Bài học hôm nay sẽ giúp các em củng cố kiến thức về văn nghị luận đã học ở THCS và hướng dẫn các em viết một bài văn nghị luận một cách trung thực, phản ánh đúng thực tế cuộc sống và học tập. DapAnHay mời các em cùng tham gia bài học!
"Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp."
Đề 1: Anh (chị) hãy trình bày quan điểm, suy nghĩ của mình về ý kiến trên "Người hạnh phúc nhất là người đem đến hạnh phúc cho nhiều người nhất"
Đề 2: Trình bày suy nghĩ, ý kiến của anh (chị) về hiện tượng tỉ lệ thanh thiếu niên vi phạm an toàn giao thông ngày càng tăng.
Đề 1:
a. Mở bài
b. Thân bài
Nêu một cách chân thực và gần gũi với cá nhân bản thân mỗi người.
c. kết bài
Khẳng định lại vấn đề và mở rộng vấn đề.
Chú ý: để làm rõ vấn đề cần tìm dẫn chứng phù hợp, rõ ràng, có ý nghĩa rõ ràng....
Đề 2:
a. Mở bài
b. Thân bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động chân thực, phù hợp với bản thân người viết.
c. Kết bài
Để củng cố kiến thức về văn nghị luận đã học ở THCS, các em có thể tham khảo thêm bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Suy nghĩ của em về ý kiến: Trước cái đói nghèo và những cuộc đời bất hạnh vẫn còn trong xã hội nước ta?
Câu trả lời của bạn
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Nhân dân ta vốn có truyền thông nhân đạo. "Thương người như thể thương thân", "Lá lành đùm lá rách" không chỉ là những câu nói cửa miệng mà chính là tấm lòng sâu thẳm và hành động chí tình của những người con Lạc cháu Hồng trên dải đất hình chữ s từ bao đời nay đã cưu mang, đùm bọc lẫn nhau. Ngày xưa đã thế, ngày nay lại càng như thế. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã gặp ánh sáng khoa học của thời đại để tạo nên những hiệu quả to lớn đẩy lùi cái đói nghèo và những cuộc đời bất hạnh vẫn còn trong xã hội trên bước đường đi lên của đất nước.
Đất nước đang đổi mới, phát triển, đi lên nhưng cái đói nghèo và những cuộc đời bất hạnh vẫn còn hiện hữu trong xã hội - chua xót và nhức nhối! Vì sao như vậy và cần nhìn nhận hiện tượng đó như thế nào? Đi lên từ một đất nước nông nghiệp lạc hậu hàng ngàn năm nay, không thể một sớm một chiều có thể xóa bỏ ngay được cái đói nghèo ấy. Lại nữa, và đây mới là nguyên nhân chủ yếu, đất nước ta đã trải qua ba mươi năm chiến tranh ác liệt, hậu quả của nó để lại không chỉ là cái đói nghèo mà còn là những cuộc đời bất hạnh của bao nhiêu con người tàn tật do chiến tranh, đặc biệt là những di chứng khôn lường của chất độc da cam đi-ô-xin mà kẻ thù đã rải xuống trên nhiều vùng đất nước và nhiễm độc vào hàng triệu con người. Nhìn nhận như vậy mới thấy được tội ác tày trời của kẻ thù xâm lược, càng nhận rõ sự đau khổ ghê gớm của "nạn nhân chiến tranh" mà nhân dân ta phải hứng chịu, càng thương yêu, chia sẻ và có trách nhiệm hơn đối với những cuộc đời bất hạnh đó. Đói nghèo và bất hạnh không còn là của riêng ai mà đã trở thành một vấn đề nhức nhối của toàn xã hội đòi hỏi mọi người phải chung lưng đấu cật để cùng giải quyết. Ở đây vừa là tình thương, vừa là trách nhiệm. Tinh thương giữa những con người với nhau "thương người như thể thương thân", nhưng cũng là trách nhiệm của "người trong một nước phải thương nhau cùng". Chính vì thế, chúng ta phải chống bệnh vô cảm, phải lên án những người dửng dưng, không quan tâm đến cái đói nghèo và những cuộc đời bất hạnh vẫn còn trong xã hội nước ta. Vì chất độc da cam, nhiều cặp vợ chồng không thể có con hoặc chỉ sinh ra những quái thai; vì chất độc da cam, những em bé mới ra đời đã bị tật nguyền, không nhìn thấy ánh sáng, không nghe được âm thanh, không sinh hoạt như con người bình thường, trở thành gánh nặng và nỗi ám ảnh suốt cuộc đời của gia đình và xã hội... Những con người như thế, lẽ nào ta có thể dửng dưng, vô cảm được, trong khi ta được sống đầy đủ, sung sướng, được ăn ngon, mặc đẹp, được vui chơi, học hành thoải mái ? Theo tôi, dửng dưng, vô cảm trước những con người này là một sự thất đức, chưa nói là có quan tâm đến họ, có giúp đỡ họ không? Bởi, không là họ hàng, nhưng họ cũng là đồng bào, cùng dân tộc, và chí ít, họ cũng là con người, là đồng loại của ta; và quan trọng hơn, họ chính là "nạn nhân" của một cuộc chiến tranh tàn khốc do kẻ thù gây ra trên đất nước ta, trên quê hương của họ. Lẽ nào lại có thể vô cảm, nhẫn tâm như thế!
Đương nhiên, số người vô cảm,- dửng dưng, nếu có, cũng chỉ là số ít và đó là điều đáng tiếc. Dòng máu thương người của dân tộc Việt Nam không cho phép như vậy. Và trong thực tế, cả nước đã đến với họ - những người nghèo, tàn tật, bất hạnh - để cùng sẻ chia, đùm bọc họ trong cánh tay yêu thương của mình. Nhiều tổ chức được thành lập - cấp Nhà nước, cấp tỉnh, cấp hội, đoàn thể,... - để cứu trợ; nhiều cơ quan, công ty, nhà máy, thậm chí không hiếm những cá nhân đã trở thành những "Mạnh Thường Quân" của người nghèo, người tàn tật, người bất hạnh; nhiều bà mẹ, người chị,... đã trở thành những "bà Tiên", "bà Phật" của người nghèo ngày nay như trong cổ tích xưa, và nhiều câu chuyện đã trở thành huyền thoại như chàng thanh niên Nguyễn Hữu Ân vừa tự học đại học vừa nuôi hai người mẹ ruột và mẹ nuôi trong bệnh viện, cô sinh viên Nguyễn Thị Oanh tự kiếm sống để vừa học vừa nuôi ba chị em nghèo khiếm thị,...
Những nghĩa cử ấy, những tấm lòng ấy chắc chắn sẽ sưởi ấm, động viên nhiều cho những người nghèo, người bất hạnh vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống. Sự giúp đỡ về vật chất (tiền của, nhà cửa) là rất cần để tạo dựng cuộc sống cho họ. Đó là yếu tố cần thiết ban đầu. Nhưng điều quan trọng hơn là phải truyền cho họ nghị lực, niềm tin và cách sống tự lập trên chính đôi chân và bàn tay của họ. Ai đó đã nói rất đúng: "Cho con cá đã quý, nhưng cho cái cần câu để câu cá còn quý hơn". Phải tạo cho họ một nghề nghiệp ổn định để họ tự sông và chính họ sẽ tự xóa bỏ cái đói nghèo và đẩy lùi sự bất hạnh của mình từng bước. Điều này mang ý nghĩa nhân văn lớn lao khi chính họ sẽ tự định đoạt lấy cuộc đời và hạnh phúc của họ. Trong thực tế đã có nhiều tấm gương người nghèo, người tàn tật, bất hạnh tự đi lên bằng nghị lực, niềm tin, sức mạnh của mình và họ đã trở thành những người hữu ích cho xã hội, được xã hội tôn vinh và yêu quý. Đó cũng là một tiền đề quan trọng giúp cho đất nước xóa bỏ đói nghèo, tiến lên xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như mong muốn của Đảng và nhân dân ta.
Với những ý nghĩa đã phân tích trên đây, trong giai đoạn hiện nay, tình cảm, thái độ và sự quan tâm đôi với cái đói nghèo và những cuộc đời bất hạnh vẫn còn trong xã hội nước ta chính là phẩm chất, lương tâm và thước đo giá trị của mỗi con người chúng ta.
Bàn luận về phẩm chất vui tính, yêu đời?
Câu trả lời của bạn
Một trong những đức tính cần có của chúng ta là vui tính, yêu đời. Có vui tính, yêu đời mới cảm thấy cuộc đời là đẹp và đáng yêu, mới tìm được bao niềm vui và sự lí thú.
Vậy, vui tính là gì? Yêu đời là gì? - Luôn luôn vui vẻ là vui tính. Yêu cuộc sống của bản thân mình, yêu cuộc đời của bản thân mình là yêu đời. Vui tính và yêu đời là biểu hiện của tinh thần lạc quan. Một con người yêu đời, vui tính là con người biết nuôi dưỡng trong tâm hồn mình một ngọn lửa lạc quan, sống say sưa, tìm thấy bao nguồn vui, sự say mê trong học tập, trong lao động sáng tạo, trong vui chơi giải trí.
Cuộc đời là một trường tranh đấu vô cùng sôi động, con người phải vật lộn, phải lao tâm khổ tứ để tồn tại,... Ngoài chuyện cơm ăn áo mặc, những nhu cầu của đời sống vật chất và đời sống tinh thần, mỗi con người phải tìm thấy ý nghĩa tốt đẹp của cuộc sống. Không thể sống yếm thế trong nỗi buồn cô đơn, trong bao sự dằn vặt bi kịch. Mà phải mặt mũi luôn tươi vui. Nụ cười luôn rạng rỡ trên môi. Có lúc ngâm lên một vài câu thơ về trăng thanh gió mát, hát lên một điệu dân ca, một khúc tình ca,... để nâng bổng tâm hồn mình:
“Hồ Tình Tâm giàu sen bạch diệp,
Đất Hương Cần ngọt quýt, thơm cam.
Ai về cầu ngói Thanh Toàn,
Đợi đây về với một đoàn cho vui”...
(Dân ca Huế)
Vui tính, yêu đời giúp ta có thêm sức mạnh vượt qua mọi khó khăn, trắc trở. Vui tính, yêu đời để nâng cao niềm tin và hi vọng hướng về tương lai tươi đẹp và hạnh phúc.
Vui tính để gắn kết và hòa hợp với mọi người. Có lúc để san sẻ chia vui. Có lúc để động viên nhau vượt lên phía trước. Vui tính, lạc quan, yêu đời nhưng phải biết tự kiềm chế, làm chủ bản thân và làm chủ hoàn cảnh, không lạc quan tếu. Mọi sự thái quá trong cuộc sống chẳng hay ho gì, Có lúc phải trả giá quá đắt cho sự đam mê. Vui tính, yêu đời nhưng không bao giờ được vượt qua ngưỡng - cái ngưỡng đó là đạo lí, là đạo đức, luân lí xã hội.
Có vui tính, yêu đời mới có tiếng cười. Tiếng cười là viên thuốc quý để sống lạc quan, để xua đi bao nỗi phiền muộn. Không còn tiếng cười thì đời người bị tàn úa, khô héo. Tiếng cười trong truyện tiếu lâm, truyện Trạng Quỳnh,... Tiếng cười trong thơ ca trào phúng. Qua đó, ta càng thấy rõ, cuộc đời cần tiếng cười, xã hội cần tiếng cười. Và mỗi thành viên trong xã hội, từ em bé đến cụ già đều cần tiếng cười. Tuổi thơ cần vui tính, yêu đời, cần có nụ cười như con chim non cất tiếng hót. Các cụ già cần có nụ cười để “sống khỏe, sống vui, sống có ích”.
Tại sao, hiện nay có nhiều thơ tình (được giao lưu trong các câu lạc bộ thơ, được đăng tải trên báo)? Có nhớ, có thương, có yêu đời, có đa tình thì mới viết nhiều thơ tình như Xuân Diệu trước đây! Như Xuân Quỳnh thuở ấy!
Tóm lại, vì cuộc đời còn có tiếng thở dài và tiếng khóc nên cần có nhiều tiếng cười. Và trong cuộc sống nhiều nhọc nhằn, mỗi con người cần vui tính, yêu đời, sống lạc quan. Có vui tính, yêu đời mới có “bài ca hi vọng”.
Nghị luận vấn đề: Thời gian của người nghèo?
Câu trả lời của bạn
Thời gian cũng là một thứ tài nguyên, với bất kì ai, thời gian đều công bằng và có giới hạn và còn quý hơn vàng bạc.
Người xưa có câu “Du thủ hảo nhân”, những người này thì chẳng những không có tiền mà ngay cả nhân cách cũng rất thấp kém. Vì sao vậy? Bới nếu bạn không biết lo liệu thì chỉ như một đống thịt thối mà thôi.
Ngày nay, cái “hảo nhàn” xưa đã được chuyển hoá thành “hưu nhàn”, trở thành một tiêu chí thời thượng, không những không bị người đời phỉ nhổ mà lại là điều người ta theo đuổi.
Đó đều là chú ý của người giàu!
Nếu mọi người đều không như vậy thì sản phẩm của họ bán cho ai? Họ kiếm tiền của ai? Những người giàu luôn căn cứ vào nhu cầu của mình để làm ra các loại sản phẩm thời thượng và các quan niệm, che đậy mục đích thương mại trần trụi bằng lớp áo ngoài rực rỡ, còn người nghèo lại là người theo đuổi thời thượng. Khi một cái gì đó đang bắt đầu thịnh hành cũng là lúc tiền bắt đầu chảy vào túi nhà giàu.
Thời gian và tiền bạc là hai thứ tài nguyên có thể chuyển hoá cho nhau, cũng có thể đối nghịch nhau. Từ nơi này đến nơi khác muốn tiết kiệm tiền thì chi có đi xe buýt hoặc đi bộ, còn muốn tiết kiệm thời gian thì phải bỏ ra số tiền gấp vài lần tiền đi xe buýt. Một người phung phí thời gian sẽ không thể kiếm tiền lớn được; một người giắt lưng bạc triệu cũng không coi thời gian là đồ bỏ đi, người có càng nhiều tiền thì càng phải hi sinh nhiều thời gian nhàn rỗi hơn, còn muốn nhàn rỗi sẽ mất đi càng nhiều cơ hội kiếm tiền hơn.
Những người hâm mộ các ngôi sao (ca nhạc hay thể thao) thường phái bỏ ra khá nhiều thời gian để hoặc là được bắt tay hay xin được một chữ kí của ngôi sao mà mình hâm mộ, thật là phí phạm biết bao! Hàm lượng vàng trong thời gian của mỗi người khác nhau, ví như lớp giàu có như Bill Gate chẳng hạn mỗi giây phải có hàng ngàn, hàng vạn tấm ngân phiếu chuyển vào tài khoản của ông ta, nên Tổng thống các nước nghèo muốn gặp ông ta một lần e rằng cũng phải hẹn trước mới được.
Chỉ có thời gian của người nghèo là không đáng tiền vì chẳng có một hợp đồng cỡ một triệu USD nào chờ họ kí cả, cũng chẳng có vụ làm ăn nào quan trọng cả, nhanh chậm chẳng hề gì. Người nghèo không cảm thấy thời gian là tiền bạc, tiền và thời gian không trực tiếp tương quan với nhau. Ví dụ như khi bị tắc đường họ chỉ phàn nàn là phải chờ quá lâu, ảnh hưởng tới tâm lí mà thôi.
Chỉ có những giá trị mang lại giá trị mới là vốn quý, mà sự cao thấp của giá trị lại có liên quan tới mức độ thiếu hụt, và với người nghèo, sự thiếu hụt là tiền chứ không là thời gian!
Một người dù kiếm tiền bằng cách gì, dù được nhiều hay ít đều phải qua tích lũy của thời gian. Nếu như bạn có thể bực bội vì phải bỏ ra một hào để mua một cân cải trắng nhưng lại không hề đau lòng vì bỏ phí một ngày chẳng làm gì thì đó chính là lối tư duy điển hình của người nghèo. Bạn có thể đưa ra một số ví dụ để biện bạch cho mình như: “Anh xem, những người giàu vừa chơi vừa làm ăn với nhau, chỉ có người nghèo là bận rộn thôi“.
Nhưng bạn cần nhớ rằng, việc chơi của người giàu cũng là một cách làm việc, là có mục đích của nó, khác hoàn toàn với chuyện bỏ thời gian ra để tán gẫu cho hết ngày. Cái nhàn của người giàu là nhàn ở thân thể, tu thân dưỡng tính để tiếp tục chiến đấu, còn đầu óc họ chẳng phút nào nhàn cả. Còn cái nhàn của người nghèo là nhàn về tư tưởng, trên thực tế tay chân họ đều bận, ví dụ như suốt ngày đi xoa mạt chược chẳng hạn.
Nếu bạn luôn cảm thấy thời gian quá nhiều, như vậy nhất định là có vấn đề rồi!
Nếu bạn luôn là người nhàn rỗi thì việc buôn bán của người giàu có sẽ có Cơ phát triển.
Việc chơi của người giàu cũng là một cách làm việc, là có mục đích của nó, khác hoàn toàn với chuyện bỏ thời gian ra để tán gẫu cho hết ngày.
Suy ngẫm về “vinh” và “nhục” trong cuộc đời?
Câu trả lời của bạn
Trong cuộc sống đã mấy ai thoát khỏi lợi và danh “Lợi, danh là cái nợ đời” (Cổ ngữ). Phải kiếm sống, phải dấn thân, phải đua tranh,... mới có lợi, có danh.
Cũng vì lợi và danh mà ít nhiều người phải trải qua vinh và nhục. Vinh và nhục là hai khái niệm đối lập nhau, gắn liền với số phận của mỗi người trong xã hội trong cuộc sống.
Vinh nghĩa là được xã hội, được cộng đồng đánh giá cao và rất kính trọng. Vinh thường nằm trong trường ngôn ngữ, như: vinh dự, vinh hạnh, vinh hiển, vinh hoa, vinh quang. Có nhiều thành ngữ, tục ngữ mang hàm nghĩa “vinh ” được nói tới, như: vinh hoa phú quý, vinh quy bái tổ, bá vinh hoa, tham mồi phú quý, chết vinh còn hơn sống nhục,...
Trái nghĩa với vinh là nhục... Nhục nghĩa là xấu hổ đến mức khó chịu đựng nổi, vì cảm thấy mình bị khinh bỉ hoặc đáng khinh bỉ, danh dự bị xúc phạm nặng nề. Nhục thường đi liền với nhục nhã, ô nhục, sỉ nhục,...
Làm ăn giỏi giang, gặp thời mà trở nên giàu có, góp phần làm phát triển kinh tế của quê hương đất nước, được xã hội ngợi ca, thế là vinh. Đi học, đi thi mà đỗ đạt cao, giành được giải cao, thế là vinh, làm cho bố mẹ, bạn bè, thầy cô giáo được vinh hạnh, được thơm lây. Làm công tác khoa học có phát minh, sáng chế, ra trận mà lập được chiến công lớn, được tặng thưởng Huân chương cao quý, được phong tặng anh hùng thế là vinh, là vẻ vang.
Vinh dự, vinh hoa, vinh quang... đều do tài năng, đức độ lỗi lạc mà có. Vượt Vũ Môn, chiếm vàng, được vinh quy bái tổ,... là do tài học, do thông minh mà vẻ vang. Các chiến công như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên,... gắn liền với tên tuổi các vị anh hùng dân tộc như Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung, Võ Nguyên Giáp,... được sử sách khắc ghi, được dân tộc lưu truyền, mãi mãi là niềm vinh quang chói lọi bất hủ.
Hiểu thế nào là vinh còn phải suy ngẫm thế nào là nhục. Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), nhà thơ lỗi lạc, vị đại quan của triều Nguyễn, có tài kinh bang tế thế, có lúc đỗ Thủ khoa, có lúc làm Tổng đốc, làm Đại tướng, làm Dinh điền sứ di dân khai hoang lập ấp,... công danh lừng lẫy một thời. Nhưng có lúc lại bị giáng cấp làm lính thứ. Công danh ba chìm bảy nổi, nếm trải đủ mùi mặn ngọt, đắng cay. Với bản lĩnh kẻ sĩ quân tử, ông đã nói: "Lúc làm Đại tướng, ta không lấy thế làm vinh, thì khi làm lính thú, ta cũng không lấy thế làm nhục”. Ông có vần thơ được nhiều người truyền tụng:
"Ra trường danh lợi, vinh liền nhục,
Vào cuộc trần ai, khóc trước cười".
Nghèo đói thì trở thành khổ nhục. Vì đói rét, vì mang công mắc nợ: "Van nợ có khi tràn nước mắt! Kiếm ăn từng bữa mướt mồ hôi!”. Học dốt, thi hỏng là nhục. Vi phạm trường quy, mang tài liệu, điện thoại di động vào phòng thi,... rồi bị đuổi, bị đình chỉ thi là nhục, làm ô danh mẹ cha, thầy cô giáo.
Nhục đi liền với vinh nên mới có câu tục ngữ: "Lên voi, xuống chó”. Sống là phải biết giữ mình, luôn luôn tự rèn luyện. Làm quan, làm cán bộ, làm ông nọ bà kia mà trở thành sâu mọt hại nước hại dân, sống buông thả tha hoá thì có vinh chăng. Làm Chủ tịch tỉnh là vinh, nhưng quan hệ với gái điếm, ăn chơi trác táng, bị vạch mặt, bị cách chức, bị dư luận phỉ nhổ là nhục, nhục nhã ê chề! Đảng bị tai tiếng, gia đình vợ con bị ô nhục! Làm cán bộ, leo lên đến chức Phó bí thư tỉnh uỷ mà xài và khoe bằng rởm Tiến sĩ (học trong sáu tháng), bị báo chí vạch mặt là nhục, là kẻ vô liêm sỉ, đáng khinh. Có vị Chủ tịch, có vị Bí thư bị tố giác là được tặng "phong bì”, được tặng quà vài trăm triệu đồng, hàng tỉ đồng,... thế là nhem nhuốc, ô nhục. Buồn cười là những kẻ ấy, những tên ấy, vô cùng nhem nhuốc, tham ô nhưng lại lên lớp mọi người về việc học tập đạo đức Hồ Chí Minh. Kẻ đạo đức giả đáng khinh bỉ, ghê tởm là vậy!
Vinh và nhục luôn luôn biến đổi, biến hoá. Chỉ có lịch sử, dân tộc và thời gian là xác định rõ vinh, nhục. Dưới thời Pháp thuộc, những kẻ làm tay sai cho giặc, được gắn "mề đay”, được gắn "Bắc đẩu bội tinh” thì coi đó là vinh, vinh hiển, ngựa xe võng lọng nghênh ngang! Sau Cách mạng tháng Tám, những kẻ đó bị quốc dân đồng bào coi khinh.
Cái nhục lớn nhất của một dân tộc là phải làm ngựa trâu cho ngoại bang. Dân tộc Việt Nam từng trải qua một nghìn năm Bắc thuộc, từng bị thực dân Pháp thống trị 80 năm trời, nên mới thấm thía cái nhục mất nước, cái giá "Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Sống ở đời, ai đã thoát khỏi vinh, nhục? Phải rèn trí, đức tài, phải tu thân để được sống hạnh phúc trong vinh hoa, vinh quang, để khỏi sa vào vòng ô nhục.
Câu "Chết vinh còn hơn sống nhục” là bài học vô cùng to lớn, sâu sắc. Bàn về vinh và nhục, tôi lại nhớ đến hai câu thơ của cụ Thượng Trứ:
"Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.
Danh mà tiên sinh nói đến là danh thơm, là tài danh, là vinh danh. Chỉ có bển bỉ học tập, rèn luyện tài trí, thế hệ trẻ mới có danh, tài danh, mới trở thành người có ích cho gia đình và đất nước.
Suy nghĩ về tham nhũng?
Câu trả lời của bạn
Tham nhũng thì thời nào chẳng có, ở nơi nào, nước nào chẳng có. Vương Ông và Vương Quan muốn thoát cảnh tù đày phải đút lót bọn quan lại "Có ba trăm lạng, việc này mới xong". Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến có câu thơ nói về chuyện "công lí đồng tiền " thật nhẹ nhàng mà sâu sắc:
"Có tiền việc ấy mà xong nhỉ,
Đời trước làm quan cũng thế a"
Có người nói ở nước ta lâu nay, tham nhũng đã trở thành quốc nạn!
Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã giải nghĩa từ tham nhũng, như sau: "Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của".
Cùng trường từ nghĩa với tham nhũng có "tham quan ô lại", "tham ô". Tham ô nghĩa là lợi dụng quyền hạn hoặc chức trách để ăn cắp của công.
Cán bộ, quan chức sa đọa, biến chất trở thành sâu mọt, đục khoét tài sản quốc gia, tiền bạc của dân. Chúng lợi dụng chức quyền, gây ra bao phiền hà cho dân, tìm đủ mọi cách để móc túi của dân. Mọi thủ tục hành chính tuy đã được “cải cách " nhưng vẫn còn nhiều rắc rối, phiền hà cho dân!
Chuyện nhà đất, chuyện dự án công trình, xây đường sá, xây cầu cống, xây bệnh viện, trường học,... là những sự vụ mà bọn tham quan ô lại dùng đủ mọi mưu ma chước quỷ để bòn rút, để đục khoét! Vụ PMU 18 vỡ lở, từng bầy tham quan ô lại bị lôi ra vành móng ngựa, lúc nhúc kéo nhau vào trại giam, đã hai, ba năm nay vẫn phải "xử đi xử lại "! Gần đây lại một vụ PMU nữa xảy ra, đó là PMU Đông - Tây. Huỳnh Ngọc Sĩ, nguyên Giám đốc BQL dự án đại lộ Đông Tây đã nhận một cái phong bao "khiêm tốn " 262 ngàn đô-la. Con chuột cống này có nằm chơi trong trại giam suốt đời cũng không xài hết số tiền đó. Báo "Người lao động”, số 5137 ra ngày 13-8-2010, cho biết bị cáo Nguyễn Văn Khỏe, nguyên Chủ tịch huyện Hóc Môn đã bị đại diện VKSND TP. Hồ Chí Minh đề nghị mức án 26-29 năm tù cho ba tội danh: lợi dụng chức quyền, nhận hối lộ, trục lợi nhiều tỉ đồng!
Nhưng có lẽ còn nhiều chuột cống, chuột xù còn nấp trong lỗ hang, còn ẩn dưới chân "thành, xà" chắc chắn chưa lộ mặt, chưa bị pháp luật đưa lên giàn lửa thiêu! Lưới trời lồng lộng đâu dễ thoát!
Tại sao có nhiều vụ tham ô như vậy? Ngoài chuyện "tế nhị" đâu dễ nói ra, còn có nguyên nhân là lòng tham vô đáy, bệnh hám vàng, khát đô-la của bọn quan chức biến chất! Nước ta chưa giàu, dân ta còn khó khăn, trẻ em vùng sâu vùng xa còn thiếu trường, người bệnh còn thiếu thuốc, thiếu bệnh viện,... Nhưng bọn quan lại tham ô sống cực kì xa hoa: nhà lầu, ô tô, có nhiều triệu đô-la gửi Ngân hàng Thuỵ Sĩ, cả gia đình vợ con, bồ đoàn đi du lịch ở nước ngoài như đi chợ. Lũ tham quan ô lại là rác rưởi cần phải quét sạch, cần bị trừng trị để lấy lại lòng dân.
Hãy bàn luận ý kiến sau đây: “Học trò phải kính yêu và biết ơn thầy, cô giáo"?
Câu trả lời của bạn
Ca dao có câu:
“Cơm cha áo mẹ, chữ thầy
Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao”.
Câu ca dao nhắc nhở mỗi chúng ta phải ghi nhớ tình sâu nghĩa nặng đối với mẹ cha, đối với thầy giáo - những người đã sinh thành, nuôi dưỡng và dạy bảo chúng ta nên người, trở thành người có ích cho xã hội. Có thể nói, đây là câu ca dao đẹp nhất, hay nhất nói về đạo lí làm người.
Trong bài này, chúng ta chỉ bàn về tình cảm của người học trò đối với thầy, cô giáo: “Học trò phải kính yêu và biết ơn thầy, cô giáo".
Con đường tuổi thơ là con đường đi học. Trường học là cánh cửa đón tuổi thơ chuẩn bị bước vào đời. Thầy, cô giáo sẽ thay mặt các vị phụ huynh, các gia đình và xã hội để dạy dỗ mọi thanh, thiếu nhi lớn khôn, trưởng thành theo thời gian.
Trong xã hội phong kiến, các thư sinh phải “thập niên đăng hỏa”, được các thầy đồ giáo huấn cho chữ nghĩa, kinh sách thánh hiền. Không có các thầy đồ thì không thể có các ông Tú, ông Cử, ông Nghè - tầng lớp sĩ phu ngày xưa. Ông thầy là một trong ba giềng mối của xã hội, được quy định rõ trong "tam cương".
Ngày nay, đất nước đổi mới và phát triển. Giáo dục trở thành quốc sách hàng đầu. Giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học và trung học, giáo dục đại học và cao đẳng được mở rộng và hiện đại. Trường học mở rộng cửa đón thế hệ trẻ bước vào con đường học vấn, con đường tươi sáng tương lai. Sứ mệnh của thầy, cô giáo thật nặng nề, vẻ vang: dạy chữ, dạy toán, dạy ngữ văn, dạy khoa học, dạy luân lí đạo đức, dạy ngoại ngữ,... cho thế hệ trẻ, đưa con, em vào các trường đại học, đào tạo thành người lao động mới, nhà khoa học mới, tiếp nối cha, ông, gánh vác sự nghiệp xây dựng nước nhà ngày càng giàu đẹp.
Công lao "trồng người” của các thầy, cô giáo thật vô cùng to lớn. Nhờ thầy, cô giáo dạy dỗ mà tuổi trẻ trưởng thành. Cho nên học trò phái trọng thầy, kính yêu thầy. Nghĩa là phải lễ phép, biết vâng lời, chăm chỉ siêng năng học hành, làm theo lời thầy dạy bảo. Người gieo trồng chỉ mong cây ra hoa kết trái. Học trò ngày một giỏi giang thì thầy, cô giáo mới hạnh phúc, tự hào. Biết trọng thầy, kính yêu thầy là đạo lí làm người của học trò xưa nay.
Học trò phải biết ơn thầy, cô giáo đã dạy dỗ mình. Đó là tình nghĩa thầy - trò. Ông bà, cha mẹ luôn luôn nhắc nhở con cháu: "Không thày đố mày làm nên", "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây", "Uống nước nhớ”.
Nhờ công ơn dạy dỗ của thầy mà trò nên người. Có không ít người, khi đã trở nên tài giỏi, có địa vị cao sang vẫn không bao giờ quên người thầy từng dạy dỗ mình thời trai trẻ. Sử sách đã ghi lại nhiều câu chuyện cảm động về nghĩa thầy - trò. A-lếch-xan-đơ Đại đế (Hi Lạp) cách chúng ta gần 2500 năm, trên con đường trường chinh xa xôi vạn dặm vẫn gửi về biếu A-rít-xtốt, người thầy kính mến, nhà bác học vĩ đại một con thú lạ, một mẩu thảo mộc để thầy nghiên cứu. Các-nô là Tổng thống Pháp, lúc về thăm quê đã ghé vào trường cũ để thăm người thầy giáo già, và nói: "Thưa thầy, con là Các-nô...". Lê Hiến Tông là thế tử của Lê Thánh Tông, thuở nhỏ là học trò của Tiến sĩ Nguyễn Bảo. Lê Hiến Tông lên làm vua đã về tận làng Phương Lai, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình để thăm thầy và mừng thọ thầy. Còn có biết bao câu chuyện cảm động khác.
Hiện nay ở nước ta, ngày 20 tháng 11 hàng năm là ngày Nhà giáo Việt Nam được tổ chức rộng khắp và vô cùng long trọng. Truyền thống "Tôn sư trọng đạo" và tình cảm "Uống nước nhớ nguồn" thấm sâu vào lòng dân tộc. Báo chí đã nêu lên bao câu chuyện cảm động về nghĩa thầy - trò.
Trên đường đi tới ngày mai tươi đẹp, mỗi chúng ta ngày một trưởng thành, tài năng ngày một nở rộ. Những hoa thơm trái ngọt, những thành quả lao động sáng tạo do trí tuệ và công sức mình làm nên, mỗi chúng ta mãi mãi ghi nhớ công ơn to lớn của mẹ cha, của thầy cô giáo đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy bảo chúng ta. Trọng thầy, kính yêu thầy, biết ơn thầy là bài học làm người để mỗi chúng ta khắc cốt ghi tâm.
Một số thanh niên hiện nay vẫn cho rằng: “Chỉ có tiền tài và địa vị thì mới có hạnh phúc”. Hãy dùng lập luận bác bỏ để phản bác tư tưởng đó?
Câu trả lời của bạn
Hạnh phúc là -Vấn đề luôn được mọi người quan tâm, đặc biệt là thanh niên khi họ bước vào ngưỡng cửa của cuộc sống. Trong nhiều quan niệm về hạnh phúc của họ, có một quan niệm rất cần được trao đổi, làm rõ: “Chỉ có tiền tài và địa vị thì mới có hạnh phúc.”
Câu nói mới nghe qua, có vẻ như đúng, đã khiến không ít thanh niên hiện nay dễ đồng tình chấp nhận. “Có tiền mua tiên cũng được”, đó không phải là hạnh phúc sao? Chưa hết, “mạnh vì gạo, bạo vì tiền”, tiền tài đem lại sức mạnh, quyền lực cho con người - cũng là một thứ “hạnh phúc” chứ sao? Còn địa vị thì khỏi phải nói, nó tạo ra nhiều thứ “hạnh phúc” cho con người: được “ăn trên ngồi trốc”, xe đưa xe đón, lại có quyền thế, bổng lộc, nhiều người quỵ lụy,... Những “hạnh phúc” đó là có thật và nhiều người mơ ước được như thế. Nhưng nghĩ lại mà xem, đó có phải là hạnh phúc chân chính, đích thực và bền vững của con người không? Không phải. Bởi vì, như Thác-cơ-rây, nhà văn Anh từng nói: “Tiền bạc không phải là vạn năng. Nó có thể mua được nhà cửa, nhưng không mua được gia đình. Nó có thể mua được cánh hẩu, nhưng không mua được tình bạn,...”. Ở đây, gia đình và tình bạn mới là hạnh phúc chân chính thì tiền bạc không thể mua được. Cũng vậy, những thứ mà địa vị tạo ra trên đây đâu phải là hạnh phúc đích thực của con người. Thành ra, xét cho cùng, tiền tài và địa vị chỉ có thể xem như là một phương tiện, một điều kiện trong rất nhiều phương tiện, điều kiện để con người có hạnh phúc. (Ấy là chưa nói đến, có khi chính tiền tài và địa vị lại làm cho con người hư hỏng, tha hoá, bất hạnh như đã từng xảy ra trong cuộc sống). Bản thân tiền tài và địa vị không tạo ra hạnh phúc chân chính cho con người. Câu nói trên không chỉ sai lầm ở chỗ đã tuyệt đối hoá tiền tài và địa vị trong việc đem lại hạnh phúc cho con người (“Chỉ có...”) mà còn thể hiện một quan niệm cũ kĩ và lỗi thời về hạnh phúc: một thứ hạnh phúc tầm thường nhờ tiền tài và địa vị mà có được. Còn hạnh phúc chân chính, đích thực và bền vững của con người thì phải do các yếu tố khác tạo ra. Các Mác nói: "Hạnh phúc là đấu tranh". Domat cho rằng: "Có ba điều để tạo nên hạnh phúc: thân thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn và một trái tim trong sạch". Nhiều bạn trẻ ngày nay cho răng: Hạnh phúc là được chia sẻ, thương yêu, được cống hiến và hưởng thụ một cách hợp lí. Ai biết tạo ra sự hài hòa giữa hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc tập thể, người đó mới có hạnh phúc thực sự.
Cổ nhân nói: “Làm người khó" em hãy bình luận về câu nói trên?
Câu trả lời của bạn
Ở đời, mỗi người phải gánh một việc. Việc lớn hay nhỏ là tùy theo học thuật và tài đức của từng người: sự nghiệp tuy có khác nhau, song cũng là muốn ích lợi chung cho xã hội.,Nếu ai cứ riêng mình, không biết đến kẻ khác, như thế gọi là kí sinh .
Người ta là giống đa tình, đã có tình thời có dục, muốn điều nọ lại muốn điều kia, muốn ngon ngọt, muốn yên vui, muốn công danh, muốn tiền của; bây giờ mới sinh ra công này việc nọ; tình càng nhiều, dục càng lớn, việc càng nhiều. Cho nên vô tình vô dục, không gọi là người ở đời được.
Than ôi! Cảnh đời là một cái trò rối, người đời là những con người rất rối. Nếu ở đời mà không sẵn có lòng cao thượng, mỗi khi cảnh ngộ, sao cho khỏi động tâm? Lúc giàu sang sinh ra kiêu ngạo; lúc nghèo hèn sinh ra xiểm du; lúc thất chí thì khóc, lúc đắc chí thì cười, có khác gì con người gỗ cứ để người ta giật mà nhảy mà múa. Phải biết rằng khi tình dục người ta đã no đã chán, nghĩ lại mùi đời cũng không có ý vị gì mật thiết cho lắm.
Thử để mình ra ngoài thế giới, ngoảnh lại mà trông, nào hình hình, sắc sắc, nào lợi lợi, danh danh, người ta đang om sòm trên chốn diễn trường, mà thực đã nên người giác ngộ. Làm người có tình dục cũng phải có nghĩa lí. Tình dục bởi khí huyết mà ra; vậy nghĩa lí để phòng tình dục thì nghĩa lí thắng, tình dục phải lui; nếu cứ buông dông, thả dài, mắt trông động lòng, tai nghe động tưởng, cả đời chỉ để cho cái tình dục nó sai khiến mình, nó trói buộc mình, thế gọi là tính lụy.
Mỗi người phải gánh một việc ở đời, có học vấn cũng phải có kinh lịch; học vấn cho biết lẽ phải, kinh lịch để lập thói quen. Những kẻ có học vấn mà không có kinh lịch, ngồi nói thì thật là khôn, đến lúc ra tay mà làm lại hay nát việc. Như thế gọi là gàn. Những tay triết học non non, hầu hết mắc phải bệnh ấy.
Gan nên lớn mà lòng phải tế nhị. Nếu táo gan mà hay suất lược, chỉ là người tráng sĩ chứ chưa được là vĩ nhân.
Tình nên nhiệt mà tính phải hòa bình. Nếu cứ nóng nảy mà không biết nhẫn nhục, thành sự thì ít mà bại sự thì nhiều.
Tư tưởng nêu cao mà nước đi phải thấp; ý chí nhỏ hẹp thì ra người tầm thường, mà việc làm không cứ tuần thường thì ra người vu khoát. Phàm vật đã đến cực điểm thì hay giống nhau: cho nên người cực hiền giống như người ngu; người cực gian giống như thật, cực nhã giống như tục; còn những kẻ chí nhỏ tài sơ mới hay khoe tài khoe trí.
Bàn luận về tinh thần tự lực, tự cường?
Câu trả lời của bạn
Cuộc đời là một trường tranh đấu. Tranh đấu để có nhà ở, có áo mặc, cơm ăn. Tranh đấu để làm người! Tranh đấu để ‘Tồn tại hay không tồn tại". Trên tinh thần ấy, ý nghĩa ấy, chúng ta hãy bàn về tinh thần tự lực, tự cường.
Vậy, nghĩa của tự lực, tự cường là gì?
Tự lực nghĩa là tự sức mình, với sức lực của bản thân mình, không nhờ cậy ai, khi làm mọi công việc.
Tự cường nghĩa là tự làm cho mình ngày một mạnh lên, không chịu thua kém người.
Tự lực, tự cường là những phẩm chất tốt đẹp của mỗi con người, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Tại sao, trong cuộc sống, phải tự lực, tự cường? Muốn ấm no, hạnh phúc, muốn sống thảnh thơi, yên vui, ai cũng phải tự lo liệu xây dựng lấy.
Không khoanh tay ngồi chờ, không thể ngồi, nằm “há miệng chờ sung”, hoặc cúi đầu, ngửa tay xin thiên hạ bố thí cho! Chỉ có loại người ngu đần dốt nát, phường giá áo túi cơm mới sống và hành xử như thế.
Muốn được sống trong độc lập, tự do, hoà bình, muốn xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, dân tộc ta, nhân dân ta phải đổ bao xương máu, đánh đuổi giặc, giành lại độc lập tự do phải điện khí hoá công nghiệp hoá, ra sức sản xuất làm được nhiều lúa gạo, nhiều hàng hoá để chi tiêu, để xuất khẩu. Có tự lực, tự cường thì dân mới giàu, nước mới mạnh, mới có thể “sánh vai các cường quốc năm châu”, Chỉ có nhân dân ta, tuổi trẻ của chúng ta mới giữ vững được an ninh, lãnh thổ, biên giới, hải đảo, chủ quyền của đất nước ta, dân tộc ta. Không thể trông chờ ngoại bang, cầu xin ngoại bang được!
Có tự lực, tự cường mới có thể phát huy và nâng cao lòng tự hào dân tộc, mới tìm thấy ý nghĩa tốt đẹp, cao cả của cuộc sống.
Mỗi một cá nhân, mỗi một thành viên của gia đinh phải phát huy cao độ tinh thần tự lực, tự cường. Cả dân tộc ta, 85 triệu con người Việt Nam chúng ta phải nâng cao ý chí tự lực, tự cường. Có thế, mới tạo nên sức mạnh để vượt qua mọi thử thách, khó khăn, mới chiến thắng được thù trong giặc ngoài, mới làm cho đất nước ngày càng giàu mạnh. Không thể sống trong nô lệ, không thể sống trong sự “bảo hộ”, “khai hoá” của thực dân, đế quốc! Không thể nhờ ngoại bang “bao cấp” tư tưởng, đường lối! Trong lúc ruộng đồng thì bỏ hoang mà cứ vác rá đi “ăn mày” viện trợ, đi xin bo-bo về thì có gì tốt đẹp? Có làm thân trâu ngựa suốt 80 năm trời cho thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược, có nếm “quả đắng” thời bao cấp, nhân dân ta mới thấy ý nghĩa sâu sắc, tốt đẹp của bài học về tinh thần tự lực, về ý chí tự cường thời đổi mới và phát triển của đất nước hiện nay.
Muốn tốt đẹp hơn nữa, muốn giàu có, hạnh phúc hơn nữa, muốn tiến bộ, văn minh hơn nữa thì phải nêu cao tinh thần tự lực, tự cường. Mọi thành viên của gia đình, mọi thế hệ của dân tộc phải biến tinh thần tự lực, tự cường thành nguồn sống và sức sống mãnh liệt, bất diệt.
Nói đến bài học tự lực, tự cường, chúng ta cùng nhau nhắc lại “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc, Nam cũng khúc
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương ”...
Nói đến tư tưởng, tinh thần, ý chí tự lực, tự cường, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại “Di chúc” của Bác Hồ kính yêu:
“Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mĩ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay? ”.
Tự lực và tự cường là nguồn sống, nguồn hạnh phúc. Tuổi trẻ chúng ta cần học tập tốt, lao động tốt, luôn luôn nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, tự tin và lạc quan hướng về tương lai xán lạn. Tự lực, tự cường để xây dựng bản lĩnh sống đẹp, bản lĩnh văn hoá đẹp
Bàn về đức tính hoà nhã, cách sống hoà nhã?
Câu trả lời của bạn
Sống nhã là rất khó; cực khó thì đúng hơn là rất khó. Từ xa xưa, các bậc hiền triết đều mong tới một xã hội sống nhã. Ai ai cũng sống nhã thì xã hội thanh bình, nhẹ nhàng, cuộc sống trở nên dễ chịu và sảng khoái. Sống trái với nhã là ồn ào, bát nháo, là xô bồ như một cuộc họp chợ. Người sống thiếu nhã thì ồn ào, gầm gừ, nhìn đâu cũng thấy đối thủ, không đối thủ thì là đối tác. Thiếu nhã thì mọi gam màu đối chọi nhau gay gắt, ăn sấm nói bào. Thiếu nhã, xã hội sẽ là xã hội của Thủy Hử, bặm trợn, cương cường, chỉ chực đấu đầu, khoa tay. Anh hùng xuất hiện ở chỗ thiếu nhã, nhưng mĩ nhân thì chỉ có mặt ở nơi có nhã. Hồng Lâu Mộng là nhã, ăn nói văn hoa, nhẹ nhàng, cử chỉ ồn hoà, sảng khoái, thiên về tinh thần hòa giải hơn là tranh đấu, thiên về đối thoại hơn là đối đầu. Trong cơ quan, anh nào sống nhã thì trở thành cái vịnh trú bão cho mọi người.
Họ sẽ tìm tới anh để ẩn nấp khi ngửi thấy mùi giông bão của những kẻ thiếu nhã, họ tìm tới anh để dưỡng thương sau khi va chạm với những anh sông bão giông. Cái anh có nhã nhìn cuộc đời nhẹ nhõm, xem mọi sự là vui vẻ, thấy có rất nhiều con đường chứ không thể chỉ là một con đường duy nhất. Anh thiếu nhà thì chỉ thấy có mỗi một con đường và không có thắng hoặc bại, đến đích hoặc bỏ cuộc. Mà cuộc đời thì đâu cứ nhất thiết phải tự mình đẩy mình vào thế chân tường. Có những thứ ở thế chân tường thì hay, nhưng phần lớn thì không hay bởi nó khiến cho mọi sự căng thẳng. Đến đích có thể bằng nhảy, bằng bay cùng với nụ cười. Nhã thì bền, dẻo dai mà chặt chẽ, thiếu nhã thì mệt mỏi, hay vỡ. Trong công việc mà nhã thì được việc hơn là không nhã. Trong sinh hoạt cá nhân, như ăn uống chẳng hạn, mà nhã thì nếu không được yêu cũng không bị chú ý. Sinh hoạt cá nhân mà thiếu nhã thì chỉ tổ gây chú ý. Gây sự chú ý thì đôi lúc cũng tốt, nhưng nhiều khi cũng chả hay. Con người muốn làm được nhiều việc khi cần phải tránh bị chú ý. Một người nhã thì bán hàng cũng suôn sẻ hơn người thiếu nhã. Anh thiếu nhà, có bán được hàng cũng dứt khoát phải sứt mẻ cái gì đó, không mình sứt mẻ thì người mua sứt mẻ. về mặt thái độ, tính trên sân cỏ, nơi mà mọi tính cách bộc lộ ghê gớm nhất, nam tính nhạt, thì những cầu thủ giỏi, những siêu sao bao giờ cũng là người nhã. Họ sẽ không mấy khi gây gổ, cãi cọ với trọng tài, với đối phương, mà mỗi khi phạm lỗi hoặc bị phạm lỗi họ rất nhã. Họ chỉ tập trung vào quả bóng hoặc ghi bàn chứ không căng cứng với những cái ngoài bóng. Nhã thì thuộc hệ bên trong, sâu đắm, hài hoà, là kẻ đi chinh phục chứ không bị chinh phục. Nhã bao giờ cũng là nơi hội tụ, không phải nơi phát tán, càng không phải nơi gây ra những xáo trộn tệ hại, lấy nước bằng một nụ cười khó hơn lấy nước bằng thanh gươm vì thế mà cũng sang trọng hơn, cao cả hơn.
Sống nhã để tới thì khó, nhưng không đạt tới thì xem ra sống càng ngày càng khó hơn.
Bàn luận về hám danh và hám lợi?
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Công Trứ (1778-1858), một ông quan to của triều Nguyễn, nhà thơ kiệt xuất của đất nước ta trong thế kỉ XIX từng nói về vị thế của kẻ sĩ, của đấng nam nhi giữa cõi đời là “Phải có danh gì với núi sóng”; nếu “Không công danh thời nát với cỏ cây“.
Chỉ có phường giá áo túi cơm, còn hầu như ai cũng muốn lập thân, cũng muốn làm nên công danh sự nghiệp. Tuy vậy, động lực của mỗi người một khác. Có người hiểu danh, nhưng có kẻ lại hám danh, háo danh.
Kính yêu và biết ơn cha mẹ, hết lòng săn sóc cha mẹ là hiếu thảo. Siêng năng, chăm chỉ học hành là hiếu học. Hiếu thảo, hiếu học đều mang hàm nghĩa đẹp, tốt.
Trái lại, hiếu danh (có tư tưởng ham danh vọng, tiếng tăm), hiếu chiến (thích gây chiến, đánh nhau), hiếu sắc (mê thích gái đẹp), hiếu sát (thích chém giết), hiếu thắng (thích hơn người), hiếu sự (thích bày chuyện phiền phức),... - đều mang nghĩa xấu.
Còn “hám” nghĩa là gì? - Hám là ham, muốn đến mức không còn biết phân biệt đáng với không đáng, nên với không nên, gần như mang tính bản năng; như hám của, hám danh, cá đói tham mồi,...
Chữ “háo” gần nghĩa với chữ “hám”. Hám nghĩa là rất ham, rất thích đến mức hầu như không còn nghĩa gì khác, thật đáng chê trách; như háo danh, háo sắc, háo của, háo chuyện,... Vì “khát” mà “háo”
Trong cuộc sống, ta thường bắt gặp nhan nhản đủ mọi loại người hiếu danh và hám danh. Những việc làm “ồn ào” của họ gây ra nhiều khó chịu cho nhiều người. Danh thường gắn liền với lợi; hám danh xét cho cùng là hám lợi. Có danh, có chức quyền nên mới có nhiều lợi lộc, bạc vàng. Những kẻ hiếu danh, hám danh, về tài thì hạn chế, về đức thì lèm nhèm, méo mó; còn lòng tham thì vô độ.
Kẻ hiếu danh và hám danh không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào như xài bằng giả, sử dụng bằng giả, chạy khen thưởng, chạy chức, ra sức lũng đoạn đục khoét tiền của nhà nước, móc túi của dân. Vì hám danh, háo danh, hễ thấy lợi, thấy vàng, thấy đô-la thì lao vào như con bạc khát nước, con thiêu thân lao vào ánh đèn. Chẳng có tài cán gì, đức độ gì những kẻ hám danh, hám lợi dùng đủ mọi trò ma quái để đánh lừa đồng loại. Bản chất, bản tính “Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê” nhưng chúng đóng kịch rất giỏi về sự trong sạch, về cần kiệm liêm chính,... để lừa bịp đồng loại.
Một Phó bí thư tỉnh uỷ nọ lấy của công mấy nghìn đô-la để mua bằng giả; bằng “Tiến sĩ” ngoại rởm bỏ túi chi trong vòng sáu tháng, thật, “nhanh hơn tên lửa”. Một Trưởng ban tuyên giáo tỉnh uỷ kia tạo dựng mọi giấy tờ giả, biên bản giả để kiếm cái Huân chương lao động hòng đeo lên ngực cho oai! Một Chủ tịch huyện sao “ăn đất khoẻ” rứa! Bộ mặt kẻ hám lợi bị vạch mặt, tay bị còng, bị đẩy vào nhà đá mà ngồi “bóc lịch” những năm dài! Và còn bao quan chức hám danh, hám lợi, làm xằng làm bậy mà chưa bị vạch mặt!
“Trời mưa mau tối, nói dối mau cùng”, “giấu đầu hở đuôi", “một lời nói dối sám hối chín ngày”, “tham thì chết”,... là những câu tục ngữ nói lên cái hậu quả bi thảm của thói nói dối bịp bợm của kẻ hám danh, hám lợi.
Chạy chức, chạy quyền vì hám danh, hám lợi. Ngày xưa, bọn lí dịch quan lại cố chạy vạy thầy thợ, cố lo lót quan trên để được cái Cửa phẩm, cái mề-đay, thế là vênh vang mày mặt! Bọn cán bộ biến chất ngày nay, hoặc chạy chức, chạy bằng giả, chạy khen thưởng, để tiến thân mà nghễu nghện với đời, mà vinh thân phù gia. Lũ ấy đều đáng khinh bỉ.
Thế gian rất công bằng, sáng suốt. Người có tài đức lập nên công danh sẽ được nhân dân ngưỡng mộ, tôn vinh. Ngô Bảo Châu, sinh năm 1972, năm 2010, tròn 38 tuổi đã nhận giải thưởng Fields - được xem là giải “Nobel Toán học” Anh đã được nhân dân ta và báo chí ngợi ca, Đảng và Nhà nước trọng vọng. Anh đã làm rạng rỡ đất nước và dân tộc.
Phải tu thân, rèn trí, luyện đức để lập nên công danh, sự nghiệp. Hám danh, hám lợi, tha hoá về lối sống, về nhân cách sẽ bị đồng loại khinh bỉ. Hai chữ “xuất - xử” là phương châm ứng xử của ông cha, của những bậc hiền tài. Gặp thời thì đem tài năng ra giúp vua, giúp nước, lập công danh. Không gặp thời thì lui về mái nhà gianh, với suối rừng, làm bạn với trăng thanh, gió mát. Xưa, Nguyễn Trãi đã lui về Côn Sơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân. Đâu có chuyện chữa năm sinh, để mua chức, bán quyền, không chịu về hưu! Người có tài đức mới biết lẽ “xuất - xử”. Còn bọn hám danh, hám lợi sao mà biết được! Nhân cách như lợn sề, tâm địa như sói, cầy thì làm sao mà biết hổ thẹn?
Xã hội, đất nước ngày một đổi mới. Người người ra sức làm ăn, kinh doanh để làm giàu, góp phần làm cho đất nước phú cường, nhân dân được yên vui hạnh phúc. Trong hoàn cảnh ấy, trong xu thế đi lên của lịch sử, bàn luận về chuyện hám danh, hám lợi để rút ra bài học làm người, để mỗi chúng ta phấn đấu, tu dưỡng mà sống tốt đẹp hơn thật là lí thú.
Bàn luận về tâm lí thích “hoành tráng”?
Câu trả lời của bạn
Việt Nam mới vừa thoát ra khỏi nhóm các quốc gia có thu nhập thấp, trên bàn họp của các đại biểu Quốc hội lần này lập tức có ngay các dự án rất “hoành tráng”. Điển hình là dự án xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam dài 1.570 ki-lô-mét với kinh phí ước tính khoảng 56 tỉ đô la Mỹ.
Trên thế giới hiện nay chỉ mới có khoảng trên 10 nước có đường sắt cao tốc. Lí do không phải tại các nước khác không có tiền mà vì hiệu quả kinh tế và sự thuận tiện trong đi lại đối với người dân các nước này chưa cần thiết đến mức khiến họ phải mở hầu bao! Trong khi đó, nước ta vẫn còn khá nhiều cầu khỉ, cầu ván, có nơi người dân và trẻ em đi học khi qua sông đều phải “đu dây”.
Thực trạng đất nước như thế, chúng ta không lo làm cầu, làm đường cho dân mà lại tính chuyện đi vay nợ để làm đường sắt cao tốc thì quá xa rời thực tế! Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, để khoảng 10-15 năm nữa, khi mức sống của hầu hết người dân tốt hơn, hãy bàn đến chuyện xây đường sắt cao tốc cũng chưa muộn! Còn hiện nay, cần tập trung hiện đại hoá hệ thống đường sắt hiện hữu thì tốt hơn.
Cần nói thêm là tổng chiều dài đường sắt cao tốc trên toàn thế giới hiện nay chỉ có khoảng 10.000 ki-lô-mét, trong đó Nhật Bản đứng đầu với 2.590 ki-lô-mét, Mỹ đứng hàng thứ 7 với 440 ki-lô-mét (trên cơ sở cải tạo lại những đường sắt cũ). Nếu ý định xây dựng 1.570 ki-lô-mét đường sắt cao tốc của Việt Nam được thực hiện thành công (?), Việt Nam sẽ trở thành “cường quốc" thứ ba thế giới trong lĩnh vực này, chỉ đứng sau Nhật và Pháp (sở hữu hơn 1.800 ki-lô-mét đường sắt cao tốc). Thật là “hoành tráng"
Việc mở rộng Thủ đô Hà Nội cũng là một biểu hiện của tâm lí thích to, cái gì cũng nhất". Với diện tích khoảng 3.330 ki-lô-mét vuông, dân số khoảng 6,45 triệu người, Hà Nội là thành phố có diện tích lớn nhất nước và số dân đứng thứ hàng thứ hai (sau TP Hồ Chí Minh), những cơ sở hạ tầng kĩ thuật - xã hội, năng suất lao động và mức sống của người dân vẫn còn nhiều vấn đề đáng nói. Trong khi đó, Mỹ là một quốc gia rất giàu có (GDP khoảng 15.000 tỉ đô la/năm, gấp 150 lần Việt Nam), diện tích hơn 9,82 triệu ki-lô-mét vuông, (bằng 30 lần Việt Nam), dân số khoảng 300 triệu (gấp 3,5 lần Việt Nam), nhưng thủ đô Washington DC chỉ rộng có 177 ki-lô-mét vuông (bằng 1/20 so với Hà Nội), dân số chưa tới 600.000 người (ít hơn 1/10 của Hà Nội). Nước rộng lớn nhất thế giới là Nga cũng vậy: diện tích hơn 17 triệu ki-lô-mét vuông, dân số khoảng 145 triệu người, nhưng thủ đô Moscow chỉ rộng 1.080 ki-lô-mét vuông (bằng một phần ba so với Hà Nội). Nước láng giềng Thái Lan, mặc dù diện tích lớn gấp rưỡi Việt Nam nhưng thủ đô Bangkok cũng nhỏ chỉ hơn phân nửa Hà Nội.
Điều đó chứng tỏ tầm vóc của thủ đô các nước không phụ thuộc vào diện tích, số dân (những hình thức bề nổi) mà do những yếu tố khác như mức sống người dân, các phúc lợi xã hội, môi trường.
Viết đoạn văn so sánh dựa trên đề tài câu tục ngữ “Một kho vàng không bằng một nang chữ”?
Câu trả lời của bạn
Dân gian ta có câu: Quý như vàng, ý nói vàng là thứ quý giá. Chẳng vậy mà bao đời nay nhiều kẻ cứ chạy miết theo đồng tiền, thoi vàng: lao vào buôn bán thậm chí bất chấp pháp luật, hăm hở tìm vàng nhiều khi bỏ mặc mạng sống,... Có vàng quả quý thực vì có được nó con người sẽ trở nên giàu có sung sướng: có tiền mua tiên cũng được kia mà! Vàng đã quý nhưng có thứ còn quý giá hơn, đó là chữ nghĩa, tri thức.
Cha ông ta từng đúc kết: một kho vàng không bằng một nang chữ. Tại sao vậy? Có chữ nghĩa con người có khả năng làm việc tốt hơn mọi người, nhờ vậy sẽ thành đạt hơn, họ cũng sẽ có được vàng để sung túc, đủ đầy. Nhưng mặt khác, một kho vàng là có hạn, hết một kho vàng chỉ còn kho rỗng. Nhưng có chữ nghĩa thì vĩnh viễn không bao giờ lo đói khổ vì chữ còn, tiền đồ còn, cơm áo còn. Những vị Trạng nguyên, Thám hoa,... nhờ chữ nghĩa mà đời đời vinh hiển; bọn phú ông giàu có ngu dốt hay bị chơi khăm, chơi xỏ chẳng mấy chốc mà khuynh gia bại sản. Không chỉ vậy, nang chữ còn mang đến cho con người thứ mà kho vàng không bao giờ làm được, đó là sự yêu mến, kính nể của xã hội. Mọi người yêu quý, tôn trọng người có học, người hay chữ; ít ai thật lòng thật bụng yêu mến, trân trọng kẻ chỉ có tiền (có chăng chỉ là thái độ bợ đỡ, xu nịnh mà thôi). “Một kho vàng không bằng một nang chữ”, tư tưởng ấy đã góp phần xây đắp nên những tâm hồn Việt Nam trọng chữ nghĩa, hiếu học tôn sư trọng đạo mà khinh bạc vàng, căm ghét bọn tham quan, cường hào, ác bá.
Ban - dắc đã từng nói: “Lịch sự và khiêm tốn chứng tỏ con người có văn hóa” hãy bàn luận ý kiến trên?
Câu trả lời của bạn
Lịch sự và khiêm tốn là hai phẩm chất tốt đẹp hàng đầu được đặc biệt coi trọng trong giao tiếp, ứng xử. Ban-dắc (1799 1850) nhà văn hiện thực lớn nhất của nước Pháp trong thế kỉ XIX, bất tử với bộ "Tấn trò đời" đã nói: "Lịch sự và khiêm tốn chứng tỏ con người có văn hóa".
Lịch sự là biết cách giao thiệp, xử thế; có thái độ nhã nhặn, lễ độ trong xã giao. Ta thường nói: con người lịch sự, nói năng lịch sự, phong cách lịch sự,...
Khiêm tốn là có ý thức và thái độ đúng mức trong việc đánh giá bản thân, không tự đề cao, không kiêu căng tự phụ. Người khiêm tốn là người biết đánh giá cái hay, cái tốt của bản thân một cách vừa phải và đúng mực.
Con người có văn hóa là con người có đạo đức. nhân cách tốt đẹp, có học văn và có hiểu biết, sống văn minh lịch sự được mọi người tôn trọng và quý trọng.Thật vậy, lịch sự và khiêm tốn chứng tỏ con người có văn hóa. Lịch sự và khiêm tốn được biểu hiện ở cách ăn mặc, nói năng, ở cử chỉ, ở nét mặt, nụ cười,... khi giao tiếp với mọi người. Không nói to, không do mặt túm tai, không khua chân múa tay... là lịch sự. Không tin mặc diêm dúa, không hấp tấp vội vã. không cướp lời lúc giao tiếp là lịch sự. Khoe khoang, tự vỗ ngực cho là mình tài giỏi “nhất thiên hạ\ tự khẳng định là cái gì mình cũng biết hết coi thường mọi người. Giàu mà không khoe giàu, giỏi mà không khoe giỏi, biết mà không khoe biết,... thế là khiêm tốn. Cổ nhân từng nhắc nhở đạo làm người: 'Khoe răng hay thế là mất hay; khoe có công thế là mất công" (Thư Kinh).
Bước vào cuộc đời rộng lớn, dù đi học, đi làm ăn, làm quan, làm cán bộ, làm nhà ngoại giao, làm nhà văn, làm nhà giáo,... vô luận làm công việc gì, ở vị thế nào, ai cũng phải lịch sự và khiêm tốn.
Có tự trọng và biết tôn trọng người trong giao tiếp, ứng xử mới biết sống lịch sự, sống khiêm tốn.
Trái với lịch sự là khiếm nhã, thô lỗ, cục cằn. Những câu tục ngữ sau đây, chắc nhiều người còn nhớ:
“Đất xấu trồng cây khẳng khiu,
Những người thô tục nói điều phàm phu.
Đất tốt trồng cây rườm rà,
Những người thanh lịch nói ra dịu dàng".
Nói bậy, chửi tục là bất lịch sự, là khiếm nhã.
Trái với khiêm tốn là kiêu căng, tự phụ. Kẻ kiêu căng, tự phụ thường làm một mà nói mười, thích tăng công theo kiểu “tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại
Làm tướng mà kiêu căng tất sẽ thảm bại, sẽ chết! Học sinh mà tự phụ thì học hành sẽ kém, thí cử sẽ hỏng! Làm bất cứ việc gì, nếu kiêu căng tự phụ sẽ thất bại nhục nhã. Câu tục ngữ sau đây nêu lên bài học khiêm tốn cho bất cứ ai:
“Ở nhà nhất mẹ nhì con,
Ra đường còn lắm kẻ giòn hơn ta."
Học sinh cần nhớ lời dạy của Bác Hồ để trở thành con ngoan, trò giỏi: “Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm".
Bài học khiêm tốn là bài học làm người. Bài học lịch sự là bài học làm người có văn hóa. Câu nói của Ban-dắc đẹp và hay, đã nêu lên cho mỗi chúng ta bài học về đạo lý, bài học làm người, bài học về nhân cách văn hóa.
Trên đường đi tới tương lai, mỗi chúng ta phải biết rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, trước hết là biết sống lịch sự và khiêm tốn.
Trình bày suy nghĩ của em về câu nói của Pon Moran: “Lên đường là phương tiện duy nhất để tới nơi”?
Câu trả lời của bạn
Cuộc sống là một hành trình dài tìm kiếm và khám phá những điều mới mẻ, thú vị. Có rất nhiều con đường để chúng ta lựa chọn nhằm chạm khắc tên mình vào cuộc sống. Chạy đua để suốt đời tất bật hay chậm rãi chiêm nghiệm những giá trị vĩnh hằng của cuộc sống phụ thuộc vào sự chọn lựa của mỗi người. Và để biết được hành trình ấy sẽ có những vất vả, gian nan đến đâu, thì hãy bước đi... bởi như Pôn Moran đã từng nói: “Lên đường là phương tiện duy nhất để tới nơi”.
Mục đích của cuộc sống là hạnh phúc. Mỗi con người dù suốt đời lao chen vào những vòng quay của cuộc đời thì cũng đến một lúc nào đó sẽ thoát khỏi vòng quay đó. Bước ra và nhìn lại để ngẫm suy, để chiêm nghiệm và nhận ra giá trị đích thực của cuộc đời. Tôi đã từng đọc được ở đâu đó câu chuyện về một người luôn khát khao đi tìm kiếm những giá trị thật sự của cuộc sống, những gì kỳ diệu và tốt đẹp nhất trên đời, cuộc hành trình đó đã kéo dài đến vô tận, cho đến cuối cuộc đời...”. “Tôi” đi tìm ý nghĩa của cuộc sống, đi tìm sự bình yên sau những bôn ba đời người. Và cuối cùng khi quay nhìn lại những bước đường đã qua của mình, “tôi” đã nhìn thấy cả một chân trời rất rộng và hơn hết là đã tìm về cho tâm hồn mình một sự tĩnh lặng, yên bình. “Tôi” tìm về với biển, mỗi ngày để đôi chân lún sâu vào cát, mỗi đêm lắng nghe tiếng sóng vỗ bờ và thả mắt nhìn vào trời sao lung linh. Trước sự mênh mông đến vô biên giữa biển trời, con người sẽ trở nên nhỏ bé và đơn độc. Nhưng cũng chính vì sự vô biên ấy mà những suy nghĩ của con người có thể chạm đến những chân lý sống”.
Cuộc đời của mỗi người, từ lúc bước chân đi đến cuối đời vẫn là một cuộc hành trình di trú không ngừng nghỉ. Hành trình đi tìm hình cuộc sống, đi tìm tình yêu, và hạnh phúc. Hành trình của một con suối nhỏ mang khát vọng vào đại dương. Hành trình ấy cuối cùng có thể mang đến cho tâm hồn mỗi người một sự bình yên viên viễn hay là những dằn day nuối tiếc, chính là do mỗi con người tự định lượng cho những bước chân mình. Vậy thì tại sao bạn không dám bước đi, bạn không dám lên đường cho dù trong lòng tràn trề những khát khao hạnh phúc.
“Lên đường” có nghĩa là bạn phải nhập cuộc, phải bắt tay vào thực hiện những việc làm, những kế hoạch cụ thể. Và đây là phương tiện duy nhất đúng đắn dể tới nơi. Bạn không bước đi thì sẽ không bao giờ tới nơi bạn cần đến. Nói lên đường là phương tiện duy nhất đồng nghĩa khẳng định đây là con đường, cách thức duy nhất đúng đắn. Nếu bạn không “lên đường” bạn sẽ không tới nơi.
Ngày xưa, “lên đường” là đến với những trận chiến ác liệt, bom sôi lửa đạn. Cha ông ta từ xa xưa đã không quản ngại khó khăn để đến với chiến tranh, hy sinh vì độc lập của Tổ Quốc. Đó là sự dũng cảm, dám dấn thân, hết mình vì Tồ Quốc thân yêu.
Ngày nay, “lên đường” với người trẻ có rất nhiều khía cạnh khác nhau, có thể mỗi người sẽ có một cách lý giải khác nhau cho “sự lên đường” của mình, thế nhưng nói chung đó đều là sự dám nghĩ, dám làm, chấp nhận khó khăn, thử thách để đạt được thành công. Đôi khi bạn có một ý tưởng nào đó, táo bạo một chút, vậy bạn có dám lên tiếng và thử nghiệm ý tưởng của mình? Chắc chắn rằng, không có nhiều người dám gật đầu thể hiện chúng. Vậy là, bạn đã không có đủ can đảm để bước đi con đường của mình, cũng chưa có đủ dũng cảm để đạt được thành công. Không lên đường thì làm sao bạn có thể tới nơi, cùng giống như không dám nghĩ dám làm thì làm sao bạn có thể đạt được thành công của mình.
Bạn có biết, phần lớn những ý tưởng táo bạo và điên rồ lại trở nên thành công xuất sắc bởi tác giả của nó dám nghĩ, dám làm? Bạn biết không, từ tay trắng, Soichiro Honda đã lập nên công ty số 1 thế giới về sản xuất mô tô. Nếu như người Mỹ tự hào có Henry Ford thì người Nhật lại tự hào về ông. Người ta đã nói rằng, khó hình dung nổi chiếc mô tô hai bánh sẽ như thế nào nếu như không có một thiên tài kỹ thuật như Soichiro Honda. Không chỉ trong lĩnh vực công nghiệp ô tô mà đặc biệt là lĩnh vực xe máy, ngày nay không thể thiếu được các sản phẩm của Nhật Bản mà thương hiệu Honda là số một. Hay kĩ sư người Anh Jack Rose bằng ý tưởng táo bạo của mình cũng đã thành công khi sản xuất loại bao bì rẻ, bền và không hề làm ô nhiễm môi trường. Như Bill Gates đã từng nói trong cuốn sách The Road Head “Ai trong chúng ta đều chứa đựng trong mình những yếu tố đi đến thành công. Chỉ có điều chúng ta có tìm ra và quyết tâm theo đuổi hay không mà thôi”. Những doanh nhân trên chỉ là một trong số rất nhiều những tên tuổi lớn trong giới kinh doanh có được thành công từ chính sự quyết tâm theo đuổi ý tưởng của mình.
Với người Việt trẻ hiện nay, dám “lên đường” cũng là họ dám thể hiện những ý tưởng của mình mà không hề sợ khó khăn hay thất bại. Đó là Chongchong Production của những bạn trẻ 8X, 9X yêu thích truyền hình, bốn người - bốn độ tuổi - 4 cá tính khác biệt nhưng cùng chung một dam mê, họ đã cùng nhau thực hiện đam mê của mình hằng cách sang lập ra Chongchong Production nổi tiếng trong toàn giới trẻ.
Thực ra, đơn giản hơn, “lên đường” đôi khi để đến một vùng đất mới, nơi bạn muốn khám phá và tìm tòi những cái mới mẻ. “Đó bước chân đường xa đó, đó bước chân trở về” (Trở về - Bức Tường)... Hễ đi là đến, phải đi để đến, cuộc hành trình mang theo cả trái tim và khối óc. Cuộc sống là một hành trình dài mà bất cứ ai sinh ra trên trái đất này cũng phải trải qua. Hành trình ấy đi qua những đâu: những mảnh đất trù phú, những thiên đường danh vọng, giàu sang hay những mảnh đất khô cằn, những sa mạc mênh mông? Điều này phụ thuộc vào con đường chúng ta chọn lựa để đặt chân lên. Con đường ấy sẽ được thái độ của chúng ta dẫn dắt. Hướng tới ánh sáng hay bước vào bóng đêm, chúng ta hoàn toàn có thể thấy trước được để tự quyết cho mình. Cuộc sống là không giới hạn, đích đến cuối cùng của hành trình này lại là điểm khởi đầu cho một hành trình khác. Do đó, dù đang ở bất cứ hoàn cảnh nào, hãy tin rằng, chúng ta hoàn toàn có thể thay đổi được cuộc đời mình. Hãy loại trừ ngay những cái nhìn cũ kỹ, hao mòn và tiêu cực về thế giới, thay vào đó, ngắm nhìn thế giới bằng sức sống mãnh liệt đang trào dâng. Trong hành trình ấy, hãy mang niềm hy vọng theo cùng - niềm hy vọng sẽ mang lại tinh thần tích cực cho bạn.
“Lên đường là phương tiện duy nhất để đến nơi” và dám nghĩ, dám làm, dám chấp nhận là phương tiện duy nhất để có được thành công. Cuộc sống là một hành trình dài để khám phá và trải nghiệm những điều mới mẻ, hãy cứ ước mơ và can đảm theo đuổi những gì mình đam mê, hãy bước đi trên chính con đường mà bạn đã lựa chọn và khi đã lựa chọn được con đường của mình rồi, thì hãy nhớ rằng cách bạn bước đi chính là cách bạn nắm lấy thành công, hạnh phúc của mình
“Trí tuệ con người trưởng thành trong tĩnh lặng, còn tính cách trưởng thành trong bão táp" anh chị suy nghĩ gì về ý kiến trên?
Câu trả lời của bạn
Đã có khi nào bạn tự hỏi, cùng với thời gian, chúng ta đang trưởng thành như thế nào, theo chiều hướng nào? Nếu chưa một lần tự hỏi hoặc chưa tìm ra được cho mình câu trả lời, hãy cùng tôi đến với một câu nói của W.Gơt: “Trí tuệ con người trưởng thành trong tĩnh lặng, còn tính cách trưởng thành trong bão táp”.
M.Gorki đã từng nói: “Mỗi cuốn sách là một bậc thang nhỏ mà khi bước lên tôi bước ra khỏi con thú để tiến gần hơn đến con người”. Câu nói nhằm khẳng định tác dụng của sách và việc đọc sách nhưng nó cũng cho chúng ta hiểu thêm một điều để hoàn thiện bản thân: đó không phải là công việc của ngày một ngày hai mà chính là một quá trình tích luỹ lâu đài giống như bước đi trên từng bậc thang nhỏ. Trong mỗi con người, trí tuệ và tính cách có thể coi như hai điểm mấu chốt. Nó giúp cho ta nhìn nhận một người như thế này mà không phải là thế khác. Cũng giống như việc hình thành và hoàn thiện một nhân cách, trí tuệ và tính cách là sự trưởng thành qua thời gian, thử thách khác nhau. Theo W.Gơt, trong đó, trí tuệ trưởng thành trong tĩnh lặng còn tính cách thì trưởng thành trong bão táp. Tất nhiên nói như thế là hoàn toàn có những căn cứ thực tế của nó. Trí tuệ là khả năng nhận thức lí tính đạt đến một trình độ nhất định. Nó gắn với việc một người có khả năng nhận thức đến đâu và tầm hiểu biết, vốn tri thức mà họ có được. Con người có được trí tuệ nhờ quá trình tích luỹ tri thức của nhân loại, chuyển hoá thành tri thức của bản thân, phục vụ cho cuộc sống. Tri thức không thể chạy theo hình thức hào nhoáng, đao to búa lớn mà đòi hỏi phải thực chất. Không đơn giản chỉ là việc tiếp nhận tri thức, con người còn phải có quá trình nghiền ngẫm, suy xét để có thể hiểu và vận dụng nó một cách phù hợp. Nói trí tuệ trưởng thành trong tĩnh lặng cũng vì lẽ đó cần phải hiểu, sự tĩnh lặng ở đây không phải là con người đạt đến độ trưởng thành về mặt trí tuệ có phần nhẹ nhàng, “tĩnh lặng” mà là bởi suy ngẫm và chiêm nghiệm là bản chất của tri thức. Đọc một cuốn sách hay, những giá trị thẩm mĩ của nó thâm sâu vào trong mỗi con người, một cách tự nhiên tới mức nhiều khi người ta không hề ngờ tới. Đến một ngày, người ta chợt nhận ra rằng mình đang tinh tế, nhạy cảm hơn trong cách nhìn nhận cuộc sống, mình đang hiểu biết sâu sắc hơn về cuộc sống với những kiến thức thuộc về tự nhiên và xã hội của nó. Sự trưởng thành về trí tuệ đã diễn ra “tĩnh lặng” là như vậy đó. Không ai có thể “nhồi nhét” vào trong đầu cùng một lúc tất cả vốn tri thức của nhân loại. Sự tiếp thu diễn ra dần dần, tích lũy từng chút một nhưng cũng sẽ không bao giờ là đủ. Một người có trí tuệ trưởng thành là người luôn biết bổ sung kiến thức cho mình để theo kịp với sự phát triển của thời đại.
Cũng là sự trưởng thành được vun đắp qua thời gian và chiêm nghiệm nhưng tính cách lại đòi hỏi cho nó một môi trường khác. Tính cách là tổng thể nói chung những tâm lí ổn định trong cách xử sự của một người, biểu hiện thái độ điển hình của người đó trong những hoàn cảnh điển hình. Cũng giống như sự trưởng thành về trí tuệ, khái niệm trưởng thành ở đây chính là sự phát triển vươn tới hoàn thiện và sự hoàn thiện, ổn định về tính cách của một con người. Mỗi người có một tính cách riêng. Tính cách ấy được hình thành trong những hoàn cảnh khác nhau nên có sự khác nhau. Thực tế cho thấy, những người được sống trong một môi trường khó khăn, thử thách thường là người có tính cách mạnh mẽ, dám chấp nhận thử thách, dám vượt lên tất cả để có thể đạt được mục đích. Còn người sớm được sống trong nhung gấm lụa là, trong một môi trường sống giản đơn, thường vì không được rèn luyện nên sẽ khó chống chọi lại với gian khổ: “Lửa thử vàng gian nan thử sức”. Không gì có thể giúp con người ta trưởng thành hơn trường đời bởi “Cuộc sống chính là trường đại học chân chính của nhân tài”. Cuộc sống không bao giờ đơn giản và chính cái không đơn giản ấy khiến cho con người luôn phải vận động không ngừng để thích nghi, và chinh phục nó. Bão táp là những khó khăn của cuộc sống. Tính cách con người luôn vận động, đồng thời sự trưởng thành của tính cách không dựa phần nhiều vào tích luỹ “tĩnh lặng” giống như tri thức. Môi trường sống càng khắc nghiệt càng đòi hỏi những phẩm chật đáng quí của tính cách, để chiến thắng hoàn cảnh. Hoàn cảnh nghèo khó đòi hỏi ở con người nghị lực, sự sáng tạo trong tư duy, làm ăn; khổ đau khiến người ta trở nên mạnh mẽ, cứng rắn;... Tất nhiên không phải không có những trường hợp vì lâm vào cảnh khó khăn mà tha hoá, biến chất. Nhưng đó là trường hợp của những kẻ buông xuôi trước số phận hay trước sự dẫn dắt của bản năng tầm thường mà không phải là một sự trưởng thành theo nghĩa tích cực, theo chiều hướng đi lên như những gì chúng ta đang nói ở đây. Hoàn cảnh không chỉ khiến con người biết thay đổi và hoàn thiện mình, có khả năng thích nghi cao mà nó còn là một minh chứng cho các phẩm chất và tính cách của con người. Chỉ có những người có phẩm chất và tính cách tốt đẹp, biết vượt lên hoàn cảnh, chống lại hoàn cảnh, coi hoàn cảnh như một nơi cho mình rèn luyện thì mới có thể trở thành người chiến thắng. Điều này cũng giống như những gì Điđơrô từng nói: “Chỉ có những khát vọng và những khát vọng lớn lao mới có thể nâng tâm hồn lên vĩ đại”. Sự trưởng thành của trí tuệ và tính cách cũng không nằm ngoài quan niệm đó.
Câu nói của Gớt mang đến cho ta một thái độ đúng đắn trong cuộc sống, tinh thần kiên trì, nhẫn nại, lạc quan đối mặt với gian lao. Ta hiểu rằng sự hoàn thiện của một con người là cả một quá trình. Tri thức không phải tự dưng có mà phải trải qua quá trình tích luỹ dần dần cũng như một tính cách tốt đẹp chính là kết quả của quá trình rèn luyện qua bão táp trong cuộc sống. Những khó khăn và thách thức trước mắt nếu vượt qua sẽ mang lại thành quả. Vườn cây trải qua nắng mưa cuối cùng cũng sẽ cho trái ngọt. Vấn đề là ở chỗ không bao giờ được vì khó khăn, trở ngại trước mắt mà chùn bước. Để mình trở thành một người có tri thức, bắt kịp thời đại, hãy luôn sống như một ai đó đã từng quan niệm: “Ngày nào mà bạn không bổ sung cho vốn hiểu biết của bạn dù chỉ một mẩu kiến thức nhỏ nhưng mới mẻ với bạn... thì hãy coi đó là một ngày mất đi vô ích, không thể lấy lại được”. Sự thiếu hiểu biết không đáng thẹn bằng việc thiếu ý chí học hỏi. Để mình có được một nhân cách hoàn thiện, hãy biết làm bông hoa sen giữa bùn lầy tanh hôi mà vẫn nở ra trắng ngần, thơm ngát. Tính cách được hình thành trong một hoàn cảnh sống khắc nghiệt không có nghĩa là nó sẽ thực sự trưởng thành. Điều đó còn phụ thuộc vào việc con người làm gì và làm được những gì trong hoàn cảnh ấy. Và tất nhiên, đó là điều không hề đơn giản...
Bạn là một người trẻ tuổi? Bạn ý thức được rằng mình đang trong quá trình hoàn thiện về nhân cách? Hãy nhớ những gì W. Gớt đã nói với chúng ta để thực sự trở thành một người trưởng thành về mọi mặt...
Trái đất sẽ ra sao nếu thiếu đi màu xanh của những cánh rừng?
Câu trả lời của bạn
Rừng là một tài nguyên vô giá của con người. Xưa nay, rừng vẫn được mệnh danh là “lá phổi xanh” của trái đất. Có thể coi rừng như một chàng hiệp sĩ mặc áo giáp xanh che chở cho trái đất những nhịp thở yên bình. Nếu thiếu đi màu xanh của rừng, trái đất và con người sẽ phải đối mặt với những hiểm họa vô cùng lớn.
Rừng là môi trường quần tụ của các loài thực và động vật phong phú. Với sự sinh sống của rất nhiều các loại thực vật khác nhau rừng như một lá phổi lớn bao quanh trái đất tạo nên sự cân bằng sinh thái. Hút khí cacbonic, nhả ra oxi, rừng cung cấp oxi cho trái đất, thanh lọc bầu không khí đang ngày càng dày đặc những loại khí thải độc hại. Nhờ có rừng, sự sống của con người được duy trì và đảm bảo. Không chỉ thế, rừng còn là một tấm lá chắn tự nhiên bảo vệ con người trước những tác động của thiên tai, lũ lụt. Rễ cây bám sâu trong lòng đất tạo thành mạng lưới, lá cây che chắn, ngăn chặn sự xói mòn, rửa trôi đất khi có mưa lũ. Rừng làm giảm nguy cơ diễn ra hiện tượng lũ quét thường hay diễn ra vào mùa mưa. Là môi trường quần tụ của các loài động, thực vật, rừng cung cấp cho con người nguồn tài nguyên quí báu. Đó là khối lượng gỗ lớn trong đó có rất nhiều gỗ quí như lim, trai, sến, táu, vàng tâm... có giá trị kinh tế cao. Trong rừng còn sinh sống rất nhiều các loài thảo dược, phục vụ đắc lực cho việc chữa bệnh, có giá trị y học. Gỗ, củi đốt tạo thành than đá, nguồn nguyên liệu chất đốt quan trọng trong công nghiệp và sinh hoạt. Lá cây rừng rụng xuống làm tăng chất mùn, tăng độ tơi xốp của đất, có ý nghĩa trong việc cải tạo đất tự nhiên. Rừng cũng là môi trường sống của các loài động vật trong đó có rất nhiều động vật quý hiếm. Nhờ thế, rừng tạo nên quang cảnh thiên nhiên trong lành, không chỉ có giá trị kinh tế lớn mà còn mang giá trị thẩm mĩ và chứa đựng nhiều tiềm năng du lịch.
Rừng có vai trò và tác dụng to lớn là vậy nhưng thực trạng rừng những năm trở lại đây đang là một thực tế đáng buồn và đáng báo động. Rừng là một tài nguyên vô giá nhưng không phải là vô hạn. Diện tích rừng đang bị thu hẹp nghiêm trọng và một số nơi đang có nguy cơ không thể phục hồi được tình trạng chặt phá rừng bừa bãi của lâm tặc, của người dân, đốt phá rừng làm nương rẫy của đồng bào dân tộc thiểu số có tục du canh du cư... không thể không kể đến nguyên nhân rừng bị cháy do sự bất cẩn của chính con người. Một tàn thuốc hút dở vứt bỏ xuống cánh rừng đang mùa khô hạn cũng đủ làm nên một đám cháy lớn. Và rồi rất nhiều loài thực vật, loài động vật, trong đó có không ít những loài động, thực vật quý hiếm bị xóa sổ. Bên cạnh đó, hàng ngày, hàng giờ, chúng ta cũng đang bị mất đi những cánh rừng do thiên tai, sạt lở đất. Rừng bị cháy, rừng bị chặt phá khiến cho diện tích rừng ngày càng thu hẹp. Rừng không còn là một lá phối xanh nữa mà đang dần bị nhuộm đen, nhuộm nâu bởi những mảnh đất trống, đồi núi trọc. Và khỏi phải nói, những hậu quả của những hành vi đó đang hiện. Rừng bị thu hẹp trong khi lượng khí thải sinh hoạt và công nghiệp thì ngày càng nhiều lên làm mất cân bằng sinh thái, đe dọa đến cuộc sống của con người. Không còn rừng, đất đai bị xói mòn, sạt lở, tình trạng rửa trôi đất diễn ra khiến cho đất ngày càng bị bạc màu, thoái hóa, chất lượng đất ngày càng xấu. Lượng khí thải nhiều làm thủng tầng ozon, tấm lá chắn bao bọc và bảo vệ trái đất đang có nguy cơ biến mất, trái đất ngày càng nóng lên và con người phải đối mặt với hàng loạt các nguy cơ tiềm ẩn mà lớn nhất là nguy cơ các căn bệnh nan y do ảnh hưởng của nguồn nước, không khí bị ô nhiễm. Rừng là một nguồn tài nguyên vô giá, diện tích rừng bị thu hẹp cũng khiến cho nền kinh tế của nhiều quốc gia bị tổn hại nghiêm trọng.
Rừng bị tàn phá nghiêm trọng như ngày nay do nhiều nguyên nhân. Đó có thể là những nguyên nhân khách quan như do chiến tranh, thiên tai, sạt lở đất... nhưng cần phải nói đến nhiều nhất ở đây là những nguyên nhân thuộc về con người, ý thức của con người về rừng và ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bảo vệ rừng còn chưa thực sự sâu sắc. Chạy theo những lợi ích trước mắt, con người sẵn sàng khai thác rừng một cách vô tội vạ, khai thác không đi kèm với trồng rừng làm cho diện tích rừng ngày càng thu hẹp trong khi đó diện tích đất trống đồi núi trọc lại tăng lên. Nhiều người dân, do hiểu biết còn nông cạn, bất cẩn trong hành vi mà làm tổn hại đến rừng một cách nghiêm trọng. Bên cạnh đó, không thể khẳng định rằng luật pháp đã thực sự nghiêm minh, chặt chẽ để cho những kẻ xấu có cơ hội lách luật, thực hiện những hành vi phá hoại của mình.
Như vậy, có một sự thực chắc chắn rằng rừng là không thể thiếu đối với sự sống của con người và thực trạng rừng hiện nay đang ở mức báo động. Đứng trước những yêu cầu và thực trạng đó, đòi hỏi mỗi chúng ta phải có những giải pháp cụ thể và tích cực để bảo vệ và cải tạo rừng. Trước mắt, các cơ quan chính quyền và pháp luật nhà nước cần có những biện pháp nghiêm minh hơn trong việc bảo vệ và cải tạo rừng, xử lý nghiêm những hình thức vi phạm, về lâu dài, cần tiến hành những biện pháp mang tính toàn diện: tiến hành trồng rừng trên diện tích đất trồng, đồi núi trọc và tiến hành trồng mới, mở rộng diện tích rừng. Đặc biệt cần chú ý đến việc trồng và phát triển hệ thống rừng phòng hộ ven biển, rừng ngăn mặn,... ngăn ngừa những hậu quả của tự nhiên đến cuộc sống con người, cần tiến hành tuyên truyền nâng cao ý thức về tầm quan trọng của rừng và việc bảo vệ rừng đối với người dân, thắt chặt luật pháp trong xử lý các vi phạm liên quan đến việc trồng và bảo vệ rừng. Mỗi người đều phải tự nhận thức được vai trò của mình trong việc bảo vệ cho lá phổi xanh của trái đất, bảo vệ cho lá phổi xanh của chính mình.
Gây dựng lại, bảo vệ và phát triển rừng là trách nhiệm của toàn nhân loại. Hãy để cho trái đất của chúng ta mãi là một hành tinh xanh tươi đẹp.
Thành ngữ có câu: “Không thể bẻ đũa cả nắm” anh (chị) có suy nghĩ gì? Bàn luận về tình đoàn kết trong xã hội?
Câu trả lời của bạn
Chuyện kể rằng trong một gia đình nọ, người cha rất buồn vì những đứa con của ông, tuy là anh em một nhà như lúc nào cũng ghen ghét, đố kị nhau. Một ngày, người cha ốm nặng, trước khi qua đời ông gọi những đứa con của mình lại và giao cho chúng một bó đũa rồi bảo chúng bẻ cả bó đũa ấy. Những người con loay hoay mãi nhưng vẫn không thể làm gì được. Lúc này ông mới lấy từng chiếc đũa ra và bẻ một cách dễ dàng. “Không thể bẻ đũa cả nắm”. Những người con cúi đầu, thấm thía bài học về tình đoàn kết.
Câu chuyện dân gian được đúc kết thành câu thành ngữ tuy giản dị nhưng mang ý nghĩa giáo dục rất lớn. Nó bắt nguồn từ một sự thực trong đời sống. Giống như việc những con sếu khi bay theo đàn hình mũi tên thì có thể tiết kiệm được sức lực và giúp đỡ nhau khi cần thiết; những con kiến cùng nhau khênh con mồi to hơn nó rất nhiều lần về tổ; con ong xây dựng được những công trình kiến trúc vĩ đại...; một bó đũa được tạo nên từ nhiều cây đũa sẽ làm thành một khối vững chắc, khó lay chuyển. Những chiếc đũa đứng một mình thì có vẻ mỏng manh, yếu ớt nhưng khi xếp cạnh nhau, song song, trợ lực cho nhau, là một thách thức cho bất cứ ai muốn phá tan cái khối thống nhất cứng cáp ấy. Mỗi chiếc đũa, khi đặt trong bó đũa đã trở thành một phần của một khối thống nhất. Nếu như việc tác động lực vào một chiếc đũa duy nhất khiến cho nó dễ dàng bị biến dạng thì khi ở trong một khối, khi cái này đã là điểm tựa của cái kia, đó là một việc làm không hề đơn giản. Câu thành ngữ nhận định “không thể bẻ đũa cả nắm” là muốn khẳng định đến tính tuyệt đối sức mạnh của chúng khi đặt trong một khối thống nhất, một sức mạnh tổng hợp, vững chãi. Câu chuyện về bó đũa nhưng lại có ý nghĩa giáo dục thật lớn.
Triết học chỉ ra rằng con người tồn tại trong các mối quan hệ, không có con người cá nhân, cá thể. Mỗi người không thể tồn tại một mình mà không liên quan với những người xung quanh. Các mối quan hệ đó lại phát triển theo các chiều hướng phức tạp khác nhau. Trong đó mối quan hệ mang tính thân thiện, tương trợ lẫn nhau giữa con người là mối quan hệ quan trọng và cần thiết nhất. Trong một cộng đồng người, tình đoàn kết giúp bồi dưỡng và phát triển mối quan hệ theo chiều hướng tốt đẹp này. Tình đoàn kết là sự yêu mến, gắn bó giữa người với người, kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung. Tình đoàn kết mang đến cho tập thể sức mạnh tổng hợp, vượt qua mọi khó khăn trở ngại. Hồ Chí Minh xưa đã từng rất quan tâm đến vấn đề này. Người kêu gọi nhân dân ta: “Đoàn kết! Đoàn kết! Đại đoàn kết! Thành công! Thành công! Đại thành công!”. Sức mạnh của tinh thần đoàn kết cũng được khẳng định trong các bài ca hết sức gần gũi của Người:
“Hòn đá to
Hòn đá nặng
Một người nhấc
Nhấc không đặng
Hòn đá to
Hòn đá nặng
Nhiều người nhấc
Nhấc lên đặng”.
Và thực tế những cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc đã là minh chứng hùng hồn cho chân lí ấy. Trước biết bao những thủ đoạn chia rẽ, tàn phá,... ác liệt của thực dân đế quốc, ngày ngày, từng đoàn xe thồ dân công vẫn lên đường vì khúc ruột miền Nam. Lớp lớp thế hệ Việt Nam vẫn “Lớp cha trước lớp con sau/ Đã thành đồng chí chung câu quân hành”. Tình đoàn kết đã giúp cho một dân tộc Việt Nam nhỏ bé, chiến thắng được những kẻ thù to lớn, xây dựng nên một hình ảnh Việt Nam thật đẹp trong lòng nhân dân thế giới.
Trong xã hội hiện đại, tinh thần đoàn kết vẫn giữ nguyên giá trị. Một dân tộc đoàn kết là một dân tộc đầy sức mạnh có thể vượt qua tất cả mọi phong ba bão táp, khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Không chỉ có vậy, đoàn kết còn giúp chúng ta có đủ sức mạnh để chống lại các âm mưu thù địch đang diễn biến phức tạp. Nếu không có tinh thần đoàn kết, thống nhất một lòng dưới sự lãnh đạo của Nhà nước và Đảng cộng sản thì những câu chuyện như ở Tây Nguyên, hay đồng bào Công giáo sẽ luôn là những mối đe dọa thường trực đến vận mệnh và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong cuộc sống thường ngày, tình đoàn kết cũng giúp người ta sống tốt hơn, chan hoà với nhau hơn. Tục ngữ có câu: “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn” là vì lẽ đó. Gia đình đoàn kết thì cuộc sống hoà thuận, hạnh phúc. Hàng xóm láng giềng đoàn kết thì “Tối lửa tắt đèn có nhau”, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn. Bạn bè đoàn kết, giúp đỡ nhau trong học tập. Câu chuyện về những đôi bạn cùng tiến sẽ vẫn mang lại cho mọi người sự xúc động và cảm phục sâu sắc.
“Không thể bẻ đũa cả nắm”. Ý thức được điều này, mỗi chúng ta, một cá nhân, một phần trong tập thể, cần rèn luyện cho mình tinh thần đoàn kết. Gần gũi nhất là với những người đang sống xung quanh mình, cùng nhau vượt qua khó khăn. Đoàn kết với đồng bào mình, dân tộc mình, đoàn kết với bạn bè thế giới, để cuộc sống trên trái đất này ngày càng tốt đẹp hơn.
Một số học sinh cho rằng: "Không kết bạn với học sinh yếu'" anh (chị) hãy viết đoạn văn bàn về vấn đề trên?
Câu trả lời của bạn
Trong một bộ phận học sinh hiện nay có quan niệm: Không kết bạn với học sinh yếu. Bạn suy nghĩ gì về điều này? Cũng đã từng có một thời gian, tôi có quan điểm sai lầm ấy. Khi đó tôi nhận thấy rằng, kết bạn với những bạn học sinh yếu kém, tôi không nhận lại được một lợi ích nào cả. Họ yếu kém nên không thể giúp đỡ tôi trong học tập. Không những thế, đôi khi họ còn “làm phiền” mình bởi những việc như hỏi bài, nhờ vả lúc kiểm tra, thi cử. Tôi nghĩ rằng, họ yếu kém là do họ không cố gắng, bởi vậy họ không đáng để mình kết bạn. Thậm chí, đã có lúc tôi còn cho rằng, việc kết bạn với họ có thể làm ảnh hưởng đến hình ảnh của mình. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng, đó thực sự là một quan niệm sai lầm.
Trước hết, dù là học sinh yếu hay học sinh giỏi, họ cũng là bạn của mình, học cùng lớp cùng trường với mình. Quan tâm giúp đỡ họ là điều cần thiết. Người Việt Nam ta xa nay vẫn tự hào về truyền thống “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương thân”, hàng ngày được học và thấm nhuần trong mình tư tưởng ấy lẽ nào ta lại vi phạm nó? Sau nữa, không phải lúc nào những học sinh yếu cũng là những người đáng ghét. Họ như thế có thể do lời biếng, ham chơi, nhưng cũng có một số người là do những khiếm khuyết của bản thân và không ít bạn còn là do những hoàn cảnh riêng, những gánh nặng, những nỗi đau về tâm lí gây nên. Hiểu được bản chất của hiện tượng, chúng ta sẽ có một cách đánh giá, nhìn nhận công bằng hơn. Biết được nguyên do mà giúp cho bạn mình ngày càng tiến bộ. Không ai là người hoàn hảo cả. Tôi không thể dám chắc rằng mình không có một điểm xấu nào khiến cho người khác không hài lòng bởi vậy tôi cũng không thể đòi hỏi điều đó ở họ. Hoàn hảo chỉ là một khái niệm tương đối, một cái đích để con người ta vươn tới và hoàn thiện mình. Tôi không bao giờ có thể ngừng nghỉ trên con đường để đi đến với nó và người khác cũng vậy. Hơn thế nữa, như Khổng Tử đã nói: “trong ba người đi cùng với ta, ắt có người là thầy ta..”.. Một học sinh yếu nhưng rất có thể họ sẽ có những thế mạnh khác. Tiếp xúc với họ, hiểu họ, ta sẽ khám phá được thế mạnh ấy và sẽ cảm thấy, thực ra họ cũng đáng yêu, thậm chí còn đáng yêu rất nhiều, nhiều hơn ta tưởng. Kết bạn với những bạn học sinh yếu, những người kém hoàn thiện hơn ta để giúp đỡ họ tốt hơn lên. Đó cũng là một cách để ta hoàn thiện mình, làm cho ta trở thành một người giàu có: giàu có về lòng tốt, giàu có về bè bạn...
Anh (chị) nghĩ gì về câu nói của Tuân Tử: “Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn của ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy”
Câu trả lời của bạn
Con người, bước chân ra khỏi nhà là sống với những người không thân thích. Việc phân biệt thật - giả, tốt - xấu rất khó khăn nhưng vô cùng quan trọng để “chọn bạn mà chơi”, “Chọn thầy mà học”. Tuân Tử, một học giả lỗi lạc TCN rút ra kinh nghiệm: “Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn của ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy”. Lời nhận xét ấy cho ta nhiều bài học và suy ngẫm.
Trong xã hội, “thầy” là người hơn ta, có thể chỉ bảo cho ta điều hay lẽ phải, đáng để cho ta học tập. Người Việt Nam ta có đúc kết kinh nghiệm “không thầy đố mày làm nên”. Cùng với người thầy, người bạn là đối tượng thứ hai đáng để ta tin cậy sau khi hoà mình vào dòng đời xuôi ngược. Đó là người đối xử với ta một cách chân thành, bình đẳng, có thể giúp đỡ, sẻ chia với ta khi khó khăn hoạn nạn, cũng như vui vẻ hạnh phúc. Bạn bè đó là “một tiền đề quan trọng giúp ta thành công trong công việc. Tục ngữ, ca dao cũng ghi nhận mối quan hệ tốt đẹp này “giàu vì bạn”, “Ra đi vừa gặp bạn hiền/ Cũng bằng ăn quả đào tiên trên trời”.
Ngược lại, kẻ thù lại là kẻ luôn có ác ý với ta, luôn đối địch, không muốn ta thành công, chỉ muốn làm ta thất bại, suy vong.
Câu nói của Tuân Tử giúp ta nhận diện bản chất những con người sống quanh mình. Từ đó có thái, độ hành động ứng nhân xử thế đúng đắn và rút ra những bài học bổ ích trong việc tu dưỡng, hoàn thiện nhân cách.
“Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn của ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy”. Tại sao vậy? Người mà chê ta, lại là “chê đúng” tức là người đã nhìn được cái sai của ta, chỉ ra cái sai của ta. Nhìn ra được cái sai của kẻ khác phải là người có tầm nhìn rộng, khách quan đồng thời cũng là người biết cách làm đúng đắn, hợp lí hợp tình. Biết được cái sai của người khác, có kẻ im ỉm khoanh tay nhếch mép, ấy là kẻ coi thường ta, không muốn hợp tác với ta không muốn ta tốt lên. Có kẻ chê nhưng kèm theo đó là chỉ trích, lăng mạ, phóng đại vấn đề,... ấy là kẻ có ác ý với ta. Cả hai loại ấy đều không đáng để ta học tập. “Chê đúng” bao hàm việc chỉ ra đúng cái sai và đúng thời gian, hoàn cảnh, thời điểm. Ấy là cái chê có thiện ý muốn ta tiếp sửa đổi, hoàn thiện thu được để tiến bộ hơn. Con người này vừa có tài rộng, vừa có đức rộng lượng khoan dung. Đó chính là thầy ta vậy.
Tâm lí bị “chê” ai cũng nhăn nhó không thích: chẳng ai muốn mình bị chê bởi bị chê tức là sai trái, chưa đúng, chưa đủ. Vì chúng ta không muốn thừa nhận mình sai. Nhưng trên thực tế “nhập vô thập toàn” có ai mà không sai lúc này hay lúc khác? Vấn đề là phải biết nhận sai và sửa chữa. Lời chê đúng như muối như gừng. Muối có mặn, gừng có cay thì cuộc sống mới cần đến chúng. Thế mới biết ở đời nhiều khi phải nếm cay nếm mặn mới nên người
Không chê ta mà lại “khen ta” nhưng là “khen đúng” đó là bạn ta. Lời khen biểu lộ sự đồng tình, ca ngợi. Không phải ai cũng có đủ can đảm thắng cái tôi ích kỉ để khen người khác. Bởi khen người tức là thừa nhận mình không làm tốt như họ, nghĩ một cách tiêu cực là mình kém họ. Nhìn người khác thành công, không ít kẻ sinh lòng ghen ghét, đố kị dèm pha điều tiếng. Loại người này ta không bàn đến. Song ta cần thấy rõ khoảng cách giữa lời khen và lời “khen đúng”. Đành rằng lời khen mang thiện ý, nhưng có khi lời khen phóng đại cái đáng khen, khen không đúng lúc hàm ý nịnh bợ. Lời khen ấy cũng thuộc loại “ai cầu mà chi”. “Khen đúng” phải là khen đúng mực, khen đúng thời điểm công nhận điều tốt đẹp, ủng hộ thành công của người khác có tác dụng động viên khích lệ tinh thần người được khen giúp họ tiếp tục vươn tới thành công. Nếu không phải là một người bạn tốt, luôn sẵn sàng giúp đỡ hi sinh vì người khác hẳn không thể “khen đúng” được.
“Biến tướng” của lời khen là những lời xu nịnh, bợ đỡ. Theo Tuân Tử những lời “mật ngọt chết ruồi” này chỉ có thể bay ra từ miệng những “kẻ thù của ta”. Lời xu nịnh, bợ đỡ cũng là những lời khen, nhưng là khen những cái không đáng khen, khen quá mực, khen không đúng nơi đúng lúc nhằm mục đích lấy lòng, làm vừa ý người khác. Những lời như thế dễ khiến ta ảo tưởng về mình, ngộ nhận mình tài giỏi tốt đẹp lắm. Vì vậy mà lầm đường, thôi rèn luyện nỗ lực, sinh kiêu căng ngạo mạn. Những điều đó dẫn ta đến vực thẳm tiêu vong tài năng, nhân phẩm, sự nghiệp. Kẻ gây hại cho ta thế chẳng phải là “kẻ thù” của ta hay sao?
Biết rõ bản chất sự khen, chê để ta biết cách tiếp nhận chúng. Nghe chê mà không thấy nản, được khen mà không sinh kiêu, thấy lời bợ đỡ xu nịnh thì kiên quyết từ chối. Chẳng những thế nghe lời khen, chê mà còn biết đánh giá bản chất con người. Từ đó biết học ai, chơi với ai, xa lánh kẻ nào.
Nhưng ở đời, theo thói thường ai chẳng thích được khen không muốn bị chê. Vậy làm sao để nhìn rõ được bản chất của sự khen chê này? Muốn vậy mỗi người phải luôn khiêm nhường trong lối sống, luôn nghĩ mình còn kém cỏi, quanh mình còn nhiều điều đáng học hỏi “trong ba người đi trước ta ắt có người là thầy ta” (Khổng Tử). Nghĩ mình kém cỏi không có nghĩa là tự ti; nghĩ mình kém cỏi là để tự răn mình, tự thúc đẩy mình tiếp tục rèn luyện, phấn đấu.
Bên cạnh đó, cũng cần suy ra rằng lời chê, khen đúng có lợi cho ta, lời xu nịnh bợ đỡ có hại cho ta thì chúng cũng lợi hại như nhau đối với người khác. Vì vậy, trong cuộc sống phải biết cân nhắc để có lời chê, lời khen đúng nhằm tự khẳng định giá trị của mình, tốt cho bạn bè mình mà tránh buông những lời “Mật ngọt chết ruồi” thấp hèn kia.
Câu nói của Tuân Tử trải mấy nghìn năm ngụp lặn với thời gian, thách thức sự thăng trầm của lịch sử xã hội, khi đến với chúng ta vẫn còn nguyên giá trị. Đó là bài học nhìn người, làm người sao cho phải đạo, đúng lí ở trên đời. Không chỉ là sự khen, chê, còn bao điều cổ nhân chiêm nghiệm đó chính là tinh hoa của đạo học nhân loại chúng ta cần thấm thía, học tập.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *