Bài học Chí Phèo giúp các em nắm vững được các kiến thức trọng tâm của tác phẩm như: hoàn cảnh ra đời, ý nghĩa nhan đề, hình ảnh làng Vũ Đại, các nhân vật chính trong tác phẩm như Chí Phèo, Bá Kiến, cuộc gặp gỡ với Thị Nở, Thị Nở từ chối Chí Phèo.... và những giá trị nhân đạo sâu sắc mà tác giả muốn gởi gắm. Ngoài ra, DapAnHay xin giới thiệu với các em video bài giảng của cô Phan Thị Mỹ Huệ. Bài giảng được trình bày một cách ngắn gọn, dễ hiểu hỗ trợ cho các em trong quá trình tiếp thu bài học được tốt hơn. Mời các em cùng tham khảo. Chúc các em học tốt và đạt được kết quả cao!
Vị trí xã hội | Nhân vật | Đặc điểm |
1 | Bá Kiến (cụ tiên chỉ) | “bốn đời làm tổng lý”, uy thế ngất trời |
2 | Đám cường hào ác bá: đội Tảo, tư Đạm, bát Tùng… | Kết bè kết cánh đối chọi lẫn nhau và đối chọi với Bá Kiến, làm thành thế “quần ngư tranh thực”. |
3 | Dân làng Vũ Đại | Nông dân, thấp cổ bé họng, suốt đời bị đè nén, áp bức |
4 | Hạng người dưới đáy: Chí Phèo, Năm Thọ, binh Chức | Cùng hơn cả dân cùng, sống tăm tối như thú vật. |
NHẬN XÉT: Chỉ qua một số chi tiết chọn lọc kĩ lưỡng, sắp đặt rải rác tưởng ngẫu nhiên mà lại có tính chất quy luật, Nam Cao đã dựng nên một làng Vũ Đại sống động, hết sức ngột ngạt, đen tối. Đó chính là cái “hoàn cảnh điển hình” vừa sản sinh vừa tác động làm bộ lộ “tính cách điển hình” đó là Chí Phèo.
⇒ Từ ngôn ngữ, giọng nói, tiếng cười, cái nhìn của Bá Kiến đều biểu hiện sư khôn ngoan, lọc lõi hơn người và khác người của một kẻ có kinh nghiệm bốn đời làm tổng lí.
⇒ Xây dựng nhân vật bá Kiến, tác giả đã bóc trần bản chất của giai cấp địa chủ. Bá Kiến vừa là nguyên nhân trực tiếp, vừa là nguyên nhân sâu xa dẫn Chí đến những bi kịch đau đớn nhất của người lao động nghèo trong xã hội cũ. Nhân vật bá Kiến có ý nghĩa điển hình cho giai cấp địa chủ phong kiến đồng thời góp phần tô đậm tính cách bi kịch của Chí Phèo. Về phương diện này, tác phẩm có giá trị hiện thực và tố cáo sâu sắc.
* Nguồn gốc, lai lịch
* Quá trình tha hóa
⇒ Lúc này nhân tính của Chí đã được hồi sinh.
→ Đây chính là đỉnh cao sự thức tỉnh nhân tính của Chí.
⇒ Miêu tả cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo với thị Nở, Nam Cao đã chứng minh ngòi bút tâm lí sắc sảo của mình, thể hiện một giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Nhà văn đã phát hiện được những phẩm chất tốt đẹp của người lao động ngay cả khi họ đã mất đi nhân hình, nhân tính.
* Thị Nở từ chối Chí Phèo
Tác phẩm thể hiện nghệ thuật viết văn già dặn của Nam Cao. Giọng điệu của người kể chuyện khách quan, lạnh lùng. Xây dựng thành công nhân vật điển hình. Ngòi bút miêu tả tâm lí sắc sảo.
⇒ Nội dung phong phú, tư tưởng nhân đạo mới mẻ, nghệ thuật đặc sắc, tác phẩm xứng đáng là một kiệt tác của nhà văn.
ĐỀ: Bi kịch lớn nhất của Chí Phèo được thể hiện trong tác phẩm
Gợi ý làm bài
Các em có thể tham khảo gợi ý dưới đây:
“Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán 1930-1945. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam. Để dễ dàng trả lời được các câu hỏi trong SGK cũng như nắm được những nội dung kiến thức về bài học, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Chí Phèo.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Bi kịch Chí Phèo là bi kịch của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, bị cự tuyệt quyền làm người, hay nói một cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm người mà không thể được Nam Cao đã viết về tấn bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vô cùng sắc sảo: biến hóa lúc kể, lúc tả, triết lí thì thấm thía, trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật, làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỉ nay. Để dễ dàn lập được dàn ý và biết bài văn hoàn chỉnh về tác phẩm này, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- So sánh sự thức tỉnh của nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ và nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên
- Phân tích hình ảnh làng Vũ Đại trong truyện Chí Phèo
- Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo
- Ý nghĩa bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
- Phân tích tiếng chửi của Chí Phèo
- Cảm nhận về câu nói của bà cô Thị Nở trong truyện Chí Phèo
- Cảm nhận về tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở
- Phân tích hình ảnh cái lò gạch cũ trong truyện Chí Phèo
- Phân tích ba lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến
- Ý nghĩa cái chết của hai nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến
- Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở
- Bình giảng về tiếng chửi của Chí Phèo
- Phân tích ý nghĩa bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo
- Dàn ý So sánh hai câu nói của hai nhân vật Chí Phèo và Trương Ba
- Dàn ý liên hệ bi kịch nhân vật Trương Ba và Chí Phèo
- Giá trị nhân đạo trong Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ
- Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Giá trị nghệ thuật trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Quá trình tha hóa của Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Phân tích và chứng minh Hai câu nói cuối cùng của nhân vật Chí Phèo đã bộc lộ rõ chủ đề của tác phẩm
- Phân tích nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
- Cảm nhận về giọt nước mắt của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
- Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở
- Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo qua truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Bi kịch của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao
- Phân tích tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
- Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo
- Phân tích hành trình cuộc đời nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao
- Phân tích nhân vật Chí Phèo để làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
- Phân tích nhân vật Chí Phèo trong Chí Phèo của Nam Cao
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Bát cháo hành một chi tiết nghệ thuật của Nam Cao góp phần thể hiện tư tưởng của nhà văn về quan niệm nhân sinh, và đó còn là niềm tin của nhà văn về người nông dân dù có bị bầm dập về nhân hình nhưng không bao giờ mất đi nhân cách tốt đẹp.
Câu trả lời của bạn
- Xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo: Nam Cao sở trường về miêu tả tâm lí nhân vật; có khả năng đi sâu vào nội tâm diễn tả những diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật.
- Việc xáo trộn trình tự thời gian đã tạo nên sự phóng khoáng trong cách dựng truyện, đặc biệt là tạo nên sức hấp dẫn, gây sự chú ý và hứng thú theo dõi liên tục cho người đọc. Hình ảnh “cái lò gạch cũ bỏ hoang” xuất hiện ở đầu và kết thúc tác phẩm gọi là kết cấu vòng, giúp người đọc đào sâu thêm tầng nghĩa mà nhà văn muốn gửi gắm: Chừng nào còn tồn tại một xã hội kiểu làng Vũ Đại, còn kiểu người như Bá Kiến thì chừng ấy sẽ còn kiểu người như Chí Phèo.
- Ngôn ngữ truyện: tác giả đan xen lời nhân vật và lời người kể chuyện. Điều này giúp cho nhà văn dễ dàng lách sâu vào thế giới nội tâm phức tạp và tinh tế của nhân vật.
- Ngôn ngữ giản dị, diễn đạt độc đáo. Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, lôgic. Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ "chắc nó trừ mình ra!". Không ai lên tiếng cả…"
Hình ảnh ban đầu của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên đã được Nam Cao phác hoạ như vậy đó – toàn chửi là chửi, và trong suốt cả truyện, Chí Phèo cũng bị Nam Cao bắt phải chửi đi chửi lại rất nhiều lần, chửi luôn mồm không ngừng nghỉ:
"Hắn chửi trời và đời. Hắn chửi cả làng Vũ Đại. Hắn chửi tất cả những đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng mặc, ai mà hoài hơi, tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn, lại càng không ai cần! Và hắn lấy thế làm ức lắm; bởi vì người ta không thể chửi nhau một mình; chửi nhau một mình thì còn văn vẻ gì!"…
Tuy nhiên, từ đầu đến cuối truyện ngắn "Chí Phèo", ngoại trừ cái câu "Mẹ kiếp!" được đôi lần nhắc đến khi Chí Phèo chửi đổng (chửi chả nhằm vào ai cả một cách có chủ đích), Nam Cao toàn dùng câu gián tiếp (indirect speech) mỗi khi nói về cái sự chửi của Chí, thành ra người đọc chỉ biết là Chí đã chửi, chửi rất nhiều, nhưng cụ thể hắn chửi như thế nào thì chẳng ai biết cả.
Nếu ai đó đã từng xem phim "Làng Vũ Đại ngày ấy" thì còn có dịp nghe Chí Phèo chửi: Mẹ cha con đĩ dại! Mẹ cha thằng dê già! Cha mấy đời con đĩ Nở… vân vân và vân vân. Nhưng "Làng Vũ Đại ngày ấy" không phải là "Chí Phèo", và người viết kịch bản cho "Làng Vũ Đại ngày ấy" cũng không phải là Nam Cao, vì vậy những câu chửi đấy không đủ độ tin cậy (và cũng không xác đáng) để được bàn luận ở đây bởi trong bài viết này, chúng ta chỉ xem xét nguyên bản của nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao mà thôi; vả lại, những câu chửi của Chí Phèo trong "Làng Vũ Đại ngày ấy" cũng rất vô lý và vô lối, do đó chúng không thể là lời giải cho bài toán được đặt ra ở tiêu đề bài viết.
Nhưng thôi, cái chuyện đó để lát nữa bàn sau, việc trước mắt là phải tìm cho ra xem Chí Phèo đã chửi như thế nào. Lấy tỉ dụ việc Chí Phèo chửi làng Vũ Đại nhé, mọi người bảo Chí Phèo sẽ chửi làng Vũ Đại ra làm sao? "Mẹ cha làng Vũ Đại", "Tiên sư làng Vũ Đại" (hoặc đại loại như thế) chăng? Điều đó là không thể nào, bởi lẽ:
Thứ nhất, chửi như vậy là chửi những cái kẻ đẻ ra làng Vũ Đại (mẹ, cha, tiên sư, tam tứ đại…) chứ có phải chửi làng Vũ Đại đâu! Và cái việc Chí chửi không nhằm vào làng Vũ Đại tất yếu sẽ đưa Chí đến chỗ bế tắc mà chúng ta đều biết: cả làng Vũ Đại không ai lên tiếng cả.
Thứ hai, một người học rộng hiểu nhiều như Nam Cao không thể không biết cái đạo lý ở đời rằng người ta chửi nhau là phải chửi… nhau, không được chửi nhằm vào người khác. Đến những kẻ hạ đẳng như Ba Giai và cô bán vải ở chợ Đồng Xuân khi mở hội thi chửi còn quy ước với nhau như thế, lẽ nào Nam Cao lại không biết? Mà đã biết thì ông ta không thể để cho nhân vật của mình chửi một cách vô lý và vô lối như đã nói ở phần trên được.
Vậy thì, Chí Phèo chửi làng Vũ Đại như thế nào? "Đồ tồi", "Đồ khốn", "Đồ mất dậy"… chăng? Mấy câu này nghe có vẻ hợp lý hơn vì chúng nhằm trực tiếp vào đối tượng được ăn chửi (với điều kiện người chửi và người được chửi phải đối mặt với nhau – nói khác là chõ mõm vào nhau), nhưng thói đời nếu rủa ai đó là đồ tồi, đồ khốn, đồ mất dạy… thì cũng chẳng khác gì kiến đốt gỗ bởi chửi như vậy thì chẳng bõ bèn gì; hơn nữa nếu Chí Phèo cứ đi lang thang ngoài đường và luôn mồm lảm nhảm "đồ tồi!", "đồ khốn!"… thì ai mà biết được là Chí đang chửi ai. Và điều đó tất yếu lại dẫn đến hệ luỵ là người bị chửi (cũng như tất cả những người khác) sẽ coi như "nó chừa mình ra". Mà thực ra những câu chửi kiểu này cũng chỉ mới xuất hiện và được sử dụng phổ biến trong một vài năm trở lại đây (có lẽ là từ sau năm 1986); chưa chắc là ngày đó (tức là giai đoạn 1930-1945) Chí Phèo đã biết dùng đến những ngôn từ "lịch sự" như vậy để chửi (!?)
Câu trả lời của bạn
Đề tài người nông dân có thể coi là mảnh đất màu mỡ mà các nhà văn hiện thực 1930 -1945 đã gieo hạt nghệ thuật và gặt hái được những mùa bội thu. Nam Cao là người đến sau khi mà mảnh đất ấy đã được khai vỡ, nhưng bằng tất cả tâm huyết, tình cảm của mình đối với những con người nghèo khổ - những kẻ dưới đáy của xã hội, Nam Cao đã tìm được cho mình một chỗ đứng riêng. Tác phẩm Chí Phèo - đứa con sinh sau đẻ muộn nhưng không chịu thua kém "anh chị" mình vươn mình lên hàng kiệt tác - đỉnh cao của văn học 1930 - 1945. Chí Phèo có được vị trí ấy là bởi giá trị tư tưởng mới mẻ, độc đáo, bởi nghệ thuật viết truyện lôi cuốn, hấp dẫn của ngòi bút Nam Cao. Và một điều không thể không kể đến đó là bởi Nam Cao đã xây dựng thành công những chi tiết nghệ thuật độc đáo: bát cháo hành của Thị Nở.
Bát cháo hành xuất hiện ở gần cuối thiên truyện. Chí Phèo sau khi uống rượu nhà Tự Lãng không về túp lều của mình mà ra thẳng bờ sông. Ở đó bắt gặp Thị Nở - người đàn bà ngớ ngẩn, xấu ma chê quỷ hờn, đi kín nước nhưng ngủ quên ở bờ sông. Khung cảnh hữu tình: trăng lấp lánh trên mặt sông, gió thổi mát rượi và những tàu chuối "giãy đành đạch như hứng tình", cùng với hơi men của rượu đã đưa đến mối tình Chí Phèo - Thị Nở. Sau đêm trăng gió với Thị, Chí bị cảm, Thị Nở thương tình, sau một đêm trằn trọc suy nghĩ, Thị chạy đi tìm gạo và nấu cháo hành mang sang cho Chí.
Bát cháo hành - biểu tượng của tình người ấm nóng duy nhất còn sót lại nơi làng Vũ Đại khô khát yêu thương. Bát cháo hành có lẽ đối với mỗi người nó chỉ là những thứ vặt vãnh, vụn vặt, nhất là khi cháo lại được nấu bởi bàn tay Thị Nở. Cháo ấy có ngon không? Chúng ta không biết, chỉ biết một điều nó chan chứa tình người. Một tình người rất thật, rất hồn nhiên, vô tư, không vụ lợi mà Thị Nở dành cho Chí. Nó chỉ đơn giản là bởi Thị thấy Chí bị "thổ một trận nhọc" mà không có người chăm sóc, bởi Thị nghĩ ốm như thế thì chỉ có ăn cháo hành. Và rất hồn nhiên Thị nấu cháo hành mang sang.
Bát cháo hành - vị thuốc giải cảm cho Chí. Sau khi bị thổ, lần đầu tiên Chí tỉnh, lần đầu tiên cảm nhận được cuộc sống, nghe thấy được những âm thanh xung quanh: "tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá", "tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá", "tiếng những người đi chợ trò chuyện... Một ước mơ xa xăm của một thời nào Chí thấy như xa lắm. Hắn đã từng mơ có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ vốn nuôi một con lợn. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Trận ốm đã làm cho hắn thoát khỏi cơn say triền miên mà nhận thức được mình, thấy mình đang ở cái dốc bên kia của cuộc đời, biết sợ tuổi già, ốm rét và cô độc. Trận ốm đã làm cho hắn biết sợ - cái mà có lẽ trước giờ chưa bao giờ hắn nghĩ tới. Thị Nở sang cùng bát cháo hành đưa cho hắn. Nhận bát cháo từ tay Thị mà hắn "ngạc nhiên". Ngạc nhiên cũng đúng thôi vì "từ trước đến giờ đã ai cho hắn cái gì. Muốn cái gì hắn phải dọa nạt hay cướp giật". Một cảm xúc khác thay cho cái ngạc nhiên ban đầu "hắn thấy mắt ươn ướt, một chút gì như là ăn năn". Chí ăn năn về những gì mình đã gây ra, có thể là như lời nhà văn "người ta thường ăn năn về những việc mình làm khi người ta không ác được nữa" nhưng dẫu sao điều ấy là không muộn. Chí ăn cháo hành và thấy "cháo hành ăn rất ngon". Tình người đầu tiên Chí nhận được sao không ngon cho được. Sự chăm sóc đầy ân tình dẫu chăng còn thô vụng của Thị Nở nhưng vẫn đáng quý biết bao. Còn gì quí giá hơn khi người ta ốm còng queo một mình mà lại được một bàn tay chăm sóc. Chí đã khao khát biết bao một bàn tay chăm sóc như thế. Bát cháo hành - sự chăm sóc, quan tâm vô tư của Thị Nở làm Chí nghĩ tới bà Ba Bá Kiến. Hai người đàn bà quan tâm tới Chí nhưng một người mặt hoa da phấn, áo quần là lượt nhưng tâm địa tà dâm chỉ cốt thỏa mình, còn một người xấu ma chê quỷ hờn nhưng tâm địa tốt, quan tâm Chí thật lòng. Bát cháo hành trên tay hơi nghi ngút làm cho Chí "vã mồ hôi ra như tắm". Bát cháo tưởng vặt vãnh đã trở thành liều thuốc giải cảm hữu hiệu cho Chí.
Bát cháo hành - vị thuốc giải độc cho cuộc đời Chí. Không chỉ giải cảm, bát cháo hành - tình người duy nhất đã gợi thức phần lương tri ngủ quên trong lốt "con quỷ dữ Chí Phèo". Từ ăn năn, hối hận, Chí bỗng thấy thèm lương thiện, thèm trở về cuộc sống ngày trước. Bát cháo hành đã dẫn đường cho hi vọng hoàn lương: Thị Nở có thể làm hòa với hắn thì mọi người cũng có thể làm hòa với hắn. Khát khao lương thiện bùng dậy mãnh liệt đã khiến Chí dồn hết hi vọng vào Thị Nở - về cây cầu đưa hắn về với cuộc đời lương thiện. Bát cháo hành đã hoàn thành thiên chức gọi chất người, khơi hòn than đỏ vùi trong lớp tro tàn đang âm ỉ, nó đưa Chí qua một cuộc lột xác để về với sự lương thiện.
Nhưng bát cháo hành cũng chính là chi tiết đẩy bi kịch của Chí lên tới đỉnh điểm, dẫn tới một kết thúc thảm thương đầy đau đớn. Sau năm ngày ở với Chí Phèo, Thị Nở "bỗng nhớ ra mình còn một bà cô trên đời" và quyết định "dừng yêu" để xin ý kiến bà cô. Thị bị bà cô xỉa xói vào mặt và khi quay lại nhà Chí Phèo, Thị chửi Chí bằng tất cả những lời của bà cô và vùng vằng quay về. Chí "ngẩn người ra" và chạy vội ra níu tay Thị nhưng bị Thị dúi cho một cái rồi bỏ về. Chí rơi xuống hố sâu của tuyệt vọng. Thị Nở đã phụ bạc hắn, hắn không còn cơ hội để quay về với cuộc sống lương thiện. Tuyệt vọng, hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh và thoang thoảng cứ thấy "hơi cháo hành". Đó là biến thể của "bát cháo hành". Hắn không say, vị ngọt tình người cứ thoang thoảng để hắn đau khổ "khóc rưng rức". Cuối cùng Chí lựa chọn cầm dao đến nhà Bá Kiến, đâm Bá Kiến và tự sát. Hơi cháo hành đã không cho phép hắn trở lại cuộc sống con quỷ một lần nữa. Hắn để trở về lương thiện chỉ còn cách duy nhất là tự sát. Bát cháo hành đã gọi dậy con người trong Chí để nó thức dậy mặc dù chỉ để khổ đau, để phải bi kịch. Nhưng dẫu thế nó cũng không chấp nhận chết đi mãi mãi. Và bát cháo hành chính là cánh cửa đưa nó thoát khỏi kiếp đọa đày.
Bát cháo hành - một chi tiết nghệ thuật mang đầy dụng công của Nam Cao. Nó góp phần thể hiện tư tưởng nghệ thuật của nhà văn: Điều mà chúng ta thiếu đó chính là lòng tốt - một lòng tốt rất bình thường cũng có thể cứu rỗi con người. Và kết cục của Chí Phèo thể hiện một niềm tin của nhà văn: dẫu có bị bầm dập về nhân hình lẫn nhân tính, lương thiện trong con người đặc biệt là những người nông dân cũng không mất đi, nó chỉ cần đợi có cơ hội là sẽ bùng lên mạnh mẽ.
Qua chi tiết nó cũng cho ta thấy một hiện thực mà nhà văn đau đáu: đó là những định kiến làng xã nông thôn đã tước đi quyền được sống của con người... Qua đó nhà văn cũng gióng lên một hồi chuông khẩn thiết đòi thay máu cho xã hội để ít nhất con người được sống lương thiện.
Bát cháo hành - chi tiết đặc sắc đã góp phần làm nên "nhà văn lớn" Nam Cao. Tác phẩm khép lại nhưng dư âm của tình người trong chi tiết nghệ thuật ấy vẫn còn mãi.
Câu trả lời của bạn
Nam Cao cây bút truyện ngắn hiện thực tiêu biểu của văn học hiện đại Việt Nam 1930-1945. Tên tuổi của ông gắn liền với truyện ngắn "Chí Phèo". Một truyện ngắn mang hơi thở của tiểu thuyết về cuộc đời anh chàng Chí Phèo và những nhân vật xung quanh làng Vũ Đại. Để tạo nên thành công cho tác phẩm, không thể không kể đến sự thành công xây dựng chi tiết nghệ thuật độc đáo: bát cháo hành của Thị Nở.
Bát cháo hành xuất hiện gần cuối thiên truyện. Chí Phèo uống rượu say ở nhà Tự Lãng, ăn nằm với Thị Nở - người đàn bà ngớ ngẩn, xấu ma chê quỷ hờn. Sáng, Chí bị cảm, Thị Nở thương tình, đi tìm gạo và nấu cháo hành mang sang cho Chí.
Bát cháo hành là biểu tượng của tình người ấm nóng duy nhất còn sót lại nơi làng Vũ Đại. Có thể bát cháo với mỗi người chỉ là thứ vụn vặt. Cháo ấy có thể không ngon, nhưng chúng ta phải khẳng định bát cháo chan chứa tình người. Một tình người hồn nhiên, vô tư, không vụ lợi mà Thị Nở dành cho Chí.
Bát cháo hành là vị thuốc giải cảm cho Chí. Sau khi bị thổ, lần đầu tiên Chí tỉnh, lần đầu tiên cảm nhận được cuộc sống, nghe thấy những âm thanh xung quanh. Và ước mơ xa xăm năm nào trở lại trong trí não của hắn. Ước mơ về gia đình nho nhỏ, chồng mướn vợ dệt vải. Trận ốm làm cho hắn thoát khỏi cơn say triền miên mà nhận thức được mình, thấy mình đang ở cái dốc bên kia cuộc đời, biết sợ tuổi già, ốm rét và cô độc. Bát cháo khiến Chí phải ăn năn về những hành động mình đã làm. Bát cháo hành - sự chăm sóc quan tâm vô tư của Thị Nở khiến hắn nhớ tới bà ba Bá Kiến và thấy ghê rợn về một mụ đàn bà mặt hoa dạ quỷ. Bát cháo ấy tưởng vặt vãnh mà trở thành liều thuốc giải cảm hữu hiệu cho Chí.
Bát cháo hành - vị thuốc giải độc cuộc đời Chí. Chính bát cháo đã gợi thức phần lương tri ngủ quên trong lốt "con quỷ dữ làng Vũ Đại". Từ ăn năn, hối hận, Chí bỗng thấy thèm lương thiện, thèm trở về cuộc sống ngày trước. Bát cháo hành dẫn đường cho hi vọng hoàn lương. Khát khao lương thiện bùng dậy khiến Chí dồn hết hi vọng vào Thị Nở. Bát cháo hành đã hoàn thiện thiên chức gọi chất người, đưa Chí qua cuộc lột xác để trở về với lương thiện.
Nhưng bát cháo hành cũng là chi tiết đẩy bi kịch của Chí lên đến đỉnh điểm. Sau năm ngày ở với Chí, Thị Nở bỗng nhớ ra mình còn bà cô và quyết quay về xin ý kiến. Thị bị bà cô xỉa xói vào mặt và khi quay lại nhà Chí Phèo, thị cũng chửi lại bằng tất cả những lời của bà cô và vùng vằng bỏ về. Chí níu kéo nhưng bị Thị xô đẩy, Chí rơi xuống hố sâu của tuyệt vọng. Thị Nở đã phụ bạc hắn, hắn không còn cơ hội để quay về với cuộc sống lương thiện. Tuyệt vọng hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh và thoang thoảng "hơi cháo hành". Đó là biến thể của bát cháo hành. Hắn không say, vị ngọt của tình người cứ thoang thoảng để hắn đau khổ "khóc rưng rức". Cuối cùng hắn lựa chọn cầm dao đến nhà Bá Kiến, đâm Bá Kiến và tự sát. Hơi cháo hành không cho phép hắn trở lại con đường cũ, cuộc sống của con quỷ dữ. Hắn trở về lương thiện chỉ có thể bằng tự sát. Bát cháo hành gọi dậy con người trong Chí để nó thức dậy dù đau khổ, bi kịch. Bát cháo hành chính là cánh cửa đưa nó thoát khỏi kiếp đoạ đầy.
Bát cháo hành một chi tiết nghệ thuật của Nam Cao góp phần thể hiện tư tưởng của nhà văn về quan niệm nhân sinh. Lòng tốt đôi khi phải trả một cái giá cắt cổ. Và đó còn là niềm tin của nhà văn về người nông dân dù có bị bầm dập về nhân hình nhưng không bao giờ mất đi nhân cách tốt đẹp.
Câu trả lời của bạn
Truyện ngắn “Chí Phèo” là một thành công lớn của Nam Cao. Đọc xong tác phẩm dường như hình ảnh Chí Phèo luôn để lại những sự ám ảnh nhất định trong lòng bạn đọc. Tác phẩm nói về cuộc đòi của nhân vật Chí Phèo, và có lẽ quá trình hồi sinh của nhân vật luôn luôn là một điều mà bạn đọc hướng tới.
Chí Phèo được biết đến là nhân vật từng là một đứa trẻ bị bỏ rơi. Sau đó một anh thả ống lươn một ngày nhặt được hắn “trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp bên cái lò gạch bỏ không“. Có thể nói tuổi thơ của hắn qua tay hết người này đến người khác và khi Chí Phèo lớn lên thì làm canh điền cho Lí Kiến. Chí Phèo đã bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù, sau bảy tám năm, nhà tù thực dân dã man kia đã biến anh canh điền chất phác trở thành một thằng lưu manh.
Khi Chí Phèo ra tù, hắn tìm đến nhà Bá Kiến để trả thù. Dường như bản chất của một thằng lưu manh, biến chất thể hiện trong cách chửi rất “bài bản”, thật là ngoa ngoắt: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời có hề gì trời có của riêng nhà nào…”.
Từ cái dáng hình nom thật đáng sợ: “trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Người đọc sao có thể quên được các hình ảnh “hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những vét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế, trông gớm chết”… Cho đến cách ăn vạ thật đáng sợ là cách mà hắn lấy mảnh chai vỡ mà cào vào mặt, vừa cào vừa lăn lộn. Từ một thằng đã lưu manh, chế độ phong kiến mà đại diện ở đây chính là Bá Kiến đã hoàn thành nốt quá trình tha hoá để biến Chí thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Và cùng với những chuỗi ngày dài chìm trong men say của hơi rượu là những ngày hắn đã phá đi biết bao ngôi nhà hạnh phúc bình dị, làm chảy máu và nước mắt của biết bao người lương thiện. Dường như hắn đã làm tất cả những việc đó trong khi say, hắn cũng không nhận thức được rằng mình đã và đang trượt dài xuống vực thẳm và người ta đang lảng tránh hắn như lảng tránh một con vật đáng sợ nào đó. Có thể nói cuộc đời Chí tưởng cứ thế diễn ra, tối tăm, mù mịt. Không ai có thể tin hay nghĩ rằng có thể một lần nữa con quỷ dữ ấy lột xác trở lại thành con người. Vậy mà dường như điều kì diệu đó đã xảy ra, dù ngắn ngủi, dù bất thường nhưng vẫn là một điều kì diệu vĩ đại, điều kì diệu cũng có thể thay đổi một con người.
Trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa Chí Phèo và Thị Nở không chỉ đơn giản là một cuộc đụng chạm về xác thịt. Đó đơn giản chỉ là khởi đầu, buổi tối bên bờ sông, dưới ánh trăng sáng kia như chỉ làm khơi dậy thứ tình yêu mang tính bản năng con người. Có thể nói chính sự thức tỉnh của nhân vật thực sự bắt đầu vào những giờ phút sau đó. Và lần đầu tiên, Chí như đã cảm nhận được âm thanh của cuộc sống “Mặt trời đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài đủ biết… Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ”.
Ta như đều biết rằng những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy...”. Và dường như đây cũng lần đầu tiên, sau những ngày say triền miên kia, hắn biết thế nào là buồn và đó là cái buồn mơ hồ mà lại thật thấm thía. Và ở đây một người bắt đầu biết suy nghĩ về cuộc sống có nghĩa là cũng đã biết tự chiêm nghiệm về chính bản thân mình. Và Chí Phèo dường như thật đau đớn khi nhận ra rằng hắn chính là một kẻ trắng tay không hơn không kém. Khi mà đã đứng ở bên kia dốc cuộc đời, hắn biết mình đã già, “Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn“. Chàng canh điền hiền lành chất phác ngày nào cũng đã từng ước mơ có một gia đình giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, giờ đây nhìn thấy trước số phận mình. Chí Phèo “đói rét, ốm đau và cô độc” và chi tiết này rõ ràng là trong Chí Phèo đã có một sự chuyển biến lớn trong tâm hồn của hắn.
Có thể nói sự chuyển biến ấy đánh thức bản năng ham sống, muốn sống của hắn nhưng chưa chỉ ra cho hắn biết rằng phải làm thế nào để có thể được sống lại lần nữa đúng với hai từ con người. Và con đường thực sự đã mở ra vào ngày hôm sau khi Thị Nở đã mang sang cho Chí Phèo một bát cháo hành. Một người đàn bà dở người như Thị Nở lại có thể nấu cháo hành ngon đến vậy hay đó là bởi vì Chí lần đầu tiên được người ta cho, và cũng là lần đầu tiên được ăn chào hành nên mới cảm thấy cháo hành ngon mà dường như hương cháo hành cứ ám ảnh Chí mãi không thôi. Có thể khẳng định rằng bát cháo hành là tình cảm chân thành, thứ tình người lương thiện đầu tiên mà hắn được cho, một cách hoàn toàn tự nguyện. Điều ấy dường như đã làm Chí xúc động sâu sắc. Thị Nở cho dù là người có xấu đến ma chê quỷ hờn nhưng ở Thị lại mang một tình người đẹp thánh thiện, thứ tình người trong sáng, một sự chân thành không một chút vụ lợi và tính toán. Có thể thấy được tình người ấy, cùng với hương cháo hành như cũng đã dẫn dắt tính người quay trở lại trong hình hài của một con quỷ dữ, như đã đánh thức ước mơ thời trai trẻ, đánh thức khát khao lương thiện tưởng chừng như đã lụi tắt trong Chí Phèo từ lâu.
Và quan trọng hơn nữa là nó như đã đánh thức niềm hi vọng ở Chí, khát khao được trở về với cuộc sống của loài người. Khao khát được họ đón nhận. “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị Nở cũng có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Và giờ đây họ sẽ nhận thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận Chí Phèo vào cái xã hội bằng phẳng và rất thân thiện của những người lương thiện kia. Dường như chính tình thương yêu con người chân thành đã có sức mạnh cảm hoá vĩ đại, không chỉ thế, nó như còn mang lại cho con người sự sống và sức sống mới, và ngay khi ở cả những kẻ tưởng chừng là “vô phương cứu chữa” như Chí Phèo. Chí Phèo lúc này đã thức tỉnh thực sự.
Tuy rằng cho đến cuối cùng, cánh cửa trở về với xã hội loài người đã được mở ra bởi tình thương yêu con người, nhưng đó lại là của một người đàn bà dở người. Và trong một xã hội tăm tối đến ngột ngạt kia đã vội vàng đóng chặt. Và khi nhân tính trở về, Chí lại như không thể tiếp tục cuộc đời của một tên quỷ dữ, nhưng lại cũng không thể trở lại làm người được nữa. Dường như tấn bi kịch đó đã được đẩy lên đỉnh điểm chỉ còn một cách giải quyết cuối cùng là cái chết. Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến và cũng tự kết liễu đời mình. Khi không có tình yêu thương, cuộc sống sẽ chỉ còn là tối tăm và bất hạnh biết bao nhiêu.
Có thể nói rằng tình thương yêu là hạnh phúc của con người cũng như tâm hồn con người giống như một vườn cây mà ở đó tình yêu thương là những trận mưa tưới mát đã làm cho vườn cây tươi tốt hơn, và như đã vươn dậy đầy sức sống, dù cho trước đó đã có lúc nó lụi tàn, héo úa. Và ta cũng đã thấy có biết bao câu chuyện cảm động về sức mạnh của tình yêu thương… Tình yêu thương giúp con người ta chiến thắng được số phận. Và trong cơn khó khăn như sự thức tỉnh của Chí Phèo. Và chỉ khi có tình yêu thương con người trong sáng không vụ lợi mới luôn toả sáng. Tình yêu thương không chỉ giúp thay đổi quan niệm mà còn có sức cảm hoá ghê gớm, bẻ gãy tất cả những gì là bóng đêm, là trở ngại để con người sống gần với con người hơn.
Tình yêu thương ở đời cũng cần thiết như ánh sáng, như không khí trên Trái Đất này vậy. Dường như con người không thể sống mà không có tình thương yêu. Ý thức được điều đó thì trong mỗi chúng ta cần bồi dưỡng cho mình một trái tim nhân hậu, bao dung. Và phải bồi dưỡng tình yêu thương dành cho mọi người, để được cho và được nhận. Hãy để tình yêu thương trong sáng và chân thành được bao bọc khắp thế gian và mỗi con người sẽ được sống trong ngập tràn yêu thương.
Nhân vật Chí Phèo là một trong những nhân vật hiện lên có sức ám ảnh nhất, đặc biệt là quá trình từ một anh nông dân hiền lành cho đến khi bị cực tuyệt quyền làm người sẽ còn lay động, còn để lại cho người đọc biết bao nghĩ suy. Qua đó nói lên khả năng bậc thầy trong việc miêu tả phân tích tâm lý nhân vật của Nam Cao.
Câu trả lời của bạn
Trong mỗi truyện ngắn thông thường đều có hai giới tuyến nhân vật rõ ràng. Nếu như Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là nhân vật chính diện tiêu biểu cho những người nông dân nghèo khổ bị áp bức bất công, bị đẩy đến mức đường cùng thì Bá Kiến - nhân vật phản diện đại diện cho bọn địa chủ phong kiến độc ác, tàn bạo và nham hiểm. Nam Cao khắc họa thành công nhân vật Bá Kiến chỉ với vài nét đặc tả đã cho thấy bộ mặt xấu xa của hắn.
Nếu ai đã từng đọc tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố ắt hẳn không thể quên tên Nghị Quế hách dịch, xảo trá lừa lọc mà nhà văn thể hiện qua chi tiết chị Dậu đem cái Tí và đàn chó bán cho hắn. Khác với Ngô Tất Tố chỉ miêu tả Nghị Quế về dáng điệu, tiếng nói và tài sản thì Nam Cao khắc họa Bá Kiến hiện lên với tư cách là một nhân vật điển hình hoàn chỉnh khi đi sâu vào suy nghĩ, nội tâm của hắn.
Bá Kiến là một tên cáo già tiêu biểu cho bọn địa chủ cường hào ở làng xã của đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Hắn xuất thân trong một gia đình bốn đời làm lí trưởng nay bản thân hắn là chánh tổng - chức vụ cao nhất của đơn vị hành chính cấp huyện. Nam Cao để cho nhân vật xuất hiện với “tiếng cười giòn giã lắm” - tiếng cười Tào Tháo và tiếng quát “rất sang” cho thấy uy quyền của vị chánh tổng.
Cụ Bá khét tiếng là một người hách dịch, nham hiểm và độc ác dùng nhiều thủ đoạn để buộc người khác phải cắm đất cắm nhà, xúi giục bọn lưu manh đến ức hiếp dân nghèo. Đáng lẽ thân làm quan phụ mẫu người mang sứ mệnh chăm lo cho đời sống nhân dân thì nay lại vơ vét tiền của, chèn ép dân đen.
Bá Kiến còn là một người biết xử lí khôn khéo được minh chứng qua cách hắn đối xử với Chí Phèo trong cơn say. Khi mọi người trong nhà ngoài ngõ đang xúm nhau lại để chứng kiến sự việc Chí rạch mặt ăn vạ sau cuộc ẩu đả với lí Cường. Việc làm trước tiên của cụ “tiên chỉ làng Vũ Đại” là quát mấy “bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng” rồi đến bọn người làng ông dịu giọng “Cả các ông các bà nữa về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?” chỉ bằng từng đó lời mà “Không ai nói gì, người ta lảng dần đi”. Những người nông dân hiền lành ấy phần vì nể, vì sợ, vì lo cho sự yên ổn của mình mà không dám lôi thôi, thấy cụ là kính cẩn “lạy cụ”, “bẩm cụ” bấy giờ bốn bà vợ của cụ lớn cũng đã phải vào thì họ cớ sao còn dám ở lại, điều đó cho thấy uy quyền uy thế của Bá Kiến ở làng Vũ Đại. Hắn khéo léo ứng biến khi thấy “Chí Phèo bỗng nằm dài, không nhúc nhích, rên khẽ như gần chết” thì đã hiểu cơ sự bởi kinh nghiệm của bấy nhiêu năm làm quan. Hắn gọi một kẻ lưu manh bằng “anh” với cái giọng nhún nhường và thân mật “Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế?” rồi từ từ đỡ Chí vào nhà dùng lời lẽ đường mật để xoa dịu đi cơn bực tức, để con quỷ dữ được yên phận trong anh. Chí đứng lên để hắn rìu vào nhà hắn biết mình đã thắng. Chẳng biết có họ hàng như thế nào với lí Cường theo như lời hắn nói nhưng cũng làm Chí thấy lòng nguôi nguôi kể từ đó mà bị Bá Kiến mua chuộc.
Một tên quan lại hết sức thâm hiểm biết “mềm nắn rắn buông”, xử nhũn với kẻ thù biến kẻ thù thành tay sai đắc lực để trừ khử đối thủ của mình. Bá Kiến là một kẻ khôn róc ở đời “Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân” hắn không dại gì mà đối đầu với kẻ liều lĩnh hành nghề rạch mặt ăn vạ bởi “Trị không lợi thì dùng”, hắn mua chuộc và lợi dụng Chí Phèo để anh ta đi đòi nợ Đội Tảo - một tay vai vế trong làng, kẻ địch đối đầu với hắn. Cụ luôn nghĩ bụng cũng phải có những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò. Tôn chỉ của hắn là “Ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế đòi được năm đồng, nhưng được rồi thì vất trả lại năm hào vì “thương anh túng quá”. Chỉ một vài chi tiết đi sâu vào nội tâm nhân vật Nam Cao đã lột tả được tâm hồn đen tối, đầy thủ đoạn tàn ác, xảo quyệt và thâm độc của hắn.
Không chỉ vậy trong tác phẩm “Chí Phèo” nhà văn còn bóc trần bộ mặt xấu xa của Bá Kiến qua mối quan hệ đen tối trước đây của hắn với Năm Thọ, Binh Chức. Một kẻ háo sắc, dâm ô có những bốn bà vợ mà còn không buông tha cho người đà bà hai con - vợ anh Chức, không chỉ cướp vợ mà còn cướp luôn cả tiền anh ta đi lính chắt bóp gửi về nuôi vợ con. Một ông chồng hay ghen tuông chính vì ghen với Chí Phèo khi được bà ba hay bắt hắn bóp chân, xoa bụng, đấm lưng mà năm ấy Bá Kiến là kẻ đã đẩy Chí Phèo-một anh canh điền chất phác hiền lành vào ngồi tù để rồi chế độ nhà tù thực dân phong kiến tàn ác đã khiến anh trở thành một kẻ lưu manh, tha hóa mất hết nhân hình lẫn nhân tính với nhân cách méo mó. Con người ấy bị Chí Phèo cầm dao đâm chết là một kết thúc thỏa đáng cho những việc làm độc ác của hắn. Cái chết ấy cảnh báo cho xã hội nếu không thay đổi và tiến bộ thì không biết còn bao nhiêu tên như Năm Thọ, Binh Chức hay Chí Phèo nữa.
Như vậy nhân vật Bá Kiến mang đầy đủ tội ác xấu xa của bọn địa chủ cường hào dưới chính quyền phong kiến nửa thuộc địa. Nam Cao đã khéo sử dụng một lối văn linh hoạt sinh động, giản dị và trong sáng, gần với khẩu ngữ hàng ngày của quần chúng, đi sâu mà miêu tả nội tâm của nhân vật để cho Bá Kiến hiện lên vừa có nét chung vừa có nét riêng độc đáo không lẫn với tên địa chủ nào.
Câu trả lời của bạn
Nam Cao (1917-1951) là một trong những nhà văn Việt Nam tiêu biểu nhất thế kỷ 20. Nhiều truyện ngắn của ông được xem như là khuôn thước cho thể loại này. Đặc biệt một số nhân vật của Nam Cao trở thành những hình tượng điển hình, được sử dụng trong ngôn ngữ hàng ngày.
Quê ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân - nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao.
Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên vì mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi in trên Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư. Có thể nói, các sáng tác “tìm đường” của Nam Cao thời kỳ đầu còn chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn đương thời.
Sáng tác của Ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, tác phẩm của Nam Cao càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.
Giá trị con người được đề cao trong truyện của Nam Cao, nhất là trong truyện ngắn nổi danh Chí Phèo mà trước đây ít người được biết.
Truyện ngắn của Nam Cao có nghệ thuật trong kết cấu và ngôn từ. Nhiều truyện của ông mang tính cách tâm lý đến bây giờ vẫn còn là những khuôn thước tốt cho người muốn bước vào lãnh vực truyện ngắn. Với Nam Cao, ta có thể nói như với Edgar Poe, truyện ngắn đã thành hình và có quy luật riêng của nó.
Có những nhà văn mà tác phẩm càng đi vào thời gian càng có giá trị Nam Cao ở vào trường hợp đó. Truyện của ông là những bộ nhớ ghi lại một cách sống động những sinh hoạt đặc biệt của nông thôn Việt Nam cách đây nửa thế kỷ. Ta yêu mến dân tộc ta. Ta tha thiết với những gì mà dân tộc ta đã trải qua tất nhiên ta tha thiết và mến yêu những nét chấm phá trong truyện của Nam Cao. Ở đây có đầy đủ hết, từ anh mõ nghèo nàn nhưng ai cũng sợ, đến những chức dịch luôn luôn ậm ọc nhưng chỉ biết có những miếng đỉnh chung tại chốn đình chung, từ một anh tha phương cầu thực vào sống nhờ trong làng đến một người lính tập có dịp ra khỏi lũy tre làng nên đã mở mắt với đời ... đủ cả
Đầu năm 1996, một chương trình mang tên “Tìm lại Nam Cao” được Hiệp hội Câu lạc bộ UNESSCO Việt Nam tổ chức với quy mô chưa từng có gồm 35 đơn vị tham gia như Bộ Lao động Thương binh - Xã hội, Hội Nhà văn Việt Nam, Báo Nhân dân… Điều đặc biệt là trong đó có sự góp mặt của 7 nhà ngoại cảm mà Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA) đã đứng ra mời họ tham gia chương trình “Tìm lại Nam Cao”. Kết quả sau gần nửa thế kỷ nằm hiu quạnh trong nấm mồ vô danh, cuối cùng Nam Cao đã về yên nghỉ vĩnh hằng nơi quê nhà (xã Hoà Hậu, Lý Nhân, Hà Nam).
Câu trả lời của bạn
Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.
Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.
Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.
Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối củng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay. Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
Câu trả lời của bạn
Nam Cao là một nhà văn nổi bật trong dòng văn học hiện thực Việt Nam. Ông thường viết về những người dân và trí thức nghèo trong xã hội cũ. Đó là một xã hội của những năm tháng trước Cách mạng tháng Tám, khi mà những con người lương thiện phải chịu đựng những lề thói, những ức hiếp, những oan trái của bọn tay sai, cường quyền, của hủ tục phong kiến lạc hậu, trói buộc con người để rồi tha hóa, biến chất, trở thành kẻ lưu manh trong xã hội. Điển hình trong số đó là nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của ông. Tác phẩm đã để lại cho chúng ta nhiều điều trăn trở về số kiếp của một con người. Hình ảnh giọt nước mắt của Chí Phèo - giọt nước mắt của con quỷ làng Vũ Đại thời ấy có lẽ là hình ảnh khiến chúng ta đau đáu, suy tư nhiều hơn cả.
Tác phẩm kể về Chí Phèo - một kẻ không cha không mẹ, từ một chàng trai hiền lành, bị vu oan rồi bị bắt vào tù. Sau khi đi tù về, hắn trở thành kẻ lưu manh, con quỷ dữ của làng Vũ Đại, hắn chuyên rạch mặt ăn vạ thiên hạ và triền miên trong những cơn say. Thế nhưng đến cuối cùng, khi cái lương tri trong hắn dần thức tỉnh, hắn đã trở lại cái bản tính ban đầu của một con người khi lọt lòng mẹ và mưu cầu có được một cuộc sống bình thường như bao người. Từng phân đoạn trong truyện ám ảnh người đọc không thôi, thế nhưng, có lẽ, cái ám ảnh sâu nặng nhất với người đọc chúng ta là hình ảnh những giọt nước mắt của hắn - con quỷ của làng Vũ Đại, dù cho chúng chỉ xuất hiện vỏn vẹn vài lần.
Nước mắt vốn để biểu hiện những cảm xúc dâng tới cao trào, tới tột đỉnh, bật ra, phát ra thành hình. Nó là sản phẩm cụ thể của tình cảm, cảm xúc con người. Người ta có thể bật ra nước mắt khi vui mừng quá đỗi, buồn tủi quá đỗi, đau khổ, hay giận hờn quá đỗi, ... Tiếng khóc bật ra là khi tâm trạng con người đã dâng tới tột đỉnh cao nhất. Trải dài trong những tác phẩm của văn học Việt, chúng ta bắt gặp không ít những giọt nước mắt của các nhân vật. Điểm qua những tác phẩm thuộc dòng văn học hiện thực, người ta bắt gặp giọt nước mắt vì vui mừng, hạnh phúc quá đỗi mà trào ra trong Vợ nhặt của Kim Lân, bắt gặp giọt nước mắt giả dối trong "Hạnh phúc một tang gia" - một đoạn trích trong tác phẩm hiện thực châm biếm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, ... Và ngay trong chính tác phẩm của Nam Cao, người ta cũng bắt gặp một giọt nước mắt đau đớn tới xé lòng, đó là giọt nước mắt khổ đau của lão Hạc - người nông dân nghèo khi ông bán đi đứa con tinh thần, người bạn thân thiết của cuộc đời mình - cậu Vàng. Những giọt nước mắt đó đều mang đến cho chúng ta những cảm xúc khác biệt, có đau khổ, nhưng cũng có những tiếng cười châm biếm. Thế nhưng phải đến giọt nước mắt của Chí Phèo, người ta mới thấy thật khác, mới cảm được hết trong đó những đắng cay, những xót đau của một con người bị bức tới đường cùng, muốn trở lại làm người khi lương tri thức tỉnh mà lại chẳng thể nào được. Có chăng, giọt nước mắt vừa trào ra ấy của Chí Phèo có cả niềm hạnh phúc khi lương thiện trong hắn trở về? Hay chỉ là giọt nước mắt đau đớn khóc cho số kiếp bi kịch của mình?
Nước mắt là thứ biểu hiện cho cảm xúc của con người. Vậy giọt nước mắt của Chí Phèo khi đó phải chăng là giọt nước mắt của nhân tính con người?
Nếu đọc kĩ tác phẩm, người ta có thể nhận ra Chí Phèo đã khóc, rơi nước mắt tới hai lần, một lần là khi "hắn thấy mắt mình ươn ướt" và một lần là khi "hắn ôm mặt khóc rưng rưng". Trong hai ấy, có một lần là giọt nước mắt mang tên hạnh phúc của Chí Phèo.
Chí Phèo vốn sinh ra đã là một kẻ cô đơn. Hắn được sinh ra "bên một cái lò gạch bỏ không", chẳng ai biết cha mẹ hắn là ai "có trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết". Hắn cứ thế lớn lên rồi đi làm công cho Bá Kiến. Nghiễm tưởng cuộc đời của hắn cứ thế bình lặng trôi đi cho đến khi hắn bị Bá Kiến ghen rồi đẩy vào tù. Bảy tám năm sau ra ù, hắn từ một chàng trai hiền lành, biến thành một kẻ lưu manh "trong khác hẳn", "trông gớm chết". Dần dần, từng bước, hắn biến thành một con quỷ, bị cả làng xua đuổi, xa lánh. Hắn triền miên trong những cơn say để chửi, để rạch mặt, để ăn vạ cả cái làng ấy. Cho đến khi hắn gặp được Thị Nở trong một lần say rượu trên đường trở về nhà. Sự xuất hiện của thị quá bất ngờ đối với hắn, sự quan tâm của thị dành cho hắn đã làm ấm lòng một kẻ bấy lâu nay bị coi là một con quỷ không có tính người. Bát cháo hành nóng hổi ấy không chỉ làm tan cái mệt mỏi của hắn mà còn làm thức tỉnh, rung động trái tim của hắn nữa. Trước sự quan tâm của Thị Nở, Chí Phèo đã thực sự bị cảm động, bị rung động "Bởi lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho", bởi từ trước tới giờ hắn chỉ biết sống với cô đơn, với sự khinh ghét của người đời, sống bằng "dọa nạt hoặc là giật cướp". Chính hành động ấy của Thị Nở đã đánh thức phần con người đang ẩn giấu bên trong hắn. Một Chí Phèo tưởng chừng đã chai lì xúc cảm, chẳng còn biết yêu thương lại có thể cảm động tới như vậy, đó là một loạt những xúc cảm hắn chưa từng có trong đời. Và lần đầu tiên sau tiếng khóc chào đời, giọt nước mắt của hạnh phúc được bật ra từ Chí Phèo dù chỉ rất nhẹ mà thôi "Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt". Giọt nước mắt bất chợt đến ấy bật ra từ Chí Phèo vừa là giọt nước mắt của hạnh phúc, vừa là giọt nước mắt của sự thức tỉnh lương tri còn sót lại trong hắn. Hắn cầm "bát cháo bốc khói mà bâng khuâng", phải, đời hắn đến giờ mới biết thế nào là bâng khuâng. Bởi bản tính lương thiện trong hắn đã trở về sau bao năm bị vùi lấp. Nó được thức tỉnh bởi sự quan tâm của một con người dành cho con người, nó đã làm hắn cảm thấy hắn vẫn còn là một con người, được đối xử giống một con người. Bản tính lương thiện trở về, hắn lại có được những xúc cảm, cảm giác được là người, sau bao năm bị xã hội vùi dập, đẩy xuống tận bùn đen tăm tối.
Thế nhưng "hạnh phúc chẳng tày gang" thì Chí Phèo lại một lần nữa bị đẩy xuống vũng bùn tăm tối. Lần này hắn lại khóc, nhưng chẳng phải là giọt nước mắt của hạnh phúc nữa mà là giọt nước mắt của khổ đau tột cùng.
Thị Nở vốn là một người đàn bà dở hơi, thế nhưng chính thị lại là người mang đến cho Chí Phèo cảm giác về tình yêu, về hạnh phúc, và lần đầu tiên trong đời, hắn mơ được trở lại cái xã hội "bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Đó là ước mơ được trở lại làm người, được hòa nhập xã hội của một con quỷ, ước mơ được "mở đường" bởi người đàn bà mang tên Thị Nở. Thế nhưng, chỉ vì những định kiến của xã hội đã khiến cái ước mơ nhỏ nhoi ấy của hắn chẳng thể thành hiện thực. Thị Nở từ chối cái tình yêu của Chí Phèo "Thị chống hai tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút hết vào hắn những lời của bà cô. Thị ngoay ngoáy cái mông đít đi về". Một bà cô hơn năm mươi tuổi chưa chồng, nên cũng cấm cản cháu mình, "ai đời lại đi lấy thằng không cha", bà đã nói thế với thị, thị nói lại với Chí Phèo. Đó là một sự đả kích thật lớn với cái bản tỉnh vừa trở về kia của Chí, hắn chỉ vừa mới tưởng được mở đường, được trở lại làm người thì lại bị vùi dập lần nữa bởi cái định kiến của xã hội. Và chúng ta được thấy lần đầu tiên trong đời, Chí Phèo khóc, thực sự khóc: "hắn ôm mặt khóc rưng rưng". Nếu như giọt nước mắt hạnh phúc chỉ là cái "ươn ướt ở mắt" thì giờ đây là giọt nước mắt này mới thực sự khiến con người ta ám ảnh.
Giọt nước mắt ấy là sự đau khổ đến tột cùng khi cái phao cuối cùng, con đường cuối cùng dẫn hắn trở lại làm người đứt đoạn, chấm dứt. Hắn khóc than trước cái bi kịch tột độ của mình, bi kịch bị từ chối quyền được làm người.
Nếu như trước kia, trước khi gặp Thị Nở, hắn là một con quỷ bị cả làng ghét bỏ, luôn say trong men rượu thì khi thị đến, hắn được cứu vớt cả tâm hồn, từ một con quỷ trở lại làm con người. Thế nhưng giờ đây, chính thị lại là người đẩy hắn xuống hố sâu, vực thẳm chỉ bởi những lề thói, định kiến của xã hội. Lần đầu tiên, hắn hiểu ra. Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo phức tạp logic, "hắn nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu, hắn bỗng ngẩn người", "hắn sửng sốt" và cuối cùng nước mắt của hắn mới rơi xuống "hắn ôm mặt rưng rưng khóc".
Hắn lại tìm đến rượu để quên, để lấy lại sức mạnh trở thành con quỷ như trước. Thế nhưng, cái lương tri vừa thức tỉnh trong hắn lại chẳng để hắn làm vậy, thế là "hắn càng uống càng tỉnh", "hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành". Cái sự thật quá đau khổ đang phơi bày trước mặt hắn, muốn trở thành người nhưng con đường duy nhất lại bị chặt đứt. Giờ đây hắn chỉ muốn "đến nhà con đĩ Nở kia. Đến để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó", thế nhưng thâm tâm hắn, lương tri kia chẳng để cho hắn làm vậy. Hắn bị phũ phàng, bị dồn đến tận cùng của khổ đau, và giọt nước mắt kia của hắn hẳn là giọt nước mắt của một con người.
Nếu như trước đây, hắn luôn triền miên trong những cơn say, chưa bao giờ hắn nghe được những âm thanh của cuộc đời. Để đến khi gặp Thị Nở, hắn mới bừng tỉnh mà chợt nghe thấy những thanh âm thanh bình của cuộc sống đời thường "tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ thuyền đuổi cá", những thanh âm sống động, yên bình ấy "hôm nào chả có" nhưng "nay hắn mới nghe được". Lúc đó, hắn mới cảm nhận được cái đẹp xung quanh mình, cái hạnh phúc mình có. Thế nhưng, cái hạnh phúc ấy đến nhanh quá, đi vội quá, hắn chỉ kịp hưởng trong phút giây, là một con người, có xúc cảm, sao có thể chịu đựng nổi mà không bật ra tiếng khóc cơ chứ?
Giọt nước mắt của Chí Phèo "rưng rưng" kia, không chỉ là của một người đàn ông đau khổ vì bị tình nhân từ chối tình yêu, không chỉ là của một kẻ cô đơn, đau khổ, lạc loài vừa tìm được hơi ấm lại đã bị tước mất mà còn là giọt nước mắt của một con người bị dồn tới tận chân tường của đau khổ, tối tăm, muốn làm người lại bị từ chối làm người.
Chí Phèo trở thành nhân vật điền hình, đại diện cho tầng lớp nông dân tận đáy của xã hội, cô đơn, lạc lõng, bị xa lánh nên khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc, yên bình, được làm một người lương thiện. Thế nhưng, cái xã hội đầy những định kiến tàn ác, đầy những bức ép của bọn cường quyền đã dồn ép, khiến hắn tha hóa, lưu manh hóa, chẳng thể đạt được điều đó, vậy nên hắn mới bật khóc. Đó là giọt nước mắt đòi quyền được sống, được làm một con người đúng nghĩa.
Nam Cao vô cùng tài năng trong nghệ thuật phân tích tâm lý của nhân vật. Ông hóa thân vào từng nhân vật của mình, để sống, để cảm nhận để miêu tả cho rõ nỗi đau xót, thống khổ của họ. Mỗi giọt nước mắt trong nhân vật của ông đều là những giọt nước mắt của một cuộc đời đầy bi kịch như lão Hạc, như nhà văn Hộ (Đời thừa), ... Những giọt nước mắt của nhân vật trong tác phẩm của ông rất giàu ý nghĩa, nó đã góp phần làm nổi bật tư tưởng và chủ đề mà ông muốn thể hiện.
Chi tiết giọt nước mắt của Chí Phèo khiến cho người đọc không chỉ băn khoăn với số kiếp đầy bi kịch của hắn mà còn ám ảnh tới tận cùng về cuộc đời của hắn. Nam Cao đã xây dựng hình tượng một Chí Phèo không chỉ biết rạch mặt, ăn vạ như một con quỷ mà còn có những cảm xúc rất đời thường, rất người nữa. Thông qua hình ảnh đó, ông muốn thể hiện mặt trái của xã hội, kết án đanh thép xã hội đã đẩy con người tới tận cùng đau khổ mà bị tha hóa, lưu manh. Đồng thời, ông cũng khẳng định niềm tin về tâm hồn lương thiện của họ, dù có bị vùi dập tới mất cả nhân hình, nhân tính vẫn sẽ luôn còn mãi, chỉ là cần người tìm ra, khơi gợi lên mà thôi.
Câu trả lời của bạn
Chí Phèo là nhân vật điển hình xuất sắc của nhà văn Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo ra đời năm 1941. Đây là một người nông dân cùng quẫn vốn lương thiện, hiền lành, tự trọng nhưng đã bị Bá Kiến cho đi tù oan, bị lưu manh hóa, côn đồ hóa. Sau khi gặp thị Nở, được hưởng tình cảm yêu thương. Chí muốn trở lại lương thiện. Tuyệt vọng vì không thể hoàn lương. Chí cầm dao đến nhà kẻ thù, sau khi đã nốc rất nhiều rượu. Vậy Chí Phèo giết Bá Kiến trong trạng thái say hay tỉnh?
Theo tác giả miêu tả thì Chí đã uống hết hai chai rượu. Cũng theo truyện thì Chí rắp tâm đến nhà thị Nở "để đâm chết cả nhà nó". Chí có ý định đó vì thị Nở nghe lời bà cô thị, đã cự tuyệt quan hệ với Chí Phèo. Nhưng rồi Chí không đến nhà "người tình bội bạc" mà lại đến thẳng nhà Bá Kiến. Nhà văn đưa ra lời bình: "những thằng điên và những thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm". Căn cứ vào những chi tiết đó, ta có thể kết luận Chí Phèo xông đến và đâm chết Bá Kiến trong trạng thái say.
Nhưng phân tích và kết luận như thế chưa đủ. Trước khi hạ thủ kẻ thù, Chí đã nói những lời rất tỉnh táo. Chí nói ba câu rất gọn và rõ. Một câu khẳng định quyết liệt: "Tao muốn làm người lương thiện!". Một câu hỏi uất ức: "Ai cho tao lương thiện?". Rồi một câu phủ định đau xót: "Tao không thể là người lương thiện nữa". Chí Phèo muốn, là nguyện vọng. Nguyện vọng xuất phát từ bản chất, cội nguồn lương thiện của Chí và vẫn dai dẳng tiềm ẩn trong con người anh ta, dẫu từ khi biến chất anh ta lúc nào cũng say, cũng là một thằng "đầu bò". Chí Phèo hỏi, là trong sâu xa Chí rất rõ nguyên nhân nào và ai đã làm Chí thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại". Và sự tự phủ định cuối cùng chứng tỏ Chí Phèo hiểu con đường cùng đầy thương cảm, xót xa của bản thân. Sự chuyển đổi cảm xúc ấy diễn ra một cách tự nhiên không gò bó. Cho nên lại không thế nói Chí Phèo giết Bá Kiến vì say rượu. Chỉ có thể nói đó là giây phút lóe tỉnh trong cơn say. Sự lóe lên của ý thức này thật Chí hơn tất cả cơn say triền miên của Chí. Bởi thực chất Chí say vì uất ức, say vì muốn trả thù, say vì cùng quẫn. Và vì tất cả những nguyên cớ rất lương thiện này cho nên Chí mới say. Do vậy, có thể nói, trong say, Chí thực ra là "Chí giả" - một Chí hình nộm - mang tên Chí Phèo. Giết Bá Kiến là cái anh Chí làm canh điền, chỉ có một mong ước hiền lành từng "ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm" cho nên lại có thể nói, mà như thế này mới chính xác - giết Bá Kiến là một Chí Phèo rất tỉnh. Đầy lòng phẫn uất và căm thù không có con đường nào khác để cho đành liều thân với kẻ thù.
Chính nhờ Nam Cao mà Chí Phèo có được sức sống mạnh mẽ đến vậy trong lòng độc giả. Mỗi lần đọc Chí Phèo là mỗi lần cảm nhận khác nhau về cảnh đời, số phận của những con người trong xã hội cũ. Và mỗi lần như vậy, người đọc lại càng thương cảm hơn cho cái dáng vẻ ngất ngưởng, dềnh dàng bước ra từ trang sách của Chí Phèo. Càng thêm căm ghét cái xã hội bất công cũ đã đày đọa, vùi dập con người, biến họ trở thành lưu manh và cắt đứt con đường hoàn lương của họ. Khiến họ, một khi không có cơ may tìm thấy lối ra, mà sự khát khao làm người rực cháy thì chỉ còn một con đường là cùng chết với kẻ thù.
Câu trả lời của bạn
Nam Cao được coi là một trong những nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại, với giọng văn tỉnh táo, phác lặng, thấm đẫm những suy tư, triết lý nhưng đằng sau giọng văn ấy là một tâm hồn đằm thắm yêu thương trĩu nặng những nỗi xót xa về số kiếp của những con người cùng khổ dưới đáy xã hội lúc bấy giờ. Nam Cao viết Lão Hạc, viết Đời thừa, rồi viết Chí Phèo, và thực sự mỗi tác phẩm đều là một tấn bi kịch, là bức tranh hiện thực đầy đau xót của xã hội Việt Nam trước cách mạng. Và trong Chí Phèo người ta lại càng thêm bàng hoàng, thêm đau xót về cái bi kịch không lối thoát, đó là bi kịch bị tha hóa, bị từ chối quyền làm người, quyền được sống hạnh phúc của nhân vật Chí Phèo. Sự bức ép của xã hội, sự tuyệt vọng đến cùng cực đã đẩy Chí Phèo đến con đường tự sát và giết luôn cả kẻ thù của mình là Bá Kiến, đây là một cái kết không có hậu nhưng lại là cái kết hợp lý để giải quyết tất cả các nút thắt và bi kịch trong cuộc đời bất hạnh của Chí.
Cái chết của Chí Phèo và Bá Kiến chính là kết quả của cái tấn bi kịch cùng đường tuyệt lộ, mà không còn cách tháo gỡ nào khác ngoài cái chết để giải thoát. Cuộc đời Chí Phèo lần lượt bước qua những bi kịch đau đớn, đầu tiên là bi kịch bị cha mẹ ruột bỏ rơi, phải sống cuộc đời thiếu tình thương yêu, sau khi lớn lên cứ ngỡ yên ổn làm một anh canh điền thật thà chất phác thì lại vướng nỗi oan khuất phải ngồi tù vì sự ghen tuông của Bá Kiến. Chính cuộc sống không bằng chết ở trong tù đã khiến Chí Phèo dần lưu manh hóa, bị tha hóa trong nhân cách. Trả thù đời, trả thù Bá Kiến, hắn tiếp tục trượt dài trên con đường tha hóa ấy, không thể hòa nhập với cuộc sống, bị cái định kiến đầy ác nghiệt của xã hội chối bỏ quyền được làm người. Thế nhưng dẫu cuộc sống có nhiều đớn đau, dù hắn có bị lưu manh hóa, có rạch mặt ăn vạ thì sâu thẳm trong tâm hồn Chí Phèo vẫn còn một chút tỉnh táo len lỏi trong những cơn say dài. Bản chất hắn vẫn là một anh canh điền lương thiện, hắn sẵn sàng ra tay rạch mặt mình, nhưng không hề làm tổn thương đến kẻ thù, kẻ vốn đẩy hắn đến những bi kịch mãi về sau này.
Thế nhưng cuộc gặp gỡ nhân văn với Thị Nở lại cũng chính là cái bi kịch to lớn nhất, và cũng là bi kịch cuối cùng trong cuộc đời mà Chí Phèo phải gánh chịu. Gặp thị, Chí Phèo thấy mình như sống lại, tình yêu ấy đã đánh thức cái tâm hồn ham sống, ham hạnh phúc, mong ước về một mái ấm gia đình trong Chí, dù hắn đã bước sang đến dốc bên kia của cuộc đời. Thế nhưng cái xã hội vốn bất công, vốn cay nghiệt với hắn chỉ cho hắn được đê mê, được hạnh phúc có năm ngày chẵn rồi người ta lại dội cho hắn một gáo nước lạnh, dìm hắn vào vực sâu của tuyệt vọng. Những lời không thể cay nghiệt hơn của bà cô, chính là thông điệp của cả cái làng Vũ Đại, của cả cái xã hội này dành cho hắn "Đàn ông đã chết hết hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ". Con người ta nhẫn tâm xoáy sâu vào cái bi kịch vào cái nỗi đau vốn gần liền vảy của hắn, hơn thế nữa những lời ấy giá như là lời của một người nào khác chứ chẳng phải Thị Nở truyền cho hắn nghe trong tức tối thì có lẽ Chí đã chẳng đau đớn và tuyệt vọng đến như thế.
Tình yêu của hắn đã bị cả cái xã hội này bóp chết, cả cái xã hội này, thậm chí đến cả Thị Nở cũng chối từ hắn thì sống liệu có còn ý nghĩa? Tuy nhiên giữa những người trong cuộc thì chẳng ai có thể nhận ra rằng, thị chẳng hề tức Chí mà thực chất rằng, thị đang tức thay cho Chí, thị tức cho cái phần người vừa mới quay lại không bao lâu của Chí bị những lời lẽ đay nghiến vùi dập, thị tức lắm. Bi kịch của Chí Phèo ở chỗ ấy, họ không hiểu nhau nên thành ra cái tức tối của người đàn bà dở hơi lại chính là cú giáng cuối cùng vào tâm hồn tàn tạ, tuyệt vọng của Chí, dồn Chí Phèo đến cái cách giải quyết tiêu cực nhất là chết! Bởi Chí đã ý thức được cái thân phận lạc loài không cha không mẹ, Chí bàng hoàng tuyệt vọng đuổi theo nắm lấy tay thị như người chết đuối nắm lấy cọng rơm cứu mạng cuối cùng, thế nhưng cọng rơm ấy cũng tuột khỏi tay Chí, Chí chết thật rồi chết từ trong tâm hồn cô độc, lạc lõng.
Hắn lại say, hắn định giết thị, giết cả bà cô để trả thù nhưng Chí Phèo lại không bước vào nhà Thị Nở, mà theo như Nam Cao nói thì "Những thằng điên và thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm". Nhưng có phải như vậy không, xét kỹ người ta mới thấy rằng có lẽ trong tiềm thức của một thằng say rượu như Chí đã dần tỉnh táo, hắn chợt nhận ra Thị Nở chẳng có lỗi, tình yêu thương của thị thức tỉnh tính người của hắn, bà cô của thị cũng không có lỗi, những lời cay nghiệt của bà ta thức tỉnh Chí bằng định kiến của một dân làng tỉnh táo, để Chí Phèo ý thức về bi kịch của bản thân. Chí nhận ra rằng kẻ thù lớn nhất, độc ác nhất trong cuộc đời Chí luôn luôn chỉ có một mà thôi đó chính là tên Bá Kiến, tiềm thức đã ngủ yên biết bao năm nay của hắn bỗng được thức tỉnh, cùng dậy hét lên trong tuyệt vọng đau đớn "Ai cho tao lương thiện?...Tao không thể làm người lương thiện nữa. Biết không...Chỉ còn một cách...Biết không...". Chí Phèo giết Bá Kiến để trả thù, để xả hết bao nỗi khốn nhục uất ức mà hắn phải chịu bấy lâu nay, để trả thù cho cái lương thiện mà tên Bá Kiến đã cướp mất của hắn. Nhìn sâu hơn người ta thấy Chí Phèo chính là đại diện cho tầng lớp nông dân cùng khổ trước cách mạng tháng tám vùng dậy đấu tranh, chống lại cái cường hào áp bức của tầng lớp thống trị lúc bấy giờ. Dẫu đó là cách thức liều lĩnh, đơn độc nhưng không còn cách nào khác, chỉ còn con đường bạo lực, chỉ có bạo lực mới có thể giải quyết được tất cả những vấn đề bất công, tàn ác mà bè lũ tay sai phong kiến đã gây ra cho nhân dân ta lúc bấy giờ. Mặt khác cái chết của Bá Kiến và Chí Phèo còn tố cáo mạnh mẽ bộ mặt độc ác và tàn nhẫn của xã hội cũ đã đẩy người nông dân lương thiện đến chốn cùng đường tuyệt lộ, khiến họ không còn lối thoát buộc phải giải quyết bằng những cách thức có vẻ tàn ác, suy cho cùng đó là cái giá mà một kẻ độc ác như Bá Kiến phải nhận. Chí Phèo giết được Bá Kiến rồi, sau đó hắn tự sát, tại sao hắn lại tự sát? Kẻ thù duy nhất của hắn đã chết đáng lý ra hắn có thể tiếp tục bước tiếp cuộc đời quỷ dữ của mình như bao nhiêu lâu nay hắn đã từng, nhưng Chí lại chọn cho mình cái chết. Có thể nói rằng, chi tiết tự sát của Chí Phèo chính là chi tiết đánh dấu mạnh mẽ sự trở lại của tính người trong cái tâm hồn vốn tàn tạ của hắn, Chí không thể tiếp tục làm quỷ dữ được nữa, hắn có khao khát được làm người lương thiện, thế nhưng cuộc đời này không cho hắn được cái quyền ấy, thì chi bằng hắn chết đi kết thúc hơn 40 năm cuộc đời mòn mỏi, đầy bi kịch của mình. Chí Phèo chọn cho mình cái chết có thể nói là một phương cách quyết liệt và tiêu cực để giữ lại cái phần người vừa được thức tỉnh của hắn, để chống lại cái sự tha hóa đã ăn mòn gần hết nhân cách của hắn. Cái chết của Chí Phèo chính là cái chết để chứng minh cho khao khát được trở về cuộc đời lương thiện, của một con người vừa phát hiện ra cái lương thiện quay về ngự trị trong tâm hồn của hắn, dẫu rằng ngoài hắn và Thị Nở thì chẳng ai hay biết điều ấy.
Với truyện ngắn Chí Phèo bức tranh xã hội hiện thực Việt Nam tàn ác đã được Nam Cao lột tả một cách sinh động và chân thực nhất, theo đó những giá trị nhân văn, nhân đạo đã được bộc lộ một cách sâu sắc. Đó là sự xót thương, thông cảm cho những thân phận con người ở dưới đáy xã hội, bị chèn ép, chà đạp, bị tước quyền được sống lương thiện. Đồng thời tố cáo bộ mặt tàn ác, vô nhân tính của chính quyền thực dân nửa phong kiến đã dồn ép con người đến đường cùng, buộc họ phải lựa chọn cách giải thoát cuối cùng là cái chết để được quay về với tấm lòng lương thiện thuở ban đầu, để bảo vệ cái nhân cách của mình khỏi sự tha hóa tồi tệ.
Câu trả lời của bạn
Ngô Tất Tố thành công với bức tranh hiện thực cùng khổ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng còn Nam Cao lại khiến người ta nhớ khi viết về đề tài sự lưu manh của con người trong một thời đại tối tăm. Năm 1941, truyện ngắn Chí Phèo (lúc đầu có tên là Đôi lứa xứng đôi) ra đời là một lời cảnh tỉnh con người trước hiện thực tàn bạo của xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là một xã hội tàn nhẫn với lắm kẻ lưu manh, đểu giả và thâm sâu. Chúng sẵn sàng vùi dập hay hãm hại con người. Chúng cũng sẵn sàng tước đoạt ở ngươi khác quyền sống, sự sống. Nhân vật Bá Kiến là một điển hình sâu sắc cho loại con người ấy.
Nếu nhân vật Nghị Quế nổi bậc ở cái tính ăn bẩn, keo kiệt và thô lỗ của hắn, nhân vật Nghị Hách đặc sắc ở cái nết dâm bậy, thì ở nhân vật Bá Kiến hội tụ đầy đủ mọi điều xấu xa, bỉ ổi ở trên đời. Có thể nói cái xằng bậy nào hắn ta cũng có. Hắn cũng có đủ bản lĩnh của một tên cáo già, gian hùng khét tiếng. Hắn chính là đại diện cao nhất của cái xã hội tàn bạo, bất nhân, cạn kiệt tình người. Đó là một xã hôi "quần ngư tranh thực" đầy ghê tởm. Ở đó, kẻ mạnh hiếp kẻ yếu, từng người, từng người lũ lượt đánh mất bản chất lương thiện vốn có của mình chỉ vì miếng ăn.
Bá Kiến là một nhân vật phản diện điển hình. Qua nhân vật Bá Kiến, mọi điều dơ bẩn của cái xã hội thối nát ấy được phơi bày rõ ràng, chân thực, sinh động và đầy xót xa.
Có thể nói, cái trí xảo và gian tham của Bá Kiến cũng có dòng có dõi. Hắn xuất thân trong một gia đình đã từng bốn đời làm Lí trưởng. Bản thân hắn làm Lí trưởng rồi Chánh tổng. Cái xuất thân dòng dõi ấy, khiến Bá Kiến kế thừa mọi mánh khóe ở đời. Bằng đủ mọi mưu mô và thủ đoạn khôn khéo, hắn đã lần lượt leo lên đỉnh cao danh vọng. Từ tiên chỉ làng Vũ Đại hắn leo lên làm Bá hộ rồi Chánh hội kì hào, Huyện hào. Đến cả cái danh Bắc Kì nhân dân đại biểu hắn cũng chiếm lấy. Hắn khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Đâu chỉ có dân lành mới sợ cái uy của cụ Bá, mà cả bọn lưu manh lẫn cường cào đối đối nghịch cũng dè chừng và kiên nể hắn ta lắm. Ở làng Vũ Đại, Bá Kiến quyền uy chẳng khác gì một tên chúa đất.
Tuy không chú ý tô đậm nhân vật này nhưng Bá Kiến lại rất nổi bậc trong tác phẩm. Bằng một vài sự miểu tả của Nam Cao cũng đủ làm nhân vật này in đậm trong trí nhớ người đọc. Bá Kiến tuy là một nhân vật loại hình nhưng với những nét độc đáo, khiến nhân vật này rất ấn tượng, không thể nào quên.
Trước hết, Bá Kiến là loại cường hào cáo già lọc lõi. Tên "chúa đất" nào chẳng tham lam, gian manh chuyên đi đè đầu cưỡi cổ nông dân. Nhưng tham lam kiểu Bá Kiến là một loại hiếm thấy.
Sự gian manh sừng sỏ của Bá Kiến thể hiện sâu sắc trong cách hắn trị người và cách hắn đã đẩy Chí Phèo, một anh nông dân hiền lành như cục đất vào tù và khuất phục Chí Phèo sau khi hắn ra khỏi tù.
Nhà văn để cho Bá Kiến xuất hiện đầu tiên trước độc giả đúng lúc Chí Phèo say rượu, đến cổng nhà hắn để rạch mặt, kêu làng, ăn vạ. Vừa trong thấy Chí Phèo nằm trước cửa, không nhúc nhích như thể gần chất, Bá Kiến hiểu ngay cơ sự. Hắn thừa biết ý định của Chí Phèo khi gây ra hành động này. Với sự từng tải của một tên cáo già gian hùng, Bá Kiến biết rõ tác hại của đám đông nhốn nháo này. Với địa vị là Bá hộ, quyền uy thét ra lửa, không thể để Chí Phèo làm cho mất mặt. Bá Kiến đã mau chóng tìm được cách đối phó hữu hiệu.
Trước hết, hắn xua đám đông ra về. Hắn biết rõ sự ồn ào của đám đông càng làm cho con thú kia thêm hung hăng. Chí Phèo cũng mượn đám đông để gây khó cho hắn. Bá Kiến ra lời quát tháo mọi người chẳng qua là kế trì hoãn, kéo dài thời gian để Chí Phèo vơi bớt cơn say rượu. Đối với hắn, cái loại ngang bướng như Chí Phèo đâu phải là chưa từng gặp. Hắn có nhiều kinh nghiệm trừng trị loại "đầu bò" như Chí lắm rồi.
Mặt khác, trước đám đông, hắn không thể nói lời nhũng nhặn để dụ dỗ Chí Phèo được. Muốn dụ dỗ, ắt phải nhún nhường. Đường đường là một cụ bá hét ra lửa mà để đám dân đen chứng kiến cảnh ngọt nhạt với một thằng cùng đinh, thì còn ra cái thể thống gì?
Với người nhà, hắn quát lấy lệ, đuổi họ vào nhà. Với người làng, hắn vạch rõ phận sự không liên quan để khiến họ về nhà: "cả các ồng, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?". Dù rất hả hê và muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng họ cũng lảng dần đi vì nể sợ cái uy của cụ Bá.
Đến khi "chỉ còn trơ lại Chí Phèo", thì cái tài phỉnh dụ của Bá Kiến mới bộc lộ hết ra. Trước hết, cụ bắt đầu giở giọng đường mật, nịnh nọt, dỗ dành Chí Phèo. Lão nhúng nhường gọi Chí bằng anh rồi vồn vã mời Chí vào nhà uống nước.
Sự xuống nước của lão già ranh ma ấy khiến cho cơn hung hăng của Chí phèo vơi đi cả nửa. Chí cũng ngạc nhiên lắm nhưng để xem chuyện gì đang xảy ra, Chí đã nghe theo lão. Bá Kiến đã chiến thắng ngay ở bước đầu tiên. Chỉ cần Chí Phèo ngheo theo lão việc này, thì tất sẽ nghe theo việc khác nữa.
Không để Chí Phèo kịp nhận ra trò bịp ấy, lão lập tức tiến một bước thâm độc khác. Lão nhận mình có họ có hàng với Chí Phèo. Dĩ nhiên, Chí Phèo chẳng biết thật giả thế nào. Nhưng cũng thấy được đối đãi, trong lòng không giận nữa.
Chỉ cần Chí Phèo ngồi lên ghế là Bá Kiến biết mình đã thắng. Để hoàn toàn khuất phục con quỷ ấy, Bá Kiến hô người giết gà, mua rượu thết đãi Chí Phèo như đối đãi với hàng thượng khách. Chí Phèo nhận rượu nghĩa là chấp nhận cái "tấm lòng" của Bá Kiến, nghĩa là không gây sự nữa. Cuối bữa rượu, Bá Kiến còn biếu Chí Phèo mấy đồng bạc để ru lòng gã lang thang này.
Bá Kiến như đi vào suy nghĩ của người khác, thấu hiểu mọi điều và dự đoán chính xác mọi hành động. Cái lão già "khôn róc đời" ấy quả thật rất đáng sợ.
Đặc biệt, Nam Cao đã để cho nhân vật Bá Kiến độc thoại nội tâm nhằm phơi bày những ý nghĩ tỉnh táo nhưng nham hiểm của hắn. Đó là những phương châm, thủ đoạn thống trị người nông dân rất khôn ngoan và hiệu quả mà Bá Kiến đã đúc rút từ bốn đời làm tổng lí.
Với những kẻ lì lợm như Chí Phèo trị không được thì lão dùng. Cái kế của lão đó là "dùng những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò". Kế sách ấy không những thâm độc, nham hiểm mà còn rất côn đồ. Với lão, sự đời không nên cố chấp. Không ăn được thì buông bỏ, hà tất cố đấm ăn xôi để mang họa vào thân. Lão luôn tâm niệm "bám thằng có tóc chứ không bám thằng trọc đầu". Với triết lí "thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân", "mềm nắn rắn buông" hết sức mềm dẻo, uyển chuyển và hợp lí
Nhờ "biết mềm, biết cứng, biết thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù" rất được việc trong chuyện đến "tác hại bất cứ anh nào không nghe mình". Bá Kiến đã tập hợp được một phe cánh, bè đảng xung quanh mình. Thế lực và sức mạnh không ngừng được tăng cường, lấn át tất cả, làm cho bọn cường hào đối địch trong làng phải nể sợ, kiêng dè.
Sự gian xảo của hắn được phơi bày trọn vẹn trong âm mưu hại người. Nếu ghét kẻ nào, lão ngám ngầm đẩy người ta xuống sông, đưa vào chốn tù tội hoặc khốn cùng. Nhưng rồi lão lại dắt tay họ lên để họ phải cảm ơn. Lão sẵn sàng dùng mọi cách để đòi được số tiền cần lấy, để rồi ném trả với luận điệu thương hại giả dối vì thương kẻ bần hàn cùng túng quá. Hắn diễn kịch cứ như thật. Vì thế mà nhận cho ra bộ mặt thật của tên cáo già Bá Kiến không phải là điều dễ dàng.
Tất cả những thói lưu manh, côn đồ, đểu giả ấy được rèn luyện chỉ để bóc lột người khác mà thôi. Bá Kiến nổi tiếng hơn ở cái danh "già đời trong nghề đục khoét". Để vơ vét được nhiều tiền của, lão đã vận dụng hết các ngón nghề điêu luyện, không trừ ngón nào. Với người nông dân hiền lành nhưng khốn khó, lão tha hồ bóp nặn trong những vụ thu thuế. Không cách này thì cách khác, người nông dân phải cật lực nộp đủ tiền thuế. Không có thì lão cho vay. Mà vay thì phải trả gấp năm gấp mười.
Đối với "những thằng bạt mạng" hắn không ngừng thu nạp để giúp hắn dùng trong việc đòi nợ hay gây thanh thế cho hắn. Hắn luôn dùng đúng, người đúng việc. Bởi thế mà, không có cái nợ nào hắn không đòi được, không có kẻ thù nào mà hắn không làm cho điêu đứng, tán gia bại sản. Chí phèo đối với hắn như một con tốt thí mạng. Bằng tiền, hắn mua chuộc cả con người Chí. Hắn biến thù thành bạn. Những người bạn "đặc biệt" của hắn sớm hôm quanh quẩn quanh làng, hễ có việc là hắn sai bảo.
Nam Cao cũng đã vạch rõ nhân cách bỉ ổi, đê tiện của lão cáo già vô sỉ ấy. Bá Kiến không chỉ mưu mô mà còn là một lão già mất nết, dâm đãng và đồi bại. Chuyện lão có bốn năm bà vợ thì cũng thường tình. Nhưng ở tuổi ngoài sau mươi mà hắn còn ghen bóng, ghen gió. Nỗi hậm hực của lão đối với "những thằng trai trẻ" đã khiến hắn nhẫn tâm đẩy bao con người vô tội vào tù ra tội. Chính hắn lại là người rất háo sắc và thích chơi bời, trác táng, sa đọa và hư hỏng hơn ai hết. Hắn bí mật đi lại với vợ Binh Chức. Câu chuyện ăn chơi của lão ở tren tỉnh thì ai cũng biết.
Đặc tả nhân vật Bá Kiến là một trong những thành công nghệ thuật của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo. Những loại cường hào như Bá Kiến trong xã hội là không hiếm. Sức mạnh đích thực nằm ở cái cách Nam Cao miêu tả, vừa rõ ràng vừa khinh bỉ tột độ. Cộng với lớp từ ngữ phong phú, chân thực giống như một chất tẩy rửa từng bước lột trần bộ mặt xấu xa, đê tiện, bỉ ổi và dâm ô của Ba Kiến.
Nhân vật Bá Kiến vừa mang bản chất chung của giai cấp địa chủ cường hào, vừa có những nét riêng biệt sinh động không giống bất kì một tên địa chủ nào khác trong văn học. Điều đó giải thích vì sao hắn luôn được chúng ta nhắc đến khi cần ám chỉ một kẻ có quyền lực, gian hùng và nham hiểm. Hắn là cái nguyên nhân không chỉ dẫn đến cái bi kịch thảm khốc của cuộc đời Chí Phèo mà còn của biết bao con người lương thiện khác.
Người đọc hả hê khi nhìn thấy Bá Kiến nằm giẫy chết trong vũng máu. Nhưng người đọc cũng lập tức lo âu và suy nghĩ. Bá Kiến này chết nhưng trong xã hội vẫn còn có biết bao Bá Kiến khác. Những kẻ đối địch bấy lâu của cá kiến chờ đợi cái chết của lão mà nhảy lên tiếp tục đè đầu, cưỡi cổ người nông dân. Kiếp sống lầm than không bao giờ dứt.
Tác phẩm Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ; đồng thời là lời kết tội đanh thép xã hội thực dân - phong kiến đẩy con người vào bi kịch cùng cực, bế tắc, tuyệt vọng. Nhân vật Bá Kiến quả là một thành công ngoài dự định của nhà văn. Cách miêu tả nhân vật phản diện, cách điển hình hóa nhân vật, khác sâu đời sống nội tâm có lẽ Nam Cao là nhà văn thành công nhất.
Câu trả lời của bạn
Ngô Tất Tố thành công với bức tranh hiện thực cùng khổ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng còn Nam Cao lại khiến người ta nhớ khi viết về đề tài sự lưu manh của con người trong một thời đại tối tăm. Năm 1941, truyện ngắn Chí Phèo (lúc đầu có tên là Đôi lứa xứng đôi) ra đời là một lời cảnh tỉnh con người trước hiện thực tàn bạo của xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là một xã hội tàn nhẫn với lắm kẻ lưu manh, đểu giả và thâm sâu. Chúng sẵn sàng vùi dập hay hãm hại con người. Chúng cũng sẵn sàng tước đoạt ở ngươi khác quyền sống, sự sống. Nhân vật Bá Kiến là một điển hình sâu sắc cho loại con người ấy.
Nếu nhân vật Nghị Quế nổi bậc ở cái tính ăn bẩn, keo kiệt và thô lỗ của hắn, nhân vật Nghị Hách đặc sắc ở cái nết dâm bậy, thì ở nhân vật Bá Kiến hội tụ đầy đủ mọi điều xấu xa, bỉ ổi ở trên đời. Có thể nói cái xằng bậy nào hắn ta cũng có. Hắn cũng có đủ bản lĩnh của một tên cáo già, gian hùng khét tiếng. Hắn chính là đại diện cao nhất của cái xã hội tàn bạo, bất nhân, cạn kiệt tình người. Đó là một xã hôi "quần ngư tranh thực" đầy ghê tởm. Ở đó, kẻ mạnh hiếp kẻ yếu, từng người, từng người lũ lượt đánh mất bản chất lương thiện vốn có của mình chỉ vì miếng ăn.
Bá Kiến là một nhân vật phản diện điển hình. Qua nhân vật Bá Kiến, mọi điều dơ bẩn của cái xã hội thối nát ấy được phơi bày rõ ràng, chân thực, sinh động và đầy xót xa.
Có thể nói, cái trí xảo và gian tham của Bá Kiến cũng có dòng có dõi. Hắn xuất thân trong một gia đình đã từng bốn đời làm Lí trưởng. Bản thân hắn làm Lí trưởng rồi Chánh tổng. Cái xuất thân dòng dõi ấy, khiến Bá Kiến kế thừa mọi mánh khóe ở đời. Bằng đủ mọi mưu mô và thủ đoạn khôn khéo, hắn đã lần lượt leo lên đỉnh cao danh vọng. Từ tiên chỉ làng Vũ Đại hắn leo lên làm Bá hộ rồi Chánh hội kì hào, Huyện hào. Đến cả cái danh Bắc Kì nhân dân đại biểu hắn cũng chiếm lấy. Hắn khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Đâu chỉ có dân lành mới sợ cái uy của cụ Bá, mà cả bọn lưu manh lẫn cường cào đối đối nghịch cũng dè chừng và kiên nể hắn ta lắm. Ở làng Vũ Đại, Bá Kiến quyền uy chẳng khác gì một tên chúa đất.
Tuy không chú ý tô đậm nhân vật này nhưng Bá Kiến lại rất nổi bậc trong tác phẩm. Bằng một vài sự miểu tả của Nam Cao cũng đủ làm nhân vật này in đậm trong trí nhớ người đọc. Bá Kiến tuy là một nhân vật loại hình nhưng với những nét độc đáo, khiến nhân vật này rất ấn tượng, không thể nào quên.
Trước hết, Bá Kiến là loại cường hào cáo già lọc lõi. Tên "chúa đất" nào chẳng tham lam, gian manh chuyên đi đè đầu cưỡi cổ nông dân. Nhưng tham lam kiểu Bá Kiến là một loại hiếm thấy.
Sự gian manh sừng sỏ của Bá Kiến thể hiện sâu sắc trong cách hắn trị người và cách hắn đã đẩy Chí Phèo, một anh nông dân hiền lành như cục đất vào tù và khuất phục Chí Phèo sau khi hắn ra khỏi tù.
Nhà văn để cho Bá Kiến xuất hiện đầu tiên trước độc giả đúng lúc Chí Phèo say rượu, đến cổng nhà hắn để rạch mặt, kêu làng, ăn vạ. Vừa trong thấy Chí Phèo nằm trước cửa, không nhúc nhích như thể gần chất, Bá Kiến hiểu ngay cơ sự. Hắn thừa biết ý định của Chí Phèo khi gây ra hành động này. Với sự từng tải của một tên cáo già gian hùng, Bá Kiến biết rõ tác hại của đám đông nhốn nháo này. Với địa vị là Bá hộ, quyền uy thét ra lửa, không thể để Chí Phèo làm cho mất mặt. Bá Kiến đã mau chóng tìm được cách đối phó hữu hiệu.
Trước hết, hắn xua đám đông ra về. Hắn biết rõ sự ồn ào của đám đông càng làm cho con thú kia thêm hung hăng. Chí Phèo cũng mượn đám đông để gây khó cho hắn. Bá Kiến ra lời quát tháo mọi người chẳng qua là kế trì hoãn, kéo dài thời gian để Chí Phèo vơi bớt cơn say rượu. Đối với hắn, cái loại ngang bướng như Chí Phèo đâu phải là chưa từng gặp. Hắn có nhiều kinh nghiệm trừng trị loại "đầu bò" như Chí lắm rồi.
Mặt khác, trước đám đông, hắn không thể nói lời nhũng nhặn để dụ dỗ Chí Phèo được. Muốn dụ dỗ, ắt phải nhún nhường. Đường đường là một cụ bá hét ra lửa mà để đám dân đen chứng kiến cảnh ngọt nhạt với một thằng cùng đinh, thì còn ra cái thể thống gì?
Với người nhà, hắn quát lấy lệ, đuổi họ vào nhà. Với người làng, hắn vạch rõ phận sự không liên quan để khiến họ về nhà: "cả các ồng, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?". Dù rất hả hê và muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng họ cũng lảng dần đi vì nể sợ cái uy của cụ Bá.
Đến khi "chỉ còn trơ lại Chí Phèo", thì cái tài phỉnh dụ của Bá Kiến mới bộc lộ hết ra. Trước hết, cụ bắt đầu giở giọng đường mật, nịnh nọt, dỗ dành Chí Phèo. Lão nhúng nhường gọi Chí bằng anh rồi vồn vã mời Chí vào nhà uống nước.
Sự xuống nước của lão già ranh ma ấy khiến cho cơn hung hăng của Chí phèo vơi đi cả nửa. Chí cũng ngạc nhiên lắm nhưng để xem chuyện gì đang xảy ra, Chí đã nghe theo lão. Bá Kiến đã chiến thắng ngay ở bước đầu tiên. Chỉ cần Chí Phèo ngheo theo lão việc này, thì tất sẽ nghe theo việc khác nữa.
Không để Chí Phèo kịp nhận ra trò bịp ấy, lão lập tức tiến một bước thâm độc khác. Lão nhận mình có họ có hàng với Chí Phèo. Dĩ nhiên, Chí Phèo chẳng biết thật giả thế nào. Nhưng cũng thấy được đối đãi, trong lòng không giận nữa.
Chỉ cần Chí Phèo ngồi lên ghế là Bá Kiến biết mình đã thắng. Để hoàn toàn khuất phục con quỷ ấy, Bá Kiến hô người giết gà, mua rượu thết đãi Chí Phèo như đối đãi với hàng thượng khách. Chí Phèo nhận rượu nghĩa là chấp nhận cái "tấm lòng" của Bá Kiến, nghĩa là không gây sự nữa. Cuối bữa rượu, Bá Kiến còn biếu Chí Phèo mấy đồng bạc để ru lòng gã lang thang này.
Bá Kiến như đi vào suy nghĩ của người khác, thấu hiểu mọi điều và dự đoán chính xác mọi hành động. Cái lão già "khôn róc đời" ấy quả thật rất đáng sợ.
Đặc biệt, Nam Cao đã để cho nhân vật Bá Kiến độc thoại nội tâm nhằm phơi bày những ý nghĩ tỉnh táo nhưng nham hiểm của hắn. Đó là những phương châm, thủ đoạn thống trị người nông dân rất khôn ngoan và hiệu quả mà Bá Kiến đã đúc rút từ bốn đời làm tổng lí.
Với những kẻ lì lợm như Chí Phèo trị không được thì lão dùng. Cái kế của lão đó là "dùng những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò". Kế sách ấy không những thâm độc, nham hiểm mà còn rất côn đồ. Với lão, sự đời không nên cố chấp. Không ăn được thì buông bỏ, hà tất cố đấm ăn xôi để mang họa vào thân. Lão luôn tâm niệm "bám thằng có tóc chứ không bám thằng trọc đầu". Với triết lí "thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân", "mềm nắn rắn buông" hết sức mềm dẻo, uyển chuyển và hợp lí
Nhờ "biết mềm, biết cứng, biết thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù" rất được việc trong chuyện đến "tác hại bất cứ anh nào không nghe mình". Bá Kiến đã tập hợp được một phe cánh, bè đảng xung quanh mình. Thế lực và sức mạnh không ngừng được tăng cường, lấn át tất cả, làm cho bọn cường hào đối địch trong làng phải nể sợ, kiêng dè.
Sự gian xảo của hắn được phơi bày trọn vẹn trong âm mưu hại người. Nếu ghét kẻ nào, lão ngám ngầm đẩy người ta xuống sông, đưa vào chốn tù tội hoặc khốn cùng. Nhưng rồi lão lại dắt tay họ lên để họ phải cảm ơn. Lão sẵn sàng dùng mọi cách để đòi được số tiền cần lấy, để rồi ném trả với luận điệu thương hại giả dối vì thương kẻ bần hàn cùng túng quá. Hắn diễn kịch cứ như thật. Vì thế mà nhận cho ra bộ mặt thật của tên cáo già Bá Kiến không phải là điều dễ dàng.
Tất cả những thói lưu manh, côn đồ, đểu giả ấy được rèn luyện chỉ để bóc lột người khác mà thôi. Bá Kiến nổi tiếng hơn ở cái danh "già đời trong nghề đục khoét". Để vơ vét được nhiều tiền của, lão đã vận dụng hết các ngón nghề điêu luyện, không trừ ngón nào. Với người nông dân hiền lành nhưng khốn khó, lão tha hồ bóp nặn trong những vụ thu thuế. Không cách này thì cách khác, người nông dân phải cật lực nộp đủ tiền thuế. Không có thì lão cho vay. Mà vay thì phải trả gấp năm gấp mười.
Đối với "những thằng bạt mạng" hắn không ngừng thu nạp để giúp hắn dùng trong việc đòi nợ hay gây thanh thế cho hắn. Hắn luôn dùng đúng, người đúng việc. Bởi thế mà, không có cái nợ nào hắn không đòi được, không có kẻ thù nào mà hắn không làm cho điêu đứng, tán gia bại sản. Chí phèo đối với hắn như một con tốt thí mạng. Bằng tiền, hắn mua chuộc cả con người Chí. Hắn biến thù thành bạn. Những người bạn "đặc biệt" của hắn sớm hôm quanh quẩn quanh làng, hễ có việc là hắn sai bảo.
Nam Cao cũng đã vạch rõ nhân cách bỉ ổi, đê tiện của lão cáo già vô sỉ ấy. Bá Kiến không chỉ mưu mô mà còn là một lão già mất nết, dâm đãng và đồi bại. Chuyện lão có bốn năm bà vợ thì cũng thường tình. Nhưng ở tuổi ngoài sau mươi mà hắn còn ghen bóng, ghen gió. Nỗi hậm hực của lão đối với "những thằng trai trẻ" đã khiến hắn nhẫn tâm đẩy bao con người vô tội vào tù ra tội. Chính hắn lại là người rất háo sắc và thích chơi bời, trác táng, sa đọa và hư hỏng hơn ai hết. Hắn bí mật đi lại với vợ Binh Chức. Câu chuyện ăn chơi của lão ở tren tỉnh thì ai cũng biết.
Đặc tả nhân vật Bá Kiến là một trong những thành công nghệ thuật của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo. Những loại cường hào như Bá Kiến trong xã hội là không hiếm. Sức mạnh đích thực nằm ở cái cách Nam Cao miêu tả, vừa rõ ràng vừa khinh bỉ tột độ. Cộng với lớp từ ngữ phong phú, chân thực giống như một chất tẩy rửa từng bước lột trần bộ mặt xấu xa, đê tiện, bỉ ổi và dâm ô của Ba Kiến.
Nhân vật Bá Kiến vừa mang bản chất chung của giai cấp địa chủ cường hào, vừa có những nét riêng biệt sinh động không giống bất kì một tên địa chủ nào khác trong văn học. Điều đó giải thích vì sao hắn luôn được chúng ta nhắc đến khi cần ám chỉ một kẻ có quyền lực, gian hùng và nham hiểm. Hắn là cái nguyên nhân không chỉ dẫn đến cái bi kịch thảm khốc của cuộc đời Chí Phèo mà còn của biết bao con người lương thiện khác.
Người đọc hả hê khi nhìn thấy Bá Kiến nằm giẫy chết trong vũng máu. Nhưng người đọc cũng lập tức lo âu và suy nghĩ. Bá Kiến này chết nhưng trong xã hội vẫn còn có biết bao Bá Kiến khác. Những kẻ đối địch bấy lâu của cá kiến chờ đợi cái chết của lão mà nhảy lên tiếp tục đè đầu, cưỡi cổ người nông dân. Kiếp sống lầm than không bao giờ dứt.
Tác phẩm Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ; đồng thời là lời kết tội đanh thép xã hội thực dân - phong kiến đẩy con người vào bi kịch cùng cực, bế tắc, tuyệt vọng. Nhân vật Bá Kiến quả là một thành công ngoài dự định của nhà văn. Cách miêu tả nhân vật phản diện, cách điển hình hóa nhân vật, khác sâu đời sống nội tâm có lẽ Nam Cao là nhà văn thành công nhất.
Câu trả lời của bạn
Nổi bật lên trong tác phẩm Chí Phèo là hai nhân vật đối địch nhau: Bá Kiến và Chí Phèo. Đó là sự đối đầu giữa một bên là Bá Kiến, đại diện cho giai cấp thống trị của xã hội đương thời và một bên là Chí Phèo, tiêu biểu cho tầng lớp nông dân bị tha hóa về mặt nhân cách. Cũng cần nói thêm sự tha hóa của Chí không phải là bẩm sinh mà nó được phát sinh trong quá trình vận động và phát triển của nhân vật giữa xã hội thối tha vô nhân đạo. Trước kia Chí cũng là một người lương thiện từng làm canh điền cho nhà cụ Bá, sau đó bị Bá Kiên đẩy vào vòng tù tội. Cuộc đời tù đày đã làm thay đổi hẳn con người hiền lành chất phác, Chí trở thành một kẻ liều lĩnh, một con quỷ của làng Vũ Đại, kẻ bị biến chất., bị tha hóa về mặt nhân cách. Và ôm ấp trong lòng một mối thu không gì xóa được, nếu thời điểm Chí ra tù làm mốc thì có thế nói Chí đã ba lần đi tìm gặp kẻ thù là Bá Kiến. Ba lần diễn ra trong ba hoàn cảnh, ba động cơ khắc nhau.
Lần thứ nhất, là lúc Chí vừa ở tù về "Hắn về hôm trước, hôm sau đõ thấy ngồi ở chợ uống rượu" và trong cơn say khướt, đã xách vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục ra mà chửi. Đó là lối hành động của một kẻ say rượu mà đã có trong tiềm thức của Chí Phèo. Cộng thêm những năm tháng tù đày mối thù ấy càng được hun đúc, nuôi dưỡng ngày càng sâu sắc và đậm hơn. Bao năm ngồi tù Chí đã có dịp nghiền ngẫm cân nhắc trước khi đi đến quyết định đúng đắn. Cho nên, hơn bao giờ hết, vừa rời khói nhà tù là Chí đã sôi sục một ý thức trả thù. Sự căm thù kẻ gây ra tội lỗi và đẩy mình vào con đường đau khổ đã dẫn đường Chí đến nhà cụ Bá dù là đang trong cơn say khướt. Hành vi của Chí hoàn toàn liều lĩnh và mang tính bột phát. Hơn nữa dù gì trong sâu xa bản chất của Chí cũng chỉ là một nông dân thật thà đến mức gần như ngây thơ cho nên sự thất bại của Chị trong lần đối đầu đầu tiên này là một chuyện rất hiển nhiên. Làm sao qua được kẻ khôn róc đời như Bá Kiến. Bá Kiến là kẻ tinh ma xảo quyệt, lắm mưu nhiều kế nên đối phó với Chí chẳng lấy gì là khó khăn. Chỉ thoáng nhìn qua là Bá Kiến đã hiểu được ý đồ của đối phương. Nên Chí mới thất bại ê chề, cay đổng trước những lời vuốt ve, ngon ngọt cộng thêm vài đồng đã làm lóa mắt Chí. Từ một vị trí là kẻ đi hỏi tội kẻ thù chỉ thoắt một cái ván cờ đã lật ngược: kẻ có tội lại ung dung như một kẻ ra ơn còn người hỏi tội lại thành tay sai phục dịch cho kè thù mà không hay biết.
Lần thứ hai cũng trong dáng điệu say mềm Chí ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến gặp hắn để xin được đi tù. Thật là một chuyện ngược đời. Thuở nay chưa thấy ai làm một chuyện phi lí đến mức vậy chắc chỉ có Chí Phèo. Tuy là nghịch li đây nhưng lại phản ánh đúng thực tại của Chí. Không có cơm ăn, áo mặc, một mảnh đất cắm dùi cũng không. Cảnh ngộ bi đát của Chí cũng phần nào phản ánh đúng hiện trạng xã hội lúc bấy giờ đó là những người lầm đường lạc lối, trót sa chân vào vũng bùn của tội lỗi thì không sao rút chân ra được. Chí bị tù đến khi được trả về cuộc sống đời thường thì lại không tìm được kế sinh nhai hay nói đúng hơn là không được tiếp nhận và vì thế lại tiếp tục bị đẩy vào bước đường cùng. Nghe Chí nói với Bá Kiến mà thấy xót xa trong dạ: "Bẩm quả đi tù sướng quá đi, ở tù có cơm ăn, bây giờ về làng về nước một thước cắm dùi không có...". Sự thật như thế ư? Nhà tù là chốn dung thân ư? Trên câu chữ thì ta không thể nghĩ khác được. Nhưng nếu nghĩ sâu xa một chút ta mới thấy ngỡ ngàng và lương tâm chẳng được thanh thản. Nhà tù nuôi con người ư? Không, bảo nó nuôi dưỡng những con người bị tha hóa, những con quỷ như Chí Phèo thì đúng hơn. Nếu như ý nghĩa của nhà tù là để cảnh tỉnh, cải tạo con người, trả con người về với cuộc sống hoàn lương thì nhà tù ở đây lại thực hiện ngược lại. Nó biến những kẻ lương thiện trở thành một loại người lưu manh khốn nạn. Nhà văn Huy-gô rất đúng khi nói: "Khi chưa vào tù anh là một cành cây tươi, khi ra tù anh là một cây củi khô". Cũng như lần trước, Chí lại thất bại trước cái khôn róc đời của cụ Bá: bị gạt mà không hề nhận ra. Âm mưu của Bá Kiến mới thâm độc làm sao. "Dùng độc trị độc", dùng Chí Phèo để trị đội Tảo. Cả Chí và đội
Tất cả đều là kẻ thù của hắn, nên và chẳng có xảy ra xô xát, ai được, ai mất cụ đều có lợi, vừa thỏa mãn được ý định trả thù vừa không phải mang tiếng là kẻ báo thù nhỏ nhen, đê tiện.
Lần thứ ba cũng là lần chót Chí đến gặp Bá Kiến. Cũng với dáng dấp của thằng say rượu nhưng lần này Chí mang trong lòng một tâm trạng, một ý định khác hẳn với những lần trước. Bởi vì Chí Phèo sau khi bị Thị Nở cự tuyệt tình cảm của mình đã hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng. Trong thâm tâm Chí đang ôm ấp ý định làm lành, muốn quay về con đường hoàn lương sống cuộc đời lương thiện như bao người khác. Nhưng xã hội vô nhân đạo đã quay lưng trước sự ăn năn sám hối của một tội đồ, tình thương đã khép lại, xã hội đã rút đường trở về của Chí cũng như cự tuyệt quyền làm người của một con người. Vĩnh viễn Chí không tìm thấy hạnh phúc ở cuộc đời này. Bản chất người vừa trỗi dậy lại bị đè bẹp không thương tiếc. Có thể nói đây là những giờ phút tỉnh táo nhất trong cả cuộc đời say sưa của Chí, những phút mà ý thức phản kháng trỗi dậy mãnh liệt nhất. Đi gần hết cuộc đời, cho đến lúc này Chí mới phát hiện mới nhận ra chân lí cuộc sống. Dù là muộn màng nhưng với Chí sự khám phá ấy quý giá biết bao và Chí quyết giữ chặt lấy nó không để nó tuột khỏi tầm tay dù lả phải trả một giá rất đắt. Chí như vừa thức dậy sau một giấc ngủ dài, một sự chuyển biến rất lớn đang diễn ra trong tâm hồn của Chí. Ấy là sự trỗi dậy của tính người, tính lương thiện. Chí đã nhận ra chân tướng của kẻ thù, kẻ ấy là Bá Kiến chứ không ai khác cho nên lẽ ra phải đến nhà Thị Nở thì tiềm thức sâu xa đã dẫn Chí đến nhà Bá Kiến. Trong lần đối đầu sau cuối này, Chí hoàn toàn được lột xác, sự thay đổi đột ngột và nhanh chóng đến mức Bá Kiến không ngờ được. Chính vì không nắm bắt được đối phương, lại chủ quan khinh địch nên Bá Kiến thất bại một cách thảm hại. Hắn đã phải trả giá đắt cho hành vi tội lỗi của chính hắn. Với dáng dấp hiên ngang, ngạo mạn, Chí chỉ tay vào mặt Bá Kiên mà ra lời dõng dạc: "Tao muốn làm người lương thiện". Tư thế ấy ta chưa từng bắt gặp ở Chí. Trước đây hắn chỉ biết cúi đầu lễ phép, một điều bẩm cụ hai điều lạy cụ. Đó là sự chuyển biến và tự khẳng định mình của Chí. Ngôn ngữ của Chí càng lúc càng đậm màu triết lí: "Ai cho tao lương thiện? Tao không thể là người lương thiện". Lời cuối cùng được thốt lên với tất cả niềm cay đắng xót xa. Chí đã bị đẩy đên bước đường cùng. Không còn lối thoát, không còn cách lựa chọn nào khác chỉ còn chấm dứt cuộc đời của kẻ thù rồi sau đó tự chấm dứt cuộc đời mình. Màn bi kịch kết thúc đẫm máu và nước mắt.
Tác phẩm Chí Phèo đã để lại trong lòng người trăn trở, bao suy tư ray rứt. Truyện đã phác họa thành công bức tranh về đời sống ở nông thôn Việt Nam thời kì 1930-1945. Nó đã trình bày sự mâu thuẫn và xung đột gay gắt giữa bọn cường hào ác bá và những người nông dân nghèo hèn rách rưới bị đẩy vào con đường tội lỗi, mà tiêu biểu là Bá Kiến và Chí Phèo. Những mâu thuẫn nội tại ấy đã cho thấy sự xấu xa thối nát của xã hội đương thời. Hơn bao giờ hết bức tranh nông thôn Việt Nam hiện ra mới xơ xác tiêu điều làm sao. Nó đầy rẫy những hạng người hèn hạ, đốn mạt (Bá Kiến, đội Tảo, bà Ba..) cũng như những tệ nạn xã hội, rượu chè, cờ bạc, trộm cướp có thời cơ phát triển. Một xã hội không chỉ có sự bần cùng hóa mà còn có cả sự lưu manh hóa, về điểm này tác giả đã gây dựng rất thành công chân dung của một người nông dân mới: Chí Phèo. Hình ảnh Chí trở thành một điển hình văn học, một kiểu mẫu của loại người bị tha hóa về mặt nhân cách, vừa sống động vừa độc đáo, mới mẻ. Cũng qua đó bật lên tấm lòng nhân đạo cao cả, một sự cảm thông, một thái độ tôn trọng sâu sắc đối với số phận của những kẻ thấp cổ bé họng. Bị xã hội chà đạp. ruồng rẫy, chối bỏ thậm chí tước bỏ cả quyền làm người của một con người. Những kẻ mà xã hội cho là cực kì xấu xa ấy, dưới con mắt yêu thương của tác giả vẫn còn một chút gì là tình người và sự phản kháng muốn chống lại xã hội, muốn bứt ra khỏi xã hội vô nhân đạo không có một chút tình thương người ấy. Toát lên từ tác phẩm là niềm khát khao hạnh phúc, khát khao quyền làm người và khát khao tình người. Đặc biệt là tiếng kêu trước lúc giãy chết của Chí Phèo. Nó chứa đựng một tư tưởng vô cùng cao đẹp. Đó là tiếng kêu cứu của một con người, một số phận bị vùi dập: "Ai cho tao lương thiện? Tao muốn làm ngươi lương thiện". Tiếng kêu mới đau đớn và tha thiết làm sao. Nó cứ xoáy vào lòng người, nó làm ta phải băn khoăn ray rứt, nó kêu gọi, hay nói đúng hơn nó đặt ra một vấn đề có tính chất nan giải, một vấn đề chung không của riêng ai, ấy là: "Số phận con người". Nó kêu gọi tình người, kêu gọi sự quan tâm đến số phận của những kẻ bất hạnh. Kêu cứu vấn đề nhân phẩm con người đang trên đường hủy hoại. Nó đặt ra một nhiệm vụ nóng bỏng là hãy cứu lấy nhân phẩm, hãy bảo vệ quyền làm người của một con người, kêu gọi thực hiện chân lý: "Người với người sống để yêu nhau''.
Tác phẩm đã gián tiếp tố cáo xã hội nhớp nhúa bẩn thỉu không có tính người. Xã hội ấy là nơi sản sinh và nuôi dưỡng những người như Chí Phèo. Con người sống trong xã hội ấy khác nào sống trong vòng cùng quẫn bế tắc. Chí Phèo này chết đi thì có Chí Phèo khác ra đời thay thế. Chi tiết cuối cùng của tác phẩm miêu tả Thị Nở (sau khi Chí Phèo chết), thoáng thấy hiện ra một cải lò gạch bỏ không, vắng người qua lại... Phải chăng tác giả kín đáo báo hiệu mộ; Chí Phèo con sắp ra đời.
Có người cho rằng đó là kết thúc bi quan. Tại sao lại không nghĩ rằng Nam Cao đang kêu gọi chúng ta hãy cứu lấy những đứa con Chí Phèo, hãy đập nát những lò gạch cũ để cho con người sống với nhau trong sáng hơn, cao đẹp hơn?
Câu trả lời của bạn
Nam cao viết văn từ những năm 30 cuả thế kỉ XX nhưng đén năm 1941 ông mới khẳng định vị trí của mình trong nền văn học nước nhà bằng truyện ngắn Chí Phèo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao, thuộc đề tài người nông dân nghèo. Tác phẩm viết về tấm bi kịch của nhân vật Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo gồm hai bi kịch nối tiếp nhau. Trước hết là bi kịch tha hóa từ một người lương thiện trở thành kẻ bất lương, thậm chí thành quỷ dữ. Tiếp nối là bi kịch bị từ chối làm người lương thiện. Đoạn mô tả từ buổi tối sau khi gặp thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời thuộc bi kịch từ chối quyền làm người.
Chí Phèo nguyên là một đứa trẻ khốn khổ, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ bỏ không. Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho nhà lí Kiến. Đây là một canh điền khỏe mạnh, nhưng hiền lành như đất, không những hiền lành anh ta còn nhút nhát, chính Bá Kiến (khi đó là lí Kiến) đã tận mắt chứng kiến cảnh Chí Phèo vừa bóp đùi cho bà Ba vừa run run. Anh ta cũng có những ước mơ rất giản dị và lương thiện như trăm ngàn người nông dân khác là có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua thì mua dăm ba sào ruộng làm. Ở một xã hội bình thường, những con người như thế hoàn toàn có thể sống một cách lương thiện và yên ổn. Nhưng chỉ vì ghen tuông vu vơ, bá Kiến đã nhẫn tâm đẩy người thanh niên hiền lành, chất phác ấy vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào, sau 7- 8 năm đã biến một nông dân hiền lành, khỏe mạnh, lương thiện và tự trọng thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Từ đây, Chí Phèo bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Chí Phèo đã bị cướp mất hình hài của con người: Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm… Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ… Không những thế tính cách Chí cũng khác hẳn khi xưa. Chí không còn là một anh canh điền ngày xưa mà bây giờ Chí là một thằng liều mạng. Hắn có thể làm tất cả mọi việc như một thằng đầu bò chính cống: kêu làng, rạch mặt ăn vạ, đập phá, đâm chém…
Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Dưới ngòi bút sắc sảo của chủ nghĩa hiện thực, quá trình thức tỉnh lương tâm, nhân tính của một con người bị tha hóa, lầm lạc đã diễn ra không hề đơn giản, một chiều, dễ dãi mà do hoàn cảnh khá đặt biệt. Trong một lần say rượu không bình thường đã vô tình đưa Chí Phèo đến gặp thị Nở - một người đàn bà xấu xí và quá lứa lỡ thì. Lần say rượu đặc biệt ấy cùng với trận ốm thập tử nhất sinh đã khiến Chí Phèo có những biến đổi mạnh mẽ về cả tâm lí lẫn sinh lí. Thêm nữa, chút tình thương yêu mộc mạc, cử chỉ giản dị chân thành của thị Nở đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn sót lại nơi đáy sâu tâm hồn Chí, đánh thức bản chất lương thiện vốn có bên trong con người lầm lạc. Lúc đầu, thị chỉ hấp dẫn Chí vì đơn giản thị là đàn bà, còn Chí là thằng đàn ông say rượu. Hai người ân ái với nhau thế rồi nửa đêm Chí Phèo đau bụng nôn mửa. Thị Nở dìu Chí Phèo vào nhà và đi nhặt nhạnh tất cả những manh chiếu rách đắp cho hắn. Sáng hôm sau, Chí Phèo tỉnh dậy khitrời đã sáng từ lâu. Và kể từ khi mãn hạn tù trở về đây là lần đầu tiên con quỷ dữ của làng Vũ Đại hết say và hoàn toàn tỉnh táo. Chí thấy miệng đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ buồn. Lâu lắm hắn mới cảm nhận cuộc sống đời thường với những cảnh sắc, âm thanh bình dị: tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót…Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy, vì chỉ đến hôm nay hắn mới hoàn toàn tỉnh táo, các giác quan mới hoạt động bình thường. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo… Khi tỉnh táo, Chí Phèo nhìn lại cuộc đời của mình cả trong quá khứ, hiện tại, tương lai. Trước hết, hắn nhớ lại những ngày rất xa xôi hắn mơ ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua năm sào ruộng làm. Mơ ước của Hắn thật nhỏ bé và giản dị nhưng suốt ba năm qua nó vẫn chưa trở thành hiện thực. Thì ra, những ước mơ tốt đẹp của Chí Phèo không hề bị mất đi mà nó chỉ chìm sâu vào một góc tăm tối nào đó của tâm hồn Chí. Hiện tại của hắn thật đáng buồn. Buồn vì Chí Phèo thấy mình đã già đã sang cái dốc bên kia cuộc đời, có thể đã hư hỏng nhiều thế mà hắn vẫn đang cô độc. Tương lai của hắn lại đáng buồn hơn, bởi hắn có quá nhiều sự bất hạnh đói rét ốm đau và cô độc. Đối với Chí, cô độc còn đáng sợ hơn nhiều đói rét và ốm đau. Từ khi đi tù về, Chí bao giờ cũng say, say vô tận. Giờ đây lần đầu tiên hắn tỉnh táo suy nghĩ nhận thấy tình trạng bi đát, tuyệt vọng của cuộc đời mình.
Đúng lúc Chí đang vẩn vơ nghĩ mãi thì thị Nở mang một nồi cháo hành còn nóng nguyên vào. Việc làm này của thị Nở đã khiến Chí rất ngạc nhiên và xúc động đến mức trào nước mắt bởi vì đây là lần đầu tên trong đời hắn được một người đàn bà cho. Hắn thấy cháo hành của thị Nở không như bát cháo hành bình thường mà trong đó còn hàm chứa tình yêu thương chân thành của thị dành cho hắn. Và như vậy, cũng có nghĩa hàm chứa cả hạnh phúc lứa đôi mà lần đầu tiên Chí cảm nhận được. Còn đối với thị Nở, đây là bát cháo hành tình nguyện, bát cháo hành đem cho, đem tặng, bát cháo hành tình yêu, mở đầu cho hạnh phúc gia đình. Một mặt, bát cháo hành thể hiện tình cảm chan chứa nhân đạo của nhà văn. Mặt khác, nó cũng thể hiện tài năng nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao. Nếu như ban đầu, người đàn bà xấu xí, quá lứa lỡ thì, lại dở hơi ấy chỉ khơi lại cái bản năng ở Chí Phèo thì sau đó điều kì diệu đã xảy ra, sự săn sóc đầy ân tình và yêu thương mộc mạc của thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện tiềm ẩn trong con người Chí Phèo. Bát cháo hành của thị Nở là món quà quý giá nhất mà lần đầu tiên Chí cảm hận được trong đời mình. Hắn ăn và nhận thấy rằng cháo hành rất ngon. Hương vị cháo hành hay hưong vị của tình yêu thương chân thành cảm động, của hạnh phúc giản dị mà có thật , lần đầu tiên đến với Chí Phèo?
Khi ăn bát cháo hành, Chí Phèo trở lại là anh canh điền ngày xưa và thấm thía nỗi đau của con người biết tự trọng khi bị vợ Bá Kiến sai làm những việc nhục nhã. Điều này chứng tỏ một lần nữa Chí Phèo có bản tính tốt lành, nhưng cái bản tính này trước đây bị lấp đi đến nay mới có cơ hội được thể hiện, bởi vì Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện có bản tính tốt đẹp. Mặc dù bị xã hội tàn ác - đại diện là bá Kiến và nhà tù thực dân dẫu có ra sức hủy diệt bản tính ấy nhưng nó vẫn âm thầm sống trong đáy sâu tâm hồn Chí Phèo, ngay cả khi nhân vật này tưởng chừng đã biến thành quỷ dữ. Khi gặp thị Nở và cảm nhận được tình yêu mộc mạc chân thành của thị trong lúc yếu đuối và cô đơn, lại trong hoàn cảnh vừa qua một trận ốm thì bản chất ấy có cơ hội hồi sinh và nó đã hồi sinh. Từ đây, Chí sống đúng với con người thật của mình: khao khát tình thương và muốn trở thành những người lương thiện.
Con đường trở lại làm người lương thiện vừa mở ra trước mắt Chí Phèo đã bị đóng sầm lại. Sự mong ước được sống hiền lương của Chí Phèo một lần nữa lại không thành sự thật. Thị Nở không thể giúp gì thêm cho hắn, bởi lẽ bà cô thị kiên quyết ngăn cản mối tình này. Bà không thể đồng ý cho cháu bà đâm đầu đi lấy thằng Chí Phèo - con quỷ dữ của làng Vũ Đại, bấy lâu nay chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ, hắn mãi mãi chỉ là con quỷ dữ, không bao giờ có thể làm người. Cách nhìn nhận của bà cô thị cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí. Tất cả quen coi anh là quỷ dữmất rồi. Nên hôm nay lương tri anh thức tỉnh, linh hồn người của anh đã trở về nhưng nào có ai nhận ra? Cho nên Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần vô cùng đau đớn - bi kịch bị cự tuyệt làm người lương thiện. Các hy vọng được sống với thị Nở, sâu xa hơn là hy vọng được quay về với cuộc đời lương thiện như một đóm lửa vừa mới được nhóm lên thì đã bị ngay một gáo nước lạnh dội vào cho tắt ngấm. Mặc dù, khi nghe những lời bà cô mắng thì thị Nở thấy lộn rột nhưng cũng phải nghe theo. Và thị đã giận dữ nói lại với Chí Phèo tất cả những lời của bà cô. Điều này khiến Chí ngẩn người vì thất vọng nhưng nhưng này có lẽ hắn chưa tuyệt vọng vì lúc đó hắn lại như hít thấy hơi cháo hành. Chí ngẩn người ra vì cay đắng, chua xót trước một sự thật phũ phàng: mọi người đã cự tuyệt, không chấp nhận, dứt khoát không con hắn là một con người. Mùi cháo hành vẫn thoang thoảng đâu đây khiến hắn lại càng thêm đau xót, thấm thía. Hắn thấy rõ mọi con đường đều đang đóng chặt trước mặt hắn. Khi thị ra về, hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay nhưng thị gạt ra. Điều đó chứng tỏ Chí luôn luôn khao khát tình yêu, thiết tha đến với thị Nở, đến với cuộc đời lương thiện. Từ đây, Chí đã thấm thía sâu sắc bi kịch của con người sinh ra làm người nhưng không được làm người. Chí vật vả, đau đớn và tuyệt vọng. Thật là lạ khi thấy Chí ôm mặt khóc rưng rức. Những giọt nước mắt đau đớn, hối hận nhưng đã quá muộn màng. Không còn cách nào khác, Chí lại tìm đến rượu. Nhưng vì ý thức đã trở về, lần uống rượu này của Chí khác biết bao nhiêu lần uống rượu trước. Hắn càng uống lại càng tỉnh ra, hắn không ngửi thấy mùi rượu mà chỉ nghe thoang thoảng mùi cháo hành, càng uống càng thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận.
Trong cơn khủng hoảng và bế tắc, Chí Phèo lại càng thấm thía hơn tội ác của kẻ đã cướp đi của mình cả bộ mặt và linh hồn con người. Chí đã xách dao ra đi. Hành động muốn đi trả thù của Chí rất dữ dội, quyêt liệt khiến Chí đi đén một hành động đâm chết cả nhà nó. Nhưngnó là ai? Tiềm thức mách bảo Chí đó là bá Kiến. Trước đó, Chí không định đến nhà bá Kiến mà định đến nhà thị Nở để đâm chết thị và bà cô thị cho hả giận nhưng cuối cùng Chí lại quên đến nhà thị Nở mà đến nhà bá Kiến. Khi đến nhà bá kiến, Chí trợn mắt chỉ tay vào mặt lão, đanh thép kết tội tên cáo già này đòi làm người lương thiện,đòi một bộ mặt lành lặn. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? là câu hỏi chất chứa niềm phẫn uất, đau đớn, còn làn day dứt người đọc: làm thế nào để con người sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo, ngột ngạt , vùi dập nhân tính ấy? Thế rồi, Chí đâm chết kẻ thù. Hành động của Chí đã vượt khỏi suy nghĩ của tên địa chủ nổi tiếng khôn ngoan, gian hùng. Đây là cách hành động của người say không theo dự kiến ban đầu, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, Chí lờ mờ hiểu ra nguyên nhân sâu xa đâu phải vì thị Nở hay bà cô thị mà cái kẻ làm ra Chí như thế này chính là bá Kiến. Đến đòi quyền làm người lương thiện là phải đòi nơi lão bá, không đòi dược thì phải trả thù. Tuy làm tay sai cho bá Kiến nhưng ngọn lửa căm hờn vẫn âm ỉ cháy trong con người Chí Phèo. Khi Chí Phèo đã thức tỉnh thì hắn hiểu ra nguồn gốc bi kịch của mình nên ngọn lửa căm hờn càng bùng lên dữ dội. Do vây, Chí Phèo đâm chết bá Kiến không hẳn vì say rượu mà chính vì mối thù đã bừng cháy. Cái chết của Chí chứng tỏ Chí khao khát trở về cuộc sống lương thiện. Vì vậy cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ cái xã hội thực dân nửa phong kiến không những đẩy người dân lương thiện vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa mà còn đẩy họ vào cái chết.
Với nhân vật Chí phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng: đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Đồng thời qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã hai lần tố cáo cái xã hội thực dân phong kiến: xã hội đó cướp đi những gì Chí Phèo có và đã cướp những gì Chí Phèo muốn. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Ngoài ra, tác phẩm còn đặt ra một vấn đề nhân sinh mang tính triết lí sâu sắc: làm thế nào để con người sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo phi nhân tính đương thời. Với thành công của truyện ngắn này, Nam cao đã trở thành cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiên thực 1930 - 1945.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *