Bài học Đây thôn Vĩ Dạ sẽ giúp các em cảm nhận được bài thơ là bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh, thể hiện nỗi buồn cô đơn của Hàn Mặc Tử trong một mối tính xa xăm, vô vọng. Đó còn là tâm lòng thiết tha của nhà thơ với thiêu nhiên, cuộc sống và con người. Nhận biết sự vận động của tứ thơ, tâm trạng của chủ thể trữ tình và bút pháp độc đáo, tài hoa của nhà thơ mới. Học 247 mời các em tham khảo bài giảng Đây Thôn Vĩ Dạ.
⇒ Tất cả gợi lên một cảnh vườn quê đẹp và đầy sức sống - gần gũi, thân quen.
⇒ Cảnh và người tạo nên được sự hài hoà. Cảnh đẹp và người đôn hậu.
⇒ Tâm trạng nhân vật trữ tình: đợi chờ khắc khoải, da diết.
⇒ Tâm trạng bâng khuâng của nhà thơ trước cảnh cũ người xưa → nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu cuộc đời và con người.
Bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ bên dòng sông Hương êm đềm, thơ mộng được khắc họa lại trong trí tưởng tượng của người ở nơi xa đang hướng về xứ Huế với biết bao yêu thương, khao khát, hi vọng.
Đề: Cảm nhận về bức tranh xứ Huế trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Gợi ý làm bài
“Ngoài kia xuân đã thắm duyên chưa?
Trời ở trong đây chẳng có mùa
Không có niềm trăng và ý nhạc
Có người cung nữ nhớ thương vua.”
(Nhớ thương)
⇒ Cảnh và người tạo nên được sự hài hoà. Cảnh đẹp và người đôn hậu. Trong hoài niệm của nhà thơ, thôn Vĩ hiện lên thật đẹp, cảnh và người giao hòa nên thơ, nên họa.
⇒ Tâm trạng nhân vật trữ tình: đợi chờ khắc khoải, da diết. Trong nỗi đợi chờ ấy, bức tranh thôn Vĩ đêm trăng vẫn vô cùng đẹp, đẹp đến nao lòng.
Bình Dương
Hàn Mặc Tử - một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót xa và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào trong thơ, những giây phút ông đã chắc lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Để nắm được nội dung và nghệ thuật của bài thơ, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Đây thôn Vĩ Dạ.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau. Để cảm nhận được những tình cảm mà Hàn Mặc Tử gửi gắm vào bài thơ, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
- So sánh bức tranh thiên nhiên trong Vội vàng và Đây thôn Vĩ Dạ
- Vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế qua hai tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ và Ai đã đặt tên cho dòng sông
- Lập dàn ý so sánh hai đoạn thơ trong Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử và Tây Tiến - Quang Dũng
- Lập dàn ý bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Cảm nhận hai khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Thế giới nghệ thuật trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Cảm nhận về khổ thơ cuối trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Cảm nhận về khổ thơ thứ hai trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Cảm nhận về khổ thơ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Đôi nét về tác giả Hàn Mặc Tử và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
- Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Bài thơ có ba câu hỏi ứng với ba khổ thơ:
- Khổ 1 : Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
- Khổ 2: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
- Có chở trăng về kịp tối nay?
- Khổ 3: Ai biết tình ai có đậm đà?
=> Những câu hỏi trên đều không hướng tới một đối tượng nào cụ thể, vì đây không phải là những câu hỏi kiểu vấn đáp mà chỉ là những hình thức tỏ nỗi niềm tâm trạng (Xem thêm phần phân tích ý nghĩa của những câu thơ này ở phần trên).
Câu trả lời của bạn
- Tứ thơ là ý chính, ý lớn bao quát bài thơ, là điểm tựa cho sự vận động của cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng toàn bài thơ. Ở bài thơ này, tứ thơ bắt đầu với cảnh đẹp thôn Vĩ bên dòng sông Hương, từ đó khơi gợi liên tưởng thực - ảo và mở ra bao nhiêu nỗi niềm cám xúc, suy tư về cánh và người xứ Huế với phấp phỏng những mặc cảm, uẩn khúc, niềm hi vọng, niềm tin yêu.
- Bút pháp của nhà thơ sử dụng trong bài thơ này kết hợp hài hoà điệu tả thực, tượng trưng, lãng mạn và trữ tình. Cảnh đẹp xứ Huế đậm nét tả thực mà lại có tính chất tượng trưng. Sự mơ mộng làm tăng thêm sắc thái lãng mạn. Nét chân thực của cảm xúc làm đậm thêm chất trữ tình.
Câu trả lời của bạn
Ở khổ thơ thứ ba, nhà thơ bộc lộ tâm tư, tình cảm với người xứ Huế:
- Trước hết, điệp ngữ khách đường xa, câu thơ mở đầu khổ thơ nhấn mạnh thêm nỗi xót xa, những lời tâm sự với chính mình
+ Trước lời mời của cô gái thôn Vĩ, có lẽ nhà thơ chỉ là người khách quá xa xôi, hơn thế
+ Thiết tha hướng về thôn Vĩ cảm thấy xa vời, khó tiếp cận
+ Điệp ngữ “khách đường xa” đó là khoảng cách trong tâm tưởng nhà thơ, khoảng cách của hai thế giới
- Hình ảnh khó nắm bắt, mờ ảo của cả con người và cảnh vật thể hiện qua từ: xa, trắng quá, sương khó, mờ, ảnh... tăng cảm giác khó nắm bắt
- Sống trong mơ mộng, hư ảo của sương khói Huế, màu áo dài cũng thấp thoáng, mờ ảo
- Câu thơ cuối gợi chút hoài nghi khi sử dụng đại từ phiếm chỉ ai, mở ra ý nghĩa của câu thơ. Câu thơ cuối mang chút hoài nghi mà lại chan chứa niềm thiết tha với cuộc đời: "Ai biêt tình ai có đậm đà?". Đại từ phiếm chỉ "ai" mở ra hai lớp nghĩa của câu thơ: Nhà thơ làm sao biết được tình người xứ Huế có đậm đà không, hay cũng mờ ảo, dễ có chóng tan như sương khói kia; tuy vậy người Huế có biết chăng tình cảm nhà thơ với cảnh Huế, với người Huế hết sức thắm thiết, đậm đà. Dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ cũng chỉ làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.
=> Những câu thơ gợi lên tình cảm tha thiết, đậm đà của tác giả nhưng chứa đựng nỗi xót xa, cô đơn, trống vắng.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Có thể nói, Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ về tình yêu. Xuyên qua sương khói hư ảo của tình yêu mơ mộng là tình quê, là tình yêu thiết tha đằm thắm với đất nước, quê hương. Với việc khơi gợi lên tình cảm yêu thương chung của nhiều người như thế. Bài thơ diễn tả tâm trạng riêng của tác giá lại tạo được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bén trong tâm hồn của bao thế hệ người đọc.
Câu trả lời của bạn
Nội dung bài thơ thể hiện nỗi buồn, niềm khao khát của một con người tha thiết yêu đời, yêu thiên nhiên, yêu con người. Bài thơ đẹp như thế, trên thực tế lại được sáng tác khi nhà thơ ở trong một hoàn cảnh thật tối tăm, tuyệt vọng (bệnh tật giày vò, nỗi ám ảnh về cái chết, về sự xa lánh của người đời). Điều đó khiến ta thêm thương xót và cảm thông với số phận của tác giả, thêm cảm phục một con người đầy tài năng và nghị lực, con người đã dũng cám vượt lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã để sáng tác ra những vần thơ tài hoa về tình đời, tình người.
Câu trả lời của bạn
phân tích tác phâm
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Làm thơ từ năm mười sáu tuổi, Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có sức sáng tạo dồi dào trong phong trào Thơ mới. Một trong những bài thơ đặc sắc về thiên nhiên, đất nước và con người là Đây thôn Vĩ Dã. Khổ thơ mở đầu sau đây miêu tả thiên nhiên xứ Huế vô cùng gợi cảm, hòa vào một tình cảm nhớ thương đằm thắm, bâng khuâng, tiêu biểu cho một nét phong cách thơ Hàn Mặc Tử:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ!
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có kết cấu ba đoạn. Khổ thơ thứ nhất, tả vườn cây dưới ánh nắng ban mai thanh tân, tinh khiết. Khổ thơ thứ hai gợi lên cảnh trời, trăng, mây nước mang nét buồn xa vắng. Khổ thơ cuối là nỗi lòng nao nao, mơ mộng bởi bóng hình thiếu nữ xứ Huế.
Thôn Vĩ Dạ nằm ngay trên bờ sông Hương, nổi tiếng bởi những vườn cây trái cây tươi bốn mùa, với những ngôi nhà duyên dáng... đi vào văn học qua câu thơ tuyệt bút:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
Nhưng đâu phải chỉ có thiên nhiên gợi niềm ấp yêu tuyệt diệu mà quanh quất đâu đó còn cả bóng dáng con người quen thuộc, có tấm lòng chờ đợi thiết tha.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu thơ là một lời mời mọc, cũng có thể là một lời trách móc thân tình. Ngôn ngữ chọn lọc mà như ngẫu nhiên phóng bút. "Sao anh không về" vừa nhẹ nhàng, vừa dễ thương như một duyên cớ gợi nhớ những hình ảnh của thôn Vĩ ngày nào trong kí ức nhà thơ một thời từng là cậu học trò trường Pe-lơ-ranh xứ Huế với trái tim đa cảm. Hãy về thôn Vĩ, một thôn Vĩ tràn ngập ánh nắng ban mai:
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
Thôn Vĩ Dạ có những hàng cau thẳng tấp. Nắng sớm ban mai tràn ngập không gian. Những tàu lá cau xanh mướt vươn lên đón tia nắng sớm, vô vàn hạt sương đêm đọng lại, lấp lánh màu ngọc bích. Lời thơ thật hồn nhiên. "Vườn ai mướt quá" như tiếng reo vui nhưng cũng thật điêu luyện: từ mướt thật đắt và xanh như ngọc mang nghĩa tượng trưng gợi tả độc đáo.
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Lá trúc thì mảnh mai, thanh tú. Nhiều cành lá xếp lên nhau, lay nhẹ theo làn gió thoảng ban mai, dưới ánh nắng sớm, che ngang in bóng như chữ điền trên khuôn mặt người thôn Vĩ. Hay khuôn mặt người thôn Vĩ hồn hậu vuông vắn chữ điền? Có thể là cả hai: hình ảnh vừa thực, vừa có phần hư ảo lung linh trong niềm nhớ của lòng người. Câu thơ được cách điệu hóa, mang ý nghĩa tượng trưng. Vườn cây mượt mà đó phải là quê hương những con người hiền hòa, đôn hậu. Con người chợt xuất hiện trên cái nền thiên nhiên tươi mát làm cho cảnh vật sinh động hẳn lên và hình ảnh con người cùng thiên nhiên hòa hợp trong vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng.
Mạch thơ êm nhẹ, ý thơ chuyển dịch: sau lời mời mọc dễ thương (câu 1), cảnh vật hiện lên trước mắt với màu sắc tươi tắn (câu 2, 3) và con người hiền hòa xuất hiện (câu với ngôn ngữ điêu luyện, bút pháp vừa lãng mạn vừa tượng trưng), khổ thơ biểu hiện nét đẹp nên thơ của con người và cảnh vật xứ Huế. Qua đó, ý thơ cũng gợi lên một tình yêu thiên nhiên đằm thắm, một nỗi nhớ bâng khuâng, xa xôi mờ ảo, như trong câu cuối của bài thơ:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Có ý kiến cho rằng cảnh vật hiện ra trong một số bài thơ của Hàn Mặc Tử đậm đà màu sắc dân tộc. Thật vậy, nếu không gắn bó máu thịt với quê hương, Hàn Mặc Tử khó viết được những câu thơ trác tuyệt như trên.
Bên cạnh những bài thơ hay về quê hương đất nước của Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Anh Thơ..., mấy câu thơ mở dầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử đã góp phần khẳng định giá trị của phong trào Thơ mới vào những năm ba mươi của thế kỉ XX, đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa văn học nước ta trong nửa đầu thế kỉ này
Câu trả lời của bạn
Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thi ca. Các thi sĩ đến với thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và đầy mến yêu. Không ai quên thế giới Bồng Lai tiên cảnh trong thơ Lý Bạch, núi rừng hữu tình trong thơ Nguyễn Trãi, làng quê mộc mạc đơn sơ trong thơ Nguyễn Khuyến. Và cũng không ai quên trong phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) từng có một tiếng reo "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu, một tình cảm mênh mang với "Tràng giang" của Huy Cận và một nỗi niềm hẫng hụt, chơi vơi với "Đây thôn Vĩ Giạ" của Hàn Mặc Tử.
Thiên nhiên chớm vào mùa thu trên đất Bắc trong "Đây mùa thu tới" thật đẹp mà cũng thật buồn – một vẻ đẹp, một nét buồn rất mới, rất khác so với thơ ca trung đại.
Nếu như cảm quan nghệ thuật của thi ca trung đại là: lấy thiên nhiên làm chuẩn mực vẻ đẹp cho con người – như Nguyễn Du đã từng tả Thúy Vân: "Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da" (Truyện Kiều) – thì với Xuân Diệu – "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới" – con người là vẻ đẹp chuẩn mực cho thiên nhiên:
"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng."
Chưa ai có một cách so sánh lạ như Xuân Diệu. Cây liễu đẹp như người thiếu nữ đứng xõa tóc "chịu tang". Mỗi sợi tóc là một sợi buồn, mỗi nhành liễu là một sợi tóc. Từ cổ chí kim, không có nỗi buồn nào thấm thía đau đớn bằng nỗi buồn chịu tang. Bao nhiêu nước mắt rơi xuống mà nỗi buồn chẳng vơi. Rặng liễu với những sợi tơ liễu được kết bằng những lá liễu dài gối lên nhau
"hàng hàng" rủ xuống như "lệ" giăng mắc đầy một khoảng trời làm nỗi buồn chớm thu như càng tăng thêm, thấm thía hơn. Và trong nỗi buồn ấy còn gợi lên một nỗi đau mất mát:
"Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh"
Ngày lại ngày trôi qua, thu về, cảnh vật biến đổi, cây cối xơ xác trơ trụi, khẳng khiu như đang run rẩy, khẽ rùng mình trong gió se se lạnh: "Đã nghe rét mướt luồn trong gió". Cảm nhận về cái rét đến trong gió của Xuân Diệu là một cảm nhận mới. Thiên nhiên xôn xao, cựa mình – điều ấy thể hiện qua nghệ thuật sử dụng phụ âm "r" (rụng/rũa/run rẩy/rung rinh) và phụ âm "m" (mỏng manh) – không giống thiên nhiên trong thơ cổ mang nét tĩnh lặng, ngay cả khi "Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo" (Mùa thu câu cá – Nguyễn Khuyến) thì cả không gian thiên nhiên thu vẫn chủ yếu là tĩnh lặn Cùng với "lá vàng" trong thơ Nguyễn Khuyến, ai cũng biết bức tranh "Mùa thu vàng" của danh họa Lê-vi-tan, nhưng không đâu có một màu vàng mới và độc đáo như màu vàng của đất trời vào thu trong "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu. Đó không phải là những đốm vàng nhỏ mà là cả một "không gian vàng" – một màu vàng "mơ phai" rất riêng rất khó lẫn. Đó là màu vàng của "cái hồn thu qua sắc lá" (Tạ Đức Hiền) làm mùa thu bớt buồn và thêm thi vị, thêm đáng yêu. "Mùa thu tới!" – Xuân Diệu đã nhận được bức thông điệp của mùa thu và đã reo lên sung sướng: "Đây mùa thu tới! Mùa thu tới!". Giai điệu rộn rã của tiếng reo khiến ta cảm giác hình như Xuân Diệu đang hát lên tiếng hát khát vọng giao cảm với cuộc đời. Bước chân đến với trời thu của thi sĩ đầy "giục giã", "vội vàng".
Cùng mang vẻ đẹp buồn truyền thống, nhưng nếu như thiên nhiên trong "Đây mùa thu tới" đẹp thướt tha, thì thiên nhiên trong "Tràng giang" lại mang vẻ đẹp hùng vĩ rợn ngợp của "trời rộng", "sông dài":
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song"
...
"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu"
Câu trả lời của bạn
Dàn ý:
Mở bài:
Tình yêu thiên nhiên không phải là mới mẻ trong thi ca, song ở mỗi nhà thơ bức tranh thiên nhiên lại hiện lên chứa đầy cảm xúc và góc nhìn mới mẻ. Đến với Đây thôn Vĩ Dạ - HMT khổ 1 và Vội vàng - Xuân Diệu ở khổ thơ 2, người đọc được cảm nhận 2 bức tranh thiên nhiên đầy tươi mới và đẹp đẽ.
Thân bài:
-Tình yêu thiên nhiên: Với HMT tình yêu thiên nhiên gắn với tình yêu quê hương, nỗi nhớ, kỉ niệm về quê hương - nơi ông đã từng gắn bó sâu sắc, đã có những kỉ niệm với những con người ông yêu mến và cả mối tình 1 thuở của ông. (Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong khổ thơ này). HMT đã sử dụng những từ ngữ vô cùng đắt giá làm sáng lên một khung cảnh thơ mộng, tuyệt đẹp của xứ Huế trong buổi sáng sớm. Cảnh vật, cây cối hòa hợp với con người được vẽ lại trong bài thơ rất đỗi thân thương, chan chứa tình yêu và nỗi nhớ.
Còn bức tranh thiên nhiên mùa xuân của XD thì lại tươi mới, tràn trề sức sống của cây cỏ, hoa lá, thần, vật. Con người như đang trải mình, hòa mình vào mùa xuân tươi mới ấy. Nhà thơ giới thiệu, nhà thơ vui vẻ, gấp gáp được ôm lấy khung cảnh tươi non này và có tham vọng chiếm giữ lấy nó cho riêng mình, chiếm giữ lâu dài. (Phân tích để thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm trạng của nhà thơ.
=> 2 khổ thơ là hai bức tranh thiên nhiên khác nhau: 1 bên là phong cảnh thơ mộng chứa chan tình yêu, nỗi nhớ của xứ Huế và một bên là bức tranh xuân rộn ràng, đầy sức sống. Mỗi bức tranh lại khiến người ta có một xúc cảm riêng, một suy nghĩ riêng nhưng đều khiến người đọc rung động, yêu thích và muốn được thổn thức cùng tác giả. Đó là vẻ đẹp mà thơ ca mang tới cho độc giả, đã đem con người lại gần với nhau và rung lên những rung động từ sâu thẳm tâm hồn mỗi người.
-Bức tranh thiên nhiên được miêu tả bằng những nghệ thuật độc đáo, mới mẻ:
+ Đây thôn Vĩ Dạ: Những hình ảnh vưà quen thuộc dân dã đã được HMT biến trở thành mới lạ hiện đại. HMT đã truyền vào những chất liệu ấy một màu sắc thẩm mỹ mới. Không chỉ hàng cau, mà nắng mới trên hàng cau; Không chỉ khám phá ra những lá non xanh mướt cuả vườn cây mà còn nhận ra cái màu xanh ngọc sang trọng; Không nhắc lại ngõ trúc, cành trúc hiu quạnh tĩnh mịch cuả ngày xưa mà là “lá trúc che ngang mặt chữ điền". Câu thơ bao hàm được cả khung cảnh làng quê, ngõ trúc và cuộc sống đang diễn ra, gần gũi thân thương… (PT dấu hỏi câu đầy ý nghĩa, nhiều cách hiểu) Câu thơ mở đầu bài Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử: "Sao anh không về chơi thôn Vỹ" là một câu hỏi phản ánh nội tâm phong phú và tuyệt vời tế nhị của nhà thơ: vừa như mời mọc, vừa như trách móc lại vừa như một niềm tự an ủi từ trong tâm hồn sâu thẳm của nhà thơ.
Xuân Diệu: Hình ảnh thơ mới lạ: tuần tháng mật, chớp hàng mi, thần vui, cặp môi gần....; những từ ngữ mạnh mẽ, chứa sức biểu cảm cao: ngon, xanh rì...
=> Đều là những nhà Thơ mới, chính vì vậy mà bức tranh thiên nhiên họ mang đến cũng chứa những nét mới lạ mà thơ ca truyền thống trước đó chưa hề có, cho dù ở mỗi bài thơ lại có mức độ và điểm riêng độc đáo. Mỗi bức tranh, qua bàn tay mỗi người nghệ sĩ, lại trở nên khác biệt và độc đáo.
Kết bài: 2 khổ thơ là 2 bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mà HMT và XD đã đem đến cho bạn đọc. Tuy mỗi bức tranh là một vẻ đẹp khác nhau nhưng đều chan chứa sức sống, tình cảm và đem đến cho bạn đọc những xúc cảm, rung động từ đáy lòng.
Câu trả lời của bạn
Trên bầu trời rực rỡ của phong trào Thơ mới, Hàn Mặc Tử tựa hồ như một ngôi sao chói lọi. Thơ ông vừa thể hiện tình yêu thiết tha đối với cuộc sống trần tục, vừa hướng lên Chúa Trời, tới những miền thanh khí thần tiên.
Con người đầy tài hoa và nhiệt huyết này, năm 25 tuổi (1937), bị mắc bệnh phong. Căn bệnh kinh khủng này đã đầy đoạ ông cả về thể xác, lẫn tinh thần suốt trong ba năm trước khi ông nhắm mắt. Chỉ vẻn vẹn hơn 10 năm sáng tác, thi sĩ đã để lại cho đời nhiều thi phẩm có giá trị, trong đó, Đây thôn Vĩ Dạ được xem là một kiệt tác. Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ điên, xuât bản sau khi tác giả qua đời.
Đã có không ít sự giải thích về xuất xứ và cách hiểu bài Đây thôn Vĩ Dạ. Song, nếu lấy văn bản làm căn cứ chính, thì phải thừa nhận bài thơ tuy có chứa đựng một thông điệp tình yêu- một tình yêu trong trắng, thơ mộng, nhưng đơn phương và vô vọng, đồng thời, nhờ có tình yêu đó, nhà thơ đã để lại cho đời một bức tranh xứ Huế thật là mộng mơ, huyền ảo, tuy có đượm buồn....
Đây thôn Vĩ Dạ chỉ vẻn vẹn có 3 khổ, tổng cộng 12 câu thất ngôn. Mở đầu bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lới nhắn nhủ nhẹ nhàng người yêu của nhân vật trữ tình, trong một tâm trạng vời vợi nhớ mong:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Nếu như mỗi mối tình đều gắn với một không gian và thời gian cụ thể, thì mối tình của nhân vật trữ tình trong bài thơ này gắn với vườn tược và con người Vĩ Dạ, với những kỉ niệm thật khó quên. Có dịp, xin mời bạn hãy về thăm thôn Vĩ vào một buổi sớm mai. Vĩ Dạ nằm ngay bên bờ sông Hương êm đềm thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô Huế không đầy một giờ tản bộ. Từ xưa, thôn Vĩ đã nổi tiếng bởi cây cối tươi xanh, và những biệt thự nhỏ nhắn duyên dáng, thấp thoáng dưới màu xanh của cây lá. Vĩ Dạ vừa có cái nét chung của mọi làng quê Việt Nam, vừa có những nét riêng biệt của xứ Huế mộng và thơ. Thôn Vĩ Dạ cũng nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ... của xứ này. Bởi vậy, ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy nhiều nghệ sĩ tên tuổi như Nguyễn Bính, Bích Khê, Nguyễn Tuân... đều có những sáng tác, mà cảm hứng được nảy sinh từ thôn Vĩ Dạ.
Sớm mai, nắng mới long lanh trên những tàu cau còn ướt sương đêm. Khách từ xa tới sẽ thấy hàng cau trước nhất, vì nó thường cao hơn hẳn những cây cối xum xuê ở dưới. Đất đai Vĩ Dạ phì nhiêu, được con người cần cù chăm bón; quả thật, cây cối ở đây xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ như được lau chùi, mài dũa thành như những cành vàng lá ngọc .... Câu thơ:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Thật sự là một sáng tạo độc đáo. "Mặt chữ điền "gợi cho người đọc hình dung một gương mặt vuông vắn phúc hậu. Nhưng, đặt hình tượng trong văn cảnh của nó: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền"thì ấn tượng nổi bật lại là sự hài hoà, gắn bó mật thiết giữa con người với vườn tược quê hương. Không nên hiểu câu thơ theo bút pháp tả thực. Đây là một hình ảnh cách điệu hoá đầy tài hoa của Hàn Mặc Tử.
Tình cảm thiết tha, trân trọng của thi sĩ thể hiện ngay trong chính cái nhìn cảnh vật. Nó làm ta nhớ đến câu thơ của Bích Khê, bạn thân thiết của tác giả:
Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn,
Biếc che cần trúc không buồn mà say
(Huế đa tình)
Tiếp nối mạch cảm xúc ở khổ đầu, dường như khổ thứ hai nhà thơ dành để đặc tả cảnh sông nước mây trời xứ Huế và cũng bộc lộ một niềm hoài vọng bâng khuâng:
Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay;
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Nhịp sông dịu dàng, khoan thai của xứ Huế được diễn tả rất đạt: gió và mây nhè nhẹ trôi đi; sông Hương nước chảy lặng lờ. Hoa ngô (hoa bắp) chỉ khẽ khàng đung đưa theo chiều gió. Khác với khổ một, đến khổ thứ hai này, không gian được miêu tả có phần như trong mộng ảo, tràn ngập ánh trăng. Nhà thơ không những chỉ tả, không những chỉ nhìn bằng mắt, và điều quan trọng hơn là còn "nhìn "bằng thế giới tâm linh của mình; do đó, không có biên giới giữa thực và mộng. Và dường như, càng về cuối, thế giới tâm linh, thế giới mộng ảo càng lấn át thế giới hiện thực. Vì là mộng ảo, nên có nỗi băn khoăn rất mộng mơ: "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó - Có chở trăng về kịp tối nay?"• Thuyền chở trăng, đã có nhiều thi nhân nhắc đến, nhưng "sông trăng" thì có lẽ Hàn Mặc Tử là người sáng tạo đầu tiên
Dường như, trong những câu thơ trên, có sự mong chờ, có niềm hi vọng lẫn nỗi buồn man mác của nhà thơ. Ở đây, rõ ràng không chỉ có sự đặc sắc của một bút pháp phác hoạ đúng cái hồn của một xứ Huế mà điều quan trọng nữa là, từ những nét phác, nó gợi lên ở người đọc một tình yêu thật dịu dàng, kín đáo, mà sâu xa rộng mờ đến không cùng.
Ấn tượng của người đọc về những điều nói ở trên sẽ được nhà thơ tô đậm thêm qua đoạn kế
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Đúng là xứ Huế vốn mưa nhiều, lắm sương khói (Có lần, Nguyễn Bính đã phải thốt lên: "Giời mưa ở Huế sao buồn thế? - Cứ kéo dài ra đến mấy ngày). Do đó, phải chăng, khổ thơ trên có nét tả thực, cũng giống như "hàng cau", "lá trúc", "hoa bắp"... ơ những khổ trước? Sương khói trắng, và áo em cũng trắng; bởi vậy, nếu nhà thơ chỉ nhìn thấy cái bóng mờ ảo của con người thôi (mờ nhân ảnh), thì cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, như đã nêu, Hàn Mặc Tử vốn là nhà thơ lãng mạn đích thực, cái chính là thi sĩ đã nói bằng tâm tưởng, gieo vào lòng người đọc một thoáng bâng khuâng: những thiếu nữ Huế tươi đẹp quá, kín đáo và huyền ảo quá! Nào ai có biết tình yêu của họ bền chặt, hay cũng chỉ mờ ảo như khói sương xứ Huế? Câu hỏi của nhà thơ đối với cô gái Huế hay của mọi người, mọi thời đã từng gắn bó với Huế? ở Huế đây, dường như tác giả cảm thấy mình chơi vơi, hụt hẫng, trước một mối tình đơn phương lung linh, huyền ảo.
Nếu ta biêt rằng, Hàn Mặc Tử tuy khao khát yêu đương, nhưng căn bệnh hiểm nghèo đã làm cho ông không có được một tình yêu trọn vẹn, nhà thơ từng phải sống cô độc, lúc thì trong một con thuyền nho lênh đênh chẳng có bến bờ, lúc thi khắc khoải bên dãy núi ven thành phố và cuối vùng phải nằm vô vọng ở nhà thương Tuy Hoà chờ cái chết..., thì ta càng thông cảm cho một thoáng hờn dỗi, trách móc tưởng như vô cớ của cây bút đa tài, mà bất hạnh này.
Cùng vói Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận... Đây thôn Vĩ Dạ xứng đáng là một kiệt tác. Trước một kiệt tác, thường có nhiều cách cảm thụ khác nhau. Nhưng, hiểu theo cách nào thì cũng không thể không thấy bên cạnh mối tình vô vọng, nhà thơ đã để lại một bức tranh rất có hồn về sông nước Huế đẹp và thơ.
Câu trả lời của bạn
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Cảm nhận thơ trữ tình xét cho cùng là cảm nhận “cái tình” trong thơ và tâm trạng của nhân vật trữ tình trước thiên nhiên, vũ trụ, đất trời. Đến với thơ ca lãng mạn Việt Nam, giai đoạn 1932 – 1945 “ta thoát lên trên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu” (Hoài Thanh – Thi nhân Việt Nam). Đúng thế, bạn đọc đương thời và hôm nay yêu thơ của Hàn Mặc Từ bởi chất “điên cuồng” của nó. Chính “chất điên” ấy đã làm nên phong cách nghệ thuật độc đáo, riêng biệt, mới mẻ của Hàn Mặc Tử. “Chất điên” trong thơ ông chính là sự thay đổi của tâm trạng khó lường trước được. Nét phong cách đặc sắc ấy đã hội tụ và phát sáng trong cả bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ rất tài hoa và cũng rất đỗi bất hạnh này. “Đây thôn Vĩ Dạ” trích từ tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Chất điên cuồng ấy thể hiện cụ thể và rõ nét trong khổ thơ:
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Với lời trách cứ nhẹ nhàng dịu ngọt vừa như một lời mời, Hàn Mặc Tử trở về với thôn Vĩ Dạ trong mộng tưởng
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Cảnh vật ở thôn Vĩ Dạ – một làng kề sát thành phố Huế bên bờ Hương Giang với những vườn cây trái, hoa lá sum suê hiện lên thật nên thơ, tươi mát làm sao. Đó là một hàng cau thẳng tắp đang tắm mình dưới ánh “nắng mới lên” trong lành. Chưa hết, rất xa là hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên” còn rất gần lại là “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Mướt quá” gợi cả cây nhung non tràn trề sức sống xanh tốt. Màu “mướt quá” làm cho lòng người như trẻ hơn và vui tươi hơn. Lời thơ khen cây cối xanh tốt nhưng lại nhu huyền ảo, lấp lánh mới thấy hết cẻ đẹp của “vườn ai”. Trong không gian ấy hiện lên khuôn “mặt chữ điền” phúc hậu, hiền lành vừa quen vừa lạ, vừa gần, vừa xa, vừa thực vừa ảo bởi “lá trúc che ngang”. Câu thơ đẹp vì sự hài hòa giữa cảnh vật và con người. “Trúc xinh” và “ai xinh” bên nhau làm tôn lên vẻ đẹp của con người. Như vậy tâm trạng của nhân vật trữ tình ở đoạn thơ này là niềm vui, vui đến say mê như lạc vào cõi tiên, cõi mộng khi được trở về với cảnh và người thôn Vĩ.
Thế nhưng cũng cùng không gian là thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian có sự biến đổi từ “nắng mới lên” sang chiều tà. Chẳng vậy mà có người đưa ra nhận định: Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước; là tiếng lòng của một thi sĩ tha thiết yêu đời, yêu người. Tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng có sự biến đổi lớn. Trong mắt thi nhân, bầu trời hiện lên “Gió theo lối gió mây đường mây” trong cảnh chia li, uất hận. Biện pháp nhân hóa cho chúng ta thấy điều đó. “Gió theo lối gió” theo không gian riêng của mình và mây cũng thế. Câu thơ tách thành hai vế đối nhau; mở đầu vế thứ nhất là hình ảnh “gió”, khép lại cũng bằng gió; mở đầu vế thứ hai là “mây”, kết thúc cũng là “mây”. Từ đó cho ta thấy “mây” và “gió” như những kẻ xa lạ, quay lưng đối với nhau. Đây thực sự là một điều nghịch lí bởi lẽ có gió thổi thì mây mới bay theo, thế mà lại nói “gió theo lối gió, mây đường mây”. Thế nhưng trong văn chương chấp nhận cách nói phi lí ấy. Tại sao tâm trạng của nhân vật trữ tình vốn rất vui sướng khi về với thôn Vĩ Dạ trong buổi ban mai đột nhiên lại thay đổi đột biến và trở nên buồn như vậy?. Trong mộng tưởng, Hàn Mặc Tử đã trở về với thôn Vĩ nhưng lòng lại buồn chắc có lẽ bởi mối tình đơn phương và những kỉ niệm đẹp với cảnh và người con gái xứ Huế mộng mơ làm nên tâm trạng ấy. Quả thật “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nên cảnh vật xứ Huế vốn thơ mộng, trữ tình lại bị nhà thơ miêu tả vô tình, xa lạ đến như vậy. Bầu trời buồn, mặt đất cũng chẳng vui gì hơn khi “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.
Dòng Hương Giang vốn đẹp, thơ mộng đã bao đời đi vào thơ ca Việt nam thế mà bây giờ lại “buồn thiu” – một nỗi buồn sâm thẳm, không nói nên lời. Mặt nước buồn hay chính là con sóng lòng “buồn thiu” của thi nhân đang dâng lên không sao giấu nổi. Lòng sông buồn, bãi bờ của nó còn sầu hơn. “Hoa bắp lay” gợi tả những hoa bắp xám khô héo, úa tàn đang “lay” rất khẽ trong gió. Cảnh vật trong thơ buồn đến thế là cùng. Thế nhưng đêm xuống, trăng lên, tâm trạng của nhân vật trữ tình lại thay đổi:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Sông Hương “buồn thiu” lúc chiều dưới ánh trăng đã trở thành “sông trăng” thơ mộng. Cắm xào đậu bên trên con sông đó là “thuyền ai đậu bến”, là bức tranh càng trữ tình, lãng mạn. Hình ảnh “thuyền” và “sông trăng” đẹp, hài hòa biết bao. Khách đến thôn Vĩ cất tiếng hỏi xa xăm “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu “thuyền ai” đó có chở trăng về kịp nơi bến hẹn, bến đợi hay không? Câu hỏi tu từ vang lên như một nỗi lòng khắc khoải, chờ đợi, ngóng trông được gặp gương mặt sáng như “trăng’ của người thôn Vĩ trong lòng thi nhân. Như thế mới biết nỗi lòng của nhà thơ giành cho cô em gái xứ Huế tha thiết biết nhường nào. Tình cảm ấy quả thật là tình cảm của “Cái thưở ban đầu lưu luyến ấy. Ngàn năm nào dễ mấy ai quên” (Thế Lữ)
Đến đây ta hiểu thêm về lòng “buồn thiu” của nhân vật trữ tình trong buổi chiều. Như vậy diễn biến tâm lí của thi nhân hết sức phức tạp, khó lường trước được. Chất “điên” của một tâm trạng vui với cảnh, buồn với cảnh, trông ngóng, chờ đợi vẫn được thể hiện ở khổ thơ kết thúc bài thơ này:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Vẫn là một tâm trạng vui sướng được đón “khách đường xa” – người thôn Vĩ đến với mình, tâm trạng nhân vật trữ tình lại khép lại trong một nỗi đau đớn, hoài nghi “Ai biết tình ai có đậm đà?”. “Ai” ở đây vừa chỉ người thôn Vĩ vừa chỉ chính tác giả. Chẳng biết người thôn Vĩ có còn nặng tình với mình không? Và chẳng biết chính mình còn mặn mà với “áo em trắng quá” hay không? Nỗi đau đớn trong tình yêu chính là sự hoài nghi, không tin tưởng về nhau. Nhân vật trữ tình rơi vào tình trạng ấy và đã bộc bạch lòng mình để mọi người hiểu và thông cảm. Cái mới của thơ ca lãng mạn giai đoạn 1932 – 1945 cũng ở đó.
Đọc xong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, nhất là khổ thơ “Gió theo lối gió – …. kịp tối nay” để lại trong lòng người đọc những tình cảm đẹp. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm tâm tư của một nhà thơ sắp phải giã từ cuộc đời. Lời thơ vì thế trầm buồn, sâu lắng, đầy suy tư. Bạn đọc đương thời yêu thơ của Hàn Mặc Tử bởi thi nhân đã nói hộ họ những tình cảm sâu lắng nhất, thầm kín nhất của mình trong thời đại cái “tôi”, cái bản ngã đang tự đấu tranh để khẳng định. Tình cảm trong thơ Hàn Mặc tử là tình cảm thực do đó nó sẽ ở mãi trong trái tim bạn đọc. Ấn tượng về một nhà thơ của đất Quảng Bình đầy nắng và gió sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí người Việt Nam.
Câu trả lời của bạn
Dàn ý
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả
- Giới thiệu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
II. Thân bài
1. Phân tích khổ 1: Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế.
- Bức tranh được hiện lên qua lời mời trong đó hàm chứa sự trách móc mà thân thiết:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
- Cảnh vật hiện lên qua vài nét phác họa nhẹ nhàng, duyên dáng, đầy ấn tượng của màu xanh như ngọc của ánh sáng tinh khôi buổi ban mai.
- Cuối cùng là nét chấm phá độc đáo tương phản giữa cái vuông vức của khuôn mặt chữ điền với chiếc lá trúc che ngang, gợi lên nét tinh nghịch mà dịu dàng, dễ thương vốn dĩ ở thôn quê.
2. Phân tích khổ 2: Cảnh buồn qua cái nhìn đầy nội tâm.
- Cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng lay lắt buồn bã trong cảm giác chia lìa bằng hình thức thơ độc đáo: Gió theo lối gió / mây đường mây. Dòng sông như tấm gương ghi nhận hình ảnh chia lìa đó, nên buồn thiu, hoa bắp cúng lay lắt buồn thiu, chia sẻ với tâm trạng nhà thơ.
- Trăng chiếm một dung lượng khá lớn trong thơ Hàn Mặc Tử và ánh trăng thật kì lạ, khác thường. Ta từng gặp trong thơ của ông, hình ảnh:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
(Bẽn lẽn)
- Câu phiếm định: "thuyền ai?", rồi lại "bến sông trăng". Quả thật, đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong "Thi nhân Việt Nam": "Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh".
3. Phân tích khổ cuối: Cảnh vật, con người đều chìm sâu vào mộng ảo.
- Cõi lòng nhà thơ dường như chìm vào mộng tưởng (mơ khách đường xa). Bệnh tật cũng đã khiến nhà thơ rơi vào trạng thái buồn đau ảo giác (nhìn không ra, mờ nhân ảnh). Bởi vậy, con người cảnh vật tất cả đều nhòa mờ trong cô đơn, ngậm ngùi.
- Trong cô đơn, ngậm ngùi, trong mộng ảo đau thương, nhưng lòng nhà thơ vẫn cứ âm thầm muốn gởi đến con người, cuộc đời một thông điệp, nó như lời trần tình tội nghiệp:
Ai biết tình ai có đậm đà?
- Ta chưa thể quyết rằng cậu thơ ấy thể hiện tình yêu nước của Hàn Mặc Tử đến mức nào. Thế nhưng, chắc chắn rằng Hàn Mặc Tử rất yêu cuộc đời, rất yêu quê hương xứ sở. Ta cũng không ngờ trong tập Thơ Điên lại có những vần thơ đậm đà, chan chứa tình quê đến thế.
III. Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
trữ tình , biểu cảm
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ.
Câu trả lời của bạn
Một không gian gợi cảm: tươi xanh, trong sáng, đầy sức vẫy gọi.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *