Bài học giúp các em nắm được cách làm bài nghị luận về một hiện tượng đời sống. Có nhận thức, tư tưởng, thái độ và hành động đúng đắn trước những hiện tượng đời sống hằng ngày.
Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày ý kiến của anh ( chị) về nạn bạo hành trong xã hội hiện nay.
Đồng cảm và sẻ chia là một nếp sống đẹp trong xã hội hiện nay. Hãy viết một bài văn ngắn trình bày ý kiến của anh (chị) về nếp sống ấy.
Để nắm được cách làm bài nghị luận về một hiện tượng đời sống, các em có thể tham khảo bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Dàn ý nghị luận xã hội: Đuổi theo đam mê, thành công sẽ đuổi theo bạn?
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề, trích dẫn câu nói "Đuổi theo đam mê, thành công sẽ đuổi theo bạn"
2. Thân bài
3. Kết bài: Bài học nhận thức và hành động.
Nghị luận xã hội về quan niệm: Muốn có hạnh phúc thì phải kiếm được nhiều tiền, vì có tiền là có tất cả?
Câu trả lời của bạn
Tiền không mua được tất cả nhưng có thể làm người ta bị mất đi tất cả. Người ta làm tất cả để kiểm tra cái không mua được tất cả là tiền – điều đó thực sự là bất hạnh.
Nếu chỉ nhiều về tiền mà thiếu văn hoá thì gọi đó là trọc phú, mà trọc phú thì chưa bao giờ được coi là giàu cả. Bọn trọc phú vô đạo nói “cái gì không mua được bằng tiền thì có thể mua được bằng rất nhiều tiền”. Chúng không biết rằng khi cái định mua nếu quy ra tiền rất lớn đã trở thành thứ vô hình, là giá trị chung mà không phải là sở hữu của riêng một người để có thể tùy tiện mua bán.
Khi làm việc không nghĩ đến tiền thì khi ăn cứ phải băn khoăn lấy đâu ra tiền để trả. Tờ một đô la khi đốt đi sẽ còn lại tro bụi. Nhưng giá trị của nó sẽ đi vào tất cả những tờ đôla còn lại.
Khi đồng tiền có giá trị thì người ta muốn đầu tư, khi nó mất giá trị thì người ta bàn đến chuyện đầu cơ, khi nó không còn giá trị thì người ta vùng lên đạp đổ xã hội.
Bọn bất lương có thể làm được tiền giả bằng công nghệ cao và rất phức tạp, nguy hiểm, nhưng tại sao chúng không muốn làm ra đồ thật cho dù đơn giản hơn nhiều? Là vì chúng muốn ăn cắp cả thế giới – Tiền giả đó chính là cái mà quỷ dữ đã xui chúng làm ra và trả cho công lao của chúng. Người sáng mắt khi nhận một đô la còn phải nhìn kiểm tra thật kĩ, người mù họ chỉ sờ, người có tâm họ chỉ cần nghe.
Ngoài tình yêu và danh dự, cái gì có thể đếm được thì hãy đếm cho chi li. Nếu là ham muốn thì bao nhiêu tiền cũng không đủ – Nhưng nếu xác định là chất lượng cuộc sống thì không cần nhiều tiền lắm cũng đủ. Cùng ngồi trên đống cát rất dễ là bạn. Nhưng khi cùng ngồi trên đống vàng nhiều khi dễ trở thành kẻ thù.
Giàu có trong sự nghèo khó của người khác, trong sự lụi bại của xã hội thì cái sự giàu có đó rất không yên ổn. Sự lụi bại của xã hội ở chỗ: Người tâm huyết thì thiếu tiền, không vị trí – Kẻ thừa tiền, thừa danh, thừa quyền thì không tâm huyết. Có những điều nếu trả bằng tiền thì người ta không muốn trả hoặc không chịu nổi, nhưng có thể trả bằng thứ khác, thậm chí dễ chịu và “tiết kiệm” hơn nhiều.
Từ khi phát minh ra đồng tiền người ta có thể không cần cảm ơn. Nhưng nếu nói cảm ơn với nhau thì đồng tiền đã hàm chứa những giá trị mới. Cái gì không phải của mình thì: – Rồi cũng mất – Phải trả giá đánh đổi – Gây ra hậu quả hay ngộ độc. Tiền thì tùy từng nơi có phải là giá trị hay không, nhưng một đôla thì ở đâu cũng là một đôla. Một món hàng chỉ có giá một đôla nhưng sự thật về nó có khi là hàng triệu đôla.
Chúng bảo nhau “cái khó bó cái khôn” nhưng khi hỏi đến cái “khôn” của chúng thì hoá ra đó là cái “khôn tiểu nhân”, ăn người, ích kỉ, ngắn hạn … vì vậy nếu dùng cái “khôn” ấy thì chỉ sinh thêm cái khó cho mai sau mà thôi. Chúng nghĩ ra bao nhiêu câu đối để xỏ xiên nhau, để khoe mẽ cái tài chơi chữ của mình, thế mà không nghĩ ra được một chiến lược kinh doanh sản phẩm để kiếm được nhiều tiền hơn.
Kiếm tiền là câu chuyện của tài năng, còn xử sự với tiền đó là vấn đề của Văn hoá. Người ta trả một đôla cho việc mua, nhưng đòi hơn một đôla cho việc mất lòng tin. Một chai nước một đôla có ý nghĩa lớn lao ở chỗ nó đã kịp đến với người ta khi đang khát trên sa mạc. Một cây nến một đôla nhưng đã vô cùng ý nghĩa khi nó đã được thắp lên vào lúc mà người ta cần đến ánh sáng.
Một đôla có thể mua được một liều “thuốc chết” ví như thuốc chuột, nhưng “thuốc sống” cần rất nhiều liều. Mình có, rất nhiều thứ trong đó không phải là tiền mà là tinh thần của mình. Đồng tiền kiếm được khi mang về nhà nó không còn là đồng tiền nữa. Đồng tiền lương thiện sẽ sản sinh ra các giá trị. Đồng tiền bất chính như tên trộm, sẽ lấy cắp đi rất nhiều thứ khác của người ta.
Người ta giả dối trong lao động thì sẽ trở thành kẻ ăn cắp những đồng tiền của người khác. Đồng tiền đảm bảo sức mạnh của bạn, nhưng trong nhiều trường hợp nếu bạn đem sử dụng sức mạnh ấy thì lại làm cho đồng tiền của bạn mất giá. Người biếu tiền thường nghĩ đến cái mục đích của mình còn người nhận lại quan tâm đến cái lí của nhận. Đúng ra là người biếu nên biết đến những ý nghĩa của giá trị sử dụng, còn người nhận nên thấy được cái tình của người biếu.
Tiền mua được cao lương mĩ vị nhưng không mua được sự ngon miệng
Tiền mua được thuốc nhưng không mua được sức khoẻ
Tiền mua được đồng hồ Rolex nhưng không mua được thời gian
Tiền mua được bộ quần áo sang trọng nhưng không mua được phong cách
Tiền mua được hợp đồng bảo hiểm nhưng không mua được sự yên ổn
Tiền mua được Sex nhưng không mua được tình yêu
Tiền mua được nhà cao cửa rộng nhưng không mua được tổ ấm
Tiền mua được kính Rayban nhưng không mua được tầm nhìn
Tiền mua được máy tính nhưng không mua được sự sáng tạo
Tiền mua được địa vị nhưng không mua được sự kính trọng
Tiền mua được sách, bằng cấp nhưng không mua được tri thức
Tiền mua được đàn nhưng không mua được cảm xúc…
Tiền có thể thỏa mãn được tham vọng nhưng không thoả mãn được khát vọng.
Đồng tiền quả có sức mạnh vô biên. Trong những xã hội thối nát, đồng tiền có thể mua tất cả, từ bằng cấp đến địa vị xã hội, quan chức… đây là ý kiến hoàn toàn sai lạc.
Con người phát minh ra đồng tiền chỉ để làm phương tiện trung gian của việc trao đổi hàng hóa. Thử hình dung, ngoài biển cả bao la không có chút lương thực thực phẩm nào, nếu ai đó có trong tay cả núi tiền thì liệu tiền đó có cứu được sinh mệnh anh ta? Vì thế chỉ nên xem đồng tiền luôn là phương tiện. Trong một xã hội, thông thường người ta cũng đánh giá con người qua khả năng thu nhập. Điều đó được lượng hóa bằng tiền. Nhưng số tiền mà một cá nhân thu nhập được trong quá trình lao động cũng vẫn chưa thể nói hết phẩm giá đạo đức của người đó. Tóm Lại, đồng tiền không thể là thước đo phẩm giá của con người.
Có hai cách kiếm tiền. Kiếm tiền chân chính bằng khả năng và lao động của mình và kiếm tiền bất chính bằng mọi thủ đoạn như tham nhũng, hối lộ, buôn bán ma túy, cho vay nặng lãi… Bi đát thay cho những ai tôn thờ đồng tiền. Đối với hạng người này, càng nhiều tiền họ càng hạnh phúc. Chỉ cần nhìn thấy đồng tiền là họ sẵn sàng quên đi tất thảy mọi điều quý giá trên đời. Và một nghịch lí tất yếu xảy ra, để hạnh phúc thì cá nhân đó phải bằng mọi cách vơ vét tiền. Đến mức, tự họ biến họ thành một “cái máy” kiếm tiền không hơn không kém.
Kiếm được bao nhiêu tiền không quan trọng bằng cách sử dụng tiền đó cho mục đích gì. Khi chết con người ta đem được gì sang thế giới bên kia?
Vậy nên, có nhiều tiền chưa hẳn đã hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ đến khi người đó biết cách làm ra những đồng tiền chân chính bằng mồ hôi xương máu của chính mình và biết sử dụng đồng tiền ấy một cách khôn ngoan.
Nghị luận xã hội về tầm quan trọng của sức khỏe đối với mỗi người?
Câu trả lời của bạn
Có một quy luật “bất di bất dịch” của cuộc sống, đó là “sinh, lão, bệnh, tử”. Cho dù bạn là ai, bạn sinh ra trong hoàn cảnh nào, bạn giàu có hay không, bạn là tổng thống hay chỉ là một người đánh giày thì bạn cũng không thể nào sống ngoài quy luật này. Riêng với tôi, là một người đàn ông đã bước sang tuổi 48, tôi cảm nhận rất rõ quy luật đó.
Tôi rất thích một câu chuyện, chuyện kể rằng:
Có một chàng trai bị đuổi việc. Anh rất hoang mang và tìm đến một nhà thông thái. Anh trình bày: “Thưa ông, con vừa bị mất việc. Vậy theo ông con nên làm thế nào?”. Nhà thông thái liền hỏi “Con còn đi được không?”, “Dạ, được”. Nhà thông thái lại hỏi tiếp “Con còn nhìn thấy gì không?”, “Dạ, có”. “Con còn nghe được không?”, “Dạ, chắc chắn rồi”. “Vậy, con còn nói được không?”, “Dạ, ông thấy rồi còn gì”. Cho đến lúc này thì nhà thông thái chỉ vỗ vai chàng trai và kết luận “Vậy thì con chỉ mất việc mà thôi, có gì mà con phải lo sợ vậy!”.
Từ câu chuyện này, tôi mới nhận ra rằng những gì chúng ta đang có, chúng ta không hề biết quý trọng. Có rất nhiều thứ chúng ta đang có chúng ta cảm thấy bình thường thì đó lại đang là niềm khao khát của biết bao người khác. Một trong số những thứ quý giá nhất mà cuộc đời đã ban tặng cho ta, đó chính là sức khỏe.
Cứ mỗi lần phải đi thăm người ốm trong bệnh viện là tôi lại sờ lên đầu, lên chân, lên tay để xem mọi thứ của mình có còn nguyên vẹn hay không. Cứ mỗi lần đi viếng đám ma, tôi lại sờ lên ngực mình để xem tìm mình còn đập mạnh hay không. Nếu bạn có dịp vào phòng cấp cứu của bệnh viện Việt Đức (Hà Nội) hay bệnh viện Chợ Rẫy (TP.Hồ Chí Minh), bạn sẽ có cảm nhận xem việc mình đang khỏe mạnh thực sự là có giá trị như thế nào.
Vào buổi sáng hay buổi chiều, mời bạn vào các công viên, bạn sẽ thấy “tắc đường”. Hàng ngàn người đang chen chúc trong những khoảng không nhỏ bé để luyện tập sức khỏe và hít thở những phân tử không khí trong lành và ít ỏi của thành phố đông đúc, nhộn nhịp và đầy khói bụi.
Nếu có dịp, mời các bạn hãy vào thăm những trại dưỡng lão, bạn sẽ hình dung ra tương lai của mình. Bạn có bao giờ tưởng tượng ra con người mình sau 20 năm nữa, 30 năm nữa. Chúng ta sẽ là những cụ già còng lưng, đang bước những bước đi cực kỳ chậm rãi, có khi đang ngồi trên xe đẩy, ngước những ánh mắt nặng nề cùng với những tiếng thở nặng nề.
Giờ đây, khi ngồi viết những dòng chữ này, tôi đang tưởng tượng lại những năm tháng khi tôi mới chập chững bước vào đời khi mới mười tám đôi mươi. Ngày ấy chỉ với chiếc xe đạp lọc cọc, với những đồng lương bèo bọt của thời bao cấp nhưng lại với một sức trẻ, ước mơ và những tình cảm trong sáng trẻ trung. Đó chính là sức trẻ.
Giờ đây, điều tôi mong ước nhất là cứ mỗi ngày chiều đến để được về nhà quây quần bên gia đình và chơi đùa với các con của mình. Nhà tôi ở trong một ngõ nhỏ của thành phố Hà Nội, bên cạnh của một trường tiểu học lâu đời. Cứ buổi chiều mấy bố con lại chạy sang sân trường, tôi lại được hòa mình trong tiếng nô đùa, tiếng hét của trẻ thơ, trong khi đó mình thì đi dạo, hít thở không khí trong lành của một không gian tuyệt diệu.
Cậu con trai đầu của tôi đã 12 tuổi nên có vẻ bắt đầu “người lớn”, nhưng tôi lại có thêm cậu con trai thứ hai mới hơn 3 tuổi. Rất nhiều niềm vui, hạnh phúc và cảm nhận của cuộc sống, vợ chồng tôi được hưởng từ tiếng cười và nô đùa của cậu con thứ hai. Nếu ai đó bước vào nhà tôi, họ có thể rất ngạc nhiên khi thấy những đứa con của tôi cứ liên tục lên tiếng “bố hâm điên”, bởi vì đó là những lúc tôi được nói những thứ linh tinh vô nghĩa, đó là lúc tôi bắt chước chính con của mình. Bởi vì tôi biết, cái mà tôi muốn nhất lúc này chính là tuổi trẻ, chính là sức trẻ thì tôi lại không thể nào có được, vậy thì tại sao mình lại không tìm cách “lừa” mình, cách tốt nhất chính là làm bạn của con thôi.
Một trong những quà tặng “thiên phú” dành cho con người đó chính là sức mạnh thể chất. Bạn không thể nào dùng thái độ hay ước muốn nào đó để thay cho quy luật giới hạn của cơ bắp. Bạn có thể có những sức mạnh của tinh thần nhưng cũng có lúc tinh thần không thể điều khiển được cơ bắp hay những hệ thống đang vận hành cơ thể của chúng ta.
Tôi nghĩ rằng để thực sự khỏe mạnh, tinh thần ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe của chúng ta. Nếu bạn thường xuyên lo lắng hoặc suy nghĩ tiêu cực, đó là cách hủy hoại sức khỏe của mình nhanh nhất. Nếu bạn quá lạm dụng sức khỏe của mình để thức đêm nhiều hơn, thỏa mãn thú vui trước mắt nhiều hơn bạn sẽ tự hủy hoại chính mình.
Để thực sự sống khỏe mạnh, điều trước tiên bạn phải trả lời xem đối với bạn điều gì là quan trọng nhất? Nếu là “sức khỏe” thì thật tuyệt! Bạn hãy dành nhiều thời gian hơn cho việc “sống khỏe mỗi ngày”. Bí quyết để sống khỏe mạnh đó là bạn hãy sống chậm lại. Đi chậm lại. Nhìn ngắm nhiều hơn. Ăn chậm lại, nói chậm lại. Thở chậm lại và cảm nhận cuộc sống càng chậm càng tốt.
Có ai đó khuyên bạn “hãy nhanh lên, không thì mất cơ hội đấy”, bạn hãy mặc kệ. Bản thân cuộc sống của chúng ta đã vội vã lắm rồi, đừng nghe họ. Bạn hãy dành nhiều thời gian hơn nữa cho chính mình, bên trẻ thơ, hãy vào công viên nhiều hơn nữa và gần với thiên nhiên nhiều hơn nữa. Cứ mỗi lần ra khỏi nội thành, tôi lại nghĩ “không chắc mình đã sống lâu hơn hay hạnh phúc hơn bác nông dân đang cày ruộng ngoài kia”, đó chính là nơi có “tiếng gọi hoang dã”, gần gũi với bản chất của con người nhất. Có rất nhiều thứ bạn có thể khỏe mạnh mà không cần mất tiền, có rất nhiều thứ mất tiền, bạn lại mất đi sức khỏe!
Sức khỏe là một trạng thái về thể chất của một con người khóe mạnh, không bị đau yếu. Khi có nó, ta không cảm thấy nó là quý giá nhưng khi ta mất nó, tức là khi ta bị bệnh tật dày vò, ta không còn lành mạnh như trước, ta mới nhận thấy một cách thấm thía và đủ đầy rằng sức khỏe còn hơn tiền bạc, danh vọng mà không có thể lực vật chất, tinh thần nào bằng nó được và chỉ khi đó, ta mới hối tiếc rằng tại sao mình lại có thể đánh mất hoặc bằng lí do này, lý do khác một cửa cái to lớn nhất trên đời.
Hãy trông chàng trai trẻ kia bên hàng xóm, thân hình vạm vỡ, thể xác căng tràn nhựa sống, chân tay tưởng chừng như của một lực sĩ sắp ra đấu trường; quả thực là một pho tượng sống. Nhưng sau một thời gian ngắn, mải vui chơi với bạn bè, thức trắng những đêm dài để đắm say theo chén rượu, cuộc bài, chàng trai trở thành một cái xác không hồn, thân hình tiều tụy, mắt hốc hác, chân tay biến đi các bắp thịt tròn mà chỉ còn một lớp da bọc một mớ thịt tong teo. Chàng ta nằm lừ đừ suốt ngày để mà nghiền ngẫm về của cải quý giá của mình vừa đánh mất: sức khỏe. Chàng ta hối tiếc thời kỳ đẹp đẽ nào mà mình còn là một bức tượng đồng với niềm vui sống lành mạnh vô biên! Và khi ngồi ủ rũ với tâm thần mệt mỏi, với thể xác yếu đuối của mình, chính lúc đó chàng ta mới cảm thấy mình đã quá dại khờ.
Những điều nói trên nêu tỏ rõ sự quan trọng lớn lao của sức khỏe trong cuộc đời của chúng ta. Khi chúng ta mạnh khỏe, cuộc đời thực vô cùng tươi vui và mọi công cuộc dù to lớn đến đâu ta cũng sẽ dễ dàng thực hiện. Khi đau yếu, cuộc sống sẽ đen tối và buồn nản, một công việc dù nhẹ nhàng đến đâu đối với ta cũng trở nên khó khăn, đầy mệt nhọc. Có điều mỉa mai hơn nữa, là khi mình còn có sức khỏe, mình không cảm thấy nó quý giá và khi đánh mất nó, mới tiếc nhớ nhưng đã muộn màng rồi! Lời nói trên không chút nào văn hoa, bóng bẩy mà chứa đầy một sự thật hiển nhiên.
Đối với mọi người sống trong xã hội hiện tại, thì giờ là vàng bạc, tốc độ là quyết định, sức mạnh vật chất giúp chúng ta có một cuộc sống sung túc hơn và giúp ta vượt qua những sương gió, nắng mưa, đầy bất trắc của cuộc đời, những tai ương có thể xảy đến bất thình lình cho bất cứ một ai. Sự nghèo khổ do thiên tai, hạn hán, lụt lội là những bất ngờ trong đời sống. Có sức khỏe ta sẽ đối phó đầy hiệu quả với những khó khăn đó. Ta hãy xem một người luôn luôn vui vẻ, lịch thiệp, ưa kết giao với mọi người dễ gây cảm tình với tất cả chỉ vì họ tràn đầy sức khỏe và tự tin. Về phương diện tinh thần và đạo đức, người có sức khỏe có thể có nhiều thuận lợi quyết định sự thành công của mọi việc. Trí thông minh của họ dễ dàng phát triển, trí óc sáng suốt thêm, sự suy luận mau lẹ và đúng đắn.
Tây phương có câu: “Khi thân hình ta yếu đuối, thì nó điều khiển ta những khi ta khỏe mạnh, nó sẵn sàng vâng lời ta”. Tâm hồn của một con người tráng kiện trở nên cao thượng vì ta sẵn sàng tiêu diệt những tư tưởng đen tối, những ác ý. Lòng yêu thương đồng loại, khả năng lương thiện sẽ phát triển đủ đầy. Bao nhiêu đức tính, tưởng chừng không có gì tương quan với sức lực thể chất của ta nhưng phân tích kĩ, chúng ta thấy kết quả tất nhiên của một sức mạnh tốt đẹp. Chẳng thế mà người ta đã nói: “Một tâm hồn lành mạnh trong một thể chất tráng kiện” đó sao. Sức khỏe làm phát sinh ở ta chí khí hào hùng, sự tự tin, sự can trường, lòng dũng khí, hăng say làm việc và chiến đấu.
Đúng vậy, lúc ta còn có sức khỏe tràn đầy, ta không thấy rõ tác dụng của nó và ta dễ dàng phung phí, như tiền bạc cầm trên tay. Thức trọn đêm, vui chơi với bạn bè, mải mê ăn nhậu chơi bời từ ngày này sang ngày khác có biết đâu rằng sau cuộc vui chơi vô bổ ấy, là một sự trống rỗng của tâm hồn. Thể xác giày vò, thân hình tiều tụy, đầu óc lừ đừ, tối tăm. Ta vẫn nghe nhiều người than thở: “Nay tôi đau yếu tôi mới biết rằng trước kia, khi mình có đủ sức khỏe là một niềm hạnh phúc vô biên!" Và rồi họ thèm: “Thực không làm sao tìm lại được sự mạnh mẽ vui sống thuở trước!”. Rõ ràng sức khỏe là của cải quý nhất trên đời đối với mỗi người. Do vậy, chúng ta cần coi trọng và giữ gìn nó.
Mỗi con người trên thế giới này đều có những thứ quý giá cho riêng mình. Đặc biệt đối với những con người đang trong tình trạng phải đối mặt với tử thần, được sống – đối với họ – đã là điều quý giá nhất. Chắc chắn có rất nhiều người khi được hỏi sẽ nói rằng bạn bè, gia đình, tình yêu, hôn nhân, cuộc sống ổn định, lương cao… là những thứ quý giá nhất. Nhưng cũng chắc chắn rằng không nhiều người nhận ra được rằng quý giá nhất đối với một người không phải là những thứ ấy, quý giá nhất đối với một người chính là những thứ giúp họ có được bạn bè, gia đình, tình yêu… Đó là sức khỏe, thời gian và cơ hội.
Vì sao nói sức khỏe, thời gian và cơ hội là quý giá nhất trong cuộc sống?
Bởi con người chỉ cần nắm chắc trong tay ba thứ đó sẽ có thể tạo ra một cuộc sống tốt đẹp, sẽ hoàn thiện được nhân cách và góp phần giúp xã hội đi lên.
Trong ba thứ này, có thể nói, sức khỏe là yếu tố tiên quyết quan trọng đầu tiên. Vì sao?
Sức khỏe chính là khởi nguồn bắt đầu của mọi thứ, là sự bắt đầu của một cuộc sống, một con người. Có sức khỏe, con người mới có khả năng lao động, làm ra những thứ mình cần, phục vụ cho chính bản thân. Chính sự lao động, làm ra những thứ mình cần, phục vụ cho cuộc sống của bản thân, của gia đình, của xã hội sẽ mang lại cho con người niềm vui, từ đó tạo động lực để không ngừng tiến lên phía trước, không ngừng hoàn thiện bản thân, không ngừng lao động. Không ngừng lao động, không ngừng làm ra vật chất, thì xã hội mới không ngừng đi lên, đất nước mới không ngừng phát triển. Chính vì vậy, sức khỏe là sự khởi nguồn của mọi niềm vui, mọi sự phát triển.
Sức khỏe cũng chính là vốn quý nhất của một con người. Không có sức khỏe, cuộc đời một con người cũng xem như không còn ý nghĩa gì. Ngay cả tiền bạc, thứ mà người ta coi là rất quý, có thể giẫm đạp lên nhau vì nó, cũng không thể giúp chúng ta mua được sức khỏe. Thế gian này, quý nhất chính là con người chúng ta. Một cơ thể khỏe mạnh, một tâm hồn không bệnh tật chính là chân hạnh phúc, là khởi nguồn của mọi thứ tốt đẹp. Có sức khỏe, bạn sẽ có cả ngàn ước muốn. Không có sức khỏe, bạn sẽ chỉ có một ước muốn duy nhất, đó là sức khỏe. Khi bạn khỏe mạnh bình thường, cụm từ “quan tâm đến sức khỏe” sẽ chẳng bao giờ xuất hiện trong đầu bạn. Nhưng khi bạn lâm bệnh, lúc này bạn sẽ nhận ra, sức khỏe là quý nhất. Chính vì vậy, sức khỏe là vốn quý nhất của một con người.
Sức khỏe là yếu tố tiên quyết quan trọng đối với một con người. Nhưng có một yếu tố khác, cũng quan trọng không kém sức khỏe, luôn luôn trong mọi tình huống, để chứng minh một điều gì đó, bạn cần có nó. Đó chính là thời gian.
Thời gian chính là yếu tố quan trọng không thể thiếu đối với chúng ta, bởi mọi hoạt động vui chơi, học tập, việc nhà, lao động ngoài cần sức khỏe, thì để gặt hái được thành công chúng ta cần có thời gian. Bạn sẽ chẳng bao giờ có được thành công nếu không có thời gian, bởi thành công chẳng bao giờ vừa lao động đã hiển hiện trước mắt. Ngược lại, để nhìn thấy sự thất bại của bản thân, bạn cũng cần thời gian, đó là những lý do hợp lí để chúng ta tin rằng thời gian chính là yếu tố quan trọng không thể thiếu đối với mỗi con người.
Thời gian cũng chính là yếu tố tất yếu chứng minh con người bạn, cuộc đời bạn. Mỗi con người đều có một cuộc đời của bản thân, cũng chính là có một quỹ thời gian cho bản thân. Sử dụng thế nào là tùy ở mỗi người. Sử dụng một khoảng thời gian cho một công việc nào đó mà kết quả không được như ý, đó là chúng ta đã đánh mất một phần trong quỹ thời gian của mình, cũng chính là đánh một phần cuộc đời mình.
Thời gian còn là thứ duy nhất qua đi không lấy lại được. Có biết bao người trên thế giới này đã sống mà hoài phí cuộc đời, cũng có biết bao người trên thế gian đã từng khao khát một mong ước mãnh liệt: “giá như thời gian có thể quay trở lại”. Một học sinh cá biệt suốt thời gian còn đi học đã không tự cố gắng, không tận dụng, để rồi sau này không có kiến thức, không thể làm việc, không thể tự đi lên, càng không thể giúp xã hội, chính là ví dụ điển hình cho sự hoài phí cuộc đời. Một thanh niên thay vì phấn đấu cho việc hoàn thiện bản thân thì lại sa vào các tệ nạn xã hội, hoài phí những năm tháng cuộc đời và còn tự tàn phá sức khỏe, cũng chính là tấm gương cho sự hoài phí, không biết quý trọng thời gian.
Karl Marx đã từng nói: “Mọi tiết kiệm, suy cho cùng là tiết kiệm thời gian”. Bởi thời gian chính là thứ quan trọng không thể thiếu, là yếu tố chứng minh cuộc đời cũng chính là thứ qua đi sẽ mãi không quay lại; vì vậy, câu nói của K. Marx đã góp phần thức tỉnh biết bao thế hệ con người rằng hãy quý trọng thời gian, “thì giờ là vàng bạc”, có thời gian sẽ có tất cả, không có thời gian thì không có gì cả.
Một con người đều có cuộc đời riêng của mình, là thành công hay thất bại đều tùy ở bản thân mỗi người. Nhưng chúng ta phải biết nên làm gì, không nên làm gì để cuộc đời mình là cuộc đời của sự thành công, nếu không thành công, thì cũng là sự mãn nguyện, không hoài phí thời gian, và là để đến “khi nhắm mắt xuôi tay, không phải ân hận về những năm tháng đã sống hoài sống phí” (“Thép đã tôi thế đấy” – Otsterropski).
Thời gian là vàng bạc, sức khỏe là vốn quý. Khi bạn có cả hai thứ này, bạn chính là người hạnh phúc, nhưng bạn không phải là người thành công. Để thành công, bạn cần nắm bắt thứ mà thời gian mang lại cho bạn, nếu biết cách tận dụng thứ ấy, bạn sẽ thành công trong mọi công việc. Thứ ấy, chính là cơ hội.
Cơ hội, chính là thứ mà mỗi người ai cũng từng có ít nhất một lần trong đời. Thậm chí, cơ hội là thứ chúng ta có tự tạo ra cho bản thân. Cơ hội chính là nhà đại diện của sự thành công, nếu bạn biết nắm bắt, gây ấn tượng tốt với “nhà đại diện”, bạn sẽ nhanh chóng tiếp cận được với “chủ của nhà đại diện”. Từ đó bạn sẽ dễ dàng tiếp cận với thành công của mình.
Cơ hội có những đặc trưng của thời gian. Nếu là cùng một việc, sẽ rất khó nếu bạn muốn nó đến với bạn lần thứ hai. Tin chắc rằng mỗi bản thân chúng ta, ai cũng từng một lần hoài phí cơ hội, từng một lần hoài phí thành công. Thời gian thì sẽ chẳng quay trở lại, còn cơ hội thì có khi chờ cũng mãi chẳng đến lần thứ hai, vì vậy, cơ hội giống như thời gian, chúng ta phải biết quý trọng.
Có được cơ hội thì không khó, vuột mất nó thì còn dễ hơn, nhưng biết nắm bắt, tận dụng thì sẽ là điều khó khăn, bởi không phải ai cũng dễ dàng nhìn ra được cơ hội để bản thân thành công. Kẻ thành công là kẻ biết nắm bắt cơ hội. Christina Amanpour – nữ phóng viên nổi tiếng trên thế giới – đã từng biết nắm bắt cơ hội, tạo bước ngoặt cho cuộc đời mình bằng việc đi học thay chị gái trong một khóa học đào tạo nghiệp vụ thông tin, chính việc này đã thay đổi cuộc đời cô. Cô đã từng nói: “Cơ hội giống như cuộc hẹn hò không có chủ đích sống lại diễn tiến thành cuộc hôn nhân bền vững, hoàn toàn là sự bất ngờ”. Và đích thật, thành công của cô đến từ sự ngẫu nhiên, nếu không có bước ngoặt bất ngờ như thế, không chừng nước Mỹ sẽ chẳng có được một nữ phóng viên tài năng như thế. Thành công của Amanpour đã chỉ ra cho chúng ta biết rằng : cái gọi là bất ngờ thực chất là Tạo hóa đã cho chúng ta cơ hội, mấu chốt chính là nếu biết nắm bắt cơ hội, nắm thật chắc là đằng khác, rồi gắng sức, nỗ lực, cuối cùng sẽ đi đến thành công.
Con người khi được sinh ra đã có được một cuộc đời, cũng chính là có được thời gian, có được sức khỏe, và chắc chắn cũng sẽ có được cơ hội. Nếu biết quý trọng sức khỏe, tiết kiệm thời gian, và nắm bắt cơ hội, một cuộc sống mãn nhãn, thành công, hạnh phúc sẽ đến với chúng ta. Có được hai thứ và biết tận dụng thứ thứ ba, chúng ta sẽ có tất cả những gì mình muốn.
Thời gian, sức khỏe và cơ hội. Đó là những yếu tố quan trọng có quyền năng thay đổi cả cuộc đời một con người chỉ trong khoảnh khắc, là thứ để những ai không có được phải thèm muốn, những ai có được thì ra sức giữ gìn, những ai đã để vuột đi phải tiếc nuối, hối hận. Và đã không phải ân hận, để không phải “sống hoài sống phí”, để mọi thứ “hoàn toàn là sự bất ngờ” đến với cuộc đời, hãy chào mời thành công bằng cách trân trọng những gì mình đang có, thời gian và sức khỏe, biết trân trọng thời gian và sức khỏe, cơ hội sẽ tự nhiên đến, thành công sẽ tự nhiên đến. Vậy còn gì hạnh phúc và thành công bằng việc có được cả thời gian, sức khỏe và cơ hội? Chúng chính là những điều quý giá nhất trong cuộc sống này rồi.
Nghị luận xã hội về việc bán hàng rong trên đường phố hiện nay?
Câu trả lời của bạn
Trong cuộc sống, con người chúng ta có nhiều cách để mưu sinh: có người sống bằng những thành quả học tập, nghiên cứu khoa học của mình như những kỹ sư, bác sĩ, nhà giáo; có người sống bằng kinh doanh; có người sống bằng sức lao động chân tay của mình; và bên cạnh đó có những người dân lao động nghèo khổ sống bằng nghề bán hàng rong. Việc bán hàng rong trên đường phố hiện nay đã đặt ra nhiều vấn đề khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Thật vậy, trong cuộc sống hôm nay, chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh và trình độ văn hóa của con người ngày càng được nâng cao. Một trong những việc chúng ta cần phải có ý thức và hành động góp phần làm cho đường phố ngày càng văn minh hơn, đó chính là chúng ta phải biết bảo vệ môi trường, nghĩa là chúng ta phải giữ gìn đường phố sạch đẹp, không vứt rác bừa bãi xuống đường phố. Thế nhưng, còn rất nhiều người thiếu ý thức về việc này, trong đó có những người bán hàng rong. Bán hàng rong là một nghề lao động chân chính, không có gì xấu xa cả. Những người bán hàng rong là những người lao động nghèo thật thà, chất phác, quanh năm vất vả với gánh hàng rong của mình để nuôi cả gia đình. Những gánh hàng rong của họ như những gánh bún, gánh chè, gánh đậu hũ, những xe đẩy trái cây, bắp nấu, bắp xào, xôi, dừa… của họ đã phục vụ khá hiệu quả cho đời sống những người lao động nghèo, có thu nhập thấp, nhất là tầng lớp công nhân. Nhưng bên cạnh đó, những người bán hàng rong đã để lại nhiều vấn đề mà cả xã hội quan tâm như vấn đề vệ sinh thực phẩm, vấn đề môi trường, vấn đề giao thông.
Những người bán hàng rong phần lớn ít quan tâm đến vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Những thức ăn của họ không được bao bọc cẩn thận, mặc sức cho bụi bặm và ruồi nhặng bám vào, thực phẩm của họ không đảm bảo vệ sinh, nên người tiêu dùng sử dụng những thức ăn ấy dễ bị ngộ độc. Hơn nữa những người bán hàng rong còn thiếu ý thức bảo vệ môi trường, họ thường xả rác bừa bãi trên đường phố, hè phố, vứt rác xuống sông và kênh rạch làm mất vẻ mỹ quan thành phố, làm nghẽn dòng chảy của những dòng sông và kênh rạch ấy. Chính họ là những người góp phần hủy hoại môi trường sống. Ngoài ra, những người bán hàng rong còn lấn chiếm lòng đường, lề đường để buôn bán, gây trở ngại rất nghiêm trọng việc giao thông. Nhiều lần họ đã được các cấp chính quyền như cảnh sát bảo vệ môi trường, cảnh sát giao thông, dân phòng nhắc nhở nhiều lần nhưng họ vẫn tiếp tục vi phạm đến nỗi vật dụng và phương tiện buôn bán của họ bị thu giữ, nhưng rồi họ lại tái phạm.
Việc dẹp nạn bán hàng rong trên đường phố là một việc không phải dễ, rất phức tạp, chúng ta phải làm sao cho có lý, có tình, hợp với lòng nhân đạo. Để làm được việc này, tôi thiết nghĩ trước tiên chúng ta phải giáo dục ý thức công cộng thường xuyên cho đội ngũ này, sau đó nếu họ cố tình vi phạm chúng ta phải dùng biện pháp mạnh, về lâu, về dài nhà nước cần phải hỗ trợ, quy hoạch, tạo công ăn việc làm cho những người lao động này thì mới mong dứt điểm việc bán hàng rong bừa bãi trên hè phố.
Tóm lại, bán hàng rong là một việc làm chân chính, những người bán hàng rong là những người lao động chân chính, đáng tôn trọng. Tuy nhiên, do ý thức công cộng chưa cao nên họ đã để lại những hệ quả xấu đến môi trường, đến giao thông. Chúng ta mong sao nhà nước ta có nhiều biện pháp, nhiều hình thức để nâng cao nhận thức của họ về môi trường, về trật tự giao thông, về văn minh đô thị để họ trở thành một nhân tố góp phần xây dựng một nếp sống tốt đẹp hơn, văn minh hơn.
Bàn tay của bạn lúc nào cũng có mặt phải, mặt trái.
Cuộc sống cũng thế!
Hàng rong đã có từ rất lâu, là một phần của cuộc sống con người Việt Nam từ xa xưa. Về nguồn gốc, gánh hàng rong xuất phát từ họp chợ – nơi người ta mang vác, gánh thồ món hàng của mình để bán, trao đổi với người khác. Dần dần, để tăng doanh thu, người ta mang món hàng của mình đến từng làng, con hẻm, khu dân cư, nơi tập trung đông người để bán buôn.
Hàng rong đáp ứng nhu cầu rẻ, tiện lợi do hàng rong được bán bởi đa số là dân nghèo, vất vả lao động để kiếm sống, gánh nặng món hàng khắp nẻo đường để mang đến cho khách hàng. Ngày nắng thì cực nhọc, ngày mưa thì người bán hàng rong tràn ngập nỗi lo ế ẩm.
Cuộc sống ngày càng hiện đại, nhu cầu con người ngày càng được tăng cao. Hàng rong vẫn duy trì cách bán buôn theo kiểu cũ, gây ra những bức xúc nhất định như chế biến thực phẩm sơ sài, mất vệ sinh an toàn thực phẩm… và gần đây là cao điểm lấn chiếm lòng lề đường, bị nhân viên trật tự đô thị "hốt" gây phản cảm, bức xúc cho dư luận.
Về pháp luật, lòng đường, lề đường, hè phố được sử dụng cho mục đích giao thông. Không một cá nhân, tổ chức nào được tự ý chiếm lòng đường, lề đường, hè phố để sử dụng cho mục đích cá nhân. Hàng rong cũng không ngoại lệ (Điều 35 khoản 2 điểm a Luật Giao thông đường bộ 2008 – "Không được thực hiện các hành vi sau đây: – Họp chợ, mua, bán hàng hóa trên đường bộ").
Phương tiện, tang vật của người bán hàng rong là chiếc xe đẩy tay, cái xô, cái nồi, bàn, ghế cho đến cái nhỏ nhất có thể là bịch bánh, trái cây… Phương tiện, tang vật có thể bị tạm giữ hoặc tịch thu (Điều 26 – Luật Xử lý vi phạm hành chính).
Về thẩm quyền xử lý thì lực lượng trật tự đô thị được UBND thành phố, quận thành lập dưới sự chỉ đạo của mình để kiểm tra, xử lý về vấn đề buôn bán, để xe lấn chiếm lòng, lề đường và các nhiệm vụ khác.
Chính vì vậy, công việc của họ là hoàn toàn hợp pháp và được pháp luật bảo hộ. Những cảm nghĩ của một số người thiếu hiểu biết về pháp luật thường là cảm giác cá nhân và hoàn toàn không có căn cứ về luật pháp.
Cuộc sống cũng có mảng tối, mảng sáng. Con người luôn hướng tới cái thiện, cái đẹp, thậm chí phớt lờ mảng tối để nhìn nơi có ánh sáng tươi sáng. Thế nhưng mảng tối vẫn tồn tại khách quan và không bao giờ biến mất theo lối tư duy: không biết là không có.
Gánh hàng rong tạo điều kiện cạnh tranh không công bằng về giá cả thực phẩm chế biến đối với quán ăn, nhà hàng. Nguyên nhân: quán ăn, nhà hàng đều phải đóng thuế kinh doanh, chi phí mặt bằng, đào tạo an toàn vệ sinh thực phẩm, dụng cụ chế biến phải được rửa sạch sẽ, khô ráo và được kiểm tra thường xuyên.
Hàng rong thì không! Tô chén, đũa muỗng được tráng qua bằng một xô nước nhỏ rồi lau khô bằng một giẻ lau cáu bẩn. Bán nơi này xong, họ lại di chuyển nơi khác. Khi người ăn bị ngộ độc thực phẩm như: tiêu chảy, ói mửa thì câu trả lời (nếu như gặp lại người bán) là: người ta ăn có bị gì đâu?! Chắc tại anh/chị bụng yếu! Thế là trách nhiệm được đổ vào chính quyền quản lý.
Thế nhưng… người bán hàng rong đa phần là dân nghèo: một số ít tại địa phương và phần lớn là dân nhập cư. Họ vì miếng cơm manh áo, phải mang gánh, vác nặng, thậm chí phải vay nóng để lấy vốn buôn bán. Họ sẵn sàng đánh nhau để tranh giành chỗ bán có đông người. Một số ít không tranh giành được thì đi thuê hoặc mua lại phần lề đường mà người bán trước buôn bán để lại với giá không tưởng; hoặc phải gánh hoặc đẩy hàng rong trên các nẻo đường. Họ là những tầng lớp bần cùng nghèo khổ của xã hội…
Ai cũng biết TP.HCM là nơi tập trung kinh tế, văn hóa, dịch vụ hàng hóa đứng đầu của cả nước. Người nghèo cũng nghĩ vậy! Họ di dân vào thành phố, thuê nhà trong những phòng trọ rẻ tiền, chật chội, nóng nực để buôn bán hàng rong, nấu nướng trong điều kiện không đảm bảo vệ sinh, thậm chí có thể gây hỏa hoạn giữa khu ổ chuột, để mong được đổi đời giữa thành phố tráng lệ.
Họ thà sống trong cực khổ, kiếm cái ăn hằng ngày với mong ước đổi đời còn hơn quay lại quê hương để mãi sống trong kiếp nghèo.
Họ bị xua đuổi bởi những người bán khác, bị lực lượng trật tự đô thị tạm giữ (để phạt) hay tịch thu tang vật là chiếc xe đẩy, là gióng gánh hay cái nồi, cái lò nướng… khi buôn bán lấn chiếm lòng, lề đường, xả rác, đổ nước thải gây mất vệ sinh…cuộc sống nghèo càng khổ thêm trong nền kinh tế khó khăn chung.
Mặt khác, giữa thành phố quá đông dân cư và khách du lịch, những điểm đen về hàng rong chèo kéo, chặt chém giá, thậm chí dàn cảnh để trộm, móc túi của khách du lịch đã gây nên hình ảnh xấu xí, méo mó về một đất nước Việt Nam xinh đẹp mà họ nhìn thấy trên các tờ bướm du lịch. Những người khách du lịch xui xẻo thề sẽ không bao giờ quay lại Việt Nam.
Là người Việt, bạn nghĩ như thế nào?
Đã biết bao trang báo, đài nói lên thực trạng hàng rong, nhưng giải pháp chẳng ai đề ra được. Nguyên nhân là: không cơ quan nào đủ sức kiểm soát được hàng rong, trong khi dân nhập cư vốn không ổn định về chỗ ở và bán buôn không cố định ở nơi nào và điệp khúc đuổi, dọn dẹp vẫn diễn ra hằng ngày.
Bao công sức làm việc, dọn dẹp lòng lề đường của người đô thị bỏ sông, bỏ biển vì: dọn nơi này, họ bán nơi khác; quét nơi này, họ xả nơi khác. Vấn đề cơ bản là: người nghèo còn là còn buôn bán hàng rong lấn chiếm lòng lề đường. Vấn đề này không phải một năm, hai năm có thể giải quyết được!
Đây không phải là vấn đề nhỏ. Đã đến lúc các cơ quan, ban ngành cần bắt tay nhau giải quyết để không còn xảy ra sự việc đáng tiếc như vụ ở phường 25, quận Bình Thạnh (TP.HCM) mới đây. Dù ai đúng ai sai thì hình ảnh không phù hợp với cuộc sống văn minh đô thị phải được loại trừ.
Hiện nay, cuộc sống ngày càng hiện đại, nhu cầu của con người ngày càng tăng cao. Nhưng hàng rong vẫn duy trì cách buôn bán theo kiểu cũ, điều này đã gây ra không ít bức xúc trong xã hội. Cách chế biến thực phẩm sơ sài, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, buôn bán lấn chiếm vỉa hè lòng đường gây ách tắc giao thông, rác thải xả bừa bãi gây mất mỹ quan đô thị và gây ô nhiễm môi trường…
Vấn đề bán hàng rong, chính quyền đã nhiều lần vào cuộc, nhắc nhở, cảnh cáo và đến mức phải tịch thu hàng hóa của một số cá nhân bán rong dù họ không muốn. Tất cả chỉ để trật tự đô thị được đảm bảo, tuy nhiên mặc kệ mọi sự cấm cản, những gánh hàng rong vẫn cứ thế hoạt động. Né tránh thu hẳn gian hàng khi có lực lượng trật tự đô thị đi qua và sau đó mọi thứ đâu lại vào đấy, không hề có thái độ nghiêm chỉnh chấp hành luật lệ.
Ngay tại phố Trần Cung, các gian hàng rong được bày bán công khai, con đường vốn dĩ đã chật hẹp nay lại thêm các gian hàng gây ùn tắc giao thông nghiêm trọng. Người đi đường tỏ thái độ bức xúc, chị Nguyễn Thị Nhi (Ngõ 123 Trần Cung) cho biết: “Đường này khá chật hẹp, ngày các điểm có gánh hàng rong tình trạng tắc đường càng trở nên nghiêm trọng, nhất là đoạn trước cổng bệnh viện người bán, người mua đứng chiếm hết cả lòng đường.
Đi đường, hết tránh anh bán cóc, đến chị bán ổi rồi lại cô bán cam,… và rất nhiều mặt hàng khác nữa. Gây ùn tắc đã đành, các gánh hàng rong có thể cũng chính là nguyên nhân gây tai nạn giao thông khi khách mua hàng đỗ xe đột ngột, đỗ xe không đúng chỗ, đột ngột rẽ hướng mua hàng.
Các gánh hàng rong cũng gây ảnh hưởng không tốt đến mỹ quan đô thị, rất nhiều các gánh hàng rong buôn bán rồi xả rác bừa bãi, làm xấu đi cảnh quan môi trường. Cô Nguyễn Thị Thu- Nhân viên bảo vệ môi trường thủ đô cho biết: “Hàng ngày chúng tôi phải đi quét dọn trên khắp các tuyến phố nhưng khi vừa quét xong đi khỏi sang bên kia đường quay lại thì đâu lại đây, bảo sao môi trường không thể sạch được vì những gánh hàng rong cứ đua nhau bày ra.”
Bên cạnh đó, rất nhiều câu hỏi được đặt ra rằng liệu thực phẩm từ những gánh hàng rong có đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm? Gánh hàng rong luôn được biết đến và ưa chuộng bởi giá rẻ nhưng về độ an toàn thì không có căn cứ gì để đảm bảo.
Bạn Vũ Thị Trang (sinh viên năm 3 trường Đại học Văn Hóa Nghệ Thuật Quân Đội) cho biết: “Dù biết là ăn ở những gánh hàng rong không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm nhưng chúng em là sinh viên nên những quán ăn bán tại vỉa hè là hợp với túi tiền của chúng em vì ăn ở đây rẻ hơn, tiện hơn và có thể mặc cả thoải mái.”
Tuy nhiên nhìn ở góc độ nào đó, những người bán hàng rong họ cũng chỉ vì miếng cơm manh áo, kiếm chút tiền gửi về nuôi con ăn học ở quê. Cô Nguyễn Thị Hạnh quê tại Hưng Yên lên hà Nội sinh sống cho biết: “Tôi là người dân thập phương đến đây đi làm để nuôi sống gia đình, tiền không có làm vốn để thuê địa điểm nên phải đi bán hàng rong trên thế này vì cuộc sống mưu sinh và cũng vì hoàn cảnh gia đình quá khó khăn.”
Tuy vậy, không thể vì nghèo, vì quá khó khăn mà xem nhẹ luật pháp, không cấm việc buôn bán hàng rong nhưng phải buôn bán sao cho đúng cách, đảm bảo trật tự an toàn đô thị, góp phần tạo nên mỹ quan đẹp cho thành phố.
Nghị luận xã hội về chữ nhẫn?
Câu trả lời của bạn
Theo cách viết của chữ Hán, chữ Nhẫn được tạo nên từ sự kết hợp của chữ Đao và chữ Tâm. Chữ Đao đặt ở phía trên, biểu hiện cho tính khách quan, tính bị động, tính nghiêm khắc. Chữ Tâm đặt ở phía dưới chữ Đao, chịu sự chế ngự của chữ Đao nhưng nó lại biểu hiện cho tính chủ quan, năng động và tự do.
Nhẫn trở thành cách cư xử trong mối quan hệ giữa con người với con người và mối quan hệ giữa con người với mục đích, lý tưởng. Trong mối quan hệ giữa con người với con người, nhẫn là nhẫn nhịn. Trong mối quan hệ giữa con người với mục đích, lý tưởng, nhẫn trở thành nhẫn nại. Nhẫn chính là sự tu dưỡng đạo đức và tu dưỡng phẩm hạnh.
Chữ Nhẫn trong cuộc sống
Nhẫn là đặc trưng của nền văn minh Đông Á, trở thành quy tắc ứng xử từ gia đình đến xã hội. Việt Nam là nước có nền văn hoá nông nghiệp với đặc điểm trọng tình khiến người Việt Nam lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử. Do đó, người Việt Nam luôn chủ trương nhường nhịn để giữ được thuận hoà. Cũng bởi vậy mà chữ Nhẫn có một ý nghĩa, vị trí rất quan trọng trong nếp sống của người Việt. Một gia đình có êm ấm, hòa thuận hay không phần lớn là do sự nhẫn nhịn quyết định.
Cái gốc trăm nết
Nết nhẫn nhịn là cao
Cha con nhẫn nhịn nhau
Vẹn tròn đạo lý
Vợ chồng nhẫn nhịn nhau
Con cái khỏi bơ vơ
Anh em nhẫn nhịn nhau
Trong nhà thường êm ấm
Bạn bè nhẫn nhịn nhau
Tình nghĩa chẳng phai mờ…
Trước đây, gia đình Trương Công Nghệ đời nhà Đường là cửu đại đồng đường (chín đời ở chung một nhà). Đường Cao Tông đến nhà ông ta hỏi có bí quyết gì, Trương Công Nghệ liền xin giấy viết liền một trăm chữ “Nhẫn”. Một gia đình có nhân khẩu quá đông, cùng chung sống dưới một mái nhà, nếu không có được sự nhẫn nhịn thì khó mà hòa hợp được. Đạo lý ấy cũng đúng trong một đất nước. Người có thể nhẫn nhịn nhau vì gia đình như vậy thì cũng có thể biết cách nhẫn nhịn, ứng xử khéo léo ngoài xã hội. Nhẫn nhịn chính là cái cột chống đỡ cho tinh thần đua tranh. Nếu lúc nào cũng nghĩ đến sự nhẫn nhịn thì thắng không kiêu, bại không nản, có thể tiến, có thể lui theo ý muốn của mình.
Chữ Nhẫn trong nghệ thuật
Thực tế đã chứng minh rằng tất cả những gì con người sống và làm đều được nâng trên đôi cánh của sự kiên nhẫn. Danh hoạ Tây Ban Nha Picasso đã phải âm thầm sáng tạo suốt 77 năm để có được 50.000 tác phẩm hội họa. Ông đã từng phải tự giam mình trên đồi Mông – mác suốt 5 năm trong thời kỳ Lam. Nhà văn Pháp Hônôrê Đờ Bandắc cũng vậy, ông phải trải qua bao nhiêu sự thất bại ở các nghề khác để thành công trong nghề văn. Với 95 cuốn tiểu thuyết trong bộ “Tấn trò đời”, ông trở thành bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực phê phán Pháp. Victor Hugo, L.Tônxtôi đã làm việc cần cù để có được “Những người khốn khổ”, “Chiến tranh và hòa bình”, “Anna Karenina”… Thiên tài Puskin kiên trì trong “sự lao động yên lặng” làm lóe sáng những ý tưởng. Gôganh – Thiên tài hội họa Pháp, trường phái Ấn tượng – phải lìa bỏ vợ con và cuộc sống giàu sang để tìm không gian sáng tạo. Còn Nhà viết kịch Môlie đã lao động miệt mài đến hộc máu trên sàn diễn… Đó là những tấm gương của các bậc vĩ nhân, những con người đã cống hiến những giá trị bất diệt cho nhân loại. Nhưng cả cuộc đời của họ là những trang sách, những bức họa, những công trình thấm đẫm mồ hôi và sự khổ luyện. Họ tự nguyện biến mình thành những người nô lệ lao động khổ sai cho nghệ thuật, cho lý tưởng. Gioócgiơ Xăng đã nói “Nghệ thuật không phải là một năng khiếu có thể phát triển mà không cần mở rộng kiến thức về mọi mặt. Cần phải sống, phải tìm tòi, phải xào nấu lại rất nhiều, phải yêu rất nhiều và chịu nhiều đau khổ, đồng thời phải không ngừng kiên trì làm việc”. Mác cũng khẳng định “Chỉ những người nào không sợ chồn chân mỏi gối, trèo lên những con đường nhỏ bé gập ghềnh của khoa học thì mới hy vọng đạt đến đỉnh cao xán lạn”.
Chữ Nhẫn đối với sức khỏe
Mấy thế kỷ trở lại đây, nhẫn nhịn luôn là luận đề quan trọng trong tài liệu thần học. Khái niệm nhẫn nhịn bắt đầu được các tài liệu lịch sử chăm sóc bảo vệ sức khoẻ chú ý đến. Lợi ích của của sự nhẫn nhịn chủ yếu biểu hiện ở chỗ giảm bớt tâm trạng chịu đựng như đau buồn, tức giận hoặc lo âu. Dựa vào những nghiên cứu của các nhà tâm lý học mà xét, nhẫn nhịn có thể đem đến tinh thần khỏe mạnh, thân thể khỏe mạnh, năng lực tự khống chế… Các nhà nghiên cứu tiến hành đánh giá chỉ số sức khoẻ của con người và chỉ số nhẫn nhịn của họ. Sau khi thu thập được những thông tin này, họ tiến hành thống kê và kết luận: nhẫn nhịn có thể thúc đẩy sức khoẻ của con người. Chỉ số nhẫn nhịn của một người càng cao thì tâm lý của người ấy càng khoẻ mạnh. Người ta cũng chia con người thành một số nhóm để tiến hành thực nghiệm, chấp nhận việc trị liệu khác nhau. Họ phát hiện người tham gia tâm lý trị liệu có mức độ sức khỏe không bằng người tham gia trị liệu nhẫn nhịn. Nhẫn nhịn có thể làm giảm đau đớn, giảm khả năng mắc bệnh tim mạch. Người nhẫn nhịn từ trong lòng thật sự thì sức mạnh cá nhân và dũng khí của họ sẽ tăng lên, họ sẽ càng có chủ kiến khi quyết định đối mặt với những điều làm tổn thương họ. Những người không đủ sự nhẫn nhịn thì sức mạnh và dũng khí của họ cũng bị giảm đi. Người Trung Quốc thường nói “Bạn chớ nên cáu gắt, cáu gắt sẽ làm tổn thương hoà khí; bạn chớ nên tức giận, tức giận sẽ làm huỷ hoại nguyên khí; bạn chớ nên đùa giỡn, đùa giỡn sẽ làm hỏng tài khí; bạn phải nhẫn nhịn, nhẫn nhịn sẽ có được thần khí”.
Chữ nhẫn là chữ tượng vàng
Bạn hãy đọc kỹ những câu răn về chữ nhẫn, bạn sẽ thấy, muôn màu cuộc sống bày ra trong sức mạnh của chữ nhẫn. Chữ nhẫn ẩn chứa những phương kế sống của một đời người.
“… Có khi nhẫn để xoay vần
Thiên thời, địa lợi, nhân tâm hiệp hòa
Có khi nhẫn để vị tha
Có khi nhẫn để thêm ta, bớt thù
Có khi nhẫn: tỉnh giả ngu
Hơn hơn, thiệt thiệt đường tu khó lường
Có khi nhẫn bởi vô thường
Không không, sắc sắc đoạn trường trần ai
Có khi nhẫn để lắng tai
Khôn khôn, dại dại nào ai tránh vòng
Có khi nhẫn để bao dung
Ta vui người cũng vui cùng có khi
Có khi nhẫn để tăng uy
Có khi nhẫn để kiên trì bền gan…”
Việc lấy đức nhẫn là sức mạnh (dĩ nhẫn vi lực) cho thấy lợi ích cũng như quyền năng biến hóa, nội lực mạnh mẽ của chữ nhẫn.
Trong cuốn “Luận về chữ nhẫn” của Mạnh Chiêu Quân có viết: “Bạn chớ nên cáu gắt, cáu gắt sẽ làm tổn thương hòa khí; Bạn chớ nên tức giận, tức giận sẽ làm hủy hoại nguyên khí; Bạn chớ nên đùa giỡn, đùa giỡn sẽ làm hỏng tài khí; Bạn phải nhẫn nhịn, nhẫn nhịn sẽ được thần khí”…
Chữ nhẫn là chữ tương vàng,
Ai mà nhẫn được, thì càng sống lâu
Tự tìm được cho mình một chữ nhẫn thích hợp sẽ giúp ích cho cuộc sống của bạn, và nếu biết sử dụng chữ nhẫn sao cho đúng cách, sẽ mang lại cho con người một sức mạnh vô cùng!
Nhẫn Nại = công việc nhiều rắc rối khó khăn, tiến hành chậm chạp, vẫn quyết trí làm cho được.
Nhẫn Nhục = Việt Vương Câu Tiễn thất bại, chịu đủ thứ hành nhục, khổ phiền, nằm gai nếm mật, chờ thời cơ phục quốc.
Nhẫn Nhịn = Trăm điều bỏ, Vạn điều lành. Chín bỏ làm mười
Ẩn Nhẫn = Phục Hổ Tàng Long để kẻ thù đang thế mạnh không tìm diệt mình. sẽ xuất hiện chọc trời khuấy nước khi thời chưa đến.
Nhẫn Hận = Ức lắm, thù lắm, bị xử ép nhưng không tỏ rõ thái độ bất bình, oán hận.
Kiên Nhẫn = Thấy đã có thể hành động được rồi, nhưng còn kiên tâm chờ thêm cho chắc.
Trí Nhẫn = Khôn khéo hơn thượng cấp rất xa, nhưng giả ngu khờ hết mức.
Nhẫn Tâm = Thấy ác, thấy nạn, bỏ qua không có thái độ bênh vực, cứu giúp.
Tàn Nhẫn – Bất Nhẫn hai thái độ này, nếu quan nào cũng vô Tiệm mua sách quầy hàng. Thì dân lầm than lâu lắm.
Nghị luận xã hội về một thói quen xấu trong xã hội: sự nịnh bợ?
Câu trả lời của bạn
Xu nịnh tức khen ngợi quá đáng hay hoang tưởng nảy sinh từ quyền lợi riêng tư, có thể được định nghĩa: “Đó là cử chi đáng khinh bỉ. Đó là quà tặng xấu xa và chỉ là bài học của những kẻ hợm hĩnh”. Kẻ nịnh hót thường là những tên ích kỉ nguy hiểm. Nó cố nhét vào trí óc con người những điều hư ảo hòm kiếm chát ân huệ hay đổi lại sự giúp đỡ thật lòng. Đó là kẻ xấu xa nhất trong số những kẻ thù. Nó vừa là tội phạm, vừa là nhân chứng: “Kẻ này lừa dối người phán xử, kẻ kia lừa dối chúng ta”. Một triết gia nói rằng: “Trong số những con thú hoang dã thì con thú gièm pha là đáng sợ nhất, còn trong số những người trong nhà thì đáng sợ nhất là kẻ xu nịnh”. Kẻ nịnh hót chỉ tìm kiếm cái lợi ích riêng tư và nó sống nhờ vào những kẻ đã lắng nghe nó.
Những kẻ chân chính thường ít bị lừa gạt bởi sự nịnh hót, bởi tâm địa của kẻ tìm kiếm cái lợi ích riêng tư và sống nhờ vào những kẻ đã lắng nghe nó. Trong một số bức thư với lời lẽ dịu dàng, Louis Veuillot kể rằng hàng ngày ông nhận được những lời tán dương của biết bao bạn bè thân, sơ. Rồi cũng hàng ngày, đứng trước tấm gương để cạo mặt, ông tự hỏi: “Ta sẽ cạo nhẵn bao nhiêu người?”.
Một người có chức vị, không muốn bị kẻ thuộc quyền khống chế, phải đương đầu chống lại bọn xu phụ, nịnh hót. Chúng cố nắm chỗ yếu của anh ta, làm cho anh ta tin phục, và coi những người khác đều là kẻ thù nghịch.
Một hôm, vua Henry V đi ngang qua Amiens nghe thấy một vị quan tòa đang diễn thuyết. Ông ta ráng cổ trình bày những tiêu đề như: “Rất lớn, rất mạnh, rất tốt, rất nhân từ, rất cao thượng”. Nhà vua bèn nói: “Hãy thêm là rất mệt!”. Nhà vua làm ông quan tòa sửng sốt. Người tự trọng không bao giờ nịnh hót. Sự ca ngợi, còn gọi là “tâng bốc” là lời nói bùi tai, cách gợi cảm ngọt ngào cốt để cho người nghe thấy dễ chịu và nhấn mạnh về sự thành công của anh ta.
Công tước De Mornay nổi tiếng về nghệ thuật tỏ lời khen tặng. Vào năm 1862, tại Clermont Ferrand, ông kết thúc bài diễn văn bằng lòng khen ngợi hoàng hậu “là người đã đưa nhiều ân huệ lên ngai vàng, và hàng ngày ban bố xuống thần dân biết bao nhiêu lòng nhân ái”.
Lời khen ngợi phải chân thực, thích hợp, xúc động. Nó mở ra những lời tán dương mà người la chưa diễn đạt hết và cũng tìm thấy ở đó đầy sự khoan dung. Nhưng nếu khen tặng lộ liễu thì có khi làm tổn thương tới tính khiêm tốn. Nếu nói thái quá thì trở thành kì cục, đôi khi còn bị người nghe phản đối. Sự khen tặng phải được cân nhắc cho hợp lí và công bằng, nhất là khi hạ thấp giá trị của người này để khen tặng người kia. Chẳng hạn có kẻ nói “Anh cũng rộng rãi như A, còn B thì hà tiện”. Phải trân trọng lời khuyên và cần lánh xa nó. Người ta lắng nghe và cử chỉ khiêm tốn ngay khi được khen, không nên tỏ vẻ vui mừng trên nét mặt và chỉ tỏ vẻ cảm ơn bằng cách nói: tôi chỉ làm hết bổn phận. Có lẽ khôn ngoan hơn là đừng nói gì cả…
Trong cuộc sống của chúng ta, những lời khen là vô cùng cần thiết để khích lệ, động viên hay khen ngợi ai đó. Lời khen giúp họ cảm thấy tự hào về những việc mình đã làm được và cố gắng làm tốt hơn nữa. Tuy nhiên, những lời khen mang tính chất nịnh bợ thì không tốt chút nào. Tuân Tử đã từng nói: “ Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy.” Trong câu nói bao gồm ba đối tượng: “Người chê ta”, “người khen ta”, “kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta” và vai trò của họ đối với cuộc sống mỗi con người.
“Người chê ta mà chê phải là thầy ta”. Chê, nhưng là chê phải. Đó là những người thấy ta sai và dám chỉ ra cái sai của ta, để từ đó ta rút ra được bài học và sửa chữa sai lầm. Bình thường, chúng ta thường không thích những người chê mình. Tuy nhiên, người khôn ngoan phải là người biết phân biệt đâu là những lời chê có thiện chí. Trong cuộc sống, tất nhiên không thiếu những kẻ ganh ghét, luôn chê bai người khác một cách ác ý. Chúng ta nên biết phân biệt đâu là những lời chê ác ý để bỏ qua, và đâu là những lời chê mang tính góp ý để chúng ta tiến bộ. Một người chỉ khi biết tiếp thu ý kiến của người khác thì mới có thể thành công được. Còn nếu cứ khăng khăng làm theo ý mình, sớm muộn gì người đó cũng sẽ thất bại mà thôi. Chính vì thế, vai trò của những lời “chê phải”, những người dám nói lên những lời chê ấy là vô cùng quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Những người ấy chẳng khác gì thầy ta, giúp ta hiểu ra, học được nhiều điều trong cuộc sống.
Đối tượng thứ hai, là những người khen ta, nhưng tất nhiên, là “khen phải”. Vậy thế nào là khen phải? Đó là những lời khen chân thành, không nhằm vụ lợi cho bản thân mà tâng bốc đối tượng một cách quá đáng. Mục đích của lời khen ấy chỉ là xuất phát từ việc bày tỏ sự ngưỡng mộ, hay khích lệ người được khen. Con người ta luôn có xu hướng muốn được khen, vì những lời khen thường “dễ nghe” hơn những lời chê. Lời khen là quan trọng, có tác dụng giúp con người ta thấy tự hào vì những thứ được khen, tuy nhiên, chúng ta cần biết được đâu là những lời khen thật, đâu là những lời tâng bốc, xu nịnh. Không nên vì được khen quá nhiều mà dẫn đến suy nghĩ mình đã hoàn hảo, từ đó sẽ dẫn đến tự kiêu, không cố gắng, tất sẽ có ngày gặp thất bại. Những người có thể hiểu, có thể khen thật ta, đó chính là những người bạn của ta.
Còn đối tượng cuối cùng, cũng liên quan đến những lời khen, nhưng đó lại là “những kẻ vuốt ve, nịnh bợ”ta, như Tuân Tử nói, đó cũng chính là “kẻ thù của ta”. Những kẻ ấy chỉ nói những lời khen nhằm vụ lợi cho bản thân, chứ không xuất phát từ sự chân thành hay sự ngưỡng mộ đối với người được khen. Những lời khen ấy khiến cho người được khen cảm thấy mình thật tốt đẹp, thật quan trọng, thật vĩ đại, từ đó sẽ không cố gắng và dần dần sẽ bị thua kém so với những người xung quanh. Điều ấy thật nguy hiểm. Và những kẻ xu nịnh ta như vậy, giống như kẻ thù của ta vậy. Họ “giết” ta bằng những lời nịnh bợ, dối trá. Điều chúng ta cần làm là tránh xa, hạn chế giao lưu với những đối tượng ấy trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong môi trường học tập, làm việc.
Câu nói của Tuân Tử, từ xưa đến nay, vẫn luôn là bài học sâu sắc và đáng ghi nhớ cho tất cả mọi người trong cuộc sống. Hãy luôn tỉnh táo, để phân biệt được đâu là bạn, đâu là thù, để có thể có được những lời góp ý, lời khen chân thành nhất từ đó có thể hoàn thiện bản thân mình.
Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Nhân bất học bất tri lý?
Câu trả lời của bạn
Người xưa có câu:
"Ngọc bất trác, bất thành khí
Nhân bất học, bất tri lý"
Nghĩa là ngọc mà không được mài dũa thì không thể trở thành món đồ có giá trị, cũng như người mà không học thì không biết được lý lẽ. Câu nói đó đã nói lên tầm quan trọng của việc học. Và ngày nay, để xác định một lần nữa mục đích của học tập, UNESCO đề xướng: "Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình. Học là trau dồi kiến thức tổng quát, là tiếp thu những cái hay, cái mới, cái tiến bộ sáng tạo… là nâng cao khả năng chuyên môn và các kĩ năng khác, đồng thời là hoàn thiện nhân cách của bản thân."
Trước hết là chúng ta "học để biết", để nhận thức được đúng, sai, tốt, xấu, hiểu rõ được các vấn đề. Quả thật là nếu không có học thì bản thân chúng ta sẽ không có hiểu biết để đánh giá, nhận định đúng một sự việc, vấn đề. Điều quan trọng hơn là sau khi hiểu được, biết được thì ta phải "làm", phải vận dụng những gì đã học được vào thực tiễn đời sống. Có như vậy ta mới biết được thành quả của việc học đã đem lại, đồng thời thông qua đó cũng đóng góp một phần không nhỏ vào các hoạt động chung của xã hội. Mặt khác chúng ta còn "học để chung sống" để tạo dựng các mối quan hệ giữa người với người được hòa thuận, tốt đẹp, đầm ấm hơn nhờ tiếp thu những quy tắc giao tiếp, ách ứng xử và sự tinh tế, nhạy bén trong từng nền văn hóa. Có như vậy cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên hòa hợp và có ích với cộng đồng. Hơn thế nữa là chúng ta còn "học để tự khẳng định mình", để chứng tỏ bản thân mình học là vì mục đích rõ ràng với ý chí phấn đấu nỗ lực không ngừng nghỉ nhằm đạt được mục tiêu đó. Đó là một quá trình lâu dài và đòi hỏi bản thân người học sư siêng năng, chăm chỉ, sự kiên trì, bền bỉ tới cùng. Tất nhiên thành quả của quá trình "học và làm" như vậy sẽ đem lại nhiều lợi ích và xứng đáng với công sức mà ta đã bỏ ra. Như vậy câu nói của UNESCO khẳng định rằng học tập là bước cơ bản cung cấp cho ta tri thức đồng thời hướng dẫn ta sử dụng tri thức vào các mục đích tốt đẹp. Câu nói của UNESCO đã mở ra cho ta hai khía cạnh chính của việc học: thứ nhất là học phải thông qua việc tiếp thu kiến thức trên lý thuyết; thứ hai là học phải ứng dụng thực hành trong thực tế. Hai phạm trù này luôn sóng đôi với nhau, bổ sung cho nhau và không thể tách rời được. Đây cũng là một trong những bước chính yếu để việc học của một người đạt được kết quả cao. Từ đó tạo cho nền tảng phát triển vững chắc, có năng lực trong công việc chuyên môn, rèn luyện nhân cách bản thân tốt đẹp hơn, góp phần xây dựng xã hội văn minh, hiện đại, tiên bộ hơn về cả "bộ mặt" lẫn con người.
Nhưng bên cạnh đó vẫn còn có những người học với mục đích đối phó, qua loa cho có. Do vậy mà họ nắm kiến thức một cách hời hợt, không sâu không chắc. Những dạng người này cho dù có đạt được thành tích cao trong học tập thì cũng rất khó thành công một cách bền vững cho sau này được.
Tóm lại mỗi người trong chúng ta cần ý thức rõ việc học tập, xác định mục tiêu cụ thể, đúng đắn cho bản thân và nỗ lực không ngừng nghỉ nhằm đạt được mục tiêu để tạo lập cho bản thân sự tự tin bản lĩnh mạnh mẽ về năng lực của bản thân, rèn luyện đạo đức và hoàn thiện nhân cách cao đẹp.
Nghị luận xã hội về chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất?
Câu trả lời của bạn
Đã bao giờ bạn tự hỏi: “Đâu mới là thử thách của cuộc sống?”. Tôi đã từng mất rất nhiều thời gian và công sức để đi tìm câu trả lời. “Chúng ta chỉ có một cơ hội để sống, bởi chúng ta chỉ sống có một lần”.
Nghe xong câu nói trên, liệu có một cái gì đó thôi thúc bạn phải sống hết mình hơn, phải làm một cái gì đó thật mạnh mẽ, thật lớn lao…để sau này thành công, nổi tiếng, thậm chí trở nên vĩ đại, để tận dụng cơ hội hiếm hoi chỉ được sống có một lần. Thế nhưng, điều gì ngăn cản con đường dẫn đến thành công của bạn, dù theo cách này hay một cách khác? Đó chính là con người bạn. Bởi vậy Platon mới từng nói: “Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất”.
Chúng ta thường nói đến những bậc vĩ nhân với đầy vẻ ngưỡng mộ. Thành công tột bậc của họ trở thành niềm ao ước và ngưỡng mộ của những người bình thường. Đôi khi, chúng ta bắt đầu làm theo họ, kể cả với những cách kì lạ nhất, tất cả những điều ấy đều nhằm tìm ra chỗ đứng, khẳng định mình và dành những kết quả như mong muốn trong cuộc sống. Nhưng điều gì ngăn cản bạn vậy?
Bạn biết không, là bởi vì những con người vĩ đại không bao giờ từ bỏ mục đích còn bạn vội vã rời bỏ con đường của mình khi gặp đôi chút khó khăn. Bởi vì những con người vĩ đại dù gặp nỗi buồn hay thất bại đều cố gắng đứng lên còn bạn lại gục ngã. Bởi vì con người vĩ đại luôn nghĩ đến giải pháp và hành động trước tiên còn bạn lại chỉ nghĩ đến kết quả. Và cũng bởi vì, trong khi bạn chỉ muốn thật nhanh để băng về đích thì họ luôn cho rằng thành công là “sự nhúc nhích” trên một chặng đường dài.
Thật ra, đã trở thành một con người vĩ đại cần rất nhiều yếu tố, nhưng theo tôi, bên cạnh yếu tố là bạn sở hữu một trí tuệ tuyệt vời và tài năng thiên bẩm, khả năng “vượt qua chính mình” là rất quan trọng hay đúng hơn, đó là thử thách lớn nhất, khắc nghiệt nhất, khó khăn nhất mà bạn phải vượt qua. Mọi thứ sẽ chẳng là gì khi bạn đầu hàng chính mình. Chỉ là những ví dụ rất nhỏ và đơn giản, không phải ở đây xa xôi gì, liệu bạn có duy trì ngày nào cũng dậy từ 5 giờ sáng để học bài?. Liệu bạn có tập trung ngồi học trong suốt một buổi sáng để mặc những yếu tố bên ngoài?. Trong vài ngày, vài tuần cao hứng thì có thể đấy, nhưng bạn có chắc sẽ duy trì nó trong một năm, nhiều năm?. Và bạn thấy không, chỉ từ những việc nhỏ bé vậy thôi cũng đã thấy không phải ai cũng có thể chiến thắng nổi bản thân mình.
Thành công trước hết và cũng là nền tảng cho mọi thành công sau đó là chiến thắng được bản thân. Tôi nhớ có lần bố tôi đã đưa cho tôi đọc cuốn sách “Sự dũng cảm của thánh nhân” và hỏi tôi rằng: “Con có biết đối thủ lớn nhất đời con là ai không?”, bố bảo rằng: “Đối thủ lớn nhất đời con chính là bản thân con. Một vị tướng chiến thắng được cả đội quân hùng mạnh, một nhà chính trị thắng được đối thủ của ông ta, chưa chắc đã chiến thắng được bản thân mình”. Nghe bố nói, tôi cũng lờ mờ hiểu ra được. Rồi tôi đọc sách và thấy đúng như vậy. Việt Vương Câu Tiễn vì mối nhục mất nước mà chịu hạ mình nếm phân cho Ngô Vương Phù Sai để sau này phục quốc, là Bác Hồ chịu bao gian khổ bôn ba khắp năm châu để tìm một lí tưởng cứu nước, là Đặng Tiểu Bình bao lần bị gian nan đày ải mà vẫn kiên định một ý chí cải cách Trung Hoa. Và khi đó tôi nghĩ, chiến thắng được bản thân là ở những chuyện gì đó thật là lớn lao thật là vĩ đại- Cho đến ngày hôm nay, đôi khi tôi chợt nhận ra rằng, việc chiến thắng bản thân không phải là những gì quá lớn lao.
Một cậu học sinh chiến thắng được bản thân là khi vượt qua được những cám dỗ của bản thân, những trò chơi và thú vui khác để tập trung vào việc học hành. Một chàng trai yêu thương một cô gái nhưng không dám thổ lộ, ngày chàng trai dũng cảm thổ lộ tình cảm của mình cho cô gái biết cũng là ngày anh ta đã chiến thắng được bản thân mình. Một người chồng vượt qua được những nhu cầu của riêng mình để hi sinh cho vợ con, chăm sóc cho gia đình, đó cũng là một người chồng đã chiến thắng được bản thân mình. Một người công dân vượt lên sự hèn nhát của cái chết, cầm súng đứng lên bảo vệ đất nước khi đất nước lâm nguy, đó cũng là chiến thắng bản thân.
Nếu bạn đã từng đọc cuốn sách “Vượt qua bản thân”, bạn sẽ nhận ra rằng đây thực sự là một vấn đề quan trọng. Đôi khi, chúng ta gặp những trở ngại trong cuộc sống, khó khăn về công việc, thời gian, những định hướng cho tương lai. Làm sao để giải quyết chúng đây? Thật khó để vượt qua và thành đạt, thế nhưng thực ra ai cũng có giá trị của riêng mình, quan trọng là bạn có dám vượt qua bản thân để toả sáng hay không mà thôi. Như Michael Phelps, siêu kình ngư số 1 của Olympic Bắc Kinh với 8 huy chương vàng đã từng nói rằng: “Tôi bơi không hề nghĩ đến việc vượt qua lịch sử, chỉ đơn thuần tôi muốn vượt qua chính mình”. Bạn thấy không, họ dám vượt qua chính bản thân mình để rồi trở thành vận động viên bơi lội xuất sắc nhất toàn thế giới. Và với Michael Phelp thì “vượt qua bản thân” – đó mới chính là tấm huy chương vào cao nhất mà anh giành được..
“Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất” nếu bạn thực sự muốn được thành công. Chiến thắng bản thân, đôi khi chẳng cần phải những con người vĩ đại, mà ở trong những chuyện bạn đi ăn. Mỗi sáng thức giấc, hãy tự hỏi mình đã chiến thắng bản thân chưa?. Nếu câu trả lời là chưa, hãy tự nhủ rằng mình sẽ làm được và hãy cố gắng hết sức bạn nhé.
Nghị luận xã hội về chiến tranh và hòa bình?
Câu trả lời của bạn
Có ai đó từng hỏi tôi thế này: đang sống trong cuộc sống hòa bình, liệu có khi nào bạn nghĩ về chiến tranh không? Khi nghe đến đó tôi hơi bất ngờ nhưng ngay sau đó tôi lại tự chất vấn bản thân: có bao giờ tôi nghĩ đến vấn đề chiến tranh hay hòa bình, tò mò về nó khi mà cuộc sống có quá nhiều thứ khác thu hút tôi không nhỉ? Dường như khái niệm chiến tranh và hòa bình chỉ còn hiện hữu trong suy nghĩ của tôi khi tôi học lịch sử hay các tác phẩm văn học, đôi khi là bắt gặp trên tác phẩm truyền hình nào đó, chỉ thế thôi, không hơn. Phải chăng con người ta được sống trong cuộc sống hòa bình, hưởng phúc lợi an sinh xã hội nên người ta vô tình quên đi những giá trị cốt lõi làm nên cuộc sống hay một phần lịch sử đã qua, hay gần hơn là những gì vẫn đang hằng ngày, hàng giờ diễn ra trên thế giới nhưng chẳng bao giờ ta để ý đến cả… đó là chiến tranh và hòa bình.
Bạn hiểu chiến tranh và hòa bình theo nghĩa nào? Còn tôi, chiến tranh và hòa bình – đó là hai mảng đối lập. Nếu như hòa bình chỉ sự bình an, vui vẻ, không có bạo loạn, đánh nhau cướp bóc thì chiến tranh lại vẽ lên một viễn cảnh hoàn toàn trái ngược. Nói đến chiến tranh là nói đến đánh nhau, hỗn loạn, khói súng, máu nước mắt và sinh mạng con người. Chỉ với mấy từ đó thôi hẳn ai cũng đã có những hình dung cho riêng mình về chiến tranh cũng như hòa bình trên thế giới.
Các bạn biết đấy, chiến tranh ở đất nước Việt Nam đã đi xa nhưng hậu quả nó để lại thì vô cùng lớn và cũng nhiều nước trên thế giới chiến tranh vẫn còn. Chiến tranh- đó là biểu hiện cao nhất của mâu thuẫn không thể hòa giải, là sự tham gia bằng vũ lực hai bên trở lên. Lịch sử thế giới đã in đậm hình ảnh của biết bao cuộc chiến tranh, cuộc chiến tranh nào cũng tàn khốc và không gì có thể bù đắp nổi. Có ai mà không biết được 2 cuộc chiến tranh lớn nhất thế giới mà người ta gọi nó là Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai, những cuộc chiến tranh được coi là tàn khốc nhất trong lịch sử với sự tham gia của các nước lớn trên thế giới như: Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô… Rồi có ai quên được những đau thương mất mát của hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật Bản khi Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống trong thế chiến thứ hai. Cả hai thành phố chỉ còn là một đống đổ nát với mùi thuốc nổ, máu nước mắt khắp mọi nơi. Cuộc chiến tranh Trung – Nhật đã cướp đi bao mạng người tham gia vào cuộc chiến đó. Nói về chiến tranh thật thiếu sót nếu như ta không nhắc tới Việt Nam- một dân tộc anh hùng đã hy sinh rất nhiều (thứ) trong các cuộc chiến tranh lịch sử. Trong suốt một nghìn năm Bắc thuộc dân tộc ta đã phải gồng mình lên để chống lại quân Nam Hán, Nguyên Mông, quân Thanh… Rồi sau đó là cuộc xâm lược của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ hùng mạnh, hiếu chiến. Bao nhiêu cuộc chiến tranh là bấy nhiêu thời điểm đất nước lầm than, nhân dân loạn lạc, ly tán, chết chóc. Để kể về hậu quả mà chiến tranh gây ra thì có lẽ không có một từ nào có thể diễn tả được hết. Ta thấy một phần nào đó của chiến tranh qua những câu thơ của các nhà thơ kháng chiến:
"Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn………"
Đau thương cho người ra đi, ám ảnh những người ở lại, môi trường sống bị ảnh hưởng một cách nghiêm trọng là những gì mà chiến tranh để lại cho chúng ta khi đã vô tình đi qua một thời điểm nào đó… Đến đây tôi tự đặt ra câu hỏi: chiến tranh tàn khốc là thế, đau thương là thế nhưng tại sao nó vẫn xảy ra, ở quá khứ, và ngay cả thời điểm hiện tại? Phải chăng con người thích sự chết chóc? Đó chắc chắn không phải. Chiến tranh là do những kẻ cầm đầu, những con người vì muốn thỏa mãn lòng tham của mình, vì sự ích kỷ cá nhân mà dẫn quân đi gây chiến nhằm giành lợi ích từ các vùng, quốc gia mà họ đánh chiếm. Có nước khai chiến ắt có nước chống trả, và thế là các bên sử dụng sức mạnh quyền lực của mình nhằm giành chiến thắng cho mình. Đó cũng chính là mầm mống của các cuộc chiến tranh trên thế giới. Nếu phải dùng một từ để nói về chiến tranh bạn sẽ dùng từ gì? Còn tôi, đó là đau thương…
Trái ngược với chiến tranh và cũng là khái niệm được nhắc đến nhiều nhất bên cạnh chiến tranh, đó là hòa bình. Hòa bình là trạng thái một vùng, một quốc gia hay thậm chí toàn cầu sống trong sự an toàn, không phải dùng vũ khí, vũ lực để đấu tranh với các nước khác cũng như không có vũ lực quân sự từ các quốc gia khác can thiệp. Hòa bình là khao khát của tất cả các dân tộc chân chính trên thế giới. Ở một nước hòa bình con người có cơ hội sinh sống và phát triển trong điều kiện tốt nhất, không phải chịu nỗi đau mất mát, phân tán, chia li như trong chiến tranh. Để có được hòa bình mọi dân tộc trên thế giới chấp nhận hi sinh tất cả, tôi tin là như vậy. Vì hòa bình sẽ mang lại cho mọi người cuộc sống bình an trong lâu dài. Đó cũng là lý do tại sao trên thế giới hiện nay luôn có các tổ chức và cá nhân lên tiếng bảo vệ hòa bình và kêu gọi mọi người ủng hộ hòa bình. Bạn có biết người giành giải Nobel Hòa Bình năm 2014 vừa qua là ai không? Bên cạnh nhà vận động chiến dịch chống nạn bóc lột trẻ em ở Ấn Độ Kailash Satyarthi thì cô bé Malala Yousafzai lúc ấy mới 17 tuổi đã dám đứng lên đấu tranh chống lại tay súng Taliban để giành quyền đi học cho những em gái ở vùng thung lũng Swat của Pakistan nơi bị Taliban chiếm đóng. Với hành động dũng cảm của mình Malala đã chinh phục hàng vạn con tim yêu hòa bình trên thế giới. Hơn thế em còn là chủ nhân của câu nói nổi tiếng: "Mục tiêu của tôi không phải là giành giải Nobel hòa bình, mục tiêu của tôi là hòa bình và mọi trẻ em được đi học". Đó chỉ là một người trong hàng vạn con người đang không ngừng đấu tranh trong công cuộc giành hòa bình, chống chiến tranh trên thế giới hiện nay.
Hiện này có rất nhiều cách khác nhau đang được các quốc gia trên thế giới thực hiện nhằm duy trì hòa bình chống các hành động gây mâu thuẫn dẫn tới chiến tranh. Là một học sinh chủ nhân tương lai của đất nước, thế giới bạn có những kiến thức nghị gì mới để góp phần vào việc bảo vệ hòa bình thế giới? Theo tôi suy cho cùng thì nguyên nhân chiến tranh cũng là do con người với con người vẫn còn sự đố kỵ lẫn nhau, vẫn sống theo chủ nghĩa cá nhân. Lúc này tôi chợt nhớ đến một câu thơ của Tố Hữu:
"Có gì đẹp trên đời hơn thế,
Người với người sống để yêu nhau".
Ước mong về một thế giới hòa bình sẽ luôn là niềm khao khát cháy bỏng của mọi người dân chân chính trên thế giới vì họ hiểu: "Hòa bình là đức hạnh của nhân loại. Chiến tranh là tội ác".
Nhân ngày Thương binh – Liệt sỹ 27/7, phóng viên đã nhận được một bài viết rất cảm động của độc giả Lê Thị Hương (25 tuổi, Chí Linh – Hải Dư chia sẻ câu chuyện về người bố là thương binh hạng 2/4 của mình, bác Lê Tuấn (nhập ngũ lần đầu năm 1974, lần 2 năm 1978, tham gia chiến đấu và bị thương ở chiến trường Campuchia).
Bài viết còn là những suy nghĩ rất thật, rất chân thực về chiến tranh của một người trẻ tuổi, người chưa hề biết thế nào là chiến tranh. Hiện bài viết đang lan truyền rất nhanh trên cộng đồng mạng và gây xúc động cho nhiều người.
Bố em, 18 tuổi vào bộ đội. Năm đó là 1974, chiến tranh đã vào hồi cuối,bố là lớp tân binh nên còn huấn luyện một thời gian dài để rồi tuyển lựa "đi B”. May mắn thay, bố chưa đến đợt đi B thì chiến tranh kết thúc, 1977 bố giải ngũ trở về, cưới vợ.
Tháng 8/1978, chị cả em ra đời, sau đó chit một tháng, chú Tư – em trai ruột của bố em, có lệnh gọi nhập ngũ. Chú vừa nhát vừa hiền, lại vừa cưới vợ nên bố xin đi thay chú. Đất nước đang cần người đã có kinh nghiệm, đơn tình nguyện của bố được chấp thuận ngay. Mẹ em, chị và ông bà tiễn bố lên đường. Vài tháng sau, bố đi K (chiến trường Campuchia). Chuyến tàu đưa bố đi từ Hải Phòng, đơn vị bố có hơn 40 người Hải Phòng, vào đến Quảng Trị còn 14 người. Họ nhảy tàu vì đi B thì sẵn sàng nhưng đi K thì khác.
Thời gian đầu còn có chút tin bố về nhà, càng về sau càng biền biệt. Mấy năm sau có giấy báo tử gửi về, bà nội khụy xuống trước thềm nhà. Suốt tháng trời bà mê man chỉ đòi chống gậy đi tìm con, bà bảo bố em không thể nào chết được.
Mẹ ôm chị gái em từ căn nhà riêng về ở với ông bà vì chị ốm quá, lên sởi mủ xanh mủ vàng đã có lần thiếp đi, chú mang ra góc giường đặt, mẹ khóc ngất, bỗng thấy cánh tay chị vời lên, mẹ lại ôm chị, chăm nuôi bú mớm. Những năm tháng ấy, bố vẫn biền biệt bên kia, không hay biết gì về tình cảnh bi đát của con thơ, mẹ già.
Rồi bố bị thương trong một lần đi họp giao ban buổi tối: đạp trúng mìn, bàn chân dập nát, đồng đội đưa về trạm quân y dã chiến giữa cánh đồng hoang. Sợ tiếp tế không kịp, bác sĩ y tá cưa chân cho bố, cưa sống, đồng đội hát quốc bao nhiêu vẫn không át nổi tiếng gào thét. Rồi 2 ngày sau bố mới được chuyển về Sài Gòn bằng trực thăng, lần này nằm viện, cưa thêm một lần nữa vì vết cưa cũ bị nhiễm trùng. Điều dưỡng thêm vài năm nữa 1/3 chân phải của bố đã không còn, một mảnh đạn găm ở đùi và hai tai bị điếc nhẹ.
Bố về nhà với giấy chứng thương 2/4, mất sức 65%. Nhưng còn về được đã là đại phúc cho cả nhà mình, bố kể hồi mới sang được 1 tháng, chính tay bố đã phải gói hài cốt của bạn mình để trực thăng mang về. Ngày bố về, nét mặt dữ dằn hơn, những cơn đau mê sảng thỉnh thoảng vẫn trở lại, chị em nhất định không nhận bố vì sợ cái nạng và cái chân gỗ bố tháo ra lắp vào mỗi sáng tối. Ngay cả đến đời con trai của chị, cháu ngoại của bố, mỗi nhìn cái chân ấy nó đều khóc thét.
Bố mất cả tháng giờ chỉ để làm quen và ôm con gái mình vào lòng mà không làm nó sợ. Đúng, em là gái, em chỉ nhìn những thứ xung quanh mình, em nhìn thấy chiến tranh và hậu quả của nó trong suốt 18 năm sống bên bố, những lần sợ hãi đến run rẩy khi bố em mắt vằn tia máu lên nóng giận vì những điều không lớn lao gì, khi bố em những đêm rên rỉ trong vô thức vì mảnh đạn trong người, khi bố em có những lần đi xe máy hơi quẹt xe đã ngã vì không thế dùng chân giả mà chống như người ta được.
Bố em chưa một lần than vãn gì về chiến tranh, kêu ca gì về sự đãi ngộ của nước nhà cho những người thương bệnh binh như bố, bố vẫn bươn trải bán buôn ngược xuôi để nuôi con học hành.
Em nhớ mãi một lần lớp 11, em học kém bị bố đánh, đánh xong bố nói rất nhiều, nhưng có một câu em không thể nào quên được, bố bảo: "Chị em chúng mày đang đi học bằng tiền xương máu của tao đây con ạ”. Đúng, chúng em từ Cấp 1 cho đến hết Đại học đều được miễn học phí vì bố là thương binh.
Bao nhiêu năm em sống trên đời là bấy nhiêu năm em thấy mẹ chăm bẵm bố em từ miếng cơm, phích nước, ấm trà, là thấy mẹ chịu đựng đủ sự nóng nảy của bố do thay đổi tâm tính từ lúc trở về.
Có đôi lần ai đó nói đến chiến tranh, mẹ em chỉ lơ đãng nói một điều: "Kể cả có chiến tranh, thằng Hà (em trai em) nhà này cũng không bị gọi đi nhập ngũ đâu, nó con một, bố lại thương binh yếu đuối thế kia".
Các bạn có thể cười rằng mẹ suy nghĩ hạn hẹp và ích kỷ, nhưng nếu các bạn đã từng vùi cả tuổi xuân của mình để chờ chồng, nuôi cha mẹ già con thơ và dành cả cuộc đời để xoa dịu những vết thương chiến tranh, các bạn sẽ dễ cảm thông cho mẹ em biết chừng nào. Chiến tranh không đùa với ai cả, cũng không phải cứ hạ súng thì đã là kết thúc chính vì vậy, còn hòa bình được ngày nay hãy cố mà gìn giữ.
Giải thích ý kiến: Con người không có mục đích nào khác ngoài mục đích trở thành người chân chính?
Câu trả lời của bạn
Mới nghe qua sao mà khó thế? Thời buổi này có thắp đuốc giữa ban ngày cũng không dễ gì kiếm cho ra được người chân chính, thế thì tại sao lại đưa chủ đề này ra để làm gì nhỉ? Rất nhiều người sẽ đặt câu hỏi như vậy.
Chân thật! Chính trực! Ôi, nghe sao mà xa xôi quá? Cuộc sống bon chen chụp giật hằng ngày mấy khi ta bắt gặp được những từ ngữ đẹp đẽ này? Trẻ em bây giờ học đạo đức cũng có coi qua rồi quên bẵng đi mất, vì cha mẹ chúng còn phải giục đi học thêm Anh văn, vi tính, học đàn, học múa v.v… và v.v… Mấy ai đề cập đến những điều xa vời này. Thi thoảng thì mỗi khi trẻ phạm tội nói dối chẳng hạn thì bố mẹ thường la rầy một chút xíu rồi cho qua, nghiêm khắc lắm thì quất nhẹ một roi vào mông cho trẻ nhớ là từ nay không nên và không được nói dối nữa, thế là xong. Rất ít người giảng giải cho trẻ vì sao là cần phải nói thật, và sự chân thật đáng quý như thế nào. Thói quen này hình thành trong tư duy mỗi con người từ lúc trẻ, cho nên họ cho việc nói dối là chuyện thường ngày ở… huyện! Do vậy mà từ ngữ “Chân thật” dần dà mất đi chỗ đứng trong tâm hồn mỗi người.
Ngày ấy tôi mới lên năm, có lần tôi nói dối mẹ. Hôm sau tưởng phải ăn đòn, nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn, ôm tôi hôn lên mái tóc…
– Con ơi, trước khi nhắm mắt, cha con dặn con suốt đời phải làm một người chân thật!
– Mẹ ơi, chân thật là gì?
– Con ơi, một người chân thật, khi vui muốn cười cứ cười, khi buồn muốn khóc là khóc. Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét, dù ai ngon ngọt nuông chiều cũng không nói yêu thành ghét. Dù ai cầm dao dọa giết cũng không nói ghét thành yêu.
Từ ấy người lớn hỏi tôi:
– Bé ơi, bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ, tôi trả lời:
– Bé yêu những người chân thật!
Những câu thơ của Phùng Quán viết cách đây hơn năm mươi năm nay đọc lại vẫn còn thấy thấm thía. Sự chân thật đã được người mẹ dạy cho con như thế. Vậy mà ngày nay chúng ta tự mình lãng quên đi điều tốt đẹp ấy trong rất nhiều góc cạnh của cuộc sống, từ xã hội, công sở, trường học rồi đến gia đình, mấy ai còn giữ được tính chân thật đẹp đẽ như vốn nó đã có. Mà nếu không giữ được chân thật thì làm sao trở thành người chính trực được?
Ngay chính người viết bài này cũng đâm ra xấu hổ, vì có được làm người chân chính đâu? Nói thì dễ quá, nhưng thực hành là một chuyện khác, giữ cho mình được sự chân chính thật khó biết bao? Song chẳng lẽ vì lý do đó mà chúng ta lại lãng quên sao? Hãy nhìn lại mình, hãy tự vấn lương tâm mình đi! Làm người chân chính thật khó đấy, nhưng nếu bạn nhận ra được rằng, mình đang cố gắng nhưng chưa sống trọn vẹn ý nghĩa hai từ chân chính cao quý ấy được, thì ít ra bạn cũng là người chân chính rồi, vì bạn đã dũng cảm nhận ra những yếu kém của mình, thế cũng đã là chân chính!
“Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người với người, sống để yêu nhau”
(Tố Hữu)
Tình người như những làn sóng muôn đời dào dạt vỗ nhịp vào cuộc sống con người. Đẹp biết bao, đáng trân trọng biết bao hình ảnh của những con người sống với đúng nghĩa làm người, sống đẹp bằng những cách dâng những làn sóng ấy đến với mọi người xung quanh. Một nhà văn đã từng khẳng định rằng:
“Con người không có mục đích nào khác ngoài mục đích trở thành người chân chính".
Sống để đạt đến mục đích của mình, và mục đích ấy chính là thành người chân chính. Một chân lý đã được nêu lên với tất cả tinh thần làm người, trách nhiệm làm người.
Con người là tạo vật vĩ đại và hoàn hảo nhất của tạo hóa. Ai đó đã từng nói “Con người – tôi xin cúi đầu trước Người”. Nhưng điều đáng nói là con người – hiểu theo nghĩa hẹp – có xứng đáng là một "con người chân chính” hay không? Điều ấy hoàn toàn tùy thuộc vào mục đích sống. Mục đích – đó là cái mà người ta hướng tới, và cao hơn là vươn tới để một lúc nào đó đạt đến nó. Mục đích tốt đẹp và lí tưởng sống, là chân lý sống, và lẽ sống của con người. Theo đó, mục đích cao đẹp “trở thành người chân chính" chính là trở thành một con người với đúng nghĩa là người, xứng đáng là người chủ của thế giới, của thiên nhiên, của vạn vật. Con người chân chính là con người có trái tim và có trí tuệ hướng thiện, sống đúng nghĩa, biết suy nghĩ, hành động và lí tưởng đẹp mà mình lựa chọn, biết mang đến hạnh phúc cho mọi người, từ đó tự làm cho mình hạnh phúc. Câu nhận định trên xuất phát chính từ cuộc sống con người – một cuộc sống phong phú, muôn màu muôn vẻ, đã nêu lên một chân lý thực sự về đời sống, vì lý tưởng sống của loài người nói chung. Đó là phải luôn tự hoàn thiện mình, để đi đến một mục đích cao đẹp trở thành người chân chính.
Một danh nhân đã từng nhận định rằng: “Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được gì cả nếu như mục đích tầm thường Câu danh ngôn “con người không có mục đích nào khác ngoài mục đích trở thành người chân chính” đã nhấn mạnh đến một lí tưởng sống cao đẹp là hướng tới sự hoàn thiện nhân cách con người, sống bằng tất cả trách nhiệm của mình đối với cuộc sống, đối với mọi người xung quanh. Theo vòng xoay lịch sử, xã hội loài người đang tiến triển không ngừng. Tất cả đều vận động, đều làm việc hăng say, vì thế là một con người, chúng ta phải sống đẹp cuộc sống của mình với tất cả trách nhiệm và nghĩa vụ làm người, để xứng đáng là chủ thể của vạn vật xung quanh mình. Điều phân biệt giữa con người với các động vật khác chính là trí tuệ và trái tim, nói cách khác, chính là ý thức trong lao động, chiến đấu và học tập. Nhờ có lao động và sáng tạo chúng ta đã thoát ra khỏi cuộc sống của bầy vượn, để rồi từng bước, từng bước chúng ta đã tự hoàn thiện mình, cải thiện cuộc sống của mình để trở thành con người ngày nay. Và ngay trong cuộc sống đời thường, từng sự việc rất nhỏ tưởng chừng không đáng để ý cũng chính là cái giúp chúng ta hoàn thiện mình hơn. Những học sinh đi học, lao động và học tập trở thành người có đức, có tài, hữu dụng cho đất nước mai sau.
Những hành động bình thường như suy nghĩ để giải một bài tập, như cúi xuống nhặt một mảnh rác bên đường… đều có thể góp phần làm đẹp tính cách chúng ta. Giữa cuộc sống cuồn cuộn như dòng thác, giữa bao gian nan, vất vả, lo toan của đời thường, con người đã dần tiến đến mục đích của mình: trở thành người chân chính. Con người nghĩa là sáng tạo, và sáng tạo nghĩa là hoàn thiện. Vì vậy, khi chúng ta sống “sống" khác với “tồn tại” chúng ta đã tự tìm đến với chính mình, tìm đến với con người hoàn thiện về cả lý trí lẫn trái tim. Sống giữa một cộng đồng, nhận được tất cả những tình cảm đoàn kết, thân ái, tương trợ của mọi người, chúng ta đã tin tưởng, thương yêu và giúp đỡ mọi người. Các Mác có nói “Hạnh phúc là đấu tranh" và “Người nào mang đến hạnh phúc cho nhiều người nhất chính là người hạnh phúc nhất". Đến với hạnh phúc, đến với chân lí, đến với lí tưởng là một quá trình đấu tranh mãnh liệt giữa cái tốt và cái xấu, cái Thiện và cái Ác trong một cộng đồng, một tập thể nói chung và trong mỗi con người nói riêng. Sự đấu tranh ấy chính là nguyên nhân và động lực phát triển của xã hội và nhân cách của mỗi con người. Một bông hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời dù rằng nó không phải là mặt trời. Một con người khó bao giờ có thể đạt đến sự hoàn thiện tuyệt đối nhưng luôn sống và hướng đến sự hoàn thiện ấy. Điều ấy chính là lí do vì sao đã có nhận định: "Con người không có mục đích nào khác ngoài mục đích trở thành người chân chính.
Trong xã hội con người ngày nay, và trong bất cứ một xã hội nào, con người vẫn luôn sống vì mục đích hoàn thiện nhân cách mình. Xã hội không ngừng phát triển theo guồng quay của lịch sử, và Ph.Ăng-ghen có nói: “Vấn đề không phải ở chỗ giải thích thế giới, mà là chỗ cải tạo thế giới". Để làm được điều đó, ngay từ bây giờ, chúng ta không thể chỉ nói ra những lời nói suông, mà phải hành động, phải đặt ra mục đích làm người chân chính để sống và phấn đấu làm việc cho mục đích ấy. Một hành động nhỏ như giúp người qua đường, như một lời hỏi thăm ân cần đối với cha, mẹ, như một chút đỡ đần cho cha mẹ những công việc hàng ngày, một hoạt động từ thiện xã hội… đều là những hành động mang nhiều ý nghĩa đối với việc hình thành nhân cách con người chúng ta.
Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Hợp quần gây sức mạnh?
Câu trả lời của bạn
“Rừng núi dang tay nối lại biển xa, ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà…”
Khúc nhạc anh hùng, mạnh mẽ ngân vang, gieo vào lòng em những hân hoan, rộn rã. Em chợt nhận ra trái tim mình đang chan chứa niềm tin vào tình đoàn kết: “Hợp quần gây sức mạnh”. Câu tục ngữ đẹp như một bông hoa nảy nở trên môi trường lao động năm xưa. Trải qua bao thế hệ, bao tháng năm, ý nghĩa câu tục ngữ càng thêm sắc tỏa hương chứa đựng nhiều điều đẹp đẽ.
“Hợp quần gây sức mạnh" – câu tục ngữ chỉ có năm từ mà ý nghĩa vô cùng sâu sắc đó. Đó là lời khẳng định mạnh mẽ, chắc chắn của nhân dân Việt Nam về tác dụng và giá trị của tình đoàn kết. Sự quần tụ gắn bó giữa nhiều người sẽ biến sự yếu đuối, cô thế của mỗi cá nhân thành sức mạnh vô biên của cả cộng đồng. Tại sao sức mạnh lại nảy sinh từ sự đoàn kết? Đó là vì tình đoàn kết góp nhiều sức lực, nhiều khối óc, nhiều bàn tay làm thành một khối óc, một sức mạnh duy nhất, sức mạnh ấy lớn hơn rất nhiều lần sức mạnh của mỗi cá nhân. Sức mạnh ấy như con thuyền vững chãi, sẵn sàng lướt qua những giông tố, những bão táp thử thách trong cuộc sống.
Thật vậy, trải qua bao thăng trầm lịch sử, bao trở ngại chông gai, người Việt Nam vẫn chiến thắng nhiều kẻ thù xâm lược, vẫn xây dựng cho mình một đất nước ngày càng “to đẹp hơn, đàng hoàng hơn” lừ nền tảng của tình dân tộc, nương tựa lẫn nhau.
Làm sao ta có thể quên được sự gắn bó, đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống giặc Minh mà bài cáo Bình Ngô, áng “thiên cổ hùng văn” bất hủ đã nêu rõ:
“Nhân dân bốn cõi một nhà. dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”.
(Nguyễn Trãi)
Ngọn cờ đại nghĩa phất phới tung bày, chén rượu thề hòa nước sông cũng hóa ngọt ngào vì từ “tướng sĩ” đến “nhân dân", ai ai cũng góp sức chung lưng đánh tan quân Minh xâm lược. Với tinh thần đoàn kết, gắn bó sâu sắc ấy, dân tộc ta đã đẩy lùi bước chân xâm lược tàn bạo của giặc Minh cũng như bao kẻ thù hùng mạnh, từ thuở Hai Bà Trưng cưỡi voi đánh quân Mông Nguyên tàn bạo… Có thể nói, những chiến thắng vẻ vang nghìn đời lưu danh sử sách ấy sẽ không thể nào có được nếu nhân dân ta không đồng lòng đánh đuổi giặc ngoại xâm. Như một làn sóng diệu kỳ, tinh thần đoàn kết lại trỗi dậy mãnh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp. Bác Hồ kính yêu đã từng nói:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công thành công, đại thành công".
Bà tôi thường chỉ đàn kiến ở hiên nhà mà bảo chúng tôi rằng: Con kiến bé nhỏ thế nhưng nó tồn tại được bởi vì nó có đàn, giống như ong sống theo bầy vậy “hợp quần làm nên sức mạnh” cháu ạ. Câu tục ngữ mà bà thường nhắc đi nhắc lại ấy, qua cuộc sống, qua lịch sử, qua văn học và cả khoa học chúng ta thấy càng thấm thía.
Dân gian xưa thích nói thành vần, thành vè ngắn gọn, cô đọng mà dễ nhớ. Do đó, câu tục ngữ “hợp quần gây sức mạnh”,thật sự không có gì rắc rối về mặt ngữ nghĩa. “Hợp quần” tức là hợp những cá thể thành một tập thể, thiểu số thành đa số để tạo nên sức mạnh vượt qua trở ngại chông lại những thế lực đối kháng. Đất nước Việt Nam vốn đã nhỏ bé, con người Việt Nam cũng nhỏ bé, dân tộc Việt Nam tồn tại được hàng nghìn năm, gây dựng được nền văn hiến và văn hóa chính nhờ ở sự đoàn kết “hợp quần”. Yếu tố kết hợp, chung sức để cùng tồn tại của dân tộc Việt Nam trở thành một yếu tố quan trọng và cơ bản trong văn học cũng như trong thực tế.
Câu tục ngữ “Hợp quần nền sức mạnh” không tồn tại đơn lẻ với một ý nghĩa độc quyền mà là một bộ phận trong cả một mảng văn hóa dân gian nói về đoàn kết và được chứng minh hỗ trợ ý nghĩa bằng chính sức mạnh những bộ phận khác trong mảng văn hóa đó. Một học sinh lớp hai cũng đã quen thuộc với câu chuyện dân gian “Bó đũa”.Trong câu chuyện, người cha đã cho các con mình một bài học quý giá nhất đã làm hành trang cho cuộc đời, đó chính là sự đoàn kết, đồng lòng, yêu thương nhau để chống lại mọi khó khăn. Qua việc bảo từng người con bẻ từng cây đũa và bẻ cả bó đũa, người cha muốn khuyên các con: Một cá thể nhỏ nhoi không thể tồn tại, không thể chống chọi lại với muôn vàn khó khăn đa dạng của cuộc sống, chỉ có nương tựa vào nhau như đũa hợp thành bó, con người mới tồn tại được, phát triển được. Nếu cá thể chối bỏ sự liên kết với cộng đồng, cụ thể và nhỏ bé nhất là với gia đình tế bào của xã hội – sẽ bị bẻ gãy bởi gọng kìm của trở' ngại trong cuộc sống như từng cây đũa mảnh mai đã bị bẻ gãy một cách dễ dàng. Đó cũng chính là lời khuyên của ông cha ta dành cho con cháu sau này vậy.
Không chỉ có trong các câu chuyện dân gian, ca dao tục ngữ Việt Nam cũng đề cập rất nhiều đến vấn đề này: có một câu ca dao mà hầu như người Việt Nam nào cũng thuộc nằm lòng:
“Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Cách sắp xếp từ ngữ không có vẻ như một câu đôi ở dạng lục bát, câu ca dao ấy lại giản dị như một lời nói. Từng cặp từ nối với nhau “một” “ba”, “chẳng nên”, “nên”, “non”, “hòn núi cao” càng nêu bật ưu thế ý nghĩa của câu bát. Vật thể trong câu lục mới lẻ loi, bất lực làm sao trong khi tả một khôi thể ở câu bát vững chãi, chắc nịch và tạo nên một hình thể hùng vĩ của núi non. Chẳng qua đây là cách nói ẩn dụ để ông cha ta nhắn nhủ chính con người. Một con người như thể một cây đơn lẻ, không thể làm nên được những chuyện lớn, không có sức mạnh đáng kể.
“Ba” cũng là một cách nói tượng trưng, ẩn dụ để chỉ cả một cộng đồng, một lực lượng con người đồng lòng đồng sức, gắn bó chặt chẽ để làm nên nghiệp lớn. Ngoài ra, còn nhiều câu tục ngữ dưới dạng Hán Việt trúc trắc như “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”,và không chỉ có tục ngữ trong nước mà ngay cả trong văn học nước ngoài cũng lưu truyền những câu mang ý nghĩa tương tự: “Một con én không làm nên mùa xuân”, “Tích nước đầy hồ”…Như vậy, trong văn học câu tục ngữ “hợp quần nên sức mạnh” hoàn toàn được ủng hộ và làm sáng tỏ ý nghĩa.
Nói như thế, không phải là phủ nhận tính thực tiễn của câu tục ngữ ấy, mà ngược lại sự đúng đắn tính chân xác của nó còn bao trùm lên cuộc sống, lên lịch sử, trong hòa bình cũng như chiến tranh.
Từ ngàn xưa, các bô lão đã đồng lòng, đồng tâm với Trần Hưng Đạo trong hội nghị Diên Hồng nổi tiếng để chống lại quân Nguyên Mông. Hàng trăm, hàng ngàn thanh niên Đại Việt đã thích lên cánh tay lời thề “sát thát”. Già, trẻ, lớn, bé cùng sục sôi căm thù quân phương bắc bạo tàn thể hiện lòng yêu quê hương đất nước. Chính vì vậy, lịch sử Việt Nam đã có những trang vàng khắc sâu chiến thắng oanh liệt tất yếu của toàn dân.
Cho đến những năm kháng chiến chống Pháp, khi Hồ Chủ tịch đọc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chẳng phải người hiểu rõ: “Hợp quẩn nên sức mạnh”đó sao! Ngày thực dân xâm chiếm nước ta, từng phong trào riêng lẻ của các sĩ phu yêu nước Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám… nổi lên chống giặc không kể đến hướng đi sai lệch, chỉ nhìn vào lực lượng phân tán ủng hộ cho từng cuộc kháng chiến ấy đã hiểu rằng không thể thành công được. Đến khi Người tìm ra con đường cứu nước và nếu không có đồng lòng, đoàn kết của toàn dân Việt Nam, mọi lứa tuổi, mọi thành phần xã hội, Cách mạng Việt Nam đâu thể thành công? Lịch sử bao đời nay đã chứng minh rằng: Một người vĩ đại chỉ trở thành lãnh tụ khi có quần chúng ủng hộ, chỉ làm nên sức mạnh khi có sức mạnh toàn dân.
Trong cuộc sống hiện nay, trong từng đơn vị cấu trúc nhỏ của xã hội, trong từng mối quan hệ giữa người với người: gia đình, trường lớp, giai cấp, dân tộc… Tình đoàn kết là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sức mạnh tinh thần – sức mạnh vô giá không có vật chất quý giá nào có thể đổi được. Dân tộc nào càng đoàn kết, dân tộc ấy càng vững mạnh và chắc chắn sẽ phát triển. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đến mục đích của sự “hợp quần” để “tạo nên sức mạnh”. Sử dụng “sức mạnh” ấy vào việc tốt hay xấu sẽ quyết định tính tích cực hay tiêu cực. Trong nhiều trường hợp, cũng cần nhấn mạnh thêm rằng “hợp quần” phải là tập hợp của những cá thể có cùng một lí tưởng cùng một mục đích, cùng một quyết tâm mới tạo nên được sức mạnh tuyệt đối để vượt qua mọi khó khăn.
Sau khi khảo sát cả văn học lẫn thực tế cuộc sống, không thể bác bỏ được tính chính xác của lời dạy dân gian: sống phải đoàn kết, đó là yếu tố căn bản cho sự tồn tại của con người nói riêng cũng như sinh vật nói chung.
Vừa giản dị, vừa sâu sắc, câu tục ngữ ấy quả thật là một châm ngôn cho mỗi con người, cho mỗi công dân, mỗi cộng đồng. Do đó, những người chủ của tương lai đất nước, những con người trẻ tuổi, đặc biệt là học sinh cần hiểu sâu sắc ý nghĩa của lời dạy này để thực' hiện trong mỗi trường hợp nhất là ở gia đình, trường lớp cho đến trong cộng đồng dân tộc, cộng đồng người. Thế giới đang tiến lên, các dân tộc đang cùng nhìn về một phía, vẫn cần những lời dạy dân gian như lời dạy trên “hợp quần nên sức mạnh”.
Dàn ý chi tiết nêu suy nghĩ của em về: Biết tự hào về bản thân là cần thiết nhưng biết xấu hổ còn quan trọng hơn?
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận: "Biết tự hào về bản thân là cần thiết nhưng biết xấu hổ còn quan trọng hơn"
2. Thân bài
a, Giải thích vấn đề nghị luận
b, Phân tích, chứng minh, bàn luận vấn đề
c, Lật lại vấn đề
d, Bài học nhận thức và hành động
3. Kết bài: Khẳng định ý nghĩa của câu nói. Liên hệ bản thân.
Suy nghĩ về câu nói: Biết tự hào về bản thân là cần thiết nhưng biết xấu hổ còn quan trọng hơn?
Câu trả lời của bạn
Trong hành trình hoàn thiện và phát triển nhân cách, bên cạnh việc không ngừng trau dồi tri thức, con người cần rèn luyện rất nhiều đức tính khác nhau. Bàn về vấn đề này, có ý kiến cho rằng: "Biết tự hào về bản thân là cần thiết nhưng biết xấu hổ còn quan trọng hơn". Câu nói đã để lại bài học sâu sắc về việc con người cần có niềm tự hào đối với những điều tốt đẹp của bản thân, nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng cần biết xấu hổ để nhận thức được những sai lầm, yếu kém.
Tự hào và xấu hổ là hai trạng thái tinh thần hoàn toàn trái ngược nhau trong tâm lí con người. "Biết tự hào về bản thân" là việc con người nhận ra những điểm tốt đẹp mà mình đang có và tự tin, hãnh diện về điều này. Còn "xấu hổ" là cảm xúc tự ý thức được sai lầm hay yếu kém của bản thân, thể hiện qua sự ngượng ngùng hay hổ thẹn. Câu nói "Biết tự hào về bản thân là cần thiết nhưng biết xấu hổ còn quan trọng hơn" đã khái quát mối quan hệ và giữa hai trạng thái cảm xúc tưởng như đối lập của con người: điều cần thiết là biết tự hào, nhưng quan trọng hơn, con người cần biết xấu hổ.
Vậy thì tại sao "Biết tự hào về bản thân là cần thiết nhưng biết xấu hổ còn quan trọng hơn"? Như chúng ta đã biết, tự hào cũng đồng nghĩa với việc con người nhận ra những điểm mạnh và điều tốt đẹp mà bản thân mình đang có. Điều này sẽ hình thành sự tự tin - một trong những nhân tố quyết định sự thành công của con người. Khi biết tự hào, hay nói cách khác, khi có thái độ tự tin, chúng ta sẽ có được niềm tin và tin tưởng vào những mục tiêu mà bản thân đã đặt ra. Từ đó hình thành những trạng thái, cảm xúc tinh thần mang tính tính cực, lạc quan và vận động tối đa mọi năng lực, hiểu biết, sở trường, điểm mạnh để hoàn thành tốt công việc. Như vậy, tự hào sẽ tạo ra động lực tích cực để thúc đẩy con người nỗ lực, cố gắng.
Bên cạnh tự hào thì đối với con người, "biết xấu hổ còn quan trọng hơn". Bởi khi biết xấu hổ, đồng nghĩa với việc chúng ta đã nhận thức được những sai lầm, thiếu sót của bản thân, đồng thời tìm ra những định hướng để khắc phục, sửa chữa. Như vậy, biết xấu hổ là một trong những yếu tố giúp con người bổ sung, sửa chữa những yếu kém và hoàn thiện, phát triển chính mình. Đồng thời, xấu hổ còn là một trạng thái cảm xúc thể hiện việc con người có lòng tự trọng về phẩm giá, giá trị của bản thân.
Mặc dù tự hào và tự biết xấu hổ là những phẩm chất cần thiết nhưng để phát huy hết tác dụng và ý nghĩa mà chúng đem lại, chúng ta cần phải biết kết hợp hai biểu hiện này. Con người không nên quá tự hào về bản thân mà dẫn đến kiêu căng, tự phụ, đánh giá sai lầm, ảo tưởng về năng lực của bản thân. Đồng thời, không nên quá tự ti phủ nhận năng lực của chính mình. Khi dung hòa được điều này, đồng nghĩa với việc con người đã có được một hành trang về kĩ năng để sống và phát triển không ngừng.
Như vậy, câu nói "Biết tự hào về bản thân là cần thiết nhưng biết xấu hổ còn quan trọng hơn" đã thể hiện một bài học có ý nghĩa sâu sắc, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Là những chủ nhân tương lai của đất nước, chúng ta cần nhận ra những điểm mạnh của bản thân để phát huy, đồng thời nhận thức về những yếu kém, thiếu sót để sửa chữa.
Suy nghĩ của em về câu nói: Hồi tôi hai mươi tuổi, tôi chỉ thừa nhận riêng tôi có tài. Ba mươi tuổi tôi đã nói: "Tôi và Môda". Bốn mươi tuổi tôi nói: "Môda và tôi". Còn bây giờ tôi chỉ nói: "Môda"
Câu trả lời của bạn
Cuộc sống của con người luôn vận động theo vòng quay không ngừng nghỉ của thời gian và mọi giá trị đều trải qua sự đổi thay, không có bất cứ điều gì là vĩnh hằng, bất biến. Và nhận thức, hiểu biết của chúng ta cũng nằm trong trục biến chuyển đó. Bàn về vấn đề này, nhạc sĩ người Pháp S.Gunô từng nói: "Hồi tôi hai mươi tuổi, tôi chỉ thừa nhận riêng tôi có tài. Ba mươi tuổi tôi đã nói: "Tôi và Môda". Bốn mươi tuổi tôi nói: "Môda và tôi". Còn bây giờ tôi chỉ nói: Môda" để thể hiện quan điểm về quá trình thay đổi trong nhận thức của con người và đề cao đức tính khiêm tốn.
Câu nói của S.Gunô không chỉ là lời ngợi khen đối với tài năng của Môda - một nhạc sĩ vô cùng vĩ đại với những bản nhạc nổi tiếng mà còn thể hiện rất nhiều ý nghĩa sâu sắc về quá trình nhận thức của con người. Qua sự độc đáo về cách diễn đạt, đặt thời gian qua tuổi tác của con người: "hai mươi", "ba mươi", "bốn mươi", "bây giờ" trong sự sóng đôi, song hành với cách nói: "Tôi" , "Tôi và Môda", "Môda và tôi", "Môda", tác giả đã làm nổi bật logic thay đổi, biến chuyển của nhận thức, tư duy. Đồng thời để lại bài học mang ý nghĩa giáo dục về khiêm tốn - một đức tính tốt đẹp mà con người cần có.
Nhạc sĩ S.Gunô đã sử dụng những con số cụ thể để biểu thị một khái niệm trừu tượng, hữu hình trong cuộc sống con người. Trước hết, "hai mươi" không chỉ đơn giản là một con số mà còn là hình ảnh biểu tượng cho tuổi trẻ, sức trẻ của con người. Và lúc này, tác giả tự tin khẳng định "Hồi tôi hai mươi tuổi, tôi chỉ thừa nhận riêng tôi có tài". Tuổi trẻ là giai đoạn mà con người chưa có nhiều trải nghiệm, chưa vượt qua nhiều khó khăn và chưa chông chênh trước những thử thách của cuộc đời. Bởi nếu chưa có sự trải nghiệm, chưa vấp ngã thì chúng ta vẫn nhìn cuộc sống với lăng kính màu hồng tươi đẹp. Tuổi trẻ còn là độ tuổi của những nhận định bồng bột, những quyết định thiếu chín chắn. Dường như ở độ tuổi này, các bạn trẻ đánh giá cuộc sống bằng cách nhìn mang tính hời hợt, thậm chí là quá đề cao cái tôi của bản thân giống như cách nhìn nhận của "ếch ngồi đáy giếng".
Giai đoạn phát triển tiếp theo trong nhận thức mà nhạc sĩ S.Gunô đề cập là "Ba mươi tuổi". So với "hai mươi", đây là độ tuổi chín chắn hơn trong suy nghĩ bởi những va chạm, trải nghiệm theo thời gian đã được tích lũy. Lúc này, chúng ta có thể nhìn thấy tài năng của người khác bên cạnh điểm mạnh của bản thân, không còn nhìn thấy cái "tôi" duy nhất nhưng vẫn cho rằng bản thân mình hơn người khác. Nhưng rồi, đến "Bốn mươi tuổi tôi nói: "Môda và tôi" - cách nói thể hiện rằng cái tôi cá nhân đã nhận ra những yếu kém của bản thân trước người khác và chịu lùi bước.
Giai đoạn cuối cùng trong nhận thức là "Còn bây giờ tôi chỉ nói: "Môda", thể hiện sự chín chắn, trưởng thành trong cách suy nghĩ. Khi đã trải qua nhiều chông gai, thử thách và sống những tháng ngày từng trải, con người sẽ nhận ra mình chỉ là một sinh vật vô cùng nhỏ bé trong thế giới vô tình bao la, rộng lớn. Đối lập với đôi mắt nhìn đời, nhìn người đầy tự mãn, kiêu ngạo khi còn "hai mươi", giờ đây con người đã chín chắn, trưởng thành hơn trong nhận thức và trở nên khiêm tốn.
Qua cách diễn đạt đầy hình ảnh của nhạc sĩ S.Gunô, chúng ta có thể thấy được một bài học sâu sắc: để đánh giá đúng giá trị tồn tại của bản thân, con người cần đến yếu tố thời gian, cần đến sự trưởng thành. Điều này cũng giống như việc khi chúng ta đọc một cuốn sách, ở mỗi độ tuổi khác nhau, ta sẽ hiểu nó với một ý nghĩa khác nhau và lần đọc sau luôn đem đến những chiêm nghiệm, suy ngẫm sâu sắc hơn lần đọc trước đó. Ngoài ra, câu nói trên còn để lại bài học sâu sắc về việc con người cần có đức tính khiêm tốn để tránh những bồng bột, kiêu căng trong cảm quan nhìn đời và đánh giá bản thân cũng như người khác.
Như vậy, là học sinh - những con người đang ở độ tuổi "hai mươi", chúng ta cần nhận thức đúng đắn về quá trình chuyển biến, thay đổi theo thời gian của nhận thức. Đồng thời, phải khiêm tốn trong học tập cũng như lao động để không ngừng tích lũy và nâng cao ý thức học hỏi, rèn luyện.
Dàn ý chi tiết nghị luận vấn đề: Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích, người chân chính thì kiên nhẫn lập nên thành tựu?
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài
Trong cuộc sống có người nỗ lực, phấn đấu hết mình vì mục đích để đạt được những thành tựu, song cũng có những kẻ ngồi không vẫn muốn có thành tích, vẫn muốn có kết quả tốt. Như một câu ngạn ngữ từng viết: " Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích. Người chân chính thì kiên nhẫn tạo nên thành tựu".
2. Thân bài
3. Kết bài: Chúng ta, là những học sinh ngồi trên ghế nhà trường, phải không ngừng phấn đấu hơn nữa, học tập, rèn luyện, sống thật tốt, thất có ích và quyết tâm tạo nên những thành tựu tốt đẹp, cao cả. Hãy là những con người chân chính trong một xã hội văn minh.
Nghị luận về hiện tượng anh hùng bàn phím trên mạng xã hội?
Câu trả lời của bạn
Sự ra đời của mạng xã hội đã đưa đến nhiều tiện ích như giúp con người nắm bắt, cập nhật thông tin nhanh hơn, kết nối với nhau dễ dàng và rộng khắp hơn. Tuy nhiên, bên cạnh đó, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng tiêu cực như sống ảo,... và đặc biệt là sản sinh ra những "anh hùng bàn phím". Từ thực tế hiện nay, chúng ta có thể khẳng định hiện tượng anh hùng bàn phím trên mạng xã hội đã trở thành một vấn đề nóng đáng được quan tâm.
"Anh hùng bàn phím" là cụm từ để chỉ những người bày tỏ quan điểm, cảm xúc của mình một cách tự do, thoải mái và thậm chí quá đà qua việc ngồi trước màn hình máy vi tính. Bằng cách này, họ sẵn sàng và nhiệt tình tranh luận, bàn luận về bất cứ một vấn đề nào đó với thái độ không cần biết phải - trái, đúng - sai.
Thực tế hiện nay cho thấy, thế hệ "anh hùng bàn phím" đang gia tăng về số lượng. Dưới màn hình máy tính, đề tài mà họ bàn luận vô cùng phong phú, đa dạng, đó có thể là những nhận xét về nhan sắc, ngoại hình hay tài năng; đó có thể là những công kích, sự soi mói đời sống riêng tư của người khác với thái độ miệt thị, giễu cợt. Thế hệ "anh hùng bàn phím" sẵn sàng đưa ra những đánh giá, bình luận một cách cảm tính mà dù không hiểu rõ sự tình. Thậm chí là sử dụng những lời lẽ khiếm nhã, tiêu cực để công kích, khiêu khích.
Những bình luận mà "anh hùng bàn phím" tạo nên trên mạng xã hội ảo lại gây ra những hậu quả thực, nỗi đau thực cho con người. Trước hết, họ đã làm tổn thương người khác, khiến nạn nhân cảm thấy tự ti, xấu hổ, mặc cảm về bản thân mình. Và rõ ràng, những "anh hùng bàn phím" đã vô tình vi phạm những giá trị đạo đức: không biết đồng cảm, thấu hiểu, sẻ chia với những khiếm khuyết, sai lầm của người khác; đồng thời xâm phạm quá sâu vào đời sống riêng tư của họ. Thời gian gần đây, dư luận vẫn chưa hết bàng hoàng trước sự việc không ít ca sĩ, diễn viên tìm đến cái chết để trốn tránh những áp lực từ dư luận. Thậm chí, không ít bạn trẻ đang trong độ tuổi 18, đôi mươi cũng đã tìm đến cái chết chỉ vì những lời nói công kích và làn sóng tẩy chay của những anh hùng bàn phím. Như vậy, thế hệ anh hùng bàn phím đã vô hình tạo ra những áp lực ám ảnh, thậm chí siết chặt lấy tâm trí của những nạn nhân, khiến họ chán nản, bế tắc, khủng hoảng về tinh thần. Đồng thời, hiện tượng này còn ảnh hưởng tiêu cực đến nền an ninh và trật tự xã hội. Không ít những vụ ẩu đả, xô xát, chém giết xuất phát từ những tranh cãi, bình luận trên mạng xã hội.
Chúng ta không thể phủ nhận những tiện ích mà mạng xã hội mang lại, nhưng đồng thời cũng không thể nhắc đến hậu quả có thực mà nó gây ra. Hiện tượng "anh hùng bàn phím" là sản phẩm của việc lạm dụng mạng xã hội và lợi dụng quyền tự do ngôn luận để tự cho bản thân mình quyền phán xét, đánh giá, xúc phạm người khác.
Để ngăn chặn hiện tượng này, chúng ta cần ý thức rõ tác hại của việc phát ngôn, đánh giá theo cảm tính, bừa bãi. Đồng thời, có những biện pháp quản lí thời gian hiệu quả hơn, biết sử dụng mạng xã hội một cách hợp lí, không nên lạm dụng nó như một công cụ, phương tiện để thể hiện quan điểm cá nhân; không ùa theo, chạy theo "hiệu ứng đám đông" của những bình luận khiếm nhã.
Như vậy, hiện tượng anh hùng bàn phím trên mạng xã hội đã trở thành một vấn đề đáng báo động, gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của con người. Là học sinh, chúng ta cần nhận thức rõ về tác hại của hiện tượng này, đồng thời tránh xa và có những biện pháp ngăn chặn.
Nghị luận vấn đề: Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích, người chân chính thì kiên nhẫn lập nên thành tựu?
Câu trả lời của bạn
Trong cuộc sống, chắc hẳn ai cũng mong muốn cho bản thân ngày càng tốt đẹp, mong muốn mọi việc mình làm đều gặt hái được quả ngọt, thu được những thành tích tốt, kết quả cao. Bởi lẽ vì thế mà có người nỗ lực, phấn đấu hết mình vì mục đích để đạt được những thành tựu, song cũng có những kẻ ngồi không vẫn muốn có thành tích, vẫn muốn có kết quả tốt. Như một câu ngạn ngữ từng viết: "Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích. Người chân chính thì kiên nhẫn tạo nên thành tựu".
"Kẻ cơ hội" là những kẻ lợi dụng từng thời điểm, chực chờ những kẽ hở trong công việc để chớp lấy thời cơ, bất kể hành động đó là đúng hay sai mà nhận lấy thành tích. Thành tích dù được công nhận nhưng thực tế, khả năng của kẻ đó không có, tức là lấy cái bề ngoài mà che lấp sự rỗng tuếch bên trong. "Người chân chính" là những người đàng hoàng, tử tế, chính trực, họ làm mọi việc bằng chính sự nỗ lực không ngừng nghỉ của bản thân. Thành tựu mà họ nhận được mãi vững bền, là minh chứng cho một quá trình kiên nhẫn, chịu thương chịu khó, thậm chí tốn nhiều thời gian công sức mồ hôi mới đạt được. "Kẻ cơ hội" - "người chân chính" là hai thái cực về thái độ sống của con người trong xã hội trên mọi mặt đời sống, giữa họ luôn tồn tại một khoảng cách về giá trị đạo đức.
Thực tế cuộc sống, những người chân chính bằng tài năng và ý chí của mình đã tạo dựng nên những thành tựu cho bản thân, mang về vinh quang cho đất nước, gia đình và xã hội. Đó là hình ảnh anh học sinh nghèo Lê Vũ Hoàng vượt lên nghịch cảnh, phấn đấu ngày ngày học tập ghi dấu tên mình trên đỉnh Olympia đầy vinh quang, nhận suất học bổng du học ở nước ngoài. Là cô bé học sinh nghèo chăm chỉ học tập đạt thủ khoa trường đại học danh tiếng. Là giáo sư Ngô Bảo Châu nghiên cứu mang về giải thưởng toán học danh giá cho đất nước. Là những nhà nghiên cứu, nhà khoa học phát minh ra những loại thuốc quý, những công cụ hữu hiệu phục vụ đời sống xã hội và con người. Đó là những thành tựu luôn được người người trân trọng và gìn giữ, phát triển. Bằng lòng trung thực, sự kiên trì nhẫn nại, bằng ý chí và nghị lực, họ đã góp phần lớn thúc đẩy sự tiến bộ cho đời sống, góp phần xây dựng xã hội ngày một văn minh và giàu đẹp.
Song, thực tế, vẫn còn đầy rẫy những kẻ cơ hội, tham lam, chạy theo thành tích mà sẵn sàng bán đứng cả danh dự, nhân phẩm của chính mình. Đó là những con người ham hư danh, thiếu thực chất, càng nôn nóng có thành tích lại càng vụ lợi. Nhiều kẻ lợi dụng mối quan hệ của mình để tiến thân lại còn huênh hoang tự đắc. Nhiều học sinh gian lận trong thi cử, thiếu trung thực trong học hành cũng chỉ vì điểm số. Kẻ mong lợi lộc về mình sẵn sàng đánh đổi, thậm chí cướp mất đi cơ hội của người khác bằng tiền bạc. Đó là những kẻ sống giả dối, hai mặt, khiến cho xã hội ngày một suy đồi về đạo đức, văn hóa. Chạy theo thành tích là một căn bệnh không hiếm gặp trong đời sống cần được lên án, xử lý kịp thời, tránh những hậu quả nghiêm trọng về sau, đặc biệt là đối với những thế hệ trẻ đầy triển vọng của đất nước.
Thiết nghĩ, cái gì tự mình làm ra, bằng chính công sức sự cố gắng của mình sẽ bền vững theo thời gian, khiến chúng ta thấy tự hào với chính những thành tựu mà mình đạt được. Còn những kẻ cơ hội, thấy lợi trước mắt mà không quan tâm đến người khác thì thành tích rồi cũng sẽ mất đi mà thôi. Điều quan trọng ta cần là nhận được những gì mà chúng ta đã làm để thấy bình an trong tâm hồn. Dù có nhiều khó khăn, thậm chí có lúc mệt mỏi muốn buông xuôi nhưng ta vẫn luôn tin rằng "Có công mài sắt có ngày sẽ nên kim", hãy tin tưởng vào đích đến của tương lai.
Lời đúc kết của người xưa: "Kẻ cơ hội nôn nóng tạo thành tích, người chân chính kiên nhẫn lập nên thành tựu" là một quan điểm rất đúng đắn và sâu sắc. Chúng ta là những học sinh ngồi trên ghế nhà trường, phải không ngừng phấn đấu hơn nữa, học tập, rèn luyện, sống thật tốt, thật có ích và quyết tâm tạo nên những thành tựu tốt đẹp, cao cả. Hãy là những con người chân chính trong một xã hội văn minh!
Nghị luận về câu nói: Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật?
Câu trả lời của bạn
Giống như nhiều tác phẩm nghệ thuật khác, văn chương cũng có sứ mệnh của riêng mình. Đánh giá về sứ mệnh văn chương chân chính, nhà thơ Tố Hữu từng khẳng định "Văn chương sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có". Truyện hay thơ cũng như vậy, sứ mệnh của nó là nghệ thuật vị nhân sinh. Chính vì thế, nhà phê bình văn học Nga Bêlinxki đã viết "Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật".
Câu nói của Bêlinxki có ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Thơ là những tác phẩm văn học được cấu trúc bởi thanh điệu, vần, các hình ảnh, cảm xúc của người sáng tác... Cuộc đời là tất cả những gì chân thật nhất xảy ra đối với chúng ta mỗi ngày, bao gồm cả vật chất và tinh thần. Còn nghệ thuật thường dùng để miêu tả cái đẹp, đẹp hình thức và cả tâm hồn. Nói "Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật", Bêlinxki muốn khẳng định vai trò của cuộc đời với thơ ca nói riêng, với văn chương nói chung. Từ đó, khẳng định giá trị chân chính của thơ ca - "nghệ thuật vị nhân sinh" rồi mới "vị nghệ thuật". Thơ trước hết phải vì con người, vì cuộc đời, vì hiện thực rồi mới là nghệ thuật.
Đó là ý kiến đúng đắn khi đánh giá về thơ. Vì sao lại nói như thế? Bởi lẽ thơ là thể loại đặc trưng của văn học, mà một trong những đặc điểm nổi bật nhất của văn học là gắn bó sâu sắc với cuộc sống, với cuộc đời và vì cuộc đời. Từ những chất liệu cấu thành tác phẩm đến nội dung tư tưởng gửi gắm trong tác phẩm đều khởi nguồn từ hiện thực cuộc sống, truyền tải bằng con đường tiếp nhận từ tác giả đến độc giả và quay trở lại với cuộc đời, góp phần kiến tạo những giá trị cuộc đời.
Thơ ca thường được nhớ đến với cảm xúc, tình cảm được kết tinh bởi những rung động của người sáng tác. Nhưng, những rung động đó khởi nguồn từ đâu? Câu trả lời là cuộc đời. Nhà thơ hòa mình với cuộc sống, họ đứng giữa muôn dòng chảy cuộc đời và khám phá bằng đôi mắt tinh tế của mình, cảm nhận bằng tâm hồn nhạy cảm trước mọi biến động. Họ vốn là những người dễ rung cảm, trăn trở và suy tư về cuộc đời, cảm nhận cuộc đời bằng tất cả giác quan. Những chất liệu bình thường của cuộc sống xuyên qua lăng kính tâm hồn nhà thơ, trở thành nguồn cảm hứng sáng tác. Đó có thể chỉ là một sự vật nhỏ bé như chiếc lá, nhành hoa, cũng có thể là khoảnh khắc giao mùa trong năm. Nhà thơ thả hồn mình giữa những bước đi của thời gian, tinh tế phát hiện ra vẻ đẹp thi vị của chúng:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Như người dưng qua đường"
(Trích "Sang thu" - Hữu Thỉnh)
Chỉ là những đổi thay mờ nhạt của cảnh vật khoảnh khắc chớm thu, nhưng qua tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ, những đổi thay ấy lại có thể khiến trái tim người động rung động.
Cuộc đời trong thơ cũng có khi là những hoài niệm đã qua vẫn còn ảnh hưởng đến thực tại và góp phần xây đắp thực tại. Giống như nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ "Tây Tiến":
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Những tháng năm chiến đấu gian khổ đã qua đi, nhưng bằng những vần thơ ấy, bằng tình cảm của nhà thơ, thế hệ bạn đọc mai sau đều phần nào cảm nhận được những gian lao và mất mát của lịch sử, biết ghi nhớ công ơn những người đã ngã xuống, biết trân trọng cuộc sống hôm nay. "Nghệ thuật vị nhân sinh" là ở đó, thơ ca vì cuộc đời là ở đó.
"Văn học là nhân học" (M.Gorki), nâng niu những giá trị tốt đẹp ở đời bằng những tình cảm, cảm xúc chân thực nhất. Bởi lẽ, cuộc đời không chỉ là cuộc sống của những người xung quanh mà còn là chính cuộc đời tác giả. Họ đi qua những thăng trầm, vượt qua những biến động rồi sáng tác thành những bài thơ viết về chính thăng trầm cuộc đời mình. Ví dụ như Tố Hữu trong "Việt Bắc" với những lưu luyến chia xa và ân tình thủy chung với mảnh đất, con người mà mình đã gắn bó suốt một thời gian dài. Hay Nguyễn Khoa Điềm với bao yêu mến và tự hào về "Đất Nước của Nhân Dân" "Đất Nước của ca dao thần thoại" trong bài thơ Đất Nước. Giá trị đích thực của thơ suy cho cùng chính là những giá trị nhân văn cao quý đó.
Thơ trước hết là cuộc đời, rồi, sau đó thơ là nghệ thuật. Nếu thơ chỉ là cuộc đời, nó sẽ mãi là những chất liệu thô sơ, bình thường, giống như viên ngọc chưa được mài giũa. Nhà thơ là những người nghệ sĩ góp nhặt, chọn lựa những chất liệu có giá trị bằng những rung cảm của tâm hồn mình rồi sử dụng tài năng để biến nó thành chất liệu nghệ thuật. Với những công cụ như biện pháp nghệ thuật, những hình ảnh biểu tượng, nhịp điệu..., nhà thơ sáng tạo nên những bài thơ có vần có nhịp và dạt dào cảm xúc. Thơ sẽ không được gọi là thơ nếu không có nhịp điệu, không có cảm xúc hay thanh vần. Một cành củi khô sẽ không bao giờ mang chất thơ nếu như Huy Cận không thổi hồn cho nó:
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng."
(Trích "Tràng giang")
Tố Hữu đã sử dụng thể thơ lục bát truyền thông, giọng điệu tâm tình để viết lên khúc tình ca "Việt Bắc". Nguyễn Khoa Điềm thì sử dụng thể thơ tự do, điệp từ điệp ngữ và chất liệu dân gian để làm sáng tạo lên Đất Nước của nền thơ ca dân tộc. Nghệ thuật bởi lẽ đó chính là cái đẹp của thi ca được nuôi dưỡng trên mảnh đất hiện thực.
Câu nói của nhà phê bình văn học Nga Bêlinxki đã đem đến rất nhiều giá trị sâu sắc. Ông đã khẳng định giá trị chân chính của thơ ca và những yêu cầu của tác phẩm nghệ thuật thơ rằng "Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật". Từ đó dường như cũng muốn gửi lời nhắn đến những nhà thơ - những người nghệ sĩ có sứ mệnh sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật thơ ca. Để tạo ra một bài thơ có giá trị chân chính, không thể xa rời cuộc đời, cũng không thể bỏ qua những công đoạn mài giũa, sáng tạo. Vừa gắn bó với cuộc đời vừa thổi vào tác phẩm những giá trị nghệ thuật mới có thể tạo ra những bài thơ thực sự.
Mỗi bài thơ đều là một kiệt tác nghệ thuật của một người nghệ sĩ chân chính. Nó không chỉ gửi gắm tấm lòng, truyền tải rung động mà còn ghi lại những dấu ấn riêng của người nghệ sĩ. Chính vì thế, khi tiếp nhận các tác phẩm văn học, độc giả cần có thái độ chân thành và trân trọng những viên ngọc quý đã được mài giũa bằng tài và tâm của một con người.
Nghị luận vấn đề hiện tượng anh hùng bàn phím trên mạng xã hội?
Câu trả lời của bạn
Sự ra đời của mạng xã hội đã đưa đến nhiều tiện ích như giúp con người nắm bắt, cập nhật thông tin nhanh hơn, kết nối với nhau dễ dàng và rộng khắp hơn. Tuy nhiên, bên cạnh đó, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng tiêu cực như sống ảo,... và đặc biệt là sản sinh ra những "anh hùng bàn phím". Từ thực tế hiện nay, chúng ta có thể khẳng định hiện tượng anh hùng bàn phím trên mạng xã hội đã trở thành một vấn đề nóng đáng được quan tâm.
"Anh hùng bàn phím" là cụm từ để chỉ những người bày tỏ quan điểm, cảm xúc của mình một cách tự do, thoải mái và thậm chí quá đà qua việc ngồi trước màn hình máy vi tính. Bằng cách này, họ sẵn sàng và nhiệt tình tranh luận, bàn luận về bất cứ một vấn đề nào đó với thái độ không cần biết phải - trái, đúng - sai.
Thực tế hiện nay cho thấy, thế hệ "anh hùng bàn phím" đang gia tăng về số lượng. Dưới màn hình máy tính, đề tài mà họ bàn luận vô cùng phong phú, đa dạng, đó có thể là những nhận xét về nhan sắc, ngoại hình hay tài năng; đó có thể là những công kích, sự soi mói đời sống riêng tư của người khác với thái độ miệt thị, giễu cợt. Thế hệ "anh hùng bàn phím" sẵn sàng đưa ra những đánh giá, bình luận một cách cảm tính mà dù không hiểu rõ sự tình. Thậm chí là sử dụng những lời lẽ khiếm nhã, tiêu cực để công kích, khiêu khích.
Những bình luận mà "anh hùng bàn phím" tạo nên trên mạng xã hội ảo lại gây ra những hậu quả thực, nỗi đau thực cho con người. Trước hết, họ đã làm tổn thương người khác, khiến nạn nhân cảm thấy tự ti, xấu hổ, mặc cảm về bản thân mình. Và rõ ràng, những "anh hùng bàn phím" đã vô tình vi phạm những giá trị đạo đức: không biết đồng cảm, thấu hiểu, sẻ chia với những khiếm khuyết, sai lầm của người khác; đồng thời xâm phạm quá sâu vào đời sống riêng tư của họ. Thời gian gần đây, dư luận vẫn chưa hết bàng hoàng trước sự việc không ít ca sĩ, diễn viên tìm đến cái chết để trốn tránh những áp lực từ dư luận. Thậm chí, không ít bạn trẻ đang trong độ tuổi 18, đôi mươi cũng đã tìm đến cái chết chỉ vì những lời nói công kích và làn sóng tẩy chay của những anh hùng bàn phím. Như vậy, thế hệ anh hùng bàn phím đã vô hình tạo ra những áp lực ám ảnh, thậm chí siết chặt lấy tâm trí của những nạn nhân, khiến họ chán nản, bế tắc, khủng hoảng về tinh thần. Đồng thời, hiện tượng này còn ảnh hưởng tiêu cực đến nền an ninh và trật tự xã hội. Không ít những vụ ẩu đả, xô xát, chém giết xuất phát từ những tranh cãi, bình luận trên mạng xã hội.
Chúng ta không thể phủ nhận những tiện ích mà mạng xã hội mang lại, nhưng đồng thời cũng không thể nhắc đến hậu quả có thực mà nó gây ra. Hiện tượng "anh hùng bàn phím" là sản phẩm của việc lạm dụng mạng xã hội và lợi dụng quyền tự do ngôn luận để tự cho bản thân mình quyền phán xét, đánh giá, xúc phạm người khác.
Để ngăn chặn hiện tượng này, chúng ta cần ý thức rõ tác hại của việc phát ngôn, đánh giá theo cảm tính, bừa bãi. Đồng thời, có những biện pháp quản lí thời gian hiệu quả hơn, biết sử dụng mạng xã hội một cách hợp lí, không nên lạm dụng nó như một công cụ, phương tiện để thể hiện quan điểm cá nhân; không ùa theo, chạy theo "hiệu ứng đám đông" của những bình luận khiếm nhã.
Như vậy, hiện tượng anh hùng bàn phím trên mạng xã hội đã trở thành một vấn đề đáng báo động, gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của con người. Là học sinh, chúng ta cần nhận thức rõ về tác hại của hiện tượng này, đồng thời tránh xa và có những biện pháp ngăn chặn.
Dàn ý chi tiết nghị luận vấn đề hiện tượng anh hùng bàn phím trên mạng xã hội?
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận: Hiện tượng anh hùng bàn phím trên mạng xã hội.
2. Thân bài
a. Giải thích về hiện tượng anh hùng bàn phím trên mạng xã hội
b. Nêu biểu hiện và thực trạng của hiện tượng anh hùng bàn phím trên mạng xã hội
c. Phân tích tác hại của hiện tượng anh hùng bàn phím trên mạng xã hội
d. Chỉ ra nguyên nhân của hiện tượng anh hùng bàn phím trên mạng xã hội
e. Bài học nhận thức và hành động
3. Kết bài: Khẳng định lại tác hại của hiện tượng anh hùng bàn phím trên mạng xã hội.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *