Bài học Đây thôn Vĩ Dạ sẽ giúp các em cảm nhận được bài thơ là bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh, thể hiện nỗi buồn cô đơn của Hàn Mặc Tử trong một mối tính xa xăm, vô vọng. Đó còn là tâm lòng thiết tha của nhà thơ với thiêu nhiên, cuộc sống và con người. Nhận biết sự vận động của tứ thơ, tâm trạng của chủ thể trữ tình và bút pháp độc đáo, tài hoa của nhà thơ mới. Học 247 mời các em tham khảo bài giảng Đây Thôn Vĩ Dạ.
⇒ Tất cả gợi lên một cảnh vườn quê đẹp và đầy sức sống - gần gũi, thân quen.
⇒ Cảnh và người tạo nên được sự hài hoà. Cảnh đẹp và người đôn hậu.
⇒ Tâm trạng nhân vật trữ tình: đợi chờ khắc khoải, da diết.
⇒ Tâm trạng bâng khuâng của nhà thơ trước cảnh cũ người xưa → nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu cuộc đời và con người.
Bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ bên dòng sông Hương êm đềm, thơ mộng được khắc họa lại trong trí tưởng tượng của người ở nơi xa đang hướng về xứ Huế với biết bao yêu thương, khao khát, hi vọng.
Đề: Cảm nhận về bức tranh xứ Huế trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Gợi ý làm bài
“Ngoài kia xuân đã thắm duyên chưa?
Trời ở trong đây chẳng có mùa
Không có niềm trăng và ý nhạc
Có người cung nữ nhớ thương vua.”
(Nhớ thương)
⇒ Cảnh và người tạo nên được sự hài hoà. Cảnh đẹp và người đôn hậu. Trong hoài niệm của nhà thơ, thôn Vĩ hiện lên thật đẹp, cảnh và người giao hòa nên thơ, nên họa.
⇒ Tâm trạng nhân vật trữ tình: đợi chờ khắc khoải, da diết. Trong nỗi đợi chờ ấy, bức tranh thôn Vĩ đêm trăng vẫn vô cùng đẹp, đẹp đến nao lòng.
Bình Dương
Hàn Mặc Tử - một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót xa và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào trong thơ, những giây phút ông đã chắc lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Để nắm được nội dung và nghệ thuật của bài thơ, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Đây thôn Vĩ Dạ.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau. Để cảm nhận được những tình cảm mà Hàn Mặc Tử gửi gắm vào bài thơ, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
- So sánh bức tranh thiên nhiên trong Vội vàng và Đây thôn Vĩ Dạ
- Vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế qua hai tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ và Ai đã đặt tên cho dòng sông
- Lập dàn ý so sánh hai đoạn thơ trong Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử và Tây Tiến - Quang Dũng
- Lập dàn ý bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Cảm nhận hai khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Thế giới nghệ thuật trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Cảm nhận về khổ thơ cuối trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Cảm nhận về khổ thơ thứ hai trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Cảm nhận về khổ thơ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Đôi nét về tác giả Hàn Mặc Tử và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
- Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Bình giảng khổ hai trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.
Câu trả lời của bạn
Huế đẹp và thơ. Núi sông diễm lệ. Con gái Huế xinh tươi và đa tình. Nếp sống thanh lịch của miền núi Ngự sông Hương đã trở thành ấn tượng và cảm mến sâu sắc đối với bao người gần xa:
"Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ
Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt..."
Thơ ca viết về Huế có nhiều bài hay. Tiêu biểu là bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử (1912 - 1940), nhà thơ lỗi lạc trong phong trào "Thơ mới". Bài thơ có ba khổ thơ thất ngôn nói về cảnh sắc và cô gái Vĩ Dạ trong hoài niệm với bao cảm xúc bâng khuâng, man mác, thẫn thờ.
Vĩ Dạ, một làng cổ xinh đẹp nằm bên bờ Hương Giang thuộc cố đô Huế, qua hồn thơ Hàn Mặc Tử mà trở nên gần gũi yêu thương đối với nhiều người trong bảy mươi năm qua. Đây là khổ thơ thứ hai của bài "Đây thôn Vĩ Dạ":
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh vật thôn Vĩ khi "nắng mai lên"... Ở khổ thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử nhớ đến một miền sông nước mênh mang, bao la, một không gian nghệ thuật nhiều thương nhớ và lưu luyến. Có gió, nhưng "gió theo lối gió". Cũng có mây, nhưng "mây đường mây". Mây gió đôi đường, đôi ngả:
"Gió theo lối, gió/mây đường mây".
Cách ngắt nhịp 4/3, với hai vế tiểu đối, gợi tả một không gian gió, mây chia xa, như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Chữ "gió" và "mây" được điệp lại hai lần trong mỗi vế tiểu đối đã gợi lên một bầu trời thoáng đãng, mênh mông. Thi nhân đã và đang sống trong cảnh ngộ chia li và xa cách nên mới cảm thấy gió mây đôi ngả đôi đường như tình và lòng người bấy nay. Ngoại cảnh gió mây chính là tâm cảnh Hàn Mặc Tử.
Không có một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy. Mà chỉ có "Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay". Cảnh vật mang theo bao nỗi niềm. Sông Hương lững lờ trôi xuôi êm đềm, trong tâm tưởng thi nhân đã hoá thành "dòng nước buồn thiu", càng thêm mơ hồ, xa vắng. "Buồn thiu" là buồn héo hon cả gan ruột, một nỗi buồn day dứt triền miên, cứ thấm sâu mãi vào hồn người. Hai tiếng "buồn thiu" là cách nói của bà con xứ Huế. Bờ bãi đôi bờ sông cũng vắng vẻ, chỉ nhìn thấy "hoa bắp lay". Chữ " lay" gợi tả hoa bắp đung đưa trong làn gió. Hoa bắp, hoa bình dị của đồng nội cũng mang tình người và hồn người.
Hai câu thơ thất ngôn với bốn thi liệu (gió, mây, dòng nước, hoa bắp) đã hội tụ hồn vía cảnh sắc thôn Vĩ. Hình như đó là cảnh chiều hôm? Hàn Mặc Tử tả ít mà gợi nhiều, tượng trưng mà ấn tượng. Ngoại cảnh thì chia lìa, buồn lặng lẽ biểu hiện một tâm cảnh: thấm thía nỗi buồn xa vắng, cô đơn.
Hai câu thơ tiếp theo gợi nhớ một cảnh sắc thơ mộng, cảnh đêm trăng trên Hương Giang ngày nào. "Dòng nước buồn thiu" đã biến hoá kì diệu thành "sông trăng" thơ mộng:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Hàn Mặc Tử được nhiều người ngợi ca, kết tinh rực rỡ bút pháp nghệ thuật tài hoa lãng mạn. Một vần lưng tài tình. Chữ "đó" cuối câu 3 bắt vần với chữ "có" đầu câu 4, âm điệu vần thơ cất lên như một tiếng khẽ hỏi thầm "có chở trăng về kịp tối nay?". "Thuyền ai" phiếm chỉ gợi lên bao ngỡ ngàng bâng khuâng, tưởng như quen mà lạ, gần đó mà xa xôi. Con thuyền mồ côi nằm trên bến đợi "sông trăng" là một nét vẽ thơ mộng và độc đáo. Đã có "Thuyền ai đậu bến Cô Tô" hiện lên trong ánh trăng tà và tiếng quạ kêu sương trong thơ Trương Kế đời Đường. Đã có "Sông xuân đâu chẳng sáng ngời trăng" trong "Xuân giang hoa nguyệt dạ" của Trương Nhược Hư, 1300 năm về trước. Lại có cảnh "Gió trăng chứa một thuyền đầy" (Nguyễn Công Trứ). Còn có "Trăng sông Trà như tấm gương soi dòng nước bạc" (Cao Bá Quát) Qua đó, ta thấy hình tượng "sông trăng" là mới mẻ, sáng tạo. Cả hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu thơ nào cũng có trăng. Ánh trăng tỏa sáng dòng sông, con thuyền và bến đò. Con thuyền không chở người (vì người xa cách chia li) mà chỉ "chở trăng về". Phải "về kịp tối nay" vì đã cách xa và mong đợi sau nhiều năm tháng. Con thuyền tình của ước vọng nhưng đã thành vô vọng! Bến sông trăng trở nên vắng lặng vì "thuyền ai" chỉ là con thuyền mồ côi.
Sau cảnh gió, mây, là con thuyền, bến đợi và sông trăng, cảnh đẹp một cách mộng ảo. Cả ba hình ảnh ấy đều biểu hiện một nỗi niềm, một tâm trạng cô đơn, thương nhớ đôi với cảnh và người nơi thôn Vĩ. Như ta đã biết, thời trai trẻ, Hàn Mặc Tử đã từng học ở Huế từng có một mối tình đơn phương với một thiếu nữ thôn Vĩ, mang tên một loài hoa. Với chàng thi sĩ tài hoa, đa tình và bất hạnh, đang sống trong cô đơn và bệnh tật, nhớ Vĩ Dạ là nhớ cảnh cũ người xưa. Cảnh "gió theo lối gió, mây đường mây", cảnh "thuyền ai đậu bến sông trăng đó" là cảnh đẹp mà buồn. Buồn vì chia lìa, xa vắng, lẻ loi và vô vọng.
Khổ thơ trên đây, mỗi câu, mỗi chữ, mỗi vần thơ đều thấm đẫm tình thương nhớ và một nỗi "buồn thiu" lẻ loi, vần thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Thơ Hàn Mặc Tử, đúng là thơ trữ tình hướng nội "tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này"...
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Cái lạ trong bài thơ đây thôn vĩ dạ của tác giả hàn mặc tử?
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Lập dàn ý chi tiết về vẻ đẹp thiên nhiên qua ba bài thơ "vội vàng ","tràng giang ","đây thôn vĩ dạ"
Câu trả lời của bạn
MỞ BÀI
Rút trong tập Thơ thơ tập thơ đầu của Xuân Diệu, xuất bản năm 1938.
Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết quý trọng và sống hết mình với tuồi trẻ và thời gian.
PHÂN TÍCH
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
- Thiên nhiên rất đẹp, đầy hương sắc của hoa đồng nội xanh rì, của lá cành tơ phơ phất, tuần tháng mật cùa ong bướm, khúc tình si cùa yến anh. và này đây ánh sáng chớp của hàng mi. Chữ này đây được nhắc lại năm lần để diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Vi lẽ đó nên phải vội vàng tắt nắng đi và buộc gió lại. Trong cái phi lí có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn.
- Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất cùa một ngày, đó là lúc Thần Vui hàng gõ cửa. Tháng giêng là tháng khởi đầu cùa mùa xuân, ngon như một cặp môi gần. Một chữ ngon chuyên đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Chiếc môi ấy chác là của giai nhân, của trinh nữ. Đây là câu thơ hay nhất mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu.
Chắc là Xuân Diệu viết bài thơ này trước năm 1938, lúc ông trên dưới 20 tuổi - cái tuổi thanh xuân bừng sáng, nhưng thi sĩ đã vội vàng một nửa - cách nói rất thơ – chẳng cần đến tuổi trung niên (nắng hạ) mới luyến tiếc tuổi hoa niên. Dấu chấm giữa dòng thơ, rất mới, thơ cổ không hề có. Như một tuyên ngôn về vội vàng:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ quá thơ mộng. Đang tuổi hoài niên mà đã “vội vàng một nửa” ... Cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ rất hồn nhiên, mới mẻ.
- Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Thời gian là vàng ngọc. Bóng ngả lưng ta. Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu (tuấn mã) vút qua cửa sổ, như nước chảy qua cầu. Thời gian một đi không trở lại. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng của nhà thơ: tương phẩn đối lập để chỉ ra một đời người chỉ có một tuổi xuân; tuổi trẻ một đi không trở lại.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa lù tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại...
Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới - qua, non - già, hết - mất, rộng - chật, tuần hoàn - bất phục hoàn, vô hạn - hữu hạn - đế khẳng định một chân lí - triết lí: tuổi xuân một đi không trở lại. Phải quý tuổi xuân.
- Cách nhìn nhận về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo, nhạy cảm. Trong hiện tại đã bắt đầu có quá khứ và tương lai; cái đang có lại đang mất dần đi...
Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn chia phôi hoậc tiễn biệt, hờn vì xa cách, sợ vì phai tàn sắp sửa. Cám xúc lãng mạn dào dạt trong cái vị đời. Nói cảnh vật thiên nhiên mà là để nói về con người, nói về nhịp sống khẩn trương, vội vàng của tạo vật. Với Xuân Diệu, hầu như cuộc sống nơi vườn trầu đều ít nhiều mang bi kịch về thời gian.
Mùi tháng năm đểu rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Cũng là gió, là chim... nhưng gió thì thào vì hờn. chim bỗng ngừng hót. ngừng rao vì sợ! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để là nổi bật nghịch lí giữa mùa xuân - tuổi trẻ và thời gian:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối. Lo lắng. Chợt tỉnh mùa chưa ngã chiểu hôm, nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
Chẳng bao giờ / ôi / Chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi / mùa chưa ngả chiều hôm...
Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm Thơ tiểc cảnh :
Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên.
'(Bài số 3)
Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm.
(Bái số 7)
Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong Vội vàng về màu thời gian, về sắc thời gian và tuổi trẻ. Thật yêu đời. Thật ham sống.
- Mở đầu bài thơ là cái tôi hăm hở: Tôi muốn tắt nắng đi. Kết thúc bài thơ là ta, là mọi tuổi trẻ. Một sự hòa nhập và đồng điệu trong dòng chảy thời gian: Sống mãnh liệt, sống hết mình. Sống nồng nàn say mê. Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả. Ngôn từ đậm màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: ta muốn ôm, ta muốn riết, ta muốn say, ta muốn thâu.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu man mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.
Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi. Nghệ thuật vắt dòng với ba từ và xuất hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cám xúc: say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơ, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng... đều là khao khát cúa thi nhân:
Cho chếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
III. KẾT LUẬN
Sống vội váng không có nghĩa là sông gấp, ích kỉ trong hưởng thụ. Vội vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là đế yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thế hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống vội vàng như vậy. 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.
Bài thơ Vội vàng cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân ván, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. Vội vàng tiêu biểu nhất cho Thơ mới, thơ lãng mạn 1932-1941.
I. Mở bài:
Từ ngàn xưa, thiên nhiên đã trở thành niềm cảm hứng mãnh liệt khơi nguồn sáng tạo cho thi nhân. Ta đã từng gặp cảnh bồng lai trong thơ Lý Bạch, một vùng quê mộc mạc, tĩnh lặng trong thơ Nguyễn Khuyến, cảnh sơn thủy hữu tình trong thơ Nguyễn Trãi. Phong trào Thơ mới (1932-1945) với sự tập hợp của nhiều gương mặt thi nhân, đã mang đến cho người đọc nhiều cảnh sắc thiên nhiên độc đáo, vây phủ tâm trạng của thi nhân. Đọc Tràng giang của Huy Cận, ta bắt gặp một thiên nhiên kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ khiến ta như “đứng trên thiên văn đài của linh hồn, nhìn cõi bát ngát”.
II. Thân bài
1. Tràng giang là bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp cổ điển
Nếu thiên nhiên trong, “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu mang vẻ đẹp thướt tha thì thiên nhiên trong Tràng giang của Huy Cận lại mang vẻ đẹp hùng vĩ, rợn ngợi của “trời rộng - sông dài’’.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
- Dòng sông mênh mang, chảy dài trong không gian vắng lặng, bát ngát.
- Những con sóng lớp lớp nối dài như nỗi buồn miên man không đứt.
- Song song với chiếc thuyền như buông trôi, phó mặc cho cuộc đời là nỗi buồn “điệp điệp” gợi niềm chia biệt.
- Cảnh ở đây sầu từ “con thuyền", “cành củi khô”, “dòng nước” đến "sóng”, “bờ xanh - bãi vàng’’ đều cô liêu, đều mang nỗi sầu lớn: bao nhiêu ngả nước, bấy nhiêu ngả sầu, sầu miên man bất tận.
- Không gian mở rộng theo chiều kích về độ cao, rộng, sâu. Những hình ảnh đơn sơ bằng nét vẽ tinh tế giàu sắc thái cổ điển mà vẫn mới mẻ.
- Thiên nhiên mang vẻ đẹp sâu lắng được đặt trong không gian sông nước lặng lẽ và rợn ngợp được khúc xạ qua tâm hổn thỉ sĩ.
2. Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn thi sĩ
- Nỗi buồn của Huy Cận miên man không dứt như sông nước mênh mang bất tận, theo sông nước lan tỏa rất xa. Thấm đượm trong cảnh vật là một linh hồn “mang mang thiên cổ sầu”.
- Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn lãng mạn, mang nỗi buồn của thi sĩ.
- Cái đẹp hiện lên qua tâm hồn thảng thốt của thi nhân:
Lòng quê dợn dợn vời con nước.
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
- Nếu trong “Đây mùa thu tới” nỗi buồn tỏa ra từ nỗi cô đơn, quạnh vắng, “Đây thôn Vĩ Dạ” nỗi buồn nhè nhẹ được cất lên từ ý thức sợ bị lãng quên của nhà thơ, thì “Tràng giang” là nỗi niềm “nhớ nhà” - nhớ một chốn quê hương mà phải chàng đây là hình ảnh Đất Nước bị khuất lấp đâu đó trong màn đêm nô lệ?
III. Kết bài
Miêu tả thiên nhiên, trong thơ xưa "... thường chuộng thiên nhiên đẹp: Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông” là di sản của thơ phương Đông. Thời đại Thơ mới là thời đại muốn cái “tôi” được khẳng định. Vì vậy, thiên nhiên trong thơ mới mang một sắc thái khác khi miêu tả thiên nhiên.
Tìm hiểu vẻ đẹp thiên nhiên trong Thơ mới là tìm hiểu vẻ đẹp mang tính thời đại. Các nhà thơ, trong đó có Huy Cận đã gởi cái tôi cá nhân của mình vào thiên nhiên với nỗi buồn của thế hệ sống dưới thời Pháp thuộc.
Phía sau bức tranh thiên nhiên dẹp nhưng đượm buồn trong bài “Tràng giang" là bức tranh tâm trạng của Huy Cận một bức tranh tâm hồn giàu tính nhân văn.
MỞ BÀI
Rút trong tập Thơ thơ tập thơ đầu của Xuân Diệu, xuất bản năm 1938.
Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết quý trọng và sống hết mình với tuồi trẻ và thời gian.
PHÂN TÍCH
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
- Thiên nhiên rất đẹp, đầy hương sắc của hoa đồng nội xanh rì, của lá cành tơ phơ phất, tuần tháng mật cùa ong bướm, khúc tình si cùa yến anh. và này đây ánh sáng chớp của hàng mi. Chữ này đây được nhắc lại năm lần để diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Vi lẽ đó nên phải vội vàng tắt nắng đi và buộc gió lại. Trong cái phi lí có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn.
- Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất cùa một ngày, đó là lúc Thần Vui hàng gõ cửa. Tháng giêng là tháng khởi đầu cùa mùa xuân, ngon như một cặp môi gần. Một chữ ngon chuyên đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Chiếc môi ấy chác là của giai nhân, của trinh nữ. Đây là câu thơ hay nhất mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu.
Chắc là Xuân Diệu viết bài thơ này trước năm 1938, lúc ông trên dưới 20 tuổi - cái tuổi thanh xuân bừng sáng, nhưng thi sĩ đã vội vàng một nửa - cách nói rất thơ – chẳng cần đến tuổi trung niên (nắng hạ) mới luyến tiếc tuổi hoa niên. Dấu chấm giữa dòng thơ, rất mới, thơ cổ không hề có. Như một tuyên ngôn về vội vàng:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ quá thơ mộng. Đang tuổi hoài niên mà đã “vội vàng một nửa” ... Cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ rất hồn nhiên, mới mẻ.
- Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Thời gian là vàng ngọc. Bóng ngả lưng ta. Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu (tuấn mã) vút qua cửa sổ, như nước chảy qua cầu. Thời gian một đi không trở lại. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng của nhà thơ: tương phẩn đối lập để chỉ ra một đời người chỉ có một tuổi xuân; tuổi trẻ một đi không trở lại.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa lù tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại...
Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới - qua, non - già, hết - mất, rộng - chật, tuần hoàn - bất phục hoàn, vô hạn - hữu hạn - đế khẳng định một chân lí - triết lí: tuổi xuân một đi không trở lại. Phải quý tuổi xuân.
- Cách nhìn nhận về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo, nhạy cảm. Trong hiện tại đã bắt đầu có quá khứ và tương lai; cái đang có lại đang mất dần đi...
Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn chia phôi hoậc tiễn biệt, hờn vì xa cách, sợ vì phai tàn sắp sửa. Cám xúc lãng mạn dào dạt trong cái vị đời. Nói cảnh vật thiên nhiên mà là để nói về con người, nói về nhịp sống khẩn trương, vội vàng của tạo vật. Với Xuân Diệu, hầu như cuộc sống nơi vườn trầu đều ít nhiều mang bi kịch về thời gian.
Mùi tháng năm đểu rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Cũng là gió, là chim... nhưng gió thì thào vì hờn. chim bỗng ngừng hót. ngừng rao vì sợ! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để là nổi bật nghịch lí giữa mùa xuân - tuổi trẻ và thời gian:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối. Lo lắng. Chợt tỉnh mùa chưa ngã chiểu hôm, nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
Chẳng bao giờ / ôi / Chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi / mùa chưa ngả chiều hôm...
Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm Thơ tiểc cảnh :
Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên.
'(Bài số 3)
Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm.
(Bái số 7)
Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong Vội vàng về màu thời gian, về sắc thời gian và tuổi trẻ. Thật yêu đời. Thật ham sống.
- Mở đầu bài thơ là cái tôi hăm hở: Tôi muốn tắt nắng đi. Kết thúc bài thơ là ta, là mọi tuổi trẻ. Một sự hòa nhập và đồng điệu trong dòng chảy thời gian: Sống mãnh liệt, sống hết mình. Sống nồng nàn say mê. Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả. Ngôn từ đậm màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: ta muốn ôm, ta muốn riết, ta muốn say, ta muốn thâu.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu man mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.
Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi. Nghệ thuật vắt dòng với ba từ và xuất hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cám xúc: say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơ, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng... đều là khao khát cúa thi nhân:
Cho chếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
III. KẾT LUẬN
Sống vội váng không có nghĩa là sông gấp, ích kỉ trong hưởng thụ. Vội vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là đế yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thế hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống vội vàng như vậy. 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.
Bài thơ Vội vàng cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân ván, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. Vội vàng tiêu biểu nhất cho Thơ mới, thơ lãng mạn 1932-1941.
Hướng dẫn soạn bài thơ "Đây thôn vĩ dạ" của Hàn Mạc Tử
Câu trả lời của bạn
I. Tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả
Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, người làng Lệ Mĩ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là Quảng Bình). Ông sinh ra trong một gia đình viên chức ngheo theo đạo Thiên Chúa. Cha mất sớm, ông sống với mẹ ở Quy Nhơn.
Học xong, Hàn Mặc Tử làm công chức cho sở đạc điền Bình Định rồi vào Sài Gòn làm báo. Đến năm 1936, mắc bệnh phong, ông về hẳn Quy Nhơn chữa bệnh rồi sau đó mất tại trại phong Quy Hòa năm 1940. Tuy cuộc đời có nhiều bi thương nhưng Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới.
2. Tác phẩm
Xuất xứ của bài thơ Đây thôn vĩ dạ khá đặc biệt. Khoảng giữa những năm 1932-1933, Hàn Mặc Tử làm nhân viên Sở đạc điền Bình Định. Thi sĩ có thầm yêu Hoàng Thị Kim Cúc quê ở Vĩ Dạ nhưng sống ở Quy Nhơn. Ít lâu sau Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo, khi mắc bệnh phong, trở lại Quy Nhơn thì Kim Cúc đã theo cha về quê nhà. Nhà thơ đã nhờ một người bạn có việc ra Huế mang tập Gái quê tặng Cúc. Nhận được sách, Kim Cúc đã gửi cho Hàn Mặc Tử một bức tranh phong cảnh Huế có hình người chèo đò trên sông Hương với lời hỏi thăm hỏi chúc thi sĩ mau bình phục. Sau đó, khoảng năm 1939, Kim Cúc nhận được bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ do Hàn Mặc Tử tặng kèm theo mấy dòng cảm tạ chân thành.
Như vậy, có thể nói, bức tranh phong cảnh và những lời hỏi thăm của Kim Cúc đã gợi cảm hứng để Hàn Mặc tử viết Đây thôn Vĩ Dạ, thể hiện tình yêu thầm kín của mình, tâm trạng của mình trong hoàn cảnh éo le, bất hạnh. Tuy nhiên, cần hiểu rằng đây chỉ là một dyên cớ để nhà thơ bày tỏ tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với cuộc sống, với đất nước và con người.
II. Trả lời câu hỏi
1. Câu thơ mở đầu "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" là câu hỏi mà thực ra là lời trách móc nhẹ nhàng và cũng là lời mời gọi tha thiết của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ. Thực ra câu hỏi vọng lên từ phương trời xa xôi ấy đã là duyên cớ để khơi dậy trong tâm hồn nhà thơ bao kỉ niệm sâu sắc, bao hình ảnh đẹp đẽ, đáng yêu về xứ Huế, trước hết là về Vĩ Dạ, nơi có người mà nhà thơ thương mến.
Câu thơ "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên" như phác qua cái nhìn từ xa tới, chưa đến Vĩ Dạ nhưng đã thấy hàng cau thẳng tắp, cao vút, vượt lên trên những tán cây khác, những tàu lá cau lấp lánh ánh sáng mặt trời buổi sớm mai. Câu thơ có 7 chữ mà có tới 2 chữ nắng, tưởng như Hàn Mặc Tử đã gợi đúng cái đặc trưng của nắng miền trung: nắng chiều và nắng rực rỡ ngay từ lúc bình minh.
Câu thơ "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" lại là cái nhìn thật gần của người như đang đi trong những khu vườn tươi đẹp của thôn Vĩ. Từ mướt gợi sự tươi non, sạch sẽ, láng bóng của từng chiếc là dưới ánh mặt trời. Trong khi đó, hình ảnh so sánh xanh như ngọc gợi hình dung về những tán cây xanh mướt, mượt mà được ánh nắng mặt trời rực rỡ buổi sơm mai chiếu xuyên qua ánh lên màu xanh trong suốt như màu ngọc.
Trong ba câu đầu, con người chưa xuất hiện. Đến câu thơ thứ tư, sự xuất hiện ấy cũng không trọn vẹn. Nó ngượng ngùng, e ấp "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Một sự xuất hiện kín đáo rất đúng với bản tính của con người đất Huế, bởi chỉ có thể thấy thấp thoáng sau những chiếc lá trúc là khuôn mặt chữ điền, khuôn mặt của người ngay thẳng, cương trực, phúc hậu theo quan niệm của người xưa. Nếu ta hiểu câu thơ đầu là lời của người con gái Huế thì ở câu này hẳn nhân vật trữ tình có lẽ là chủ nhân của "vườn ai". Thế nhưng nếu câu đầu là lời của tác giả thì cũng có thể hiểu đây là hình ảnh của người thi sĩ đang rất khổ đau.
2. Hàn Mặc Tử chuyển mạch thơ sang khổ thứ hai một cách khá đột ngột bằng những hình ảnh ấn tượng. Ở khổ thơ này tâm trí Hàn Mặc Tử hướng về sông Hương với hai nét tiêu biểu cho xứ Huế là êm đềm và thơ mộng. Nhưng không chỉ có vậy, câu thơ còn ẩn sâu trong đó là biết bao cảm xúc, suy tư của nhà thơ.
Trong hai câu đầu, sông Hương hiện lên với vẻ êm đềm, hợp với nhịp điệu khoan thai của xứ Huế. Tuy nhiên, có vẻ như sự êm đềm chỉ ở cái hình thức bên ngoài, bởi câu thơ đã tàng ẩn một sự chia lìa, tan tác "gió theo lối gió, mây đường mây". Sự chia lìa đã diễn ra ngay trong cả những thứ vốn không thể chia lìa được. Động từ lay thật gợi buồn, buồn đến hiu hắt vây.
Hai câu thơ sau là hai chiều cảm xúc: tâm hồn nhà thơ có buồn , có cô đơn nhưng vẫn chan chứa tình yêu con người và thiên nhiên xứ Huế. Cảnh thực mà cứ như ảo, vì dòng sông không còn là dòng sông của sóng nước nữa mà là dòng sông sánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng. Cũng vì thế, con thuyền vốn có thể có thực trên sông đã trở thành một hình ảnh của mộng tưởng. Nó đậu trên bến sông trăng để chở trăng về một nơi nào đó trong mơ. Chữ kịp hé mở cho ta một mặc cảm: mặc cảm về một hiện tại ngắn ngủi, hé mở cho ta thấy chủ thể đang cố chạy đua với thời gian.
3. Ở hai khổ thơ trên, Hàn Mặc Tử hướng đến thiên nhiên xứ Huế để mà tâm sự. Trong khổ thơ cuối này, nhà thơ trực tiếp tâm sự với người xứ Huế. Câu thơ mở đầu khổ như nhấn mạnh thêm nỗi xót xa "Mơ khách đường xa, khách đường xa" như lời thầm tâm sự của nhà thơ với chính mình trước lời mời của cô gái thôn Vĩ, có lẽ nhà thơ mãi chỉ là người khách quá xa xôi, hơn thế chỉ là người khách trong mơ mà thôi.
Câu thơ cuối mang chút hoài nghi mà lại chan chứa niềm thiết tha với cuộc đời "Ai biết tình ai có đậm đà?". Đại từ phiếm chỉ "ai" mở ra hai lớp nghĩa của câu thơ dù hiểu theo theo nghĩa nào thì câu thơ cũng chỉ làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.
4. Về tứ thơ và bút pháp của bài thơ
- Tứ thơ là ý chính, ý lớn bao quát bài thơ, là điểm tựa cho sự vận động của cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng toàn bài thơ. Ở bài thơ này, tứ thơ bất đầu với cảnh đẹp thôn Vĩ bên dàng sông Hương, từ đó khơi gợi liên tưởng thực - ảo và mở ra bao nhiêu nỗi niềm cảm xúc suy tư về cảnh và người xứ Huế với phấp phỏng những mặc cảm, uẩn khúc, niềm hy vọng và niềm tin yêu.
- Bút pháp của nhà thơ sử dụng trong bài thơ này kết hợp hài hòa điệu tả thực, tượng trưng, lãng mạn và trữ tình. Cảnh đẹp xứ Huế đậm nét tả thực mà lại có tính chất tượng trưng. Sự mơ mộng làm tăng thêm sắc thái lãng mạn, chân thực của cảm xúc làm đậm thêm chất trữ tình.
Cau tho cua Han Mac Tu thieu tu gi: khong ban...uoc hen ho
Câu trả lời của bạn
điều
Đoàn viên
đoàn viên
LẬp dàn ý chi tiết cho đề bài : bài thơ đây thôn vĩ dạ nói về tình yêu hay tình đời tình người? Vì sao
Câu trả lời của bạn
1. Tác giả
Hàn Mặc Tử (1912-1940) là bút danh của Nguyễn Trọng Trí. Các bút danh khác: Phong Trần, Lệ Thanh. Ông thuộc nhóm thơ Bình Định. Một cuộc đời hết sức lãng mạn và đầy bi kịch. Một nhà thơ tài năng, cảm hứng sáng tạo thi ca dào dạt với những tập thơ: Gái quê, Thơ Điên, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, và 2 kịch thơ: Duyên kì ngộ, Quần tiên hội.
Phong cách nghệ thuật của Hàn Mặc Tử rất khác lạ: bên cạnh những vần thơ điên loạn lại xuất hiện những vần thơ hồn nhiên, trong trẻo lạ thường như "Mùa xuân chín", "Đây thôn Vĩ Dạ"…
2. Xuất xứ, chủ đề
- Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong tập Thơ Điên.
- Bài thơ nói về cảnh đẹp Vĩ Dạ với một tình yêu thiên nhiên thiết tha, một hoài niệm bâng khuâng vương vấn.
3. Nội dung cảm nhận
a. Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Vĩ Dạ một làng cổ đẹp nổi tiếng bên bờ Hương Giang, ngoại ô cố đô Huế. Phong cảnh êm đềm thơ mộng. Với Hàn Mặc Tử chắc là có nhiều kỉ niệm đẹp? Câu mở bài như một lời chào mời, như một tiếng nhẹ nhàng trách móc: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" Cảnh Vĩ Dạ dược nói đến là hàng cau với nắng mới lên, một bình minh rạng ngời. Là màu xanh của cây trái, của "vườn ai", ngỡ ngàng bảng khuâng, rồi thốt lên "mướt quá xanh như ngọc". sắc xanh mượt mà, láng bóng ngời lên. Một so sánh rất đặc sắc gợi lên sức xuân, sắc xuân của "vườn ai?" Câu thứ tư có bóng người xuất hiện thấp thoáng sau hàng trúc: "gương mặt chữ điền". Nét vẽ "lá trúc che ngang" là một nét vẽ thần tình gợi tả vẻ kín đáo, duyên dáng của người con gái thôn Vĩ, Và "vườn ai" ấy là vườn xuân thiếu nữ, cau, nắng, màu xanh như ngọc của vườn ai, lá trúc và gương mặt chữ điền - năm nét vẽ, nét nào cũng tinh tế, tao nhã, gợi nhiều thương mến bâng khuâng.
b. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó..
- Một miền quê thoáng đãng, thơ mộng. Có gió, mây, cỏ hoa, có dòng nước. Cảnh đẹp đầy thi vị, cổ điển. Gió mây đôi ngả phân li. Dòng nước buồn thiu, buồn xa vắng mơ hồ. Hoa bắp nhè nhẹ "lay" cũng gợi buồn:
"Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay".
Khổ thơ thứ nhất nói đến "nắng mới lên", nắng bình minh. Khổ thơ thứ hai nói đến "bến sông trăng", bến đò trong hoài niệm. Vầng trăng của thương nhớ đợi chờ. "Thuyền ai" có lẽ là con thuyền thiếu nữ? Vần thơ trăng đẹp nhất trong thơ Hàn Mặc Tử. Có bến sông trăng, có con thuyền trăng. Thật mơ mộng tình tứ:
"Thuyền ai đậụ bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Câu thơ của Hàn Mặc Tử về bến sông trăng và thuyền ai gợi nhớ đến vần ca dao thuyền nhớ bến... bến đợi thuyền. Và vì thế nó gọi lên một mối tình thường nhớ, đợi chờ man mác, mơ hồ, bâng khuâng.
c. Ai biết tình ai có đậm đà?
- Một chữ "mơ" đầy tình tứ trong câu thơ có nhạc điệu chơi vơi: "Mơ khách đường xa, khách đường xa". Du khách hay thôn nữ Vĩ Dạ? Chắc lại là giai nhân mà thi nhân từng mơ ước: "Áo em trắng quá nhìn không ra". Vừa thực vừa mộng. Con người của thực tại hay con người của hoài niệm? Sương khói của bến sông trăng hay miệt vườn Vĩ Dạ đã làm mờ nhân ảnh của giai nhân? Trong cảnh có tình. Trong tình có màn sương khói, một thứ tình yêu kín đáo, e dè, thiết tha:
"Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
Toàn bài thơ có bốn từ "ai" đại từ phiếm chỉ cùng xuất hiện trong các câu hỏi tu từ, không chỉ góp phần tạo nên âm điệu lâng lâng, ngỡ ngàng mà còn dẫn hồn người đọc nhớ về một miền dân ca Huế man mác, sâu lắng, bồi hồi, thiết tha:
"Núi Truồi ai đắp mà cao,
Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?
Nong tằm, ao cá, nương dâu
Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò..."
"Đây thôn Vĩ Dạ" ngỡ là một bài thơ tả cảnh, nhưng đích thực là một bài thơ tình - tình trong mộng tưởng. Cảnh rất đẹp, rất hữu tình, âm diệu thiết tha tình tứ. Tình cũng rất đẹp nhưng chỉ là mộng ảo. Bến sông trăng còn đó, nhưng con thuyền tình có kịp chở trăng về tối nay? Xa vời, mênh mông. Áo trắng giai nhân, màu trắng trong trinh nữ ấy đã trở thành hoài niệm trong miền thương nhớ của thi sĩ đa tình mà nhiều bất hạnh. "Đây thôn Vĩ Dạ" là bài thơ đẹp vầ hay để ta nhớ và ta thương.
Phân tích bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mạc Tử
Câu trả lời của bạn
- Vài nét về tác giả ( Là người có số phận bất hạnh; Một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt trong phong trào thơ mới – CLV; Ngôi sao chổi trên bầu trời thơ ca VN.)
- Vài nét về bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” ( Xuất xứ; Bài thơ được viết trong thời gian thi nhân nằm điều trị tại bệnh viện Quy Hòa – Quy Nhơn, khơi nguồn cảm xúc từ mối tình đơn phương của HMT với HTKC; Bài thơ là bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ và lòng yêu đời ham sống mãnh liệt mà đầy uẩn khúc của nhà thơ..).
2. Thân bài :
- Về mặt nội dung:
a. Khổ 1: Cảnh ban mai thôn Vĩ và tình người tha thiết
+ Câu đầu là câu hỏi tu từ mang nhiều sắc thái: một câu hỏi hay lời trách nhẹ nhàng, lời mời mọc ân cần
+ Ba câu sau gợi lên vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên thôn Vĩ trong khoảnh khắc hừng đông. ( hình ảnh “nắng hàng cau”, “vườn tược” - bình); Đằng sau bức tranh phong cảnh là tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên, con người tha thiết cùng niềm băn khoăn, day dứt của tác giả
b. Khổ 2: Cảnh hoàng hôn thôn Vĩ và niềm đau cô lẻ, chia lìa
+ Hai câu đầu bao quát toàn cảnh với hình ảnh gió, mây chia lìa đôi ngả; “dòng nước buồn hiu, hoa bắp lay” gợi nỗi buồn hiu hắt. ( bình)
+ Hai câu sau tả dòng Hương trong đêm trăng lung linh, huyền ảo vừa thực vừa mộng. Đằng sau cảnh vật là tâm trạng vừa đau đớn, khắc khoải, vừa khát khao cháy bỏng của nhà thơ
c. Khổ 3: Nỗi niềm thôn Vĩ
+ Hai câu đầu: bóng dáng người xa hiện lên mờ ảo, xa vời trong “sương khói mờ nhân ảnh” trong cảm nhận của khách đường xa
+ Hai câu cuối: mang chút hoài nghi mà lại chan chứa niềm thiết tha với cuộc đời
- Về mặt nghệ thuật:
+ Trí tưởng tượng phong phú
+ Nghệ thuật so sánh, nhân hóa, thủ pháp lấy động gợi tĩnh, sử dụng câu hỏi tu từ…
+ Hình ảnh sáng tạo có sự hòa quyện giữa thật và ảo.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *