Bài học Chí Phèo giúp các em nắm vững được các kiến thức trọng tâm của tác phẩm như: hoàn cảnh ra đời, ý nghĩa nhan đề, hình ảnh làng Vũ Đại, các nhân vật chính trong tác phẩm như Chí Phèo, Bá Kiến, cuộc gặp gỡ với Thị Nở, Thị Nở từ chối Chí Phèo.... và những giá trị nhân đạo sâu sắc mà tác giả muốn gởi gắm. Ngoài ra, DapAnHay xin giới thiệu với các em video bài giảng của cô Phan Thị Mỹ Huệ. Bài giảng được trình bày một cách ngắn gọn, dễ hiểu hỗ trợ cho các em trong quá trình tiếp thu bài học được tốt hơn. Mời các em cùng tham khảo. Chúc các em học tốt và đạt được kết quả cao!
Vị trí xã hội | Nhân vật | Đặc điểm |
1 | Bá Kiến (cụ tiên chỉ) | “bốn đời làm tổng lý”, uy thế ngất trời |
2 | Đám cường hào ác bá: đội Tảo, tư Đạm, bát Tùng… | Kết bè kết cánh đối chọi lẫn nhau và đối chọi với Bá Kiến, làm thành thế “quần ngư tranh thực”. |
3 | Dân làng Vũ Đại | Nông dân, thấp cổ bé họng, suốt đời bị đè nén, áp bức |
4 | Hạng người dưới đáy: Chí Phèo, Năm Thọ, binh Chức | Cùng hơn cả dân cùng, sống tăm tối như thú vật. |
NHẬN XÉT: Chỉ qua một số chi tiết chọn lọc kĩ lưỡng, sắp đặt rải rác tưởng ngẫu nhiên mà lại có tính chất quy luật, Nam Cao đã dựng nên một làng Vũ Đại sống động, hết sức ngột ngạt, đen tối. Đó chính là cái “hoàn cảnh điển hình” vừa sản sinh vừa tác động làm bộ lộ “tính cách điển hình” đó là Chí Phèo.
⇒ Từ ngôn ngữ, giọng nói, tiếng cười, cái nhìn của Bá Kiến đều biểu hiện sư khôn ngoan, lọc lõi hơn người và khác người của một kẻ có kinh nghiệm bốn đời làm tổng lí.
⇒ Xây dựng nhân vật bá Kiến, tác giả đã bóc trần bản chất của giai cấp địa chủ. Bá Kiến vừa là nguyên nhân trực tiếp, vừa là nguyên nhân sâu xa dẫn Chí đến những bi kịch đau đớn nhất của người lao động nghèo trong xã hội cũ. Nhân vật bá Kiến có ý nghĩa điển hình cho giai cấp địa chủ phong kiến đồng thời góp phần tô đậm tính cách bi kịch của Chí Phèo. Về phương diện này, tác phẩm có giá trị hiện thực và tố cáo sâu sắc.
* Nguồn gốc, lai lịch
* Quá trình tha hóa
⇒ Lúc này nhân tính của Chí đã được hồi sinh.
→ Đây chính là đỉnh cao sự thức tỉnh nhân tính của Chí.
⇒ Miêu tả cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo với thị Nở, Nam Cao đã chứng minh ngòi bút tâm lí sắc sảo của mình, thể hiện một giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Nhà văn đã phát hiện được những phẩm chất tốt đẹp của người lao động ngay cả khi họ đã mất đi nhân hình, nhân tính.
* Thị Nở từ chối Chí Phèo
Tác phẩm thể hiện nghệ thuật viết văn già dặn của Nam Cao. Giọng điệu của người kể chuyện khách quan, lạnh lùng. Xây dựng thành công nhân vật điển hình. Ngòi bút miêu tả tâm lí sắc sảo.
⇒ Nội dung phong phú, tư tưởng nhân đạo mới mẻ, nghệ thuật đặc sắc, tác phẩm xứng đáng là một kiệt tác của nhà văn.
ĐỀ: Bi kịch lớn nhất của Chí Phèo được thể hiện trong tác phẩm
Gợi ý làm bài
Các em có thể tham khảo gợi ý dưới đây:
“Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán 1930-1945. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam. Để dễ dàng trả lời được các câu hỏi trong SGK cũng như nắm được những nội dung kiến thức về bài học, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Chí Phèo.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Bi kịch Chí Phèo là bi kịch của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, bị cự tuyệt quyền làm người, hay nói một cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm người mà không thể được Nam Cao đã viết về tấn bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vô cùng sắc sảo: biến hóa lúc kể, lúc tả, triết lí thì thấm thía, trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật, làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỉ nay. Để dễ dàn lập được dàn ý và biết bài văn hoàn chỉnh về tác phẩm này, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- So sánh sự thức tỉnh của nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ và nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên
- Phân tích hình ảnh làng Vũ Đại trong truyện Chí Phèo
- Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo
- Ý nghĩa bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
- Phân tích tiếng chửi của Chí Phèo
- Cảm nhận về câu nói của bà cô Thị Nở trong truyện Chí Phèo
- Cảm nhận về tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở
- Phân tích hình ảnh cái lò gạch cũ trong truyện Chí Phèo
- Phân tích ba lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến
- Ý nghĩa cái chết của hai nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến
- Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở
- Bình giảng về tiếng chửi của Chí Phèo
- Phân tích ý nghĩa bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo
- Dàn ý So sánh hai câu nói của hai nhân vật Chí Phèo và Trương Ba
- Dàn ý liên hệ bi kịch nhân vật Trương Ba và Chí Phèo
- Giá trị nhân đạo trong Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ
- Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Giá trị nghệ thuật trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Quá trình tha hóa của Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Phân tích và chứng minh Hai câu nói cuối cùng của nhân vật Chí Phèo đã bộc lộ rõ chủ đề của tác phẩm
- Phân tích nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
- Cảm nhận về giọt nước mắt của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
- Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở
- Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo qua truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Bi kịch của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao
- Phân tích tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
- Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo
- Phân tích hành trình cuộc đời nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao
- Phân tích nhân vật Chí Phèo để làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
- Phân tích nhân vật Chí Phèo trong Chí Phèo của Nam Cao
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Ngô Tất Tố thành công với bức tranh hiện thực cùng khổ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng còn Nam Cao lại khiến người ta nhớ khi viết về đề tài sự lưu manh của con người trong một thời đại tối tăm. Năm 1941, truyện ngắn Chí Phèo (lúc đầu có tên là Đôi lứa xứng đôi) ra đời là một lời cảnh tỉnh con người trước hiện thực tàn bạo của xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là một xã hội tàn nhẫn với lắm kẻ lưu manh, đểu giả và thâm sâu. Chúng sẵn sàng vùi dập hay hãm hại con người. Chúng cũng sẵn sàng tước đoạt ở ngươi khác quyền sống, sự sống. Nhân vật Bá Kiến là một điển hình sâu sắc cho loại con người ấy.
Nếu nhân vật Nghị Quế nổi bậc ở cái tính ăn bẩn, keo kiệt và thô lỗ của hắn, nhân vật Nghị Hách đặc sắc ở cái nết dâm bậy, thì ở nhân vật Bá Kiến hội tụ đầy đủ mọi điều xấu xa, bỉ ổi ở trên đời. Có thể nói cái xằng bậy nào hắn ta cũng có. Hắn cũng có đủ bản lĩnh của một tên cáo già, gian hùng khét tiếng. Hắn chính là đại diện cao nhất của cái xã hội tàn bạo, bất nhân, cạn kiệt tình người. Đó là một xã hôi "quần ngư tranh thực" đầy ghê tởm. Ở đó, kẻ mạnh hiếp kẻ yếu, từng người, từng người lũ lượt đánh mất bản chất lương thiện vốn có của mình chỉ vì miếng ăn.
Bá Kiến là một nhân vật phản diện điển hình. Qua nhân vật Bá Kiến, mọi điều dơ bẩn của cái xã hội thối nát ấy được phơi bày rõ ràng, chân thực, sinh động và đầy xót xa.
Có thể nói, cái trí xảo và gian tham của Bá Kiến cũng có dòng có dõi. Hắn xuất thân trong một gia đình đã từng bốn đời làm Lí trưởng. Bản thân hắn làm Lí trưởng rồi Chánh tổng. Cái xuất thân dòng dõi ấy, khiến Bá Kiến kế thừa mọi mánh khóe ở đời. Bằng đủ mọi mưu mô và thủ đoạn khôn khéo, hắn đã lần lượt leo lên đỉnh cao danh vọng. Từ tiên chỉ làng Vũ Đại hắn leo lên làm Bá hộ rồi Chánh hội kì hào, Huyện hào. Đến cả cái danh Bắc Kì nhân dân đại biểu hắn cũng chiếm lấy. Hắn khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Đâu chỉ có dân lành mới sợ cái uy của cụ Bá, mà cả bọn lưu manh lẫn cường cào đối đối nghịch cũng dè chừng và kiên nể hắn ta lắm. Ở làng Vũ Đại, Bá Kiến quyền uy chẳng khác gì một tên chúa đất.
Tuy không chú ý tô đậm nhân vật này nhưng Bá Kiến lại rất nổi bậc trong tác phẩm. Bằng một vài sự miểu tả của Nam Cao cũng đủ làm nhân vật này in đậm trong trí nhớ người đọc. Bá Kiến tuy là một nhân vật loại hình nhưng với những nét độc đáo, khiến nhân vật này rất ấn tượng, không thể nào quên.
Trước hết, Bá Kiến là loại cường hào cáo già lọc lõi. Tên "chúa đất" nào chẳng tham lam, gian manh chuyên đi đè đầu cưỡi cổ nông dân. Nhưng tham lam kiểu Bá Kiến là một loại hiếm thấy.
Sự gian manh sừng sỏ của Bá Kiến thể hiện sâu sắc trong cách hắn trị người và cách hắn đã đẩy Chí Phèo, một anh nông dân hiền lành như cục đất vào tù và khuất phục Chí Phèo sau khi hắn ra khỏi tù.
Nhà văn để cho Bá Kiến xuất hiện đầu tiên trước độc giả đúng lúc Chí Phèo say rượu, đến cổng nhà hắn để rạch mặt, kêu làng, ăn vạ. Vừa trong thấy Chí Phèo nằm trước cửa, không nhúc nhích như thể gần chất, Bá Kiến hiểu ngay cơ sự. Hắn thừa biết ý định của Chí Phèo khi gây ra hành động này. Với sự từng tải của một tên cáo già gian hùng, Bá Kiến biết rõ tác hại của đám đông nhốn nháo này. Với địa vị là Bá hộ, quyền uy thét ra lửa, không thể để Chí Phèo làm cho mất mặt. Bá Kiến đã mau chóng tìm được cách đối phó hữu hiệu.
Trước hết, hắn xua đám đông ra về. Hắn biết rõ sự ồn ào của đám đông càng làm cho con thú kia thêm hung hăng. Chí Phèo cũng mượn đám đông để gây khó cho hắn. Bá Kiến ra lời quát tháo mọi người chẳng qua là kế trì hoãn, kéo dài thời gian để Chí Phèo vơi bớt cơn say rượu. Đối với hắn, cái loại ngang bướng như Chí Phèo đâu phải là chưa từng gặp. Hắn có nhiều kinh nghiệm trừng trị loại "đầu bò" như Chí lắm rồi.
Mặt khác, trước đám đông, hắn không thể nói lời nhũng nhặn để dụ dỗ Chí Phèo được. Muốn dụ dỗ, ắt phải nhún nhường. Đường đường là một cụ bá hét ra lửa mà để đám dân đen chứng kiến cảnh ngọt nhạt với một thằng cùng đinh, thì còn ra cái thể thống gì?
Với người nhà, hắn quát lấy lệ, đuổi họ vào nhà. Với người làng, hắn vạch rõ phận sự không liên quan để khiến họ về nhà: "cả các ồng, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?". Dù rất hả hê và muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng họ cũng lảng dần đi vì nể sợ cái uy của cụ Bá.
Đến khi "chỉ còn trơ lại Chí Phèo", thì cái tài phỉnh dụ của Bá Kiến mới bộc lộ hết ra. Trước hết, cụ bắt đầu giở giọng đường mật, nịnh nọt, dỗ dành Chí Phèo. Lão nhúng nhường gọi Chí bằng anh rồi vồn vã mời Chí vào nhà uống nước.
Sự xuống nước của lão già ranh ma ấy khiến cho cơn hung hăng của Chí phèo vơi đi cả nửa. Chí cũng ngạc nhiên lắm nhưng để xem chuyện gì đang xảy ra, Chí đã nghe theo lão. Bá Kiến đã chiến thắng ngay ở bước đầu tiên. Chỉ cần Chí Phèo ngheo theo lão việc này, thì tất sẽ nghe theo việc khác nữa.
Không để Chí Phèo kịp nhận ra trò bịp ấy, lão lập tức tiến một bước thâm độc khác. Lão nhận mình có họ có hàng với Chí Phèo. Dĩ nhiên, Chí Phèo chẳng biết thật giả thế nào. Nhưng cũng thấy được đối đãi, trong lòng không giận nữa.
Chỉ cần Chí Phèo ngồi lên ghế là Bá Kiến biết mình đã thắng. Để hoàn toàn khuất phục con quỷ ấy, Bá Kiến hô người giết gà, mua rượu thết đãi Chí Phèo như đối đãi với hàng thượng khách. Chí Phèo nhận rượu nghĩa là chấp nhận cái "tấm lòng" của Bá Kiến, nghĩa là không gây sự nữa. Cuối bữa rượu, Bá Kiến còn biếu Chí Phèo mấy đồng bạc để ru lòng gã lang thang này.
Bá Kiến như đi vào suy nghĩ của người khác, thấu hiểu mọi điều và dự đoán chính xác mọi hành động. Cái lão già "khôn róc đời" ấy quả thật rất đáng sợ.
Đặc biệt, Nam Cao đã để cho nhân vật Bá Kiến độc thoại nội tâm nhằm phơi bày những ý nghĩ tỉnh táo nhưng nham hiểm của hắn. Đó là những phương châm, thủ đoạn thống trị người nông dân rất khôn ngoan và hiệu quả mà Bá Kiến đã đúc rút từ bốn đời làm tổng lí.
Với những kẻ lì lợm như Chí Phèo trị không được thì lão dùng. Cái kế của lão đó là "dùng những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò". Kế sách ấy không những thâm độc, nham hiểm mà còn rất côn đồ. Với lão, sự đời không nên cố chấp. Không ăn được thì buông bỏ, hà tất cố đấm ăn xôi để mang họa vào thân. Lão luôn tâm niệm "bám thằng có tóc chứ không bám thằng trọc đầu". Với triết lí "thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân", "mềm nắn rắn buông" hết sức mềm dẻo, uyển chuyển và hợp lí
Nhờ "biết mềm, biết cứng, biết thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù" rất được việc trong chuyện đến "tác hại bất cứ anh nào không nghe mình". Bá Kiến đã tập hợp được một phe cánh, bè đảng xung quanh mình. Thế lực và sức mạnh không ngừng được tăng cường, lấn át tất cả, làm cho bọn cường hào đối địch trong làng phải nể sợ, kiêng dè.
Sự gian xảo của hắn được phơi bày trọn vẹn trong âm mưu hại người. Nếu ghét kẻ nào, lão ngám ngầm đẩy người ta xuống sông, đưa vào chốn tù tội hoặc khốn cùng. Nhưng rồi lão lại dắt tay họ lên để họ phải cảm ơn. Lão sẵn sàng dùng mọi cách để đòi được số tiền cần lấy, để rồi ném trả với luận điệu thương hại giả dối vì thương kẻ bần hàn cùng túng quá. Hắn diễn kịch cứ như thật. Vì thế mà nhận cho ra bộ mặt thật của tên cáo già Bá Kiến không phải là điều dễ dàng.
Tất cả những thói lưu manh, côn đồ, đểu giả ấy được rèn luyện chỉ để bóc lột người khác mà thôi. Bá Kiến nổi tiếng hơn ở cái danh "già đời trong nghề đục khoét". Để vơ vét được nhiều tiền của, lão đã vận dụng hết các ngón nghề điêu luyện, không trừ ngón nào. Với người nông dân hiền lành nhưng khốn khó, lão tha hồ bóp nặn trong những vụ thu thuế. Không cách này thì cách khác, người nông dân phải cật lực nộp đủ tiền thuế. Không có thì lão cho vay. Mà vay thì phải trả gấp năm gấp mười.
Đối với "những thằng bạt mạng" hắn không ngừng thu nạp để giúp hắn dùng trong việc đòi nợ hay gây thanh thế cho hắn. Hắn luôn dùng đúng, người đúng việc. Bởi thế mà, không có cái nợ nào hắn không đòi được, không có kẻ thù nào mà hắn không làm cho điêu đứng, tán gia bại sản. Chí phèo đối với hắn như một con tốt thí mạng. Bằng tiền, hắn mua chuộc cả con người Chí. Hắn biến thù thành bạn. Những người bạn "đặc biệt" của hắn sớm hôm quanh quẩn quanh làng, hễ có việc là hắn sai bảo.
Nam Cao cũng đã vạch rõ nhân cách bỉ ổi, đê tiện của lão cáo già vô sỉ ấy. Bá Kiến không chỉ mưu mô mà còn là một lão già mất nết, dâm đãng và đồi bại. Chuyện lão có bốn năm bà vợ thì cũng thường tình. Nhưng ở tuổi ngoài sau mươi mà hắn còn ghen bóng, ghen gió. Nỗi hậm hực của lão đối với "những thằng trai trẻ" đã khiến hắn nhẫn tâm đẩy bao con người vô tội vào tù ra tội. Chính hắn lại là người rất háo sắc và thích chơi bời, trác táng, sa đọa và hư hỏng hơn ai hết. Hắn bí mật đi lại với vợ Binh Chức. Câu chuyện ăn chơi của lão ở tren tỉnh thì ai cũng biết.
Đặc tả nhân vật Bá Kiến là một trong những thành công nghệ thuật của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo. Những loại cường hào như Bá Kiến trong xã hội là không hiếm. Sức mạnh đích thực nằm ở cái cách Nam Cao miêu tả, vừa rõ ràng vừa khinh bỉ tột độ. Cộng với lớp từ ngữ phong phú, chân thực giống như một chất tẩy rửa từng bước lột trần bộ mặt xấu xa, đê tiện, bỉ ổi và dâm ô của Ba Kiến.
Nhân vật Bá Kiến vừa mang bản chất chung của giai cấp địa chủ cường hào, vừa có những nét riêng biệt sinh động không giống bất kì một tên địa chủ nào khác trong văn học. Điều đó giải thích vì sao hắn luôn được chúng ta nhắc đến khi cần ám chỉ một kẻ có quyền lực, gian hùng và nham hiểm. Hắn là cái nguyên nhân không chỉ dẫn đến cái bi kịch thảm khốc của cuộc đời Chí Phèo mà còn của biết bao con người lương thiện khác.
Người đọc hả hê khi nhìn thấy Bá Kiến nằm giẫy chết trong vũng máu. Nhưng người đọc cũng lập tức lo âu và suy nghĩ. Bá Kiến này chết nhưng trong xã hội vẫn còn có biết bao Bá Kiến khác. Những kẻ đối địch bấy lâu của cá kiến chờ đợi cái chết của lão mà nhảy lên tiếp tục đè đầu, cưỡi cổ người nông dân. Kiếp sống lầm than không bao giờ dứt.
Tác phẩm Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ; đồng thời là lời kết tội đanh thép xã hội thực dân - phong kiến đẩy con người vào bi kịch cùng cực, bế tắc, tuyệt vọng. Nhân vật Bá Kiến quả là một thành công ngoài dự định của nhà văn. Cách miêu tả nhân vật phản diện, cách điển hình hóa nhân vật, khác sâu đời sống nội tâm có lẽ Nam Cao là nhà văn thành công nhất.
Câu trả lời của bạn
Nam Cao viết văn từ những năm 30 của thế kỉ XX, là một nhà văn có tấm lòng đôn hậu, chứa chan tình yêu thương. Những trang văn của Nam Cao thường viết về người nông dân thấm đượm tình cảm nhân đạo sâu sắc. Nhắc đến Nam Cao người ta không thể không nhắc đến tác phẩm đã khẳng định vị trí của ông trong những năm 41 - Chí Phèo - tác phẩn viết về bi kịch của nhân vật Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo gồm hai bi kịch nối tiếp nhau, một là bi kịch bị đẩy vào con đường tha hóa, hai là bi kịch bị cự tuyệt quyền là người. Sau khi bị Thị Nở cự tuyệt, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bắt đầu.
Sau năm ngày chung sống với Thị Nở, Chí đã bị Thị Nở tuyệt tình. Một chân trời tràn đầy hạnh phúc vừa mở ra trước mắt Chi đã tối sầm lại. Tại sao Thị Nở lại tuyệt tình với Chí? Vì Thị Nở vốn đã dở hơi nhưng nguyên nhân chính là do bà cô của Thị Nở kiên quyết không cho Chí Phèo lấy Thị Nở.Vì Chí Phèo là thằng không cha, không mẹ, là kẻ lưu manh côn đồ, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Suy nghĩ của bà cô Thị Nở cũng chính là định kiến xã hội đầy bất công đối với Chí. Bà cô Thị Nở, dân làng Vũ Đại không biết và cũng không tin vào sự hoàn lương của Chí. Với họ, Chí mãi mãi là con quỷ dữ. Và thế là định kiến xã hội đã bóp chết tình người mong manh của Thị Nở, đã chặn đứng đường trở lại xã hội lương thiện của Chí. Phát hiện, tố cáo, lên án định kiến xã hội là một đóng góp mới đáng kể của Nam Cao trong văn học Việt Nam hiện đại.
Bị Thị Nở tuyệt tình, Chí lâm vào bi kịch bị cự tuyệt vô cùng đau đớn tuyệt vọng. Vị mất Thị Nở là mất tất cả, mất sự bấu víu cuối cùng, là mất đi tổ ấm, mất đi cơ hội làm người mà chí hằng ao ước đến cháy lòng. Có thể thấy, Nam Cao như đã hóa thân vào nhân vật của mình để diễn tả đến tận cùng cơn bão lòng của Chí với những cung bậc cảm xúc, phức tạp, tiinh vi. Ban đầu, nghe Thị Nở chút lời bà cô vào mặt, Chí thản thốt, bàng hoàng đến chết lặng. Chí không tin vào tai, vào mắt mình, Chí dường như không hiểu nổi, đến khi hiểu ra, Chí ngẩn mặt, ngẩn người. Đất dưới chân Chí như đang sụp đổ. Thoáng một cái, Chí như hít thấy hơi cháo hành, Chí tiếc nuối quá khứ hạnh phúc biết bao. Chí giật mình sửng sốt, Chí đứng lên gọi, đuổi theo, nắm tay. Chí đã cố gắng níu lấy Thị Nở bằng mọi cách nhưng mọi nỗ lực của Chí đều trở nên vô vọng.
Hụt hẫng, đau đớn, tan nát cõi lòng, Chí lôi rượu ra uống, nhưng càng uống lại càn tỉnh. Giấc mơ hạnh phúc, khát vọng hoàn lương phút chốc tan tành mây khói để lại trong lòng Chí nỗi đau mênh mang, thăm thẳm mà không một thứ rượu nào có thể làm nguôi ngoai. Nỗi đau ấy đã nhấn chìm, nuốt chửng cả rượu. Yếu tố phi lí đã được Nam Cao vận dụng một cách tài tình để phơi trải nỗi đau tận cùng trong lòng Chí. Càng uống càng tỉnh, hơi rượu không sặc sụa, Chí thấy thoang thoảng hơi cháo hành. Lơ lửng, chờn vờn trước mắt, hơi cháo hành hiện ra như một sự trêu ngươi, chọc tức, như lưỡi dao sắc xuyên thẳng vào trái tim rỉ máu của Chí, cứ nát cõi lòng tan hoang của Chí, đẩy Chí vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Chí ôm mặt khóc, dưng dức, khóc hư thể chưa bao giờ được khóc, tức tưởi, đau đớn tuyệt vọng. Tiếng khóc của người lương thiện bị cự tuyệt quyền làm người
Dõi theo đoạn văn diễn tả tâm trạng khi bị Thị Nở cự tuyệt, người đọc không chỉ thán phục tài năng mổ xẻ nội tâm thần tình của ngòi bút Nam Cao mà còn cảm phục trái tim nhân đạo vĩ đại của nhà văn. Ta nghe trong trang văn như có cả tiếng khóc thảm thương của Nam Cao trước bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.
Câu trả lời của bạn
I. MỞ BÀI
- Chí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, cũng là của văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930 - 1945. Ở đó nhà văn đã miêu tả rất thành công tâm lí của nhiều nhân vật, đặc biệt là diễn biến tâm lí nhân vật Chí Phèo (từ buổi sáng sau khi gặp thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời).
- Diễn biến trong tâm lí nhân vật Chí Phèo ở đoạn này khá phức tạp nhưng có logic, đúng quy luật tâm lí. Đó là một quá trình tự thức tỉnh để hi vọng, tuyệt vọng và để báo thù.
II. PHÂN TÍCH
- Diễn biến ấy có thể tóm lược như sau: từ sự thức tỉnh những cảm xúc thông thường của con người (nỗi buồn mơ hồ với bao nhiêu rung động sâu xa của những cảm giác, cảm xúc thuộc về con người) đến nỗi sợ cô đơn, nỗi khát khao trở về với xã hội bằng phẳng, thân thiện với mọi người. Nỗi khát khao ấy càng tha thiết khi Chí Phèo bưng bát cháo hành và nhận được những chăm sóc mộc mạc mà tình tứ chân thành của thị Nở, nhận ra hương vị cháo cũng là hương vị của hạnh phúc, tình yêu. Nhưng rồi Chí Phèo bị thị Nở từ chối phũ phàng, Chí Phèo bấy giờ mới nhận ra số phận bi đát và bi kịch đau đớn của mình. Càng đau đớn càng uất hận. Hắn vác dao đi trả thù.
- Việc Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự sát là theo tâm lí giải tỏa bế tắc, trả thù của kẻ cố cùng (bị cự tuyệt quyền làm người) liều thân. Thoạt đầu, có thể Chí Phèo hành động theo sự thúc đẩy bản năng, hoặc theo tiếng gọi hay sự mách bảo của tiềm thức. Nhưng về sau, khi đã giáp mặt Bá Kiến, Chí Phèo đã hành động trong một trạng thái rất tỉnh táo: nhận thức đúng ai là kẻ đã đẩy mình đến tình trạng bi đát (cả đến người cuối cùng ở làng Vũ Đại có thể sống thân thiện với Chí Phèo là thị Nở cũng từ chối Chí Phèo thì không còn gì bi đát hơn). Đó cũng là tình trạng tuyệt vọng cùng cực. Chí Phèo đã hành động vừa rất u tối, bản năng, vừa rất sáng suốt, tỉnh táo.
- Xét về một mặt nào đó, chính sự từ chối của thị Nở đã kéo Chí Phèo về với thực tại và nhận ra kẻ thù của mình trước hết vẫn là Bá Kiến. Trong truyện Nam Cao kể Chí Phèo ba lần đến nhà Bá Kiến và lần nào cũng mang theo hung khí (một cái vỏ chai hoặc một con dao). Nghĩa là mâu thuẫn Chí Phèo - Bá Kiến là mâu thuẫn không thể điều hòa, trước sau gì cũng bùng nổ thành án mạng.
III. KẾT LUẬN
Sự miêu tả thành công diễn biến tâm lí nhân vật Chí Phèo trong đoạn của tác phẩm như vừa phân tích, một mặt thể hiện cái nhìn hiện thực sắc sảo của Nam Cao, mặt khác cũng thể hiện một tinh thần nhân đạo sâu sắc và cảm động của tác giả
Câu trả lời của bạn
Truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao ngay từ khi ra đời đã lập tức đưa tên tuổi của nhà văn Nam Cao trở thành một trong những nhà văn xuất sắc nhất của nền văn học phê phán những năm 1930-1945. Hơn thế nữa nó đã trở thành một tác phẩm được xem là kiệt tác của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Có được thành công như vậy chính là nhờ vào những nguyên mẫu có thực ở làng Đại Hoàng quê tác giả, mà thông qua ngòi nghệ thuật xuất sắc, Nam Cao đã xây dựng nên những nhân vật có một không hai, gây ấn tượng sâu sắc với người đọc, tạo thành một câu chuyện với cốt truyện hấp dẫn, có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Cuộc đời của Chí Phèo là chuỗi những bi kịch dài và nối tiếp, trong đó đớn đau và khổ sở nhất ấy chính là bi kịch bị từ chối quyền làm người, bị từ chối quyền hạnh phúc. Bà cô của Thị Nở đã có một câu nói với cháu gái khiến người đọc không khỏi thấy day dứt, xót xa cho nhân vật Chí Phèo rằng: "Đàn ông đã chết hết hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ".
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở chính là định mệnh của Chí Phèo, cuộc gặp gỡ đầy nhân văn ấy dường như đã đánh thức trong tâm hồn Chí Phèo một phần nào đó lâu nay vẫn ngủ quên, vẫn bị nhấn chìm bởi men rượu, bởi những tiếng chửi rủa chán chường. Lúc này người ta mới nghĩ lại, mới nhớ lại rằng, Chí Phèo của trước kia cũng hiền lành, chăm chỉ như bao người nông dân khác, thế nhưng cái xã hội phong kiến thối nát, với những con người quan quyền cậy thế, chỉ vì chút ghen tuông dở hơi mà đẩy một chàng trai hiền lành vào chốn ngục tù khổ sở. Ai biết được trong bảy tám năm ấy đã xảy ra những chuyện gì với Chí Phèo, người ta chỉ thấy sau khi ra tù Chí Phèo đã trở thành người khác, với cái bộ dạng mà cả làng đều nhất trí "trông gớm chết". Ai ai cũng ghê sợ Chí Phèo, con người ta hình thành hẳn trong mình những cái định kiến ghê gớm, vững chắc, kẻ biết chuyện cũng như không biết chuyện thì đều mặc định cho mình một suy nghĩ, Chí Phèo là kẻ lưu manh, đáng sợ, phải xa lánh hắn ta. Chính điều đó đã chặt đứt đi cái con đường hoàn lương của Chí Phèo.
Quay trở lại với cuộc gặp gỡ định mệnh với Thị Nở, họ đã ăn nằm với nhau trong một đêm trăng, rồi ngủ thiếp đi, sau đó Thị Nở dìu Chí Phèo về căn lều của hắn và ra về. Lúc Chí Phèo tỉnh lại, dường như đã có một cái gì thay đổi, hắn ở trong căn lều tối tăm ẩm thấp lờ mờ nhưng vẫn có thể tưởng tượng ra "nắng bên ngoài chắc là rực rỡ", hắn nghe thấy "tiếng chim ríu rít bên ngoài". Tất cả những thứ ấy đều là những điều mà bấy lâu nay hắn chẳng hề cảm nhận được, bời vì hắn bận say! Người vốn vẫn chìm đắm trong men rượu như Chí Phèo mà cũng có ngày sợ rượu, lần đầu tiên trong suốt gần chục năm đằng đẵng hắn mới lại thấy được tiếng huyên náo của cuộc sống và thậm chí hắn còn thấy vui vẻ. Bát cháo hành của Thị Nở, sự quan tâm chăm sóc của một người đàn bà dở hơi, xấu xí thế mà lại đánh thức cái tâm hồn ham sống, mong muốn làm lại cuộc đời của Chí Phèo, hắn cũng có ước vọng điền viên, ước vọng có một gia đình nho nhỏ, nhưng giờ đã ở bên kia dốc của cuộc đời liệu có muộn lắm không? Hắn nghĩ thế.
Có lẽ cuộc đời của Chí Phèo đã thực sự thay đổi và thậm chí có được hạnh phúc với Thị Nở, nếu như thị chẳng dở hơi mà có suy nghĩ "Hay mình dừng yêu để hỏi cô đã", thế rồi bi kịch của Chí Phèo lại tiếp diễn. Tiếp diễn bởi chính cái định kiến cay nghiệt mà người đời đã dành cho hắn. Con đường trở về với lương thiện, cái khát khao muốn được hòa vào cuộc sống, được sống như con người đã bị chặn đứng lại bởi những lời chua chát, xuất phát từ bà cô của Thị Nở, kẻ đại diện cho thái độ, định kiến của xã hội, cho cả làng Vũ Đại với Chí Phèo. Bà cô già, lại còn ế chỏng chơ của Thị Nở, trước thiết nghĩ bà ta cũng chẳng thương yêu gì cô cháu dở hơi của mình, mà có lẽ bà tự thấy "tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dài dằng dặc của bà, không có chồng. Bà chua xót lắm. Bà uất ức, uất ức với ai không biết". Cái uất ức, cái ích kỷ yếu hèn của con người khiến bà ta đổ hết lên đầu cháu mình, toan phá tan cái hạnh phúc chớm nở của cô cháu, bà ta cần gì biết cháu lấy ai, nhưng với sẵn cái định kiến khốn nạn về một thằng Chí Phèo không cha, một thằng chuyên rạch mặt ăn vạ, bà ta cứ luôn mồm mà xả không thương tiếc. Những câu nói tuy không phải là dao nhưng cắt vào lòng người những vết sâu hoắm, ấy là lưỡi dao định kiến tàn nhẫn của xã hội phong kiến đương thời. Một khi nó đã mặc định điều gì, thì kẻ đó chỉ có thể chịu chết bị đóng đinh với cái định kiến đó đời đời kiếp kiếp, bị người ta xa lánh, người ta sợ hãi hay gì đó mà cứ chấp nhất nhất tin vào cái xấu chứ chẳng bao giờ tin vào điều kỳ diệu của tạo hóa, chẳng tin vào sự thức tỉnh lương tri của Chí Phèo.
Chí Phèo không cha, không mẹ là lỗi của hắn sao? Liệu có ai còn nhớ Chí Phèo trong hình dáng của một anh canh điền hiền lành chất phác, liệu có ai biết rằng tại sao cuộc đời Chí lại bê bết như bây giờ, liệu có ai thèm đếm xỉa đến nỗi oan khuất đi tù 7, 8 năm của Chí? Không, không một ai cả, họ chỉ trực chờ chăm chăm nhìn vào cái xấu, cái tệ hại nhất của con người ta để mà ra sức xỉ vả vùi dập, thậm chí vô tình đã tước đi cái quyền được làm người, được vui sống. Bà cô của Thị Nở chính là tiêu biểu trong số ấy, phải bà đau đớn, chua xót vì không có được hạnh phúc gia đình, thế nhưng cớ gì phải ngăn cản cháu mình là Thị Nở. Bà ta đã không thể mở lòng, không thể suy nghĩ một cách tích cực rằng Chí Phèo sẽ thay đổi và Thị Nở ít ra cũng hơn bà có được hạnh phúc, bởi lý trí của bà ta bị che mờ bởi sự ích kỷ, bởi những định kiến cay nghiệt mà người đời gán cho Chí Phèo. Thế là hết, giấc mơ quay lại làm người lương thiện, giấc mơ điền viên của Chí và thị đã tàn, đã bị chặn đứng một cách phũ phàng bởi lời của bà cô. Cũng lúc này đây, trong tuyệt vọng, trong cơn say Chí Phèo mới nhận ra chỉ có chết mới là con đường duy nhất giải thoát cho hắn khỏi bể khổ này, hắn đã sống lê lết ở cái cuộc đời này hơn 40 năm, thế nhưng đi đâu người ta cũng khinh ghét hắn, tiếng hắn chửi với tiếng chó sủa hòa vào nhau, có lẽ đã từ lâu lắm người ta đã chẳng còn coi hắn là con người, thì lấy đâu ra cái gọi là hạnh phúc, lương thiện, tình yêu?
Câu nói đầy cay nghiệt của bà cô Thị Nở chính là đại diện cho những định kiến đến tàn nhẫn của xã hội phong kiến mục nát lúc bấy giờ đối với Chí Phèo. Nó đã chặn đứng hết tất cả ước mơ, hy vọng, lương tri vừa mới được đánh thức của Chí, dồn Chí đến bước đường cùng, lựa chọn cuối cùng là cái chết để giải thoát. Phân cảnh, lời nói của bà cô khiến cho người đọc không khỏi xót xa, day dứt về một kiếp người bất hạnh, chồng bất hạnh thất thểu, lay lắt bước ra từ những trang sách của nhà văn Nam Cao.
Câu trả lời của bạn
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao xưa và nay vẫn được xem là một truyện ngắn tiêu biểu, xuất sắc của văn học sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê phán. Tác phẩm được chú ý khai thác ở các khía cạnh tố cáo xã hội phi nhân tính, sự áp bức của giai cấp thống trị, số phận con người bị tha hoá... nhiều hơn là nhìn từ góc độ tình yêu.
Toàn bộ nội dung, kết cấu tác phẩm gắn liền với cuộc đời của nhân vật chính là Chí Phèo, có một chi tiết đáng lưu ý là: Các biến cố làm nên những đổi thay to lớn, những bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo cũng như trong kết cấu tác phẩm lại đến từ hình bóng những người đàn bà. Tuy nhiên có bóng dáng đẩy Chí Phèo vào chốn tăm tối những cũng có gương mặt tuy xấu xí nhưng lại đưa Chí Phèo ra nơi ánh sáng của cõi minh triết.
Cuộc đời Chí Phèo đột nhiên chuyển hướng do việc tiếp xúc miễn cưỡng với bà Ba Bá Kiến, một người "đàn bà phốp pháp, má hây hây", để từ một anh nông dân hiền lành chất phác trở thành một tên tù, một tên lưu manh mất hết nhân tính, mất luôn cả ý thức về mình lẫn ý thức làm người. Tuy nhiên, lần gặp gỡ với Thị Nở lại mang đến một hệ quả ngược, nó làm đảo lộn tất cả. Chính cuộc gặp gỡ với Thị Nở chứ không phải một biến cố xã hội nào đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời Chí Phèo và quyết định số phận của cả Chí Phèo lẫn Bá Kiến.
Chút tình cảm tưởng chừng rất vu vơ giữa Chí Phèo và Thị Nở ấy đã tác động, chi phối một cách sâu sắc đến quan hệ giữa Chí Phèo và Bá Kiến. Từ đó có thể thấy không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo bắt đầu từ buổi tối trước khi gặp Thị Nở, cái buổi tối mà hắn "vừa đi vừa chửi", để rồi từ đó mối quan hệ dây mơ rễ má với Bá Kiến, những khúc, đoạn trong cuộc đời Chí Phèo như một cuốn phim quay chậm được tái hiện. Tất cả những chi tiết này có tính chất như một đường truyền, một lời đề dẫn hay như những hoạ tiết có tính chất phông nền để làm nổi bật tác động của tình yêu, tình người đến cuộc đời Chí qua nhân vật Thị Nở.
Một trong những đặc trưng phong cách của Nam Cao là sử dụng những yếu tố trái khoáy, ngược nhau để mô tả hiện thực. Tên của tác phẩm cũng thường hàm chứa một điều trái khoáy như Lang rận, Chí Phèo, Tình già... Bản thân sự tồn tại nhếch nhác của nhân vật Lang rận cùng với vẻ bề ngoài bẩn thỉu là một sự trái ngược, mâu thuẫn với nghề nghiệp, vị thế xã hội mà nhân vật mang vác. Tất cả những đối nghịch đó được thâu tóm trong một cái tên: Lang rận, và được khắc sâu hơn trong sự tương phản giữa vẻ bên ngoài nhếch nhác, thấp kém với đời sống tâm hồn cao đẹp. Hay trong truyện Nửa đêm, người cha có tên là Thiên Lôi nhưng lại đặt tên con là Đức - như hai mặt của một quá trình biện chứng nhân quả...v.v.
Từ những chi tiết đó có thể hiểu tại sao Nam Cao lại lạ hoá câu chuyện tình Chí Phèo - Thị Nở như vậy. Không lãng mạn thơ mộng như các câu chuyện tình của Tự Lực Văn Đoàn, buổi tối gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở bắt đầu bằng hình ảnh Chí Phèo "vừa đi vừa chửi... chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo", cuộc đời hắn chìm trong những cơn say.
Chưa bao giờ hắn tỉnh táo để "nhớ rằng hắn có ở đời". Tức trong hắn chỉ tồn tại không phải ý thức mà là một khối u u mê mê, tối tăm đặc quánh, vô cảm, vô thức. Ngay cả sự hiện hữu của bản thân, hắn cũng không nhận thức được, hắn chỉ kinh ngạc rồi cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi khi phát hiện ra mình dưới dạng một cái bóng trên đường trăng nhễ nhại, méo mó, xệch xạc. Chính hình ảnh này hướng đến sự ẩn dụ về một dạng tồn tại bất toàn của con người trong xã hội cũ. Con người không được sống thực là chính mình mà chỉ là những cái bóng, nhưng cũng không được là cái bóng của chính mình mà là bóng của giai cấp thống trị nên thành "cái vật xệch xạc, một cái gì đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại". Với cái bóng đó, với ý thức hiện hữu về sự méo mó của chính mình, Chí Phèo đến với Thị Nở. Đó là cuộc gặp gỡ tất yếu là hệ quả từ hai cuộc đời trống rỗng và bất toàn của hai con người.
Thị Nở trước khi gặp Chí Phèo vốn chỉ là một thực thể không có đường nét cá tính gì đặc biệt mà còn khùng khùng dại dại, còn dung nhan là những đường nét tự nhiên, thô mộc đến mức dị hợm: Trên một khuôn mặt ngắn ngủn, có cái mũi "vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành" và một đôi môi "cũng cố to cho không thua cái mũi" hơn nữa, lại dày và có "màu thịt trâu xám ngoách". Toàn bộ "nhan sắc" của Thị Nở được Nam Cao tóm lại trong một nhận xét là "xấu đến ma chê quỷ hờn". Từ hai cuộc đời, hai thân phận khiếm khuyết, hai trí tuệ mông muội tăm tối của Chí Phèo - Thị Nở, Nam Cao đã để cho họ kết hợp lại như một sự liên kết hoàn hảo để tạo ra một con người mới thống nhất trong sự bừng nở trở lại của một trí tuệ minh triết. Đó là Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
Với Nam Cao, tình yêu không đi liền với sự lý tưởng hoá đối tượng, với sự hâm mộ sùng bái người yêu mà bắt đầu chỉ thuần tuý là bản năng. Ánh trăng trong mắt của Chí Phèo đêm gặp Thị Nở mang đầy màu sắc nhục thể, cứ "xanh rời rợi như là ướt nước". Cây dâu tây gần bờ sông thì "thân mềm oặt", những tàu chuối trong vườn nhà hắn thì "nằm ngửa, ưỡn cong cong lên" thỉnh thoảng lại "giẫy lên đành đạch như là hứng tình". Cái bóng - dấu ấn về sự hiện hữu méo mó của bản thân Chí Phèo cũng được phát hiện trong lúc này. Hành động chiếm đoạt Thị Nở của Chí Phèo lúc đầu chỉ thuần tuý là bản năng nhưng chính trong cõi âm u của bản năng ấy một ánh loé diệu kỳ đã bùng dậy hé mở cho ta nhìn thấy bản thể tốt đẹp của con người.
Nam Cao đã vượt trước những nhà văn của thời đại ông ở chỗ không dừng lại ở những tình yêu lý tưởng thuần tuý tinh thần như của Loan và Dũng trong Đoạn Tuyệt (Khái Hưng), Lan và Ngọc trong Hồn bướm mơ tiên (Khái Hưng), Thanh và Ngọc trong Dòng sông Thanh Thuỷ (Nhất Linh), mà ông đã hợp nhất tình yêu trong sự hoà hợp tinh thần và thể xác. Đó là những chi tiết làm căn cứ để khẳng định đây là tình yêu chứ không thuần tuý là bản năng khi Nam Cao tiếp tục miêu tả thêm lúc Chí Phèo đau bụng và ói mửa, được Thị Nở dìu về lều... Hành động ban đầu là bản năng đã làm sống dậy tình yêu, sống dậy phần nhân tính tưởng không có hay đã chết trong con người của cả Chí Phèo lẫn Thị Nở. Ở đây có sự tái sinh, phục sinh của tinh thần nhờ tình yêu và sự gắn kết hai thân xác. Nó đã cải hóa, tái sinh Chí Phèo, tình yêu cho Chí Phèo và Thị Nở ý thức về chính mình.
Trước đây, họ chỉ là hai khối mông muội, Chí Phèo thì hung bạo và triền miên trong vô thức và những cơn say vô tận: "Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận". Vậy nhưng trong tình cảm với Thị Nở, Chí Phèo đã tìm thấy chính mình, khám phá ra chính mình, hơn thế nữa khám phá ra sự sống. Con người ý thức, con người cảm xúc của Chí Phèo sống dậy. Lần đầu tiên hắn tỉnh hẳn rượu, đó là cái tỉnh của ý thức.
Tại sao Chí Phèo "càng uống lại càng tỉnh ra?". Bởi vì tình yêu của hắn và Thị Nở đã làm thay đổi tâm điểm cuộc sống của hắn. Tâm điểm đó đã trượt từ cõi u minh của vô thức những ngày trước đây về với cõi thực tại, bắt Chí Phèo thừa nhận một thực tại cuộc sống đang tồn tại dù có hay không có hắn. Nó định vị tâm điểm cuộc sống của Chí Phèo từ những cơn say nghiêng ngả vào một cuộc sống bình thường. Chính vì vậy mà hắn tỉnh, hắn đã nhìn thấy chính bản thân mình. Thấy "bâng khuâng" rồi "lòng mơ hồ buồn"rồi "nghĩ vẩn vơ"... Thị Nở cũng thế, lần đầu tiên Thị lắng nghe cảm xúc của tâm hồn mình để "trằn trọc" "nghĩ ngợi" "tưởng tượng bâng quơ" .v.v..
Những giới hạn của cuộc đời Chí Phèo như đã được phá bỏ, nó mở rộng, liên thông với cuộc đời bên ngoài. Chính tình yêu đã mở thông lối về với cuộc đời của Chí Phèo, hắn cảm nhận được cuộc sống xung quanh:"Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn !".
Tình yêu cũng gia tăng thêm kích thước cho cuộc đời hắn. Trước đây Chí Phèo vô cảm, vô tâm, không có ý thức về chính bản thân mình nhưng nay hắn có cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là quá khứ với những kỷ niệm yêu thương đầm ấm, là mùi hương từ bát cháo hành và những săn sóc ân cần của Thị Nở, những kỷ niệm xa xưa cũng hiện về. Hắn từng mơ tới một viễn cảnh bình yên với chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải... hắn còn sợ già, sợ cô độc và muốn làm hòa với mọi người, muốn làm người lương thiện. Sự chuyển vị này là hệ quả tất yếu do tình yêu đem lại, nó khắc họa một cách sâu sắc bản thể bất toàn và cô độc của Chí Phèo lẫn Thị Nở trước khi yêu và được yêu. Chính tình yêu đã bù đắp khiếm khuyết trong tâm hồn, tái sinh một cuộc đời và làm giàu có đời sống nội tâm của nhân vật này rất nhiều.
Chính vì thức tỉnh, vì đã được khai hóa và giàu có nhờ tình yêu nên khi bị Thị Nở từ chối "và ngoay ngoáy cái mông đít ra về", Chí Phèo mới cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ. Sức mạnh của tình yêu đã đưa hai nhân vật này đến một tâm điểm tuyệt đối của cuộc sống, trong khi thực tại lại không như vậy, nó vẫn tồn tại những định kiến xã hội không dễ buông tha cho con người nên thiên đường tình yêu, khát vọng làm người của Chí rơi tõm vào hiện thực trần trụi và vỡ toang, buộc Chí Phèo phải đối diện với hiện thực với nỗi đau khổ, tuyệt vọng để vùng lên cầm dao giết chết Bá Kiến.
Lời chì chiết của bà cô Thị Nở như là một chi tiết "giải thiêng" tình yêu của Chí Phèo. Nó thực tế, trần trụi đến tàn nhẫn. Đó là cái giá mà Chí Phèo và Thị Nở phải trả để đến với nhau, những thành trì xung quanh tình yêu ấy không dễ gì phá nên Chí Phèo tự kết liễu đời mình là một cách chọn lựa thích hợp nhằm chối bỏ sự thỏa hiệp, quay lại cuộc sống trước kia.
Sau những tác phẩm về tình yêu của Tự Lực Văn Đoàn của chủ nghĩa lãng mạn thì Chí Phèo của Nam Cao là một khám phá. Bởi Nam Cao vẫn viết về tình yêu nhưng không phải về bản thân tình yêu Chí Phèo - Thị Nở, mà sâu xa hơn, Nam Cao muốn hướng người đọc đến những vấn đề ngoài tình yêu. Đó là vấn đề về văn hóa, về con người và xã hội, về bản năng và vô thức, những ý niệm về thân phận con người, sự tự do thoát khỏi những buộc ràng của định kiến xã hội, khao khát làm người.
Chính vì vậy tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao không mang dáng dấp của truyện tình theo nghĩa thông thường ta vẫn hiểu, cũng không chuyển tải nội dung tình yêu theo cách thông thường mà theo một cách rất trái khoáy, rất nghịch dị mang dấu ấn riêng của Nam Cao. Nó làm cho hiện thực cuộc sống không còn bị gò ép trong cái khuôn khổ thông thường, quen thuộc trong cái nhìn của mọi người mà hiện ra một cách đột ngột bất ngờ tạo sự ngạc nhiên trong cảm nhận.
Câu trả lời của bạn
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Sáng tác của ông chủ yếu tập trung vào hai đề tài chính: Người trí thức bế tắc và người nông dân nghèo khổ. Trong đó nổi bật lên là chủ đề người nông dân nghèo.Về đề tài này, ông đã phản ánh trân thật cuộc sống tăm tối, cực nhục, bế tắc của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Điều đó đã thể hiện sâu sắc qua tác phẩm nổi tiếng "Chí Phèo" của ông. Tác phẩm khái quát một hiện tượng ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa để rồi bế tắc không lối thoát qua cái chết của Chí Phèo.
Chí Phèo là một đứa con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ. Được dân làng Vũ Đại nhận nuôi, Chí lớn lên như cây cỏ, tuổi thơ đi hết ở nhà này lại đi ở nhà nọ, tuổi thanh niên ra sức làm thân trâu ngựa cho nhà Lí Kiến. Bấy giờ, Chí được xem là một người hiền lành, lương thiện, có ý thức về nhân phẩm, tự trọng. Nhưng chỉ vì chuyện ngờ ghen vớ vẩn, Lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù. Sau bẩy, tám năm biệt tích trở về làng, anh đã hoàn toàn biến đổi. Ngoại hình thật kinh tởm,cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết!
Đang trượt dài trên con đường của sự tha hóa, tình cờ trong một lần say Chí Phèo đã gặp Thị Nở. Được Thị Nở yêu thương, chăm sóc, quan tâm, phần người trong Chí đã hồi sinh. Chí khát khao được trở lại làm người lương thiện, được xây dựng mái ấm với Thị Nở. Nhưng bà cô Thị Nở kiên quyết ngăn cản mối tình này nên Thị Nở đã cự tuyệt Chí Phèo. Bị Thị Nở cự tuyệt Chí rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn, anh xách dao đến nhà Bá Kiến để đòi lại quyền sống làm một người lương thiện. Nhưng anh lại ý thức được một điều " anh không thể làm người lương thiện nữa". Vì thế Chí đã xông vào đâm chết Bá Kiến - kẻ thù đã cướp đoạt cuộc đời lương thiện của anh. Sau đó Chí tự sát vì không thể tiếp tục sống cuộc sống thú vật nữa. Chí đã chết trong tâm trạng bi kịch, đau đớn, phẫn uất, chết trong tiếng thét đòi quyền sống là một người lương thiện, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống.
Cái chết của Chí là một cái chết thảm khốc: Khi dân làng Vũ Đại kéo đến thì đã thấy Chí Phèo đang "giãy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi". Chí phèo trong nỗi uất ức nghẹn ngào đau đớn: "Mắt hắn trợn ngược, mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói không ra tiếng ở cổ hắn thỉnh thoảng máu vẫn còn ứa ra".
Cái chết của Chí thể hiện sự bế tắc cùng đường của kiếp người bị tha hóa biến chất sau khi đã thức tỉnh quyền làm người nhưng không tìm được con đường sống. Sự bế tắc cùng đường của Chí Phèo cũng là sự bế tắc của những người nông dân Việt Nam trước 1945. Cái chết của Chí cũng là biểu hiện cho sự bế tắc nói chung của văn học hiện thực phê phán trước 1945. Trước đây trong truyện ngắn "Lão Hạc" Nam Cao đã để cho người cha già ấy ăn bả chó để tự vẫn và thoát khỏi sự bế tắc, tuyệt vọng thì giờ đay Nam Cao cũng để Chí Phèo tự tìm đến cái chết để chấm dứt cuộc sống thú vị. Cái chết của Chí còn là sự tất yếu bởi lúc này thiên lương, nhân tính của Chí đã trở về, anh không thể tiếp tục tồn tại trong hình hài của con quỷ dữ. Hơn nữa nếu còn sống Chí Phèo sẽ phải tiếp tục đối mặt với Lí Cường - con trai Bá Kiến. Nếu Chí Phèo không tự kết liễu đời mình thì Lí Cường cũng không tha cho hắn. Chí thà tự tìm đến cái chết để bao vệ thiên lương, nhân tính còn hơn là phải chết trong tay bọn thống trị.
Để Chí Phèo chết là một dụng ý nghệ thuật của Nam Cao để từ đó để làm sâu sắc hơn giá trị hiện thực của tác phẩm. Phải để Chí Phèo chết thì ý nghĩa tố cáo, lên án xã hội của tác phẩm mới mạnh mẽ gay gắt (xã hội ấy không chỉ đẩy người nông dân lương thiện vào con đường lưu manh tha hóa mà còn dồn họ đến mức đừng cùng khiên họ phải tự hủy diệt sự sống của mình). Để Chí Phèo chết cũng là một cách Nam Cao thể hiện chiều sâu trong tư tưởng nhân đạo của mình. Nam Cao không nhẫn tâm nhìn Chí tiếp tục trượt dài trên con đường của sự tha hóa, chìm đắm trong kiếp sống của loài quỷ dữ. Vì thế cần phải tìm một cách để giải thoát cho Chí và để cho anh tự sát là cách duy nhất để giải thoát Chí khỏi kiếp sống tăm tối này. Một cuộc sống không ra sống thì chết chính là một sự giải thoát. Trong cuộc sống có những cái chết biểu hiện cho sự hèn nhát, bế tắc, yếu đuối. Nhưng cũng có cái chết lại là bước mở đầu cho sự sống mới, cho sự tháo cũi xổ lồng để giải thoát chính bản thân. Cái chết ấy còn là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với xã hội đầy bất công, định kiến thiếu tình người.
Tác phẩm Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện ở tấm lòng yêu thương trân trọng của Nam Cao với những người khốn khó. Tác giả phát hiện những phần sâu kín nhất trong tâm hồn của họ, những gì còn lại của tình người, sự khát khao hạnh phúc, ước muốn yêu thương, nhất là quyền được làm người lương thiện. Qua cái chết của Chí, Nam Cao muốn khẳng định một điều: Con người có khả năng chống trả sự tha hóa và chiến thắng sự tha hóa.
Câu trả lời của bạn
Hãy quan sát cấu trúc ngôn ngữ của Nam Cao trong buổi chiều Chí Phèo say, vừa đi vừa chửi; ta ngạc nhiên vì trật tự sắp xếp không gian, ngôn ngữ giao tiếp. Trước hết là không gian Trời (bắt đầu hắn chửi Trời). Tiếp đó Chí thu hẹp lại thành không gian Đời (rồi hắn chửi đời). Và lần lượt cứ thu hẹp dần mãi. Chúng ta tiếp tục có không gian làng Vũ Đại (tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại), rồi đến không gian những người không chửi nhau với Chí (đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn), cuối cùng là không gian của Người đẻ ra Chí (phải đấy ... hắn cứ chửi đứa mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo!). Trật tự trên có thể biểu diễn thành sơ đồ sau đây:
Bình tâm một chút, ta nhận thấy một logic tâm lí: Ai xúc phạm đến cha mẹ ta thì cũng tức là xúc phạm đến ta. Trường hợp của Chí càng phải là như vậy. Vì không ai biết cha mẹ Chí là ai. Chí cũng không biết. Điều đó đem lại cách suy luận đưa đến hiệu quả: Chửi người đẻ ra mình thì chính là chửi ngay bản thân mình. Hay nói cách khác đi, Chí đang làm công việc tự phân tích, tự mổ xẻ để tìm cho bằng được nguyên do những nổi khổ mà Chí từng gánh chịu.
Nhưng càng tìm càng bế tắc. Trước mặt ta là một Chí Phèo dở khóc dở cười hắn chửi như những người say rượu hát. Phải tỉnh táo lắm mới đem ra phân tích, mổ xẻ để rồi Chí thấy mình là con người không có thời gian (Hắn nhớ mang máng rằng có lần hắn hai mươi, rồi hắn đi ở tù, rồi hình như hắn hăm nhăm không biết có đúng không? Bởi vì từ đấy đối với hắn không có ngày tháng nữa), là con người không có thời gian, (không biết cha mẹ mình là ai). Và vào cái buổi chiều cuối đời mình, Chí tỉnh táo hẳn. Chí tức giận không có ai chịu chửi nhau với Chí, vì như thế không phải chửi nhau, không thành văn vẻ gì (và hắn lấy thế làm ức lắm: bởi vì người ta không thể chửi nhau một mình; chửi nhau một mình thì còn văn vẻ gì!). Một ý nghĩa hiện lên trong Chí: báo thù, một hành động của người tỉnh táo. Nam Cao cố ý cho ta thấy điều đó khi ông tạo ra cảnh say của Chí với Tự Lãng. Để khẳng định, ông đưa ra một chi tiết ngôn ngữ. Đó là khi Tự Lãng hỏi Chí Phèo người ta đứng lên bằng gì (đến lúc hết cả hai chai, Tự Lãng bò ra sân. Lão bò như cua và hỏi Chí Phèo rằng: người ta đứng lên bằng cái gì?). Tự Lãng thì say, say mềm còn riêng Chí Phèo thì tỉnh. Tỉnh tới mức còn biết vần ngửa Tự Lãng, còn vuốt râu Tự Lãng mấy cái rồi mới về.
Thêm một chi tiết ngôn ngữ nữa cần chú ý là trước khi Chí Phèo bước và0 cõi bất tử, Nam Cao đã làm cho Chí tỉnh hẳn bằng cấu trúc đoạn văn Chí gặp Thị Nở. Ta có được một Chí Phèo khác xưa: say sưa nhìn và run run / rón rén lại gần Thị Nở / lẳng lặng ngồi xuống bên sườn thị... say sưa / run run / rón rén / lẳng lặng... Những từ láy âm ấy không dùng cho người say được. Cuộc mổ xẻ bắt đầu thấy kết quả. Chí nhận ra mình già mà vẫn cô độc, ám cảnh một nổi buồn (buồn thay cho đời!) và ứa lệ vì sự săn sóc của Thị Nở. Cuộc mổ xẻ vẫn tiếp tục trong con người tỉnh táo ấy. Và những từ láy âm, những cách lặp từ giúp ta nhận dạng: ta có được một Chí Phèo đang bâng khuâng (hắn nhìn bá cháo bốc khói mà bâng khuâng), một Chí Phèo vừa vui vừa buồn, một Chí Phèo bắt đầu ăn năn (và một cái gì nữa, giống như là ăn năn), một Chí Phèo tỉnh táo. Tiếp đó là sự hồi tưởng rành rẽ chứ không phải là nhớ mang máng nữa về tuổi hai mươi của mình bị vợ ba Bá Kiến sỉ vả. Một nỗi nhục được nhận ra từ một tâm hồn trong trẻo, và cái tất yếu dậy lên trong lòng Chí - tuy không nói ra - là sự nuối tiếc một thời trong trẻo ấy. Sự nuối tiếc đó thúc giục Chí báo thù, Chí Phèo chết vào xế trưa ngày hôm sau với sự tỉnh táo còn nguyên vẹn của chiều hôm trước mà các chi tiết của Nam Cao vẫn rời rợi: Hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với Thị như với mẹ. Và lúc hắn ngẫm mình mà lo. Trời ơi! Hắn thèm lương thiện. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Hắn băn khoăn nhìn Thị Nở thăm dò. Chí đã tỉnh hẳn và ao ước cho hắn. Hắn băn khoăn nhìn Thị Nở thăm dò. Chí đã tỉnh hẳn và ao ước cuộc sống của người tỉnh táo (hắn bảo Thị: Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?" ... hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui)...
Chí Phèo chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc thời gian của chiều hôm trước đến trưa hôm sau. Đan xen vào đó là những hồi tưởng mà bút pháp tài tình của Nam Cao khiến cho quá khứ và hiện tại không thể nào phân ra tách bạch được Một bút pháp của điện ảnh. Và nhờ thế mà Chí Phèo là một gương mặt mới, một gương mặt lạ và lừng lững đi vào văn học với tất cả dáng vẻ riêng, diện mạo riêng, giọng điệu riêng của nó như Phong Lê đã nhận định. Bi kịch Chí Phèo trở nên sâu sắc, thâm thía nhờ vào khía cạnh tỉnh táo này.
Câu trả lời của bạn
Vì Chí Phèo hiểu rõ tình trạng, bế tắc, tuyệt vọng của mình.
Câu trả lời của bạn
Năm 1946.
Câu trả lời của bạn
Trở thành kẻ lưu manh, côn đồ.
Câu trả lời của bạn
Biến Chí Phèo thành con nghiện.
Câu trả lời của bạn
Từ lúc lọt lòng.
Câu trả lời của bạn
Một quan hệ đối nghịch gay gắt, căng thẳng, quyết liệt.
Câu trả lời của bạn
Đều cho thấy tình trạng cùng quẫn của Chí Phèo.
Câu trả lời của bạn
Đôi lứa xứng đôi.
Câu trả lời của bạn
Lọc lõi, hiểm ác, gian hùng.
Câu trả lời của bạn
Nam Cao đã mở đầu thiên truyện một cách độc đáo, ấn tượng đó chính là tiếng chửi của Chí Phèo. Tiếng chửi của Chí Phèo chính là sự giao tiếp của hắn với đời, hắn muốn được nói chuyện, muốn nói chuyện giao tiếp với mọi người.
Câu trả lời của bạn
Sau khi gặp Thị Nở diễn biến tâm trạng của Chí Phèo trở nên phức tạp. Lần đầu tiên, từ những ngày ở tù về, Chí thấy mình hoàn toàn tỉnh táo và lần đầu tiên sau những cơn say triền miên, kể từ ngày ở tù về giờ hắn mới nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống đời thường. Và khao khát được sống lương thiện đã trỗi dậy trong hắn. Chí bắt đầu nghĩ về đời mình về những ngày đã qua và những ngày sắp tới. Anh cảm nhận rõ sự cô độc và bất hạnh của đời mình. Chí mong ngóng Thị Nở, khao khát được cùng Thị xây dựng một gia đình. Hắn cũng từng là anh canh điền hiền lành, từng có ước mơ là có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Hắn nhận ra mình đã già mà vẫn cô độc. Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao.
Câu trả lời của bạn
- Tiếng chửi của Chí Phèo chính là phản ứng của hắn trước toàn bộ cuộc đời bất hạnh. Nó bộc lộ tâm trạng bất mãn tột độ của một con người ý thức được rằng mình đã bị xã hội ruồng bỏ. Những tiếng chửi vô nghĩa, không được xã hội đón nhận, lắng nghe. Một khi đã bị tước mất quyền làm người thì mọi tiếng chửi rủa, than khóc, tỉnh táo hay say xỉn đều vô tác dụng.
- Đáp lại lời hắn chỉ có lũ chó cắn xôn xao trong xóm. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với con người của hắn dù là hình thức hạ đẳng nhất. Nhưng cũng không ai đáp lại nên Chí phẫn uất. Tiếng chửi vừa thể hiện đỉnh cao tấn bi kịch cô đơn, bị từ chối quyền làm người của Chí vừa dẫn dắt vào câu chuyện.
Tình huống truyện trong truyện ngắn chí phèo là gì?
Câu trả lời của bạn
am Cao được biết đến là một cây bút tài hoa trên diễn đàn văn học Việt Nam, những tác phẩm ra đời mang màu sắc hiện thực sâu sắc. Những tác phẩm của ông mang cái nhìn về thời đại và cuộc sống hoàn toàn mới,cũng như hình ảnh trong các tác phẩm cũng đa dạng và phong phú,mang những mảng tính cách mà sự pha trộn sáng tối lại như được tương phản rõ rệt. Chí Phèo là một tác phẩm điển hình khi nhắc tới Nam Cao. Đây là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao, câu chuyện cũng gợi một những ý nghĩa nhân văn sâu sắc
Tác phẩm mở đầu thật đặc sắc và đầy ấn tượng với tiếng vừa đi vừa chửi của Chí Phèo, và xung quanh hắn chỉ có mấy con chó đứng chầu chực sủa. Ngoài mấy con chó, không có ai đáp lời hắn. Mở đầu truyện ngắn rất đỗi tài tình và tự nhiên, giống như chúng ta đang chứng kiến khung cảnh ấy vậy. Những âm thanh hay cụ thể là những tiếng chửi của Chí Phèo lại làm cho mọi thứ trở nên sống động,mọi hình ảnh như mở ra trước mắt.Có thể nói hình ảnh Chí say rượu, vừa đi vừa chửi,chửi những gì mà hắn thấy. Có lẽ, dường như mọi người ở cái làng Vũ Đại đã quen với hình ảnh này của nó, cho nên cứ khi nào hắn chửi mọi người cũng chẳng để ý và nghĩ rằng:” chắc hắn trừ mình ra”. Tới đây ắt hẳn mọi người lại ngạc nhiên tại sao hắn lại có hành động như vậy, theo thông thường người ta chửi bới khi uất ức một chuyện gì hay quá áp lực. Quả là như vậy,hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch bỏ hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Lí Kiến. Vì ghen tuông với sự trẻ trung lực lưỡng của hắn và vì bà Ba để ý tới hắn, nên Bá Kiến tìm cách bỏ tù hắn, để hắn không thể xuất hiện nữa. Như có một sự vô cớ, Chí Phèo vốn dĩ là một người lương thiện, nghèo đói nên đi ở, nhưng trong xã hội đó,ai có tiền có quyền người đó được làm mọi thứ, và cứ thế từ một con người lương thiện, Chí dần bị đẩy vào con đường tha hóa và lưu manh hóa.
Sau khi được thả tù, bộ dạng Chí thay đổi hẳn,với cái đầu cạo trọc và hàm răng trắng hếu, trên mặt hiện lên vết sẹo dài. Trông hắn chẳng khác gì một con quỷ, quỷ đội lốt trong hình hài của một con người. Và người hắn tìm đến đầu tiên không ai khác chính là Bá Kiến.Khi biết Chí đứng trước nhà mình vừa say vừa ăn vạ, Lí Cường ra mắng hắn,nhưng ngay sau đó,Chí Phèo đã rạch mặt, những vết máu trên khuôn mặt đầy sẹo dọc ngang nằm trước cổng nhà Bá Kiến dưới nhiều con mắt dò xét của người dân nơi đây.Khác với Lí Cường, Bá Kiến là người khôn khéo,khi thấy hình ảnh đó,quay sang Lí Cường mắng sa sả như tỏ ra nhượng bộ, rồi đỡ Chí Phèo dậy. Hắn biết tên Chí Phèo luôn luôn ưa nhẹ,lại thích được mềm mỏng nên sau đó hắn đã mời Chí vào nhà và cho ăn uống hậu hĩnh. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ở tù lần nữa vì Chí cho rằng đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm dùi cũng không có mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dùng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ,có vườn cho Chí. Sau khi Chí đã hoàn thành công việc được giao, Bá Kiến cho vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Bắt đầu từ lúc này Chí bỗng nhiên trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng không cùng vây cánh.
Dường như cuộc sống và con người của Chí Phèo lúc này đây đã thực sự thay đổi khi một lần trong lúc uống say ,hắn trở về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị Nở được khắc họa là người nghèo rót mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đần trong cổ tích và Họ đã ăn nằm với nhau và thứ tình cảm đó đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm một người bình thường trong Chí. Có lẽ hình ảnh bát cháo hành của Thị như liều thuốc tiên đánh thức con người lương thiện luôn giấu kín trong một bộ dạng quỷ dữ của hắn. Cái mùi cháo hành thơm kia như đã bốc lên và cử chỉ quan tâm của Thị đã khiến chí bùi ngùi và chợt nhận ra, anh muốn có một gia đình, với vợ dệt vải chồng đi làm, cứ thế cuộc sống êm đềm trôi qua. Nhưng, dường như niềm vui sướng chưa được bao lâu thì người bà cô đã khuyên Thị không nên ở với hắn,rồi Thị cũng là người duy nhất quay lưng lại với hắn thì cuối cùng cũng bỏ đi. Chiếc thang bắc cầu cho lòng lương thiện của Chí được sang bến bờ được sống như một người bình thường giờ đây hắn cũng không còn nữa. Chính vì thế, mà Chí Phèo đã mang dao tới nhà bá Kiến kết thúc đời bá Kiến và sau đó cũng tự sát, hắn không còn một lựa chọn nào khác.khi nghe được tin này, nhiều người tỏ ra hả hê, còn riêng Thị Nở lại nhìn xuống bụng và nghĩ tới cái lò gạch bỏ hoang không người qua lại.
“Chí Phèo” là một trong những truyện ngắn đặc sắc mà dường như dung lượng hiện thực được phản ánh trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, và tình huống khác nhau…tác phẩm như mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Chúng ta có thể dễ nhận thấy và phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện, có thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích-từng mối quan hệ giữa nhân vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp (Bá Kiến, thị Nở). Dù là theo cách nào đi chăng nữa thì tất cả đều làm nổi bật nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện.
Dường như hình ảnh làng Vũ Đại được ví như một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng ,hiện thực cuộc sống được khơi ra từ những tình huống truyện đặc sắc và những chi tiết nhỏ nhất nhưng khiến độc giả không thể bỏ qua. Truyện ngắn “Chí Phèo” mở đầu và kết thúc theo kết cấu vòng, khi mở đầu truyện với hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang thì kết thúc truyện cũng như vậy, đó là chi tiết khi biết chí phèo tự sát, Thị Nở bỗng đã nhìn ngay xuống bụng mình và lại nghĩ ngay tới hình ảnh cái lò gạch, không biết một cuộc sống sẽ bắt đầu như thế nào, kết thúc mở khiến cho độc giả có nhiều liên tưởng thú vị. Ngôn ngữ trong tác phẩm là một điều không thể bỏ qua, lời trần thuật được xáo trộn, lắp ghép, đan xen không tuân theo trình tự tuyến tính của.cốt truyện. Nam Cao dường như đã bắt đầu bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi. Chân dung nhân vật bước đầu hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý ngay từ khi mới đặt tay lên trang giấy. Ông đã thật tài tình khi đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Thông qua đây, việc sử dụng này có ý nghĩa rất lớn đến việc đi sâu vào thẻ giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Chính bởi nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *