cảnh đá bờ sông dựng vách thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”.
- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”.
- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
+ Xa: từ xa âm thanh thác nước hiện lên với nhiều trạng thái: “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”; “rống lên như một ngàn con trâu ... cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, "hất hàm”, “oai phong”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “tiêu diệt”; sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, "đòn tỉa”.
+ Sự biến hóa linh hoạt của 3 trùng vi thạch trận:
=> Sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người.
+) Sông Đà trữ tình
- Từ trên cao nhìn xuống dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ diễm kiều
- Từ tầm xa bao quát có khi nhà văn nhìn thấy nó bình dị như “dây thừng ngoằn ngoèo”, “áng tóc trữ tình”
- Màu sắc sông nước: mùa xuân có màu xanh ngọc bích, thu lừ lừ chín đỏ -> Sự thay đổi màu sắc qua các mùa mà mùa nào cũng đẹp, một cách nhìn thật nhiều chiều và đa dạng.
- Khi đi rừng lâu ngày gặp lại con sông: sông Đà như một “cố nhân”, có ánh sáng “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba Đường thi”, ...
-> Cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông và cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà.
- Khi đi thả thuyền trên sông: “bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: lá ngô non, “con hươu thơ ngộ”, ...
-> Từ điểm nhìn của một khách hải hồ trên dòng sông, nhà văn đã quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông.
=> Dưới ánh mắt của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như một dải lụa hiền hòa giữa vùng núi rừng Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ.
* Hình tượng người lái đò sông Đà
- Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình: “tay lêu nghêu... chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.
- Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.
- Tài năng và tâm hồn:
+ Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ... những luồng nước”,...
+ Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo...”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác...”
+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.
* Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân:
+ Phong cách của Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”, trong mỗi trang viết của mình, Nguyễn Tuân luôn muốn thể hiện sự tài hoa, uyên bác của bản thân.
+ Chất tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân được thể hiện ở:
+ Là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cách tuyệt mĩ…
+ Kho từ vựng phong phú, tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, có phối âm, phối thanh linh hoạt, tài ba…
* Giá trị nghệ thuật của đoạn trích
- Tùy bút pha bút kí, kết cấu linh hoạt
- Vận dụng nhiều tri thức văn hóa và nghệ thuật
- Nhân vật mang phong thái đời thường, giản dị
- Bút pháp: kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn
- Ngôn ngữ hiện đại kết hợp với ngôn ngữ cổ xưa.
c) Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
- Cảm nhận của em về đoạn trích.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Phân tích hình tượng con Sông Đà trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân
Câu trả lời của bạn
Bằng phong cách nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng lay động người đọc nhiều nhất, Nguyễn Tuân đã sáng tác được rất nhiều tác phẩm có giá trị lớn, trong đó có sông Đà, một thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà tác giả thu hoạch được trong chuyến đi tới vùng Tây Bắc tổ quốc xa xôi, rộng lớn. Ông đã tìm được cái chất vàng của thiên nhiên cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa được thể hiện trong thiên tùy bút “người lái đò Sông Đà” mà con sông Đà với sự hung bạo, trữ tình và thơ mộng của nó đã được tác giả miêu tả thật tài hoa.
Sông Đà bắt nguồn từ huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), đi qua một vùng núi ác, đến gần nửa đường xin nhập quốc tịch Việt Nam. Sông có tổng cộng 73 con thác dữ và có tổng chiều dài là 983 km. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, con sông Đà trở nên có tính cách phong phú, phức tạp, như một cố nhân “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.
Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh: “Đường lên Mường Lễ bao xa – Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh” (Ca dao) và cái hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường. Vẻ nguy hiểm của sông không chỉ được thể hiện qua thác nghềnh mà đó còn là “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, một nơi hẹp như thế mà lưu tốc dòng nước vốn nhanh bây giờ lại trở nên xiết vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
Cũng như “quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng đấy”. Bằng kết cấu trùng điệp, tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất.
Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Thật là những cái bẫy ghê sợ, chết người!
Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó. Ông quả là một nghệ sĩ bậc thầy!
Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm:
Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”.
Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vây thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!
Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với “tay lái ra hoa”.
Qua đó, ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước của nó, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà”. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.
Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò mà còn đậm nét thơ mộng, trữ tình: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Một cách so sánh tài hoa, phong tình. Nước Sông Đà còn thay đổi theo mùa, trong đó đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, làm cho người đi rừng dài ngày “vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Sông Đà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”. Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và tuyệt đẹp như thế, nhà văn bỗng cảm thấy“thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, muốn được đánh thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, “tịnh không một bóng người”, “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” mà không có ai chăm sóc, mà dường như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng vắng lặng như thế mà thôi. Thật buồn tẻ! Từ quá khứ nhà văn trở về với hiện tại và hướng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ có con người khai phá, đường xá sẽ được mở, những ngôi làng thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười nói của mọi người. Rõ ràng cảnh vật nếu không có con người thì vẫn chỉ là hoang sơ, tẻ nhạt mà thôi! Đang mộng mơ bên cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có mối giao cảm kì lạ với loài vật: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Ở đây dường như là con vật hỏi người hay chính là người đang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng là thế, có những khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để rồi tiếng đập nước của ”đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến” đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu. Trở về với thực tại, lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như Tản Đà khi trước: “Dải sông đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết”. Con sông Đà như một sinh vật có linh hồn, dòng nước trôi lững lờ “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn, như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Con sông trở nên hiền hòa và thơ mộng, nó “trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, làm ta thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng vô giá của thiên nhiên là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân
Hướng dẫn soạn bài " Người lái đò trên Sông Đà" - Nguyễn Tuân - Văn lớp 12
Câu trả lời của bạn
I. Đọc hiểu chung
1. Tác giả
– Nguyễn tuân là một người tri thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc
– Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác tài hoa
– Nguyễn Tuân là người có cá tính mạnh mẽ và phóng khoáng, ông không thích những cái gì bằng phẳng nhợt nhạt, nhà văn luôn hứng thú với những biểu hiện mạnh mẽ phi thường của tạo vật và con người
2. Tác phẩm
– Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tùy bút sông Đà (1960)
– Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây bắc đặc biệt là chất vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn con người lao động chiến đấu trên miền sông núi Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng
– Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau cách mạng tháng Tám
II. Đọc hiểu chi tiết
1. Hình tượng con sông Đà
– Con sông Đà được nhân hóa như con người và mang hai nét tính cách cơ bản: hung bạo và trữ tình
– Hung bạo:
• Cảnh đá ở bờ sông: đá dựng vách thành lòng sông hẹp, có quãng con hươi con nai còn nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia, nhìn từ dưới lên như nhìn lên cái tòa nhà cao vừa tắt phụt đèn điện
• Mặt ghềnh Hát loong: dài hàng ngàn cây số, “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt bất cứ ai đi qua quãng ấy
• Cái hút nước giống như cái giếng bê tông, nước thở và kêu như cái cống cái bị sặc, tưởng tượng một anh quay phim táo bạo ngồi thuyền thúng mà cầm máy quay cùng chìm xuống cái xoáy ấy
• Thác nước: tiếng nước gần mãi réo lên, lúc thì gầm réo oán trách van xin, khiêu khích, lúc thì nghe như đàn trâu mộng “…nổ lửa” nghệ thuật lấy lửa tả nước
• Đá ở lòng sông: như bày thạch trận
– Thơ mộng: di hết thượng nguồn đến hạ nguồn ta bắt gặp cảnh đẹp này
• Hình dáng: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc… xuân” đẹp như một người thiếu nữ
• Màu nước sông Đà: thay đổi theo mùa: mùa xuân màu xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, chưa bao giờ nước sông Đà màu đen cả đẹp độc đáo
• Sông Đà gợi cảm:
+ cố nhân
+ con sông còn gợi lên những niềm thơ
• Cảnh hai bờ sông giống như một bờ tiền sử, cổ tích thơ mộng trữ tình và thanh vắng
-> Tóm lại bằng tài năng uyên bác của mình Nguyễn tuân đã đưa người đọc đến với sông Đà cảm nhận được hai nét tính cách hung bạo và trữ tình của dòng sông. Hai nét tính cách đối lập nhưng lại thống nhất bổ sung cho nhau vì thế con sông Đà dưới trang viết của Nguyễn Tuân được xem như là một công trình nghệ thuật, một kì công của tạo hóa đã ban cho Tây Bắc
2. Hình tượng người lái đò
– Nguyễn Tuân nói về người lái đò là một tay lái ra hoa
– Ngoại hình: có ngoại hình độc đáo “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh”
– Vẻ đẹp được thể hiện qua những lần vượt thác
• Ông phải vượt qua 3 vòng thạch trận với vòng một có 5 cửa thì 4 cửa tử một cửa sinh lập lờ bên tả ngạn. Ông phải dùng hai chân kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi nhưng vẫn tỉnh táo chỉ huy để con thuyền vào cửa sinh.
Nêu hoàn cảnh sáng tác TÙY BÚT NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – Nguyễn Tuân
Câu trả lời của bạn
Năm 1958, Nguyễn Tuân đi thực tế ở Tây Bắc, ghi nhận nhiều bức tranh sinh động và nhiều hình ảnh nghệ thuật đầy sức hấp dẫn, đậm đà cảm hứng lãng mạn trong sáng tác bằng tác phẩm “Sông Đà” với 15 tùy bút . một trong những tùy bút đó là “Người Lái Đò Sông Đà”.
Bài văn đầy ắp những tư liệu địa lí, lịch sử ngọn nguồn của sông đà. Những địa thếđặc biệt, những con thác dữ, lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân vùng cao Tây Bắc. Đồng thời miêu tả hình ảnh con sông Đà bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo.
Trình bày phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo, rõ nét :
a. Trước cách mạng tháng 8 / 45 :
- Phong cách nghệ thuật là lối chơi ngông bằng văn chương : Cố ý làm khác người, thích cái độc đáo, cái duy nhất không giống ai… từ đề tài, lối kết cấu, hành văn, cách dùng từ, đặt câu.
- Tính uyên bác, tài hoa của Nguyễn Tuân là ở :
+ Tiếp cận mọi sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mỹ của nó để khám phá, phát hiện khen hay chê .
+ Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa ng/th khác nhau để quan sát hiện thực, sáng tạo h/ tượng.
+ Luôn nhìn người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ và sáng tạo nên những nhân vật tài hoa nghệ sĩ .
+ Tô đậm cái phi thường xuất chúng,gây cảm giác m/ liệt, dữ dội đến mức khủng khiếp – Đẹp đến tuyệt vời
b. Sau cách mạng tháng 8/ 45 :
- Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân có sự chuyển biến quan trọng : Giọng văn trở nên tin yêu, đôn hậu. Oâng vẫn tô đậm cá tính, phong cách độc đáo trên mọi trang viết .
- Thiên nhiên là những công trình mỹ thuật thiên tạo tuyệt vời (Sông, nước, cây ,cỏ…) . Con người bình thường dứoi ngòi bút ông cũng là những con người tài hoa .
c. Thể tài chủ yếu của Nguyễn Tuân :
- Là tùy bút (lối độc tấu) mạch văn biến hóa với nhiều liên tưởng linh hoạt.
- Văn xuôi nhiều hình ảnh, nhạc điệu, từ vựng phong phú, chính xác sáng tạo mới lạ trong cách so sánh ví von, trong cách dùng từ, đặt câu .
Trình bày sự nghiệp văn chương của nhà văn Nguyễn Tuân
Câu trả lời của bạn
Hơn nửa thế kỉ cầm bút, Nguyễn Tuân đã để lại cho nền văn học nước nhà một sự nghiệp văn chương khá lớn
1.Trước cách mạng tháng 8 : Chủ yếu xoay quanh 3 đề tài :
· Chủ nghĩa xê dịch : Một chuyến đi, Thiếu quê hương,….
· Vẻ đẹp của vang bóng một thời : Vang bóng một thời, Tóc chị Hoài, ….
· Đời sống trụy lạc :Chiếc lư đồng mắt cua,đem đến cho ông những cảm giác mới lạ, mãnh liệt “ tôi muốn mỗi ngày trong cuộc sống của tôi, phải cho tôi cái say của rượu tối tân hôn”–Một lá thư không gởi .
2. Sau cách mạng tháng 8 :
· Lòng yêu nước ,tinh thần dân tộc là động lực khiến ông nhiệt tình chào đón cách mạng và đem ngòi bút phục vụ cho 2 cuộc kháng chiến chống Pháp , Mỹ và xây dựng CNXH qua hàng loạt tác phẩm : Đường vui (1949), Tình chiến dịch ( 1950) Tùy bút kháng chiến (1955), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972).
· Nguồn cảm hứng sáng tác của ông vẫn là cái đẹp của no sông gấm vóc, những phẩm chất tinh thần cao quí của nhân dân ta trong chiến đấu , lao động và xây dựng đất nước .
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *