Bài giảng Vịnh khoa thi hương sẽ giúp các em nắm được các những kiến thức trọng tâm nhất của bài học, giúp cảm em cảm nhận được cảnh tình của đất nước thời bấy giờ và tâm trạng, nỗi đau của tác giả trước thời cuộc. Chúc các em có một bài giảng hay!
Thất ngôn bát cú đường luật
Phản ánh hiện thực đất nước và thể hiện tấm lòng của tác gia đối với nước nhà
Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quyét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Hãy phân tích bài thơ "Vịnh Khoa thi hương" theo cấu trúc đề - thực - luận - kết.
a. Mở bài
b. Thân bài
→ Nhà thơ như đang cười chính những người tổ chức ra kì thi ấy, ba năm một lần chỉ làm khổ những kẻ ngày đêm đèn sách để đợi chờ những kì thi ấy. Đến lúc không đỗ lại phải đợi ba năm, mà quãng thời gian ấy đâu phải là ngắn. Không những thế tổ chức lại còn xếp lẫn sĩ tử của nơi này với nơi khác một cách xáo trộn lẫn lộn không có khoa học
→ Chỉ bằng một vài từ tượng hình tượng thanh, những câu thơ hàm súc đã lột tả hết những mặt tiêu cực của thi cử và hiện trạng của đất nước lúc bấy giờ.
→ Những ông quan sứ đến những bà phu nhân đầm tha thướt đất được cung phụng như những ông chúa bà hoàng ra xem thi cử mà cứ như là đi hội
c. Kết bài
Bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương đã dựng lên bức tranh hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội bấy giờ cùng với tâm sự của nhà thơ. Để nắm được những nội dung cũng như dễ dàng trả lời được các câu hỏi trong SGK, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Vịnh khoa thi Hương.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương thể hiện sắc nét hệ thống hình tượng tác giả vừa trong tư cách cảm hứng sáng tác vừa là sự bày tỏ nỗi niềm chủ thể và như sự miêu tả về một kiểu nhân vật trữ tình khách thể, "bên ngoài mình". Ông vừa đóng vai chứng nhân, vừa là tác giả và đồng thời cũng là sĩ tử và "nhân tài" đất nước. Để dễ dàng lập được dnagf ý và viết bài văn mẫu phân tích tác phẩm này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Cảm nhận về bài thơ Vịnh Khoa thi Hương
- Phân tích bài thơ Vịnh Khoa thi Hương
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Bài thơ thuộc thể thơ thất ngôn bát cú.
Câu trả lời của bạn
Vịnh khoa thi Hương là bài thơ thuộc đề tài “thi cử” – một đề tài khá đậm nét trong sáng tác của Tú Xương. Bài thơ ghi lại cảnh “nhập trường” vừa ghi lại cảnh lễ xướng danh qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ trước hiện thực mất nước, giao thời nhốn nháo, nhố nhăng. Qua đó, tác giả vẽ nên một phần hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội thực dân nửa phong kiến buổi đầu, đồng thời nói lên tâm sự của mình trước tình cảnh đất nước.
Câu trả lời của bạn
Hai câu đề nói về sự kiện: theo lệ thường thời phong kiến cứ ba năm có một khoa thi Hương. Sự kiện tưởng như không có gì đặc biệt, chỉ có tính chất như một thông báo, một thông tin thông thường.
Câu trả lời của bạn
- Trường Nam: trường thi ở Nam Định.
- Trường Hà: trường thi ở Hà Nội.
⇒ Đây là hai trường thi Hương ở Bắc Kì thời xưa.
Câu trả lời của bạn
Nguyên nhân trường Nam thi “lẫn” với trường Hà: Thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, trường thi Hà Nội bị bãi bỏ. Từ năm Bính Tuất (1886), các sĩ tử trường Hà Nội xuống thi chung ở trường Nam Định.
Câu trả lời của bạn
- Hai câu luận sử dụng nghệ thuật đối: giữa lọng với váy, trời với đất, quan sứ với mụ đầm.
- Tác dụng: Thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm hạ nhục bọn quan lại, thực dân. Báo hiệu về một sự sa sút chất lượng thi cử, bản chất của xã hội thực dân phong kiến.
Câu trả lời của bạn
Hình ảnh “quan sứ” và “bà đầm” thể hiện sự phô trương về hình thức, không đúng nghi lễ của một kì thi.
Câu trả lời của bạn
Từ “lẫn” trong hai câu đề thể hiện sự ô hợp, hỗn tạp, thiếu nghiêm túc của kì thi này trong buổi giao thời. Đây chính là điểu bất thường của kì thi.
Câu trả lời của bạn
Ngao ngán, xót xa trước sự xa xút của đất nước. Thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường thi cử của riêng ông. Hai câu thơ như lời nhắn nhủ các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Nhà thơ hỏi người nhưng cũng chính là hỏi mình.
Câu trả lời của bạn
Hai câu luận bộc lộ rõ nét nhất giá trị châm biếm của bài thơ qua hình ảnh "quan sứ" và "bà đầm", nghệ thuật đối.
Câu trả lời của bạn
Hai câu thơ cuối thể hiện tư tưởng yêu nước, thương dân của Tú Xương, đau lòng trước cảnh nước mất nhà tan. Những câu thơ ấy người đọc thấy được sự tự vấn bản thân và những người cùng cảnh ngộ. Những nhân tài của đất nước, những bậc hào kiệt khi đất nước đang cần họ thì họ ở đâu? Và liệu rằng ai cũng nhìn ra được cảnh đau thương này của nước nhà hay vẫn tin một cách mù quáng vào chế độ cũ để rồi làm bè lũ tay sai bán nước.
Câu trả lời của bạn
- Đúng.
- Giải thích: Nếu như những câu thơ trên mạng giọng điệu trào phúng, châm biếm, mỉa mai về cảnh quan trường ô hợp thì hai câu cuối bài thơ mang giọng điệu trữ tình. Tác giả đau xót, buồn tủi trước cảnh mất nước nhưng bản thân lại không làm gì giúp ích to lớn được cho đời để thay đổi vận mệnh đất nước.
Câu trả lời của bạn
Hai câu thơ đầu giới thiệu hoàn cảnh của khoa thi:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Theo lệ thường, dưới thời phong kiến, cứ ba năm có một khoa thi Hương. Điều đó không có gì đặc biệt, song câu thơ không chỉ là lời giới thiệu. Giọng điệu hài hước thể hiện khá rõ ngay trong hai câu thơ đầu. Câu thơ như một thông báo. Khoa thi này do nhà nước tổ chức, cứ ba năm một lần thi Hương để chọn nhân tài. Đó là thông lệ. Song nó báo hiệu một cái gì khác trước. Một từ “lẫn” không chỉ giới thiệu hai trường Nam Định và Hà Nội thi chung mà báo hiệu một sự xáo trộn của việc thi cử, không còn được như trước nữa. Có nhiều hàm ý trong từ “lẫn” này. Bốn câu tiếp miêu tả rất cụ thể điểu đó.
Câu trả lời của bạn
Hai câu thực miêu tả thật hài hước cảnh trường thi:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
- Cách đảo trật tự cú pháp: “Lôi thôi sĩ tử”, “ậm oẹ quan trường” kết hợp với các từ giàu hình ảnh: lối thôi, đeo lọ cùng với những từ chỉ âm thanh: ậm oẹ, thét loa làm cho quang cảnh thi trở nên nhốn nháo, ô hợp mất đi vẻ trang nghiêm của một kì thi do quốc gia tổ chức.
Hình ảnh:
+ Sĩ tử thì lôi thôi lếch thếch mất hết vẻ nho nhã, thư sinh.
+ Quan trường không còn quyền uy, mực thước, trang trọng như trước mà như nhân vật tuồng hề “ậm oẹ, thét loa”. Người chịu trách nhiệm tổ chức kì thi và sĩ tử đi thi thật không ra thế nào.
=> Cảnh trường thi phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho.
Câu trả lời của bạn
- Sự có mặt của vợ chồng quan sứ đáng lẽ sẽ làm cho quang cảnh trường thi trang nghiêm hơn. Song trái lại, sự hiện diện của chính quyền thực dân lúc này càng tâng thêm sự chua chát. Quyết định số phận của của các sĩ tử là một kẻ ngoại bang không biết gì về Nho học. Nơi cửa Khổng sân Trình là nơi mặc sức, tự nhiên lê váy của mụ đầm. “Váy lê quét đất” đối với “Lọng cắm rợp trời” (còn làm nhục quốc thể) chao ôi thật chua chát. So với bài thơ khác “Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt - Dưới sân ông cử ngẩng đầu rồng” thì sự nhục nhã ấy chỉ là một.
- Nghệ thuật đối: Lọng >< váy, trời >< đất, quan sứ >< mụ đầm → Thái độ mỉa mai, châm biếm hạ nhục bọn quan lại, thực dân.
=> Bốn câu thơ vạch trần sự nhếch nhác, tuỳ tiện của khoa cử lúc bấy giờ. Đồng thời ngầm thể hiện nỗi xót xa chua chát của nhà thơ và người đọc.
Câu trả lời của bạn
- Hai câu kết là một câu hỏi. Nhà thơ hỏi “Nhân tài đất Bắc” tức là hỏi tầng lớp trí thức. Đó là những sĩ tử đang chăm chăm chạy theo danh vọng. Ông hỏi mà như thức tỉnh họ về nỗi nhục mất nước. Kẻ thù ngoại bang nếu vẫn có mặt ở lễ xướng danh này thì dẫu có đậu tiến sĩ ra làm quan cũng là thân phận tay sai mà thôi. Đường công danh còn có ý nghĩa gì? Hai tiếng “ngoảnh cổ” bộc lộ thái độ vừa mạnh mẽ vừa thể hiện một nỗi tủi nhục. Nhà thơ hỏi người cũng chính là hỏi mình. Giọng thơ dù đay nghiến mà vẫn có cái gì xa xót đến rưng rưng.
- Cảnh trường thi nhốn nháo, nhố nhăng làm bật lên tiếng cười chua chát về tình cảnh đất nước mất chủ quyền. Đây cũng là mâu thuẫn nội tại lúc bấy giờ không thể điều hoà được giữa kẻ sĩ muốn thi thố tài năng với đời với thực tế phi nghĩa của khoa cử học vấn.
Câu trả lời của bạn
Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Câu trả lời của bạn
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Mở bài
- Giới thiệu về bài thơ
Thân bài
- Nội dung bài thơ: Bức tranh một kì thi Hương cuối triều Nguyễn với sự lố lăng, nhốn nháo, ô hợp với sự giám sát của bọn thực dân Pháp.
- Hai câu đầu: Giới thiệu về trường thi
- Hai câu thực:
+ Khung cảnh trường thi:
⇒ Đảo lên đầu câu để nhấn mạnh hình ảnh đám sĩ tử
+ "Quan trường": Những vị quan coi thi:
⇒ Đám quan lại mất đi cái phong thái tôn kính, trang nghiêm của kẻ làm quan
⇒ Hai câu thơ đối song song, cho thấy khung cảnh của trường thi thật hỗn tạp giống tình cảnh của đất nước lúc bấy giờ.
- Hai câu tiếp: Cảnh đón rước quan sứ và phu nhân
⇒ Tiếng cười sâu cay, cười trên nước mắt với nỗi đau mất nước.
- Hai câu cuối: Lời kêu gọi tới những kẻ sĩ:
⇒ Nỗi đau xót trước cảnh nước mất nhà tan của Tú Xương, tuy không quyết liệt nhưng cũng bộc lộ nỗi lòng của ông trước tình cảnh của đất nước.
- Kết luận chung:
Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp của bài thơ.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *