Nội dung bài học Vội vàng của Xuân Diệu sẽ giúp các em cảm nhận Vội vàng là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình, nhất là những tháng năm tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuống nhiệt. Để hiểu và cảm nhận sâu sắc về lời giục giã ấy, học 247 mời các em tham khảo bài giảng dưới đây.
⇒ Là nhà thơ luôn khát khao giao cảm với đời.
⇒ Bố cục thể hiện tính chất luận lý của bài thơ.
* Bốn câu đầu: khát vọng lạ lùng của thi nhân
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
* Chín câu tiếp theo: bức tranh thiên nhiên mùa xuân nồng nàn, tươi mới, tràn đầy sức sống
⇒ Với Xuân Diệu, bức tranh xuân tươi đẹp không phải tìm đâu xa mà ở ngay chính trần gian à quan niệm nhân sinh mới mẻ, tích cực (so với các nhà thơ lãng mạn cùng thời).
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi…
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
⇒ Bằng cách nhìn tình tứ, cách cảm nhận tinh tế về thiên nhiên, con người, nhà thơ đã bày ra một bữa tiệc trần gian và niềm cảm xúc ngây ngất trước cảnh sắc ấy
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Quan niệm mới về thời gian, tuổi trẻ
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
⇒ Đoạn thơ thể hiện một cái tôi yêu đời, yêu sống tha thiết cuồng nhiệt. Đằng sau tiếng nói yêu đời ấy là một quan niệm nhân sinh tích cực: Hãy sống cao độ những phút giây của tuổi trẻ! à Quan niệm nhân sinh mới mẻ, tích cực của Xuân Diệu.
ĐỀ: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu
Xuân Diệu Được coi là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới.Ông là nhà thơ trữ tình lãng mạn, luôn khát khao giao cảm với đời đến cuống quýt, cuồng nhiệt. Bài thơ Vội vàng tập trung cao nhất cái khát vọng mãnh liệt ấy. Xuân Diệu đặt khát vọng giao cảm giữa tuổi trẻ và xuân tình, qua đó bộc lộ một xúc cảm triết học, một quan niệm nhân sinh mới mẻ, hiện đại. Để nắm được nội dung bài học cũng như dễ dàng trả lời được các câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài SGK, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Vội vàng.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Bài thơ “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Có cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. “Vội vàng” tiêu biểu nhất cho “Thơ mới”, thơ lãng mạn 1932-1941. Để có được những cảm nhận sâu sắc và tinh tế vè bài thơ, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích 4 câu thơ đầu bài Vội vàng
- Phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng của Xuân Diệu
- Phân tích sức hấp dẫn trong bài thơ Vội vàng
- Triết lý nhân sinh trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
- Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
- Phân tích đoạn 2 bài thơ Vội vàng
- Phân tích quan điểm yêu của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng
- So sánh bức tranh thiên nhiên trong Vội vàng và Đây thôn Vĩ Dạ
- So sánh bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh và Vội vàng của Xuân Diệu
- Cảm nhận về quan điểm tình yêu trong bài thơ Vội vàng
- Quan niệm về thời gian trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
- Phân tích khổ thơ cuối bài thơ Vội vàng
- Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
- Phân tích bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu
- Cái tôi trữ tình của Xuân Diệu qua bài thơ Vội vàng
- Phân tích đoạn thơ đầu bài trong thơ Vội vàng của Xuân Diệu
- Cảm nhận bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Mỗi một bài thơ đều được viết nên bởi những cảm xúc chân thành và trái tim tha thiết của người nghệ sĩ. Thi sĩ chọn thơ làm bạn tâm tình, làm "người" đồng hành trên chặng đường đơn độc của đời mình. Bởi thơ mang cái hồn cốt, sự nhịp nhàng, đồng điệu, độc đáo mà không phải hình thức văn học nào cũng có được. Thơ giúp cho kẻ nhân tình bày tỏ những nỗi lòng mình dễ dàng hơn, thi vị hơn. Bởi vậy, một nhà văn học đã từng viết: "Thơ không chỉ là một hình thức nghệ thuật mà là sự giải thoát của lòng tôi". Thực vậy, qua vội vàng của Xuân Diệu, ta càng thấy được sự đúng đắn của nhận định trên.
Trước hết, thơ chính là một hình thức nghệ thuật độc đáo nhất. Thơ lấy ngôn ngữ làm chất liệu, có sự tình chọn trong từ ngữ, sự kết hợp hài hoà giữa hệ thống các vần nhịp, tạo nên sự sống động của âm thanh. Sức hút của thơ trước hết ở tính thẩm mỹ, dễ đọc, dễ nghe, dễ thuộc bởi sự hiệp vần, bởi tính logic trong thơ:
"Tôi muốn tắt nắng
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi"
Điệp từ "tôi muốn" cũng đã thể hiện được cái khát khao của tâm hồn nhân vật trữ tình. Nắng và gió đều là những vật thể không thể nắm bắt được trong không gian nhưng tác giả đã dùng chúng như một chi tiết nghệ thuật tiêu biểu trong thơ để bày tỏ niềm khát khao lớn lao của một cái tôi hoài bão. Trong "Vội vàng", tác giả còn sử dụng những hình ảnh liên tưởng độc đáo và vô cùng thú vị:
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"
Đó là cái vẻ đẹp rất riêng, vẻ đẹp hấp dẫn của thiên nhiên của sức sống tháng giêng, quá đỗi đẹp đẽ và cuốn hút như vẻ đẹp của tình yêu. Đó còn là những từ ngữ, hình ảnh giàu biểu cảm:
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;"
Giàu sức gợi và trường liên tưởng:
"Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt"
Hàng loạt các phép so sánh, điệp từ ngữ điệp cấu trúc được tác giả sử dụng vô cùng tinh tế. Giọng điệu thơ khi hối hả giục giã, khi lại mặn nồng thiết tha, khi nhanh, mạnh, khẩn trương, khi lại nhẹ nhàng, chậm rãi. Sự phối kết hợp nhiều hình thức nghệ thuật tiêu biểu đã làm nên một bài thơ giàu giá trị nghệ thuật mang nét đẹp thẩm mỹ cho tác phẩm.
Nhưng thơ đâu chỉ là một hình thức nghệ thuật mà còn là tiếng nói của một cái tôi khát khao, một cái tôi muốn được tự do trong những tình cảm, cảm xúc của chính mình. Xuân Diệu qua ngôn từ nghệ thuật đã thể hiện được nỗi lòng, được tình yêu vạn vật, yêu thiên nhiên. Tháng giêng rất đẹp và thơ mộng. Nó khiến ta thổn thức, khiến ta thêm ý thức về sự sống, về cuộc đời mình.
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại"
Tuổi xuân cũng vội vã qua đi theo năm tháng. Phải sống như thế nào để không sống phí, sống hoài tuổi trẻ. Bởi tuổi xuân chẳng hai lần thắm lại. Đó là lòng ham sống, khát khao mãnh liệt được tận hưởng những dư vị tươi xanh và căng tràn nhất của mùa xuân, của đời người. Đó là một cái tôi vượt lên trên cả những chuẩn mực xưa để thể hiện chính mình, để nói lên cái mà bản thân muốn và khát khao có được. Xuân Diệu đã mang đến những quan niệm mới mẻ về thời gian, về tình yêu và về cuộc sống, về tuổi trẻ và hạnh phúc. Thời gian không đứng yên và chờ đợi, hãy sống thật nhanh, thật vội vàng để tận hưởng, để sống có ích.
"Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!"
Một lời thúc giục không chỉ cho riêng mình nữa, cho họ bao con người, bao thế hệ trẻ, hãy sống và tận hưởng, sống và cống hiến, sống hết mình, sống khẩn trương, hối hả trước thời gian. Hưởng thụ những vẻ đẹp của muôn hoa cuộc đời và dành những yêu thương trọn vẹn nhất cho nhau.
Quả thật, nghệ thuật không phải là những ngôn từ đẹp mà sáo rỗng, nó là những ngôn từ chất chứa những ý vị lớn lao. Thơ ca cũng thế, nó không chỉ đẹp bởi được tinh luyện, ngôn từ chọn lọc, phối vần nhịp mà trong nó còn mang một tầm tư tưởng lớn, ở đó nhân vật trữ tình hay chính là cái tôi tiềm ẩn bên trong của tác giả được thỏa sức tung hoành, tự do bày tỏ nỗi lòng trong những khoảng trời sáng tạo của mình.
Câu trả lời của bạn
Dàn ý
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả
- Giới thiệu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
II. Thân bài
1. Phân tích khổ 1: Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế.
- Bức tranh được hiện lên qua lời mời trong đó hàm chứa sự trách móc mà thân thiết:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
- Cảnh vật hiện lên qua vài nét phác họa nhẹ nhàng, duyên dáng, đầy ấn tượng của màu xanh như ngọc của ánh sáng tinh khôi buổi ban mai.
- Cuối cùng là nét chấm phá độc đáo tương phản giữa cái vuông vức của khuôn mặt chữ điền với chiếc lá trúc che ngang, gợi lên nét tinh nghịch mà dịu dàng, dễ thương vốn dĩ ở thôn quê.
2. Phân tích khổ 2: Cảnh buồn qua cái nhìn đầy nội tâm.
- Cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng lay lắt buồn bã trong cảm giác chia lìa bằng hình thức thơ độc đáo: Gió theo lối gió / mây đường mây. Dòng sông như tấm gương ghi nhận hình ảnh chia lìa đó, nên buồn thiu, hoa bắp cúng lay lắt buồn thiu, chia sẻ với tâm trạng nhà thơ.
- Trăng chiếm một dung lượng khá lớn trong thơ Hàn Mặc Tử và ánh trăng thật kì lạ, khác thường. Ta từng gặp trong thơ của ông, hình ảnh:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
(Bẽn lẽn)
- Câu phiếm định: "thuyền ai?", rồi lại "bến sông trăng". Quả thật, đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong "Thi nhân Việt Nam": "Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh".
3. Phân tích khổ cuối: Cảnh vật, con người đều chìm sâu vào mộng ảo.
- Cõi lòng nhà thơ dường như chìm vào mộng tưởng (mơ khách đường xa). Bệnh tật cũng đã khiến nhà thơ rơi vào trạng thái buồn đau ảo giác (nhìn không ra, mờ nhân ảnh). Bởi vậy, con người cảnh vật tất cả đều nhòa mờ trong cô đơn, ngậm ngùi.
- Trong cô đơn, ngậm ngùi, trong mộng ảo đau thương, nhưng lòng nhà thơ vẫn cứ âm thầm muốn gởi đến con người, cuộc đời một thông điệp, nó như lời trần tình tội nghiệp:
Ai biết tình ai có đậm đà?
- Ta chưa thể quyết rằng cậu thơ ấy thể hiện tình yêu nước của Hàn Mặc Tử đến mức nào. Thế nhưng, chắc chắn rằng Hàn Mặc Tử rất yêu cuộc đời, rất yêu quê hương xứ sở. Ta cũng không ngờ trong tập Thơ Điên lại có những vần thơ đậm đà, chan chứa tình quê đến thế.
III. Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm
Câu trả lời của bạn
Dàn ý tham khảo
I.MB: Dẫn dắt từ quan niệm sống của Xuân Diệu trong bài " Vộ vàng"
Nêu VĐNL: quan niệm sống của giới trẻ hiện nay: sống cống hiến, sống khẳng định hết minhg
II.TB
1. Giaỉ thích
- Quan niệm sống của Xuân Diệu trong bài " Vội vàng"
+ Lối sống tích cực của thi sĩ: sống hết mình, dám cống hiến, hi sinh và khẳng định hết mình để lại cho đời những khoảnh khắc đáng nhớ nhất, có ý nghĩa nhất, không nên sống mờ nhạt, yếu đuối, vô nghĩa, tồn tại mòn mỏi trong " cái ao đời phẳng lặng vô danh"
- Khẳng định giới trẻ phải có quan niệm sống tích cực
2. Bàn luận
- Con người cần sống mạnh mẽ, dám khẳng điịnh mình một cách chói lọi, vì:
+ Cuộc sống có biết bao điều để yêu quý: Hình ảnh quê hương đất nước cùng những con người gắn bó thân thiết, ruột thịt...là 1 phần không thể thiếu trong cuộc cống
+ Mỗi con người được sinh ra trên cõi đời là 1 niềm hạnh phúc, cần phải sống có ý nghĩa, biết cống hiến, dâng tặng những gì quý giá nhất mà chúng ta có co cuộc đời này. Khi sống amnhj mẽ sẽ khẳng định được sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân.
+ Sống cống hiến và dám hi sinh còn giúp con người khẳng định tài năng, tên tuổi, bản lĩnh của cá nhân giữa cuộc đơi
+ Hơn nữa, sự sống của mỗi con người không phải là vô tận. Sự tồn tại của vũ trụ là vĩnh hằng, mêmh mông nhưng sự tồn tại của cá nhân vô cùng ngắn ngủi và hữu hạn.Bản thân sự sống không phảilà ở chỗ sống dài hay ngắn mà chính là ở giá trị sống, giá trị của sự cống hiến. Khi con người sống cống hién hết mình cho cuộc đời, cho đất nước, Tổ quốc, sự sống ấy mới đáng trân trọng
+ Dám sống hết mình, dám đấu tranh, dám khẳng định sự tồn tại có ý nghĩa mới thúc đẩy được khả năng sáng tạo của con người, tạo động lựcnkhát vọng cao đẹp trong cuộc sống
+ Ngược lại, nếu con người sống le lói, sự sống có thể kéo dài nhưng đó là sự kéo dài vật vờ, vô nghĩa
3. Mở rộng
- Sống mạnh mẽ, tich cực dám khẳng định bản thân là lẽ sống cao đẹp, thể hiện ý thức trách nhiệm và sự trân trọng từng phút giây của con người với sự sống. Tuy nhiên, có không ít người hiểu quan niệm này 1 cách lệch lạc, họ sống nông nổi, sống nhanh, sống vội, bất chấp, khẳng định minhg một cách tiêu cực, dẫn tới cả đời còn lại phải chịu hậu quả của chính mình
4. Bài học
Cần xác định quan điểm sống lành mạnh: biết sóng hiến và hưởng thụ, biết sống cho hiện tại và tương lai, trân trọng từng phút giây quý giá của cuộc sống.
III.KB: Khẳng định lại vấn đề
Câu trả lời của bạn
Thơ Xuân Diệu tinh tế, gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong bút pháp thi ca. Nhắc tới ông, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn và phong cách của ông: Vội vàng. Bài thơ vừa như một nguồn cảm xúc trào dâng vừa là tuyên ngôn sống của một nhà thơ khao khát yêu đời. Đặc biệt, nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ đã thể hiện quan niệm nhân sinh mới mẻ về thời gian và tuổi trẻ.
Thời gian trong thơ ca trung đại là thời gian "tuần hoàn" nghĩa là thời gian được hình dung như 1 vòng tròn liên tục tái diễn, hết 1 vòng lại quay về vị trí xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn "tĩnh", lấy cả sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo cho thời gian. Còn đối với Xuân Diệu, ông có quan niệm rất mới về thời gian:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Nếu người xưa luôn yên tâm bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi họ quan niệm thời gian là tuần hoàn thì Xuân Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuôi trẻ một đi không trở lại. Thế nên ông luôn hốt hoảng lo âu khi thời gian trôi mau. Điều thi sĩ sợ là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bới thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ đối lập “tới - qua”, “non - già” đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước bước đi của thời gian. Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng sự lặp lại liên tiếp điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch một sự thật hiển nhiên không gì phủ nhận: Dù xuân đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và tuổi trẻ cũng mất. Đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy, Xuân Diệu không khỏi thảng thốt. Liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn ngào:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
“Lòng tôi” và “lượng trời” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn. Tuy nhiên trong góc nhìn của Xuân Diệu thì cái vốn hữu hạn như đời người lại được mở rộng đến vô cùng “lòng tôi rộng” còn thứ vốn tưởng chừng vô hạn trong thời gian của đất trời lại trở nên nhỏ bé “lượng trời cứ chật”. Một loạt hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ “rộng” - “chật”, “xuân tuần hoàn” - “tuổi trẻ chẳng hai lần”, “còn” - “chẳng còn”. Điều đó đã góp phần làm nổi bật tâm trạng tiếc nuối trước thời gian, cuộc đời.
Sự hạn hữu của đời người với thời gian được thể hiện rõ nét nhất ở dòng thơ “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Đúng vậy, giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi. Nhưng ở đây, Xuân Diệu không tiếc cho mình, tiếc cho tuổi trẻ mà điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”.
Suy ngẫm về điều đó, Xuân Diệu càng cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời gian.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàm sắp sửa.
Thời gian vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị, đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi, dường như khắp không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm tiễn biệt. Tựa như ta nghe thấy có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa tiếc nuối hụt hẫng trong từ “rớm” ấy.
Gió đùa trong lá không phải là những âm than vui tươi, sống động của thiên nhiêm mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa. Vậy là vạn vật cứ thế chảy trôi theo quy luật vận hành tự nhiên của nó mà không sao cưỡng lại được.
Khép lại phần thơ là dòng thơ tràn ngập cảm xúc:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Đến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Phép điệp “chẳng bao giờ” được lặp lại hai lần càng nhấn mạng thêm tâm trạng bàng hoàng tiếc nuối ấy. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mấy khói. Chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thảng thốt mà càng trở nên da diết hơn với dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Và trong sự bất lực, Xuân Diệu dường như tìm ra một cách giải quyết.
“Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”
Lời thơ như một lời giục giã, thúc giục con người hãy đứng lên đừng buồn vì sự chia ly sẽ đến mà lãng quên đi thực tại. “Mau đi thôi”, mau cố gắng trân trọng lấy từng phút giây hiện tại để tận hưởng bữa tiệc tươi vui mà thiên nhiên mùa xuân đã bày sẵn trước mắt ta.
Chỉ với 16 câu thơ nhưng dường như Xuân Diệu đã cho ta thấy một quan niệm nhân sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ của tác giả. Ta cũng nhận ra mặc dù Xuân Diệu thể hiện tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc đời nhưng qua đó ta còn bắt gặp một khát khao mạnh mẽ, một tình yêu say đắm mà ông dành cho đời.
Câu trả lời của bạn
Vội vàng, một sáng tác của nhà thơ Xuân Diệu, là một trong số những bài thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Nhưng có lẽ đây là bài thơ rất khác so với nhiều bài thơ cùng thời. Vẫn là cảm xúc của cái tôi, vẫn là thiên nhiên, vẫn là tình yêu, song Vội vàng lại mang theo những ý nghĩa mang đậm chất triết lý nhân sinh mà trong đời thơ không phải nhà thơ nào cũng thể hiện được.
Một bài thơ lại giàu tính triết lý, những tưởng là điều chỉ xảy ra với những hồn thơ mang nặng tính suy tưởng, hơi hướng chính luận. Nhưng thơ Xuân Diệu lại đặt những nỗi niềm cảm xúc. Thật khó có thể tưởng tượng, tính triết lý sẽ được thể hiện trong thơ ông. Ấy vậy mà triết lý trong Vội vàng lại hình thành từ chính những cảm xúc ấy. Không những được bộc lộ rất tự nhiên mà nó trở thành giá trị nội dung vô cùng sâu sắc đằng sau một hồn thơ đa cảm. Triết lý nhân sinh trong bài thơ được bắt nguồn từ chính quan niệm sống cuồng nhiệt, đắm say, thiết tha của Xuân Diệu. Đó là quan niệm sống vội vàng. Lối sống của một cái tôi rất đỗi trần thế, rất con người trong thơ.
Vội vàng là bài thơ “tuyên ngôn” cho người ta thấy, nhất là người trẻ, thế nào là tình yêu cuộc sống, yêu cuộc đời. Vào những năm ấy thơ ca đương thời đang ẩn sâu trong nỗi buồn sâu thẳm của cả một thế hệ. Cái nỗi niềm “thiếu quê hương” khiến họ lẩn tránh trong những góc khuất của quá khứ, trong những cuộc phiêu lưu ái tình và cả trong những cảnh sắc của thiên nhiên đất nước mình. Biết bao nhà thơ yêu đời, yêu người tha thiết nhưng vẫn cứ trống trải, buồn bã, cô đơn. Còn Xuân Diệu thì khác, nhà thơ mang đến hơi thở rất đời, rất hiện thực mà vẫn dạt dào cảm xúc trong thơ. Vội vàng mở đầu ngay bằng những khát vọng về tình yêu cuộc đời đầy cháy bỏng, tha thiết:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Đó là khát vọng quá ngông cuồng, phi lí của nhân vật trữ tình. Làm sao tắt nắng? Làm sao buộc gió? Ấy là quy luật của tạo hóa, tự nhiên. Chủ thể trữ tình lại muốn can thiệp, muốn đoạt quyền để tự mình ngưng đọng thời gian. Mấu chốt của khát vọng ấy là giữ lại được hương sắc cuộc đời để mà tận hưởng, đắm chìm. Sẽ không có gì là ngạo mạn hay hoang đường, khi điều đó được xuất phát từ một tình yêu lớn lao với cuộc sống. Thể hiện tình yêu ấy qua khát vọng này, nhà thơ đã “tuyên ngôn” cho một lẽ sống mang đậm tính triết lý nhân sinh.
Nhưng lẽ yêu đời, yêu người không dừng lại ở khát vọng mà ở hiện thực cuộc sống với những vấn đề trái ngược, đối lập nhau. Xuân Diệu khao khát cuộc sống này là bởi vì nó đẹp, đẹp như một chốn thiên đường ngay trên mặt đất nhưng lại đầy lo sợ, run rẩy trước sự trôi chảy nghiệt ngã của thời gian sẽ cuốn phăng đi tất cả những vẻ đẹp đó. Bởi vậy, phần tiếp theo của bài thơ là sự giãi bày, tranh biện của Xuân Diệu về cuộc sống, về thời gian để thổ lộ tình yêu tha thiết của mình. Ông đã tự trả lời cho câu hỏi vì sao lại muốn tắt nắng, buộc gió bằng đoạn thơ:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
…
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
Nếu lướt qua, người đọc tưởng mình đang lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh nào đó. Nhưng chợt nhận ra, đó toàn là những thứ rất gần gũi, thân thuộc, ngay xung quanh mình: ong bướm, hoa đồng nội, lá, yến anh,…. Xuân Diệu chỉ thêm một động tác là thổi hồn vào đó những gì căng tràn, mơn mởn, tươi non nhất của sắc xuân và hơi thở ngây ngất, quyến rũ của tình yêu, làm cho vạn vật đẹp đẽ, giàu sức sống ở thời khắc xuân thì. Các điệp từ của, này đây và thủ pháp liệt kê đã biến tất cả những thứ đơn sơ ấy trở thành một bữa tiệc của trần gian mà nhà thơ như ra sức vẫy gọi, mời chào. Thật không sai khi chứng kiến khung cảnh ấy lại nhớ đến lời của nhà phê bình Hoài Thanh nói: “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai, xua ai nấy về hạ giới”. Bởi vậy mới cho rằng, Xuân Diệu là nhà thơ của trần thế, ông không kiếm tìm vẻ đẹp ở đâu xa xôi, ở những thứ cao sang, quý phái. Chính sự đơn thuần, mộc mạc gắn bó với cuộc đời ấy đã làm tình yêu cuộc sống của nhà thơ mang đậm tính triết lý nhân sinh.
Và trong khoảnh khắc mê đắm khung cảnh thiên nhiên, cuộc sống ấy, nhà thơ vẫn không quên dành tình yêu cho con người. Ở Vội vàng con người không hiện lên bằng hình hài, chân dung, số phận nào cụ thể. Chỉ thông qua một cách so sánh đặc biệt để nhà thơ đưa ra một quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, độc đáo, khác xưa:
- Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
- Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Ánh sáng, tháng giêng là những thứ thuộc về tự nhiên. Mà trước đây, mọi cái đẹp đều lấy chuẩn mực từ tự nhiên. Nhưng nay Xuân Diệu lại nhìn thấy thứ ánh sáng buổi bình minh lóe lên lại đẹp như cái chớp hàng mi của người thiếu nữ, hay tháng giêng – tháng của mùa xuân lại ngon như một cặp môi gần. Lấy con người là thước đo cho mọi cái đẹp, sự hoán đổi thú vị mà vô cùng hợp lý này đã tạo ra cho nhà thơ một quan niệm thẩm mĩ đầy mới mẻ và có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Đó là cách nhà thơ tự khẳng định, đề cao và tôn vinh con người. Không phải là thứ gì khác, con người mới chính là sản phẩm tuyệt vời, đẹp đẽ nhất của tạo hóa.
Thế nhưng thiên nhiên, con người dẫu đẹp đến đâu cũng không thể chống lại được quy luật của thời gian. Xuân Diệu đã dùng cả một đoạn thơ dài như lời tranh biện hăng say để nói lên sự nghiệt ngã trong quy luật ấy. Ông nhìn thấy, thậm chí cảm thấu được từng bước đi của nó. Nên trong hơi thở của sự sống, nhà thơ như một “bậc tiên tri” dự cảm những điều “chẳng lành” mà thời gian đem lại. Vẫn là mùa xuân, nhưng không còn tươi non, mơn mởn nữa, mà giờ đây xuân càng tới nghĩa là xuân càng qua, xuân càng non nghĩa là xuân đang già. Tại sao Xuân Diệu lại lo sợ đến mức run rẩy như thế? Hóa ra bấy lâu nay thời gian đâu có tuần hoàn như người ta tưởng, nó vẫn lặng lẽ trôi đi và cuốn phăng mọi thứ mà không bao giờ trở lại. Mỗi phút trôi qua là một điều mất mát, với đời người là sự rút ngắn thời gian sống trên cuộc đời. Minh chứng cho điều ấy, nhà thơ bẽ bàng chỉ ra hiện thực: lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật, tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
Bao nhiêu niềm tiếc nuối, ngậm ngùi lan tràn sang cả cảnh vật thiên nhiên. Đất trời, sông núi, cỏ cây, chim muông đều trong tình cảnh tan tác, chia lìa bởi nghịch cảnh mang tên thời gian. Nhà thơ đã thay lời cho biết bao nhiêu hồn ham sống để “cảnh báo” mọi người về quy luật khắc nghiệt của thời gian. Nhiều người nói rằng, rốt cuộc Xuân Diệu cũng như bao nhà thơ mới khác, có yêu đời đến đâu cũng vẫn lo lắng, sợ hãi để rồi buồn thương, chua xót, ngậm ngùi. Vội vàng có điều ấy nhưng nó không khiến người ta chán nản, lo âu mà như một lời nhắc nhở về thái độ sống sao cho đúng trước những vấn đề bất trắc của cuộc đời. Như cách nhìn về thời gian đầy tính mất mát trong bài thơ này, ông đã bộc lộ rất sâu sắc quan điểm có tính triết lý nhân sinh.
Chính vì thế, Vội vàng không phải là một bài thơ buồn, càng không phải là một bài thơ nặng nề, ảo não những suy tư. Ngược lại, nó vô cùng khí thế, sục sôi, nhờ những lời giục giã mạnh mẽ của nhà thơ đối với mọi người về lẽ sống vội vàng. Thơ Xuân Diệu thường luôn căng tràn nhiệt huyết sống, nhiệt huyết yêu, đến với Vội vàng người đọc lại càng có ý thức yêu và sống sao cho đúng đắn. Nhà thơ nhắn nhủ:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
…
- Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào người.
Ý nghĩa nhân sinh của bài thơ được tạo nên từ lời giục giã mọi người hãy “lên đường” để sống. Xuân Diệu khuấy động người ta bằng cách đưa ra hàng loạt những trạng thái sống mãnh liệt nhất. Nào ôm, nào riết, say, thâu và cả cắn nữa. Ông không bỏ lỡ một phút sống nào. Xuân Diệu cuống quýt, vồ vập nhưng không xuề xòa hay tùy tiện. Nếu để ý, ông giục giã mọi người hãy sống vội vàng vào những khoảnh khắc, thời điểm đáng sống nhất. Cho nên khi sự sống mới bắt đầu mơn mởn, mây đưa gió lượn, cánh bướm với tình yêu, cái hôn nhiều… không được để lãng phí. Những giây phút ấy phải sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn. Triết lý nhân sinh nằm ngay ở lời giục giã ấy như thế. Con người vì cuộc sống mà có lúc xao lòng, mềm yếu, chán nản… nhưng khi ở vào mỗi khoảnh khắc, nhất là thời tuổi trẻ phải sống sao cho đáng sống, để không bao giờ phải nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời, cũng không còn phải tôi muốn tắt nắng đi, buộc gió lại.
Giá trị lớn nhất của triết lý nhân sinh là giúp chúng ta nhận ra con người là một hiện hữu, chấp nhận đời sống của con người là một thực tại sinh tồn. Vội vàng. chỉ là một bài thơ chứ không phải một báo cáo triết học. Nhưng Xuân Diệu qua tác phẩm này cũng vô cùng xứng đáng được liệt vào hàng ngũ những người có tư duy triết học lớn. Thi phẩm giúp người ta nhận ra một lẽ sống, giúp chúng ta nhận ra mình sống để làm gì, con người có vai trò, ý nghĩa giá trị ra sao… Đó chính là triết lý nhân sinh mà nhà thơ gửi gắm, nó đưa tác phẩm vượt xa khỏi giới hạn của một bài thơ. Chắc chắn bao thế hệ bạn đọc đã qua và mai sau sẽ vẫn cảm nhận được giá trị to lớn bắt nguồn từ triết lý nhân sinh mà nhà thơ Xuân Diệu đã thể hiện trong tác phẩm Vội vàng..
Câu trả lời của bạn
Thơ mới trong tiến trình phát triển của nó, là kết quả của hành trình đi tìm kiếm và khẳng định cái tôi. Thời đại ấy chúng ta đã chứng kiến nhiều cái tôi độc đáo như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Huy Cận,… Nhưng nếu phải chọn ra những cái tôi đặc biệt thì không thể không nhắc tới Xuân Diệu – cái tôi “rạo rực, thiết tha” luôn “khát khao giao cảm với đời” song cũng đầy băn khoăn, lo sợ trước sự trôi chảy của thời gian. Bài thơ Vội vàng đã ghi lại dấu ấn về một cái tôi như thế!
Đến thời điểm, năm 1938 khi mà Vội vàng ra đời, cái tôi trong thơ chẳng còn lạ lẫm nữa và ngay cả Xuân Diệu cũng đã khẳng định được cho mình một cái tôi độc đáo trên văn đàn. Trước hết, đó là một cái tôi yêu đời, yêu cuộc sống, yêu con người rất mãnh liệt. Ngay mở đầu bài thơ ông đã thẳng thắn, trực tiếp bộc lộ:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Cái tôi ấy đã bắt đầu bằng hai ước muốn vô cùng táo bạo và phi lí. Đó là muốn đoạt quyền của tạo hóa để giữ màu đừng nhạt, hương đừng bay. Sự táo bạo ở chỗ, nhà thơ như muốn can thiệp vào quy luật của tự nhiên để ngưng đọng thời gian, để giữ lại tất thảy những gì thuộc về cuộc sống bên mình. Đó là điều không tưởng. Chính bởi thế, người ta mới thấy tôi chất chứa một tình yêu cháy bỏng với cuộc đời. Hẳn phải yêu tha thiết lắm mới có ước muốn ngông cuồng, phi lí đến vậy hay là bởi sợ thời gian trôi sẽ cuốn nó đi mất nên mới ao ước khác thường như thế? Có lẽ cả hai. Bởi Xuân Diệu luôn yêu đời, yêu cuộc sống nhưng cũng rất hay lo sợ, ám ảnh vì nó sẽ không tồn tại mãi. Thế nên, chỉ còn cách sống vội vàng mới làm được điều ấy. Những dòng thơ năm chữ ngắn gọn như dồn nén cảm xúc đã mở đầu cho màn đối thoại về lí do cho sự sống vội vàng. Để sang khổ thứ hai, giọng thơ, thể thơ thay đổi là bước đầu lí giải cho điều ấy.
Của ong bướm này đây tuần trăng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Một bức tranh thiên nhiên, cuộc sống tràn ngập hương sắc, mùi vị hiện ra trước mặt người đọc. Những ong bướm, hoa đồng nội, lá cành tơ, yến anh, ánh sáng, tháng Giêng… những thứ bình dị, gần gũi bỗng dưng thi vị, nên thơ đến lạ thường. Sở dĩ vậy là vì nhà thơ đã nhìn thấy ở chúng những khoảnh khắc thật đẹp, thật viên mãn, thật căng tràn sức sống và ngây ngất xuân tình. Nó đang ở lúc đắm say, mơn mởn, tươi non nhất: ong bướm tuần tháng mật, hoa đồng nội xanh rì, lá cành tơ phơ phất, yến anh khúc tình si, ánh sáng chớp hàng mi, tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Xuân Diệu đã không bỏ lỡ mà thâu tóm gọn nó, căng mọi giác quan để cảm nhận nó một cách tuyệt diệu nhất. Chính chúng ta – người đọc, khi thưởng thức cũng mơ tưởng theo những đắm say từ những thứ vô cùng bình dị, gần gũi mà bấy lâu nay có khi vô tình bỏ qua. Điệp từ của, này đây cứ liên tiếp, dồn dập như lời mời chào, vẫy gọi chúng ta cùng nhau thưởng thức. Những thứ quen thuộc ấy dưới cặp mắt “xanh non, biếc rờn”, qua lăng kính của tình yêu, của mùa xuân đã trở thành một bữa tiệc trần gian đầy tươi đẹp. Nhà phê bình Hoài Thanh đã thực chí lí khi cho rằng: “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới”. Thổi hồn, gửi gắm tình yêu vào những điều, những thứ giản dị, bình thường từ cuộc sống cũng là một quan niệm đầy tính triết lý nhân sinh mà cái tôi trữ tình đã thể hiện được trong bài thơ.
Nhưng bên cạnh đó, cái tôi trữ tình còn thể hiện sự độc đáo trong cách bộc lộ quan niệm thẩm mĩ có phần khác biệt so với trước đây. Qua hai câu thơ: "Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, / Tháng giêng ngon như một cặp môi gần", nhà thơ đã nói lên điều đó. Bằng cảm xúc yêu đời, yêu người, cái tôi trữ tình đã không ngần ngại khẳng định, vẻ đẹp của tạo hóa không phải bắt nguồn từ thiên nhiên, mà từ con người. Thứ ánh sáng bình minh kia le lói cũng chỉ đẹp như cái chớp hàng mi của người thiếu nữ. Hay tháng giêng – khởi đầu của mùa xuân, được mĩ vị hóa thành “ngon như một cặp môi gần”, tức cũng đắm say như cái hồn nồng cháy của đôi tình nhân. Ánh sáng, tháng giêng là thuộc về thiên nhiên. Vậy mà giờ đây thiên nhiên lại phải đem cái chuẩn mực vẻ đẹp của con người để so sánh. Cái tôi trữ tình bởi thế đã khéo léo ca ngợi, đề cao vị trí của con người. Không có một thứ gì khác, con người chính là sản phẩm tuyệt vời nhất của tạo hóa. Khẳng định giá trị của con người là cách để cái tôi trữ tình đưa ra một quan niệm thẩm mĩ giàu ý nghĩa nhân sinh.
Cảm xúc sung sướng vì thế mà cái tôi trữ tình chẳng thể giấu giếm được. Lời thơ cứ căng tràn, sục sôi, phấn chấn để diễn tả hết thảy hạnh phúc vô ngần khi được sống giữa một cuộc đời, một cảnh sắc tràn ngập mùa xuân và tình yêu như vậy. Nhưng giọng điệu thơ bỗng chùng xuống: "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa". Cái tôi chẳng mãi có thể hát vang khúc ca yêu đời, mà vội vàng im bặt trước quy luật khắc nghiệt của thời gian. Cái tôi trữ tình trào lên một nỗi lo sợ, băn khoăn:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...
Qua thủ pháp đối lập, nhân vật trữ tình đã “lập luận” vô cùng say sưa về quan niệm thời gian. Bằng những từ ngữ đầy tính tranh biện: nghĩa là, mà, nhưng, nói làm chi, nếu, nhưng chẳng, nên, nhà thơ đã khẳng định sự trôi chảy vô tình của thời gian. Đúng là thời gian của tự nhiên thì vô cùng, vô tận, xuân năm nay đi, năm sau lại có xuân. Nhưng đời người thì lại có hạn, mà tuổi trẻ - mùa xuân của cuộc đời, chẳng hai lần thắm lại. Cái tôi trữ tình đầy ngậm ngùi, tiếc nuối, bâng khuâng khi nhìn thấy đâu đâu mọi thứ đều bị phá hủy bởi thời gian – thứ mang theo sức mạnh vô hình mà một đi không còn trở lại. Chưa nói đến điều quan niệm này đã khác, đã mới mẻ, hiện đại hơn như thế nào so với trước kia, mà chỉ cần cái nhìn đầy tính mất mát ấy đã đủ nhận thấy một cái tôi đầy run rẩy, sợ hãi trước quy luật ấy như thế nào. Phải rất yêu đời, yêu cuộc sống mãnh liệt nhường nào thì cái tôi trữ tình ấy mới có cảm xúc như vậy. Tắt nắng, buộc gió chỉ là cái cớ để tìm kiếm cách thức chống lại thời gian ấy mà thôi.
Nhưng càng cảm nhận rõ ràng về thời gian như thế, thì nỗi niềm bâng khuâng, tiếc nuối, thậm chí là xót xa lại càng trào dâng. Thời gian có sức mạnh tàn phá là có thật. Cái tôi lại một lần nữa để toàn tâm, toàn trí, toàn hồn nhưng không phải để tìm kiếm vẻ đẹp mà để “ngửi” thấy mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi, để nghe thấy núi sông than thầm tiễn biệt, để nhìn thấy con gió xinh thì thào, hờn dỗi bay đi, chim ngập ngừng đứt tiếng vì sợ độ phai tàn. Đến tới đây cái tôi trữ tình lo lắng thực sự, cái thiết tha rạo rực phải nhường chỗ cho nỗi băn khoăn, ưu phiền trước cuộc đời. Dẫu biết đây là quy luật tâm lý rất đỗi bình thường khi con người ta quá yêu cái gì đó thì lại rất sợ phải mất nó đi. Nhưng sự ưu tư của cái tôi trữ tình ở đây vẫn rung lên một nỗi niềm đồng cảm sâu sắc từ phía độc giả. Dường như chúng ta cũng đồng tình trong cách lý giải của tác giả, mọi thứ, nhất là con người rồi sẽ bị vùi lấp bởi thời gian.
Cái tôi trữ tình trong Vội vàng thực dễ khiến chúng ta liên tưởng đến cái tôi nói chung trong thơ mới. Luôn yêu cuộc đời đến cháy bỏng, thiết tha nhưng vẫn buồn bã, suy tư và đầy bế tắc. Đó là cảm xúc chung của cả một thế hệ. Nhưng tác phẩm này của Xuân Diệu lại khẳng định ở ông một cái tôi khác. Nhà thơ có mang đến nỗi buồn, sự lo lắng, băn khoăn nhưng không hề bi quan, chán nản. Ông giúp chúng ta nhận ra quy luật của cuộc đời là vậy, và vẫn thể hiện niềm yêu đời và khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc sống này. Bởi vậy mà khổ thơ cuối cùng của tác phẩm mới thực sự mang đến cái tôi đúng nghĩa nhất trong thơ Xuân Diệu.
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Đoạn thơ hội tụ những gì sôi nổi, nhiệt huyết nhất trong hồn thơ Xuân Diệu. Trước cuộc sống như thế, ông không thể “đầu hàng” được. Ông quyết lao vào một cuộc chạy đua với thời gian. Ông giục giã mọi người hãy mau đi thôi, mau sống thôi khi cuộc đời trong thời khắc tuổi trẻ. Vì thế cái tôi cá nhân đã hòa chung với cái ta cùng mọi người cùng nhau làm nên một sức sống mới giữa cuộc đời. Và thế là người ta nhìn thấy, một cái tôi trữ tình phóng túng, cuống quýt, vồ vập để sống, để yêu. Hàng loạt các động từ mạnh theo cấp độ tăng tiến được sử dụng (ôm, riết, say, thâu, cắn) để diễn tả mức độ nhiệt huyết nhất, vội vàng nhất mà nhà thơ đang có. Đặc biệt là từ cắn, tuy có phần rất thực nhưng chỉ như vậy mới diễn tả hết niềm khao khát đang mãnh liệt, sôi trào trong lòng thi nhân. Nhưng cách sống vội vàng của Xuân Diệu cũng còn có điều đáng suy ngẫm. Phải chăng lúc nào cũng vội vàng, cũng cuống quýt như vậy hay sao? Vấn đề nhà thơ gửi gắm chính là ở thái độ và thời điểm sống. Phải luôn trân trọng, luôn ý thức về sự sống của mình để tuổi trẻ trôi qua không hề lãng phí. Và phải biết hết mình với những khoảnh khắc quan trọng của cuộc sống thì mới trọn vẹn hết được niềm vui sống của mình. Vì vậy nhà thơ mới "muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn, muốn riết mây đưa và gió lượn, muốn say trong cánh bướm với tình yêu, muốn thâu trong một cái hôn nhiều, hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi". Cảm xúc cao nhất của thi nhân đặt vào thời khắc xuân hồng – hình ảnh hội tụ những gì đẹp nhất của cả tự nhiên lẫn cuộc đời con người mà mỗi chúng ta cần nắm bắt.
Có thể nói, cái tôi trữ tình trong bài thơ Vội vàng thực sự mang nhiều ý nghĩa hơn là cảm xúc của một nhân vật trong thơ. Cái tôi đã rất mạnh dạn thể hiện sự khát khao giao cảm với đời bằng một quan niệm sống đầy ý nghĩa tích cực, nhân sinh mang tầm triết lý. Cái tôi ấy đã theo cả một đời thơ Xuân Diệu để giúp ông ngay cả thời điểm là một thanh niên mười tám, đôi mươi giữa lúc bối cảnh đất nước lầm than, nô lệ vẫn sẽ vững vàng, vẫn tin tưởng vào cuộc sống thực tại để mai sau hòa nhập với đời, với mọi người, với những chiến công vang dội của dân tộc sau này.
Câu trả lời của bạn
Tập thơ Thơ thơ
Câu trả lời của bạn
Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới.
Câu trả lời của bạn
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.
Câu trả lời của bạn
Vẻ đẹp vừa gần gũi, thân quen, vừa mượt mà, đầy sức sống của thiên nhiên.
Câu trả lời của bạn
So sánh vẻ đẹp của thiên nhiên với vẻ đẹp của con người bằng một hình ảnh rất đời thường, gắn với cảm nhận về một tình yêu trẻ trung, cuồng nhiệt, nồng nàn.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc qua lăng kính độc đáo của tác giả:
- Thiên nhiên sự sống gợi lên gần gũi, tình tứ. Nhà thơ phát hiện vẻ đẹp kì diệu của tự nhiên, và thổi vào đó tình yêu rạo rực, say đắm.
- Thiên nhiên nhuốm màu chia li, mất mát “ mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi” → Hình ảnh thiên nhiên và cuộc sống qua lăng kính thời gian trôi nhanh chóng, không bao giờ trở lại.
- Tác giả nhìn thiên nhiên qua lăng kính tuổi trẻ, tình yêu, cảnh vật nhuốm màu tình tứ, tràn ngập xuân tình.
- Lấy con người làm thước đo cho vẻ đẹp của thiên nhiên: đây là cách nhìn mới mẻ, đậm chất Xuân Diệu.
Câu trả lời của bạn
- Tác giả cảm nhận thời gian tự nhiên, thời gian khách quan muôn đời vẫn như thế. Nhưng quan niệm về thời gian, cảm nhận về thời gian thì mỗi thời đại, mỗi con người lại khác nhau
- Cảm nhận thời gian thông qua lăng kính của Xuân Diệu chứa nhiều triết lý nhân sinh sâu sắc.
Câu trả lời của bạn
- Người xưa quan niệm thời gian: tuần hoàn vĩnh cửu, con người gắn chặt với cộng đồng nên chết vẫn chưa là hết hẳn, vẫn cùng tồn tại với trời đất.
- Xuân Diệu có quan điểm ngược lại, thời gian tuyến tính, một đi không trở lại.
- Nhà thơ lo sợ khi vũ trụ còn mãi, thời gian vô tận mà đời người lại hữu hạn, tuổi trẻ “chẳng hai lần thắm lại”.
- Thời gian trong cảm nhận của nhà thơ đầy nuối tiếc, mất mát, chia lìa.
Câu trả lời của bạn
Các cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là do sự thức tỉnh sâu sắc về cái tôi cá nhân,về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời, nâng niu trân trọng từng giây, từng phút của cuộc đời, nhất là năm tháng tuổi trẻ.
Câu trả lời của bạn
- Giá trị nội dung: Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng phút, từng giây của cuộc đời mình nhất là những năm tháng tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt.
- Giá trị nghệ thuật: Hình thức nghệ thuật điêu luyện: Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, giọng điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *