Học 247 mời các em tham khảo bài soạn Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học để chuẩn bị cho bài kiểm tra được tốt hơn. Hi vọng bài giảng sẽ giúp các em nắm những kiến thức và kĩ năng cần thiết, giúp các em đạt được điểm cao với bài viết này.
Đề 1: Người xưa có câu: "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều". Anh (chị) hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên
Đề 2: Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao
Đề 3: Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
Đề 4: Cảm nhận của anh chị về cảm hứng thiên nhiên của Thạch Lam qua truyện ngắn Hai đứa trẻ
Đề 5: Cảm nhận của anh (chị) về đoạn văn miêu tả "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có" ở cuối truyện?
Đề 4:
Đề 5:
Đề: Bi kịch lớn nhất của Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao
Gợi ý làm bài
Để nắm vững được kiến thức của bài học, các em có thể tham khảo thêm bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Dẫn dắt vấn đề
Thân bài
a) Trước khi đi ở tù
- Người nông dân lương thiện:
+ Sinh ra tội nghiệp, không cha không mẹ, sống và làm thuê cho nhiều người.
+ Lớn lên làm canh điền cho Bá Kiến.
+ Hiền lành, từng “ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải..”
=> Con người lao động nghèo khổ đáng thương, hiền lành.
- Khi bóp chân cho bà Ba: Thấy nhục chứ yêu đương gì, run run sợ hãi, uất ức chịu đựng.
=> Con người luôn ý thức được nhân phẩm, có lòng tự trọng và nhẫn nhịn trong thân phận tôi đòi, đáng thương.
b) Khi ở tù về: thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính
* Mối quan hệ giữa bá Kiến - Chí Phèo:
- Chí là người nông dân hiền lành, lương thiện đã bị bá Kiến hãm hại đẩy vào tù, sau khi ở tù ra Chí hoàn toàn thay đổi cả về ngoại hình lẫn nhân tính.
+ Ngoại hình: “Cái đầu ….gớm chết”, trên mặt thì đầy những nét lằn ngang lằn dọc (kết quả của những lần rạch mặt ăn vạ).
+ Nhân tính: Hắn vừa đi vừa chửi, về hôm trước hôm sau lại ra chợ uống rượu với thịt chó từ sáng sớm đến chiều tối, sống triền miên trong vô thức từ cơn say này đến cơn say khác, làm tay sai đắc lực cho bá Kiến và trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại => Chí đã bị vứt bên lề cuộc sống.
- Chí Phèo 3 lần đến nhà bá Kiến, lần nào cũng mang theo hung khí (vỏ chai hoặc con dao) => Bá Kiến là nguyên nhân của sự tha hoá, nỗi đau bị từ chối quyền làm người và bi kịch của Chí.
* Mối quan hệ Thị Nở và Chí Phèo: Là quan hệ trực tiếp thể hiện phần nhân tính chìm khuất cũng như bi kịch bị từ chối quyền làm người của Chí.
- Sự xuất hiện của Thị Nở có một ý nghĩa khá đặc biệt trong việc thể hiện số phận, tính cách nhân vật Chí.
+ Dưới mắt người dân làng Vũ Đại, thị Nở nghèo, xấu, dở hơi, là dòng dõi của nhà “có ma hủi”. Nhưng với Chí thì thị Nở là người “có duyên”. Bởi vì thị không chỉ là người mà còn là ước mơ hạnh phúc của Chí, thị đã giúp Chí phát hiện lại chính mình.
+ Nhưng thị cũng là nỗi đau sâu thẳm của Chí. Nghèo xấu, dở hơi…thế mà Chí vẫn không “xứng đôi” với thị => Tô đậm cái bi đát, hẩm hiu trong số phận Chí.
* Việc gặp Thị Nở như một bước ngoặc trong cuộc đời Chí. Tình yêu của Thị Nở dành cho Chí đã thức tỉnh linh hồn của Chí, kéo Chí từ thú vật trở lại làm người
- Chí có sự thay đổi về tâm lí:
+ Hắn thấy hằn già mà vẫn cô độc.
+ Đói rét, bệnh tật hắn có thể chịu được nhưng hắn sợ nhất là sự cô độc.
- Chí cảm nhận được âm vang cuộc sống chung quanh mình:
+ Tiếng chim hót trong lành buổi sáng.
+ Tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá ven sông.
+ Tiếng người cười nói đi chợ về.
- Chí hồi tưởng về quá khứ và hi vọng trong tương lai.
+ Có một thời hắn mơ ước có cuộc sống gia đình “Chồng cày thuê…làm”.
+ Thị sẽ mở đường cho Chí trở lại cuộc sống lương thiện.
* Khi bị thị Nở dứt tình thì tâm trạng của Chí có nhiều thay đổi: Chí ngạc nhiên sau đó Chí chợt hiểu. Quá trình diễn biến tâm lí đầy phức tạp: thức tỉnh – hi vọng – thất vọng, đau đớn – phẫn uất – tuyệt vọng.
+ Chí thức tỉnh và muốn làm người lương thiện. Chí không thể đập phá, rạch mặt ăn vạ được nữa.
+ Nhưng ai cho Chí lương thiện.
+ Kẻ thù của Chí không phải một mình bá Kiến mà là cả xã hội đương thời thối nát và độc ác.
+ Dưới con mắt của mọi người, của xã hội ấy, Chí Phèo chỉ có thể là con quỷ dữ không thể là người. Vì thế một người tập trung tất cả cái xấu như thị Nở đã phũ phàng cự tuyệt chí.
+ Chí vô cùng đau đớn tuyệt vọng “ôm mặt khóc rưng rức”. Chí dùng dao đâm chết kẻ thù và tự sát. Chí đã chết trên ngưỡng cửa lương thiện => Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Kết bài:
- Khái quát lại vấn đề cần nghị luận.
Câu trả lời của bạn
Mở bài:
- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
Thân bài:
* Giải thích câu nói:
- Ý câu nói khuyên người phụ nữ thời xưa không nên học theo Thúy Kiều bởi nàng dám vượt qua những chuẩn mực của lễ giáo phong kiến.
=> Khẳng định: Đây là ý kiến sai lầm, bảo thủ, phiến diện
* Phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ
- Đây là một quan niệm sai lầm, bảo thủ, chỉ nhìn nhận và đánh giá Thúy Kiều một cách phiến diện. Lấy đạo đức nho giáo cứng nhắc để đánh giá phẩm chất của một người con gái.
- Thúy Kiều vừa đáng thương vừa mang những vẻ đẹp phấm chất đáng trân trọng.
+ Trong tình yêu: Chủ động đi tìm tình yêu, tìm người yêu. Đối với người yêu, nàng tỏ ra đoan trang, đúng mực.
+ Trong quan hệ với cha mẹ: Nàng là người con hiếu thảo, dám hi sinh tình yêu để giữ trọ đạo hiếu làm con.
+ Trong nghịch cảnh: nàng luôn tìm cách thoát khỏi cuộc sống tủi nhục chốn lầu xanh
+ Kết thúc quãng đời mười năm lăm lưu lạc, Thúy Kiều đoàn tụ với gia đình, gặp lại Kim Trọng. Nàng đã "Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ", đổi tình yêu thành tri kì với Kim Trọng.
=> Truyện Kiều là một kiệt tác của dân tộc với những giá trị lớn lao, sâu sắc, chúng ra cần có thái độ khách quan và đúng đắn.
Kết bài:
- Khẳng định câu nói trên là quan điểm sai lầm.
- Mở rộng vấn đề
Câu trả lời của bạn
Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Đưa ra vấn đề cần nghị luận
Thân bài:
- Hoàn cảnh ra đời tác phẩm
- Giới thiệu về nhân vật Huấn Cao:
+ Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao
* Vẻ đẹp tài hoa:
* Vẻ đẹp khí phách
* Vẻ đẹp thiên lương
- Những câu nói của Huấn Cao với viên quản ngục: ( thông qua cảnh cho chữ)
+ Ông đã thể hiện được rõ quan điểm của mình trước những con người biết quý cái đẹp, mong ước thực hiện và thể hiện được cái đẹp chân chính.
+ Lời khuyên với quản ngục: Ở đây lẫn lộn…mất cái đời lương thiện đi -> Lời khuyên khuyến khích con người hướng thiện. Ông có tấm lòng thiên lương trong sáng, biết yêu quý và có những lời khen, khuyên với Viên Quản Ngục.
=> Rút ra nhận xét: Thái độ của Huấn Cao ở hai giai đoạn tuy khác nhau, nhưng hợp lí, hợp hoàn cảnh, làm nổi bật nhân cách Huấn Cao: Một con người vừa cao ngạo, bất khuất vừa tài hoa, chân tình, biết trân trọng những tấm lòng tốt trong thiên hạ, biết đề cao thiên lương đẹp đẽ của con người.
Kết luận:
- Khái quát lại vấn đề
- Mở rộng, liên hệ.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Phong trào Thơ Mới là sự bùng nổ của những cái tôi cá nhân. Mỗi người một phong cách, một dáng vẻ làm phong phú thêm khu vườn thơ ca hiện đại. Trong khu vườn đấy ta không thể không nhắc đến Hàn Mặc Tử một cái tôi đầy cô đơn, u uất, hoài niệm, một cái tôi đau đớn khắc khoải và tha thiết yêu cuộc sống. Cái tôi ấy đã được thể hiện một cách đầy đủ nhất trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.
Trước hết, về cái tôi trong phong trào Thơ Mới. Thơ Mới là một cuộc cách tân lớn của thơ ca Việt Nam, từ cái tôi giấu kín, rụt rè đã xuất hiện những cái tôi bừng phá mạnh mẽ, họ - những lớp nhà thơ trẻ tuổi thể hiện một cách mạnh mẽ cái tôi của chính mình, làm nên những diện mạo riêng biệt. Đúng như hoài thanh đã nhận xét: "Tôi quyết rằng chưa có thời đại nào phong phú như thời đại này trong lịch sử thi ca Việt Nam. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu". Họ dám lên tiếng, dám thể hiện cá tính của mình, họ dám nổi loạn và không sợ những sự chì chiết của đám đông. Có ai như Xuân Diệu dám bày tỏ: "Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất/ Không có chi bè bạn nổi cùng ta" hay "Tình chỉ đẹp khi còn dang dở/ Đời mất vui khi đã vẹn câu thề" (Hồ Dzếnh). Cái tôi có cơ hội được bộc lộ khiến cho màu sắc văn học trở nên đa dạng, phong phú hơn. Hàn Mạc Tử cũng là một cái tôi đầy cá tính, khác lạ trong phong trào Thơ Mới, vừa tha thiết, vừa u uất, sầu muộn.
Đây thôn Vĩ Dạ trước hết thể hiện một cái tôi say đắm trước thiên nhiên, vẻ đẹp cuộc sống. Bài thơ mở đầu bằng câu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ, vừa mời gọi mà cũng vô cùng tha thiết, giọng điệu đâu đó còn ẩn chứa sự trách cứ nhẹ nhàng. Bằng con mắt của hiện tại, ngược về quá khứ, nhưng Hàn Mặc Tử đã khắc họa lại bức tranh thôn Vĩ hay thiên nhiên xứ Huế vô cùng đẹp đẽ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Bức tranh thôn quê hiện lên rực rỡ, lung linh, tràn đầy nhựa sống. Mọi thứ đều ở trạng thái nguyên sơ, tinh khôi nhất. Nắng là thứ nắng mới, khi nắng vừa xuất hiện, không quá gay gắt, nắng như mật non, tưới xuống hàng cau thẳng tắp, khiến mọi vật trở nên ngọt ngào khi được tắm mình trong thứ nắng mới. Trong không gian tràn đầy ánh sáng, khu vườn như viên ngọc khổng lồ xuất hiện. Những giọt sương long lanh, nhỏ bé, khi được ánh nắng chiếu vào tựa như một viên ngọc xanh, lung linh, huyền ảo. Để làm rõ hơn vẻ đẹp của khu vườn tác giả sử dụng từ "mướt" kết hợp với từ "quá" nhấn mạnh vào cái tươi non, mỡ màng của cảnh vật. Điểm vào bức tranh đó là khuôn mặt chữ điền đậm chất Huế. Gương mặt ấy hài hòa với khung cảnh xung quanh đến kì lạ, làm cho cảnh đã đẹp lại càng trở nên thân mật, gần gũi hơn. Khung cảnh tươi đẹp đó là biểu tượng của cuộc sống trần gian rực rỡ, tràn đầy nhựa sống. Mặc dù chỉ là cái nhìn từ hiện tại ngược về quá khứ nhưng lại chân thực vô cùng, nó cho thấy niềm say mê, thích thú của Hàn Mạc Tử với không gian sống nơi đây. Ông thiết tha, say đắm, một tình yêu sâu nặng với con người, với cuộc đời.
Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, bài thơ còn cho ta thấy một cái tôi cô đơn, đau đớn đến tuyệt vọng:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Mọi sự vật trong bức tranh đều chia lìa đôi ngả: gió đi theo một hưởng, mây đi theo một hướng. Hai sự vật này trong thiên nhiên vốn luôn gắn bó với nhau, vậy mà dưới con mắt của Mặc Tử mọi sự vật đều bị chia lìa, tan tác. Ông đã dùng đôi mắt tâm trạng để nhìn ngắm cuộc đời. Bởi vậy mà khung cảnh cũng tắm trong nỗi buồn "dòng nước buồn thiu", nhịp điệu tẻ nhạt, nhàm chán "hoa bắp lay". Nỗi cô đơn, tuyệt vọng đẩy lên thêm một mức độ mới. Những hình ảnh đó cũng chính là biểu tượng cho cuộc đời ông. Tuổi đời con trẻ, trong lòng hừng hực khát vọng sống nhưng lại mắc phải căn bệnh tai ác, khiến ông phải chia lìa mọi người, chia xa cuộc sống đầy háo hức, vui tươi. Đây chẳng phải là bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời con người đó sao. Vì cô đơn, vì bất hạnh ông tìm đến trăng như một cách để trải lòng, để vơi bớt nỗi buồn, trăng trở thành tri kỉ. Nhưng lòng ông lại đầy lo lắng liệu trăng có kịp về tối nay. Tối nay là tối nào, không ai có thể xác định, nhưng đó quả là khoảng thời gian ngắn ngủi trong một đời người, qua tối nay cơ hội với cuộc sống ngoài kia sẽ vuột tầm tay ông mãi mãi. Bởi vậy mà ông rơi vào trạng thái cô đơn, tuyệt vọng tuyệt đối.
Cuối cùng đó là một cái tôi hoài nghi. Từ đầu đến cuối bài thơ, ở mỗi khổ ta đều thấy xuất hiện một câu hỏi tu từ:
"Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"
"Có chở trăng về kịp tối nay"
"Ai biết tình ai có đậm đà"
Nó không chỉ cho thấy sự cô đơn, mà còn là cả sự hoài nghi với cuộc đời. Nỗi hoài nghi ấy xuất phát từ chính thế giới mà ông đang sống, tất cả mọi thứ đều trở nên nhạt nhòa, hư ảo: "Mơ khách đường xa, khách đường xa/ Áo em trắng quá nhìn không ra/ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh". Lằn ranh giữa thực và hư, giữa hữu và vô dường như không thể phân biệt rõ được nữa, mọi thứ như nhòe mờ, nhập vào nhau, thật khó để xác định nắm bắt. Cũng bởi vậy mà trong lòng ông dâng lên nỗi hoài nghi về tình người, liệu trong một thế giới mà mọi vật đều hư ảo, có mà như không như vậy liệu tình người có đậm đà, liệu người còn nhớ ta, còn thương ta sau một khoảng thời gian cách biệt. Qua đó, bộc lộ rõ khao khát, tình yêu cuộc sống tha thiết, mãnh liệt của ông.
Đây thôn Vĩ Dạ thể hiện một cái tôi đầy phức tạp và bí ẩn. Hàn Mặc Tử vừa khao khát, tin yêu cuộc sống, vừa hoài nghi băn khoăn về tình người, tình đời. Nó cho thấy sự cô đơn, u uất đến cùng cực trong lòng một kẻ khao khát yêu, khao khát sống nhưng vấp phải bi kịch cuộc đời.
Trong phong trào Thơ mới ở đâu thế kỉ XX có một nhà thơ “như ngôi sao trổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình” đó chính là Hàn Mặc Tử. Ông là thi nhân trẻ nhất cũng là người bỏ đi đầu tiên. Thơ của Hàn Mặc Tử là tuyệt bút của sự kết tinh giữa tài năng, tình yêu và nỗi đau khổ. Một trong những bài thơ hay của ông được mọi người yêu thích là tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” với một cái tôi trữ tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời tha thiết nhưng mang đậm nỗi buồn của sự chia ly.
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng số phận cuộc đời ông lại cay đắng nhiều đau thương khi mắc phải bệnh phong đáng sợ trong điều kiện lúc đó chưa có thuốc chữa. Anh ra đi ở những năm tháng của thanh xuân tuổi trẻ khi mới 28 mùa xuân nhưng để lại cho đời những áng văn thơ đặc sắc. Có lẽ đúng như nhà thơ Hồng Thanh Quang đã từng nói: “Khi mọi sự bất lực thì thơ xuất hiện”. Khi con người ta tận cùng hạnh phúc và tột cùng đau thương thì cái tinh túy nhất của tâm hồn là thơ ca. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là sự tinh túy đó, ông sáng tác khi đang buồn đau cho mối tình đơn phương của bản thân, trở về Quy Nhơn thì biết người thương đã theo gia đình về Huế sống. Một thời gian sâu thì Hoàng Cúc_người con gái Hàn Mặc Tử yêu thầm khi nhận thư của anh họ là bạn của thi sĩ đã gửi “bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái danh thiếp. Trong ảnh có mây, có nước, có cô gái chèo đò với chiếc đò ngang, có mấy khóm tre, có cả ánh trắng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước.” gửi cho Hàn Mặc Tử không lâu sau bài thơ ra đời. Chính tấm bưu ảnh trực tiếp sự khơi gợi cảm xúc cùng với mối tình thầm kín của Hàn Mặc Tử đã viết nên một thi phẩm giàu cảm xúc, giàu hình ảnh mộng mơ và thẫm đẫm nỗi buồn man mác trong tâm hồn thi nhân.
Dưới cái nhìn trữ tình lãng mạn của đôi mắt nhà thơ mới thiên nhiên thôn Vĩ Dạ hiện lên thật tươi đẹp giàu sức sống với câu mở đầu là lời thơ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” như vừa trách móc nhẹ nhàng, vừa là lời mời của cô gái cũng là tiếng lòng thi nhân. Thiên nhiên hiện lên là một bức tranh buổi sáng sớm với nắng mới soi rọi trên hàng cau trong một khu vườn mênh mông mướt xanh như ngọc, thấp thoáng phía xa xa là bóng dáng của ai “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Đó là một bức tranh tuyệt mĩ mà tạo hóa ban tặng cho cuộc sống con người dường như thi sĩ đang đi từ ta ngoài vào bên trong khu vườn để tận hưởng món quà trần gian với một niềm vui, sự thích thú, say mê tột cùng. Qua đó cho ta thấy tâm hồn của cái tôi Hàn Mặc Tử yêu đắm say thiên nhiên, yêu cuộc đời và sự sống biết bao.
Cái tôi của Hàn trong bài thơ còn là cái tôi đau đớn, tuyệt vọng với những dự cảm chia li, cách biệt trong cuộc đời. Vì mắc phải căn bệnh quái quỷ hủy hoại thân xác thi nhân nên ông luôn phải sống trong trại phong cách li với mọi người thân yêu xung quanh nên trong bài thơ dưới cái nhìn của ông thiên nhiên cũng đầy cách trở li biệt và cô đơn:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Gió, mây là cặp hiện tượng tự nhiên vốn được song hành cùng với nhau gió ở đâu mây theo đó, gió thổi thì mây bay nhưng trong mắt của thi nhân thì ngược lại gió, mây mỗi nơi một hướng, ngược chiều nhau. Trên trời thì mây gió li biệt, dưới dòng nước thì buồn thiu có hoa bắp lay nhẹ nhàng hô ứng với tốc độ chảy chậm chạp của nước. Tác giả đã sử dụng biệt pháp nhân hóa khiến cho dòng nước cũng có cảm xúc, cũng biết buồn thiu. Nỗi buồn ấy bắt nguồn từ sự cô đơn, buồn tủi của nhà thơ bởi “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cô đơn quá nên nhà thơ đành phải tìm đến anh trăng để làm bạn. ta đã từng bắt gặp ánh “Trăng nằm sóng soài trên cành liễu/Đợi gió đông về để lả lơi” (Bẽn lẽn) hay “Trăng bay lả tả ngã trên cành vàng” (Rượt trăng), hay một ánh “Trăng vàng ôm bờ ao” (Ngủ với trăng) nhưng trong “Đây thôn Vĩ Dạ” đó là sự tan chảy của ánh trăng đêm trên bề mặt làm cho dòng nước tắm trong ánh trăng hóa thành dòng sông trăng lung linh, mờ ảo. Trên con sông trăng ấy có con thuyền cô đơn đậu đó. Thuyền đi “Có chở trăng về cho kịp tối nay?” Từ “kịp” khiến ta có cảm giác đêm nay thật ngắn ngủi và đó như là một cuộc chạy đua với thời gian cuộc đời ẩn đằng sau đó là nỗi cô đơn khắc khoải và buồn đau, tuyệt vọng của thi sĩ. Bến trăng, sông trăng, thuyền trăng chỉ là những hình ảnh mà nhà thơ tưởng tượng ra để thể hiện tâm trạng tiếc nuối cho mối tình dang dở, yêu tha thiết sự sống và vẻ đẹp cuộc đời bởi kẻ thù bệnh tật đang dần cướp đi sự sống cuộc đời anh. Nó là cán cân số mệnh đặt nghiêng trọng lượng về bên anh để cho anh càng yêu cuộc sống càng muốn níu giữ “…ghì lấy đám mây bay…”, “…Đi bắt nắng ngừng, nắng reo nắng cháy…”, càng tuyệt vọng “…Tôi dọa không gian, rủa tới cùng” rồi “..Tôi siết thời gian trong nắm tay…” và “…Tôi vo tiếc mến như vo lụa…” còn gì “Khó khăn hơn cả là yêu cuộc sống với những nỗi đau khổ của mình”.
Không chỉ vậy cái tôi trữ tình của Hàn Mặc Tử là một cái tôi hoài nghi bởi khung cảnh sự vật và con người trong thơ ông đều rất mơ hồ, khó xác định.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ? ”
Khổ thơ là tâm trạng bâng khuâng, xót xa của một tâm hồn khao khát được sống được yêu và yêu say đắm với người con gái xứ Huế mang tên một loài hoa. Nhà thơ sử dụng hai điệp ngữ “khách đường xa” trong một câu thơ với hai nét nghĩa khác nhau. “Lần đầu là khát vọng mơ gặp khách đường xa, lần sau là thực tại càng muốn mơ thấy người khách thì lại thấy đường càng xa. Nét đặc sắc thơ Hàn không tả mà chỉ gợi bởi “Áo em trắng quá nhìn không ra” cái sắc trắng ấy là màu trắng tinh khôi, tinh khiết, nhà thơ cực tả sắc trắng một cách kì lạ, bất ngờ nên khiến cho “em” chìm vào cõi ảo, khiến cho thế giới trở nên hư hư thực thực khó xác định. Và càng khó đoán, khó biết, khó hiểu hơn và tình cảm con người. Nhà thơ băn khoăn làm sao để biết được tình cảm của người xứ Huế nơi xa có đậm đà không hay như là sương khói mù mịt rồi tan đi. Làm sao để cô gái ấy biết được tình cảm nhớ thương da diết của mình dành cho nàng. Câu hỏi cuối bài thể hiện nỗi cô đơn, trống vắng, đau đớn của một tâm hồn thơ tài năng mà hoàn cảnh, số phận nhuốm màu bi thương.
Chỉ với những câu thơ rất nhẹ nhàng, thuần khiết trong sáng đã đặc tả được cái tôi trữ tình yêu tha thiết thiên nhiên và cuộc sống, nhưng mang một nỗi buồn của những dự cảm chia li, tuyệt vọng và hoài nghi trong ảo ảnh. Hơn bảy mươi năm Tử đi vào cõi vĩnh hằng nhưng thơ ca ông vẫn đang đồng hành cùng văn chương Việt vẫn được ngâm lên, được đọc lên hay âm thầm đâu đó vẫn có những tâm hồn đồng điệu của con người yêu mến thơ anh. Bài thơ “Đây thôn Vĩ dạ” với cái tôi trữ tình riêng biệt của thi nhân đã được đánh giá là bài thơ “trong sáng nhất” của nền thi ca Việt Nam với bài thơ “Mùa xuân chín”.
Câu trả lời của bạn
Ánh sáng kì diệu của Đảng đã soi sáng bước đường cách mạng của dân tộc. Cũng từ khi có lý tưởng Đảng mà đất nước ta bước sang một trang mới, nhân dân có thêm niềm tin, ánh sáng và nghị lực trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù. Bởi vậy, khi được là thành viên của Đảng, được giác ngộ lý tưởng của Đảng thì trong tâm hồn mỗi người đều sáng bừng niềm vinh dự và tự hào mãnh liệt. Tố Hữu đã viết nên "Từ ấy" trong những cảm xúc dâng trào như thế. Bài thơ thật đẹp bởi tấm lòng thiết tha, rạo rực của một người chiến sĩ cách mạng chân chính. Những chuyển biến tình cảm thật đẹp đẽ và chân thành trong giây phút đứng vào hàng ngũ thân yêu của Đảng.
"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim..."
Kể từ giây phút thiêng liêng, trong thời khắc trịnh trọng ấy, tâm hồn ông trở nên tươi vui và bừng sáng hơn bao giờ hết, đó là ánh nắng rực rỡ nhất tươi mới nhất của lý tưởng cách mạng. Ông đã tìm được con đường đi, đích đến đúng đắn cho cuộc đời mình, ánh nắng chính là biểu trưng cho lý tưởng. Ánh nắng hạ cũng là những rực rỡ nhất trong cảm xúc, trong tình thần của người chiến sĩ lúc này, tất cả đều tươi sáng, tâm hồn ông như được soi sáng và tin yêu. Tư tưởng Mác-Lênin, lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản như ánh mặt trời xua tan đi những mây mù tối tăm của kiếp nô lệ, những lạc lối trên con đường giải phóng đất nước của những thế hệ trẻ nhiệt huyết, bản lĩnh, kiên cường. Mang đến niềm hy vọng về tương lai tươi đẹp hơn cho nhân dân cho dân tộc. Lý tưởng cộng sản như mặt trời chân lý, sáng chói thôi thúc trái tim người chiến sĩ đứng lên và hành động. Đường lối của Đảng sáng soi vào tâm hồn, khiến trái tim khát khao cống hiến, khát khao chiến đấu ấy sung sướng, rạng rỡ vô cùng. Nó làm thay đổi hẳn những cảm xúc lo lắng ưu tư trước đây mà thay vào đó là sự phấn khích, hào hứng, tin yêu vào Đảng. Tâm hồn như một "vườn hoa lá" ngập tràn hương sắc, ngập tràn niềm vui. Lí tưởng Đảng thật tuyệt vời khiến tâm hồn trở nên sống động và ngào ngạt như hương thơm của muôn sắc hoa, như tiếng hót yêu đời của những chú chim tự do. Đó là một niềm vui vô cùng to lớn khi gặp được chân lý, lý tưởng thỏa mãn những mộng ước bấy lâu.
"Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"
Từ niềm vui của riêng tôi tác giả đã hoà niềm vui ấy vào trong cái ta chung của nhân dân, của nhân loại. Đó là khi trái tim ta gắn chặt với mọi người, khi cả ta và mọi người cùng chung một nhịp đập, cùng chung sống dưới một lí tưởng sáng soi. Để nơi nơi được ngập tràn ánh sáng của Đảng soi rọi. Đó là tinh thần tự nguyện gắn bó với những kiếp người cần lao, với nhân dân lao động cơ cực, một tinh thần cao đẹp, đoàn kết gắn bó keo sơn. Đó là những sự đồng cảm xót xa, cưu mang đùm bọc nhau, tôi và mọi người cùng chung một tin yêu, cùng nhau sẻ chia như gia đình thân thiết, như anh em ruột thịt, như một khối đại đoàn kết, yêu thương nhau.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Thu điếu nằm trong chùm thơ thu gồm ba bài nức danh nhất về thơ Nôm cùa Nguyễn Khuyến. Bài thơ nói lên một nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, biểu lộ mối tình thu đẹp mà cô đơn, buồn của một nhà Nho nặng tình với quê hương đất nước. Thu điếu cũng như Thu ẩm, Thu vịnh chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời gian sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà (1884)
Hai câu thơ: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo - Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo mở ra một không gian nghệ thuật, một cảnh sắc mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu nước trong veo có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao trùm không gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh lẽo như vậy. Trên mặt ao thu đã có một chiếc thuyền câu bé tẻo teo tự bao giờ. Một chiếc gợi tả sự cô đơn của thuyền câu. Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật (trong veo - bé tẻo teo). Đó là một nét thu đẹp và êm đềm.
Hai câu thực (Sóng nước theo làn hơi gợn tí - Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo) tả không gian hai chiều. Màu sắc hòa hợp, có sóng biếc với lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. Phép đối tài tình làm nổi bật một nét thu, tô đậm cái nhìn thấy và cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là một nhân tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu).
Bức tranh thu được mở rộng dần ra qua hai câu thơ:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Bầu trời thu xanh ngắt thăm thẳm, bao la. Áng mây, tầng mây (trắng hay hồng?) lơ lửng nhè nhẹ trôi. Thoáng đãng, êm đềm, tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Không một bóng người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
(Nhớ núi Đọi) Ngõ trúc và tầng mây cũng là một nét thu đẹp và thân thuộc cùa làng quê. Thi sĩ như đang lặng ngắm và mơ màng đắm chìm vào cảnh vật.
Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một đối tượng khác:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Thu điếu nghĩa là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc. Mãi đến phần kết mới xuất hiện người câu cá. Một tư thế nhàn: tựa gối ôm cần. Một sự đợi chờ: lâu chẳng được. Một cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo. Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với một tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng cô đơn và lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng trọng.
Xuân Diệu đã hết lời ca ngợi cái diệu xanh trong Thu điếu. Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Cảnh đẹp êm đềm, tĩnh lặng mà man mác buồn. Một tâm thế an nhàn và thanh cao gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là một sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết, vần thơ: veo - teo - vèo - teo - bèo, phép đối tạo nên sự hài hòa cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuâng... cho thấy một bút pháp nghệ thuật vô cùng điêu luyện, hồn nhiên - đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu là một bài thơ thu, tả cảnh ngụ tình tuyệt bút.
Câu trả lời của bạn
Tới thời điểm hiện tại, Covid-19 vẫn không phải loại virus có tỷ lệ tử vong cao. Nhưng điều khiến Covid-19 nguy hiểm đó là sự lan truyền - tốc độ lây nhanh và khả năng lây lan rộng đến đáng sợ. Và đáng lo ngại hơn nữa, điều mà Covid-19 đe dọa đến thế giới loài người chính là nỗi sợ hãi, hoang mang, bất nhẫn... lan nhanh hơn cả tốc độ của virus sinh học.
Covid-19 là một phép thử về ý thức và là cú tát mạnh mẽ tới loài người - kể cả những con người đã nghĩ rằng mình an toàn giữa sự sa hoa, quyền lực, hay cả những nhóm người cho rằng mình có một đời sống văn mình.
Rõ ràng, Covid-19 là một dịch bệnh không phân biệt giàu nghèo, tuổi tác, giới tính, trình độ, giai cấp, quốc tịch ... n-Covid chỉ bị kiềm chế bởi cách mà người ta đối diện với nó – có ý thức hay không.
Covid-19 cho con người thấy mình nhỏ bé trước Tự Nhiên như thế nào. Ngay cả những quốc gia giàu có nhất cũng trở nên thiếu hiệu quả trước dịch bệnh, ngay cả những con người dày dặn kinh nghiệm và kiến thức y học nhất như cũng trở nên lúng túng... Con người bỗng chốc bị xé toang cái vòng an toàn của mình.
Covid-19 làm cho chúng ta nhận ra bản chất của con người. Sự giàu có không mua được cho bạn ý thức; quốc gia văn minh không sản sinh ra những con người hành xử văn minh; sự trục lợi của những con người sẵn sàng xem thường mạng sống đồng loại; "Fake News" - tin tức giả tràn lan, sự nguy hiểm khôn lường của một thế giới "ảo" nhưng không "ảo"; đến một lúc kim tiền, vật chất... không có giá trị bằng một miếng giấy vệ sinh... . Covid-19 như "tấm gương chiếu yêu" làm lộ ra những phần xấu xa mà chúng ta cố gắng che đậy, tô vẽ trong bao nhiêu năm nay.
Đến cuối cùng, cũng như bao dịch bệnh khác, Covid-19 là "phép thử" của Tự Nhiên trước con người. Loài người bình đẳng như bao nhiêu loài động vật, cúi đầu trước "phép thử" của mẹ thiên nhiên. Covid-19 sẽ chẳng làm cho con người chết hết đi nhưng cũng như bao nhiêu loài động vật khác, qua một "phép thử" chỉ những kẻ mạnh mẽ nhất mới có thể tồn tại. Chúng ta - con người sẽ tiến hóa như thế nào? Thay đổi cấu trúc ADN để trở nên mạnh mẽ hay tiếp tục phát huy ưu thế của sinh vật bậc cao nhất - trước hết thay đổi tư duy và ý thức của mình?
Hiện nay, virus Corona đã được thế giới quan tâm rất nhiều. Bởi, nó mang lại hậu quả vô cùng lớn.
Mọi người sẽ làm mọi cách để ngăn chặn cũng như tiêu diệt chủng loại virus này. Hiên nay trên thế giới đã và đang có rất nhiều mắc bệnh viêm phổi do virus corona gây ra, cũng đã có rất nhiều ca đã tử vọng và Việt Nam chúng ta cũng không ngoại lệ. Thông thường là đeo khẩu trang khi đi ra ngoài; rửa tay sạch sẽ trước khi vào một nơi công cộng; giữ vệ sinh chung trong gia đình và xã hội. Tất cả mọi người trên thế giới đều lo lắng và sợ hãi. Các chính phủ đã làm đủ mọi cách để bảo vệ cho nhân dân nước mình, cách li, chữa trị, cách phòng chống, các nước đều có mỗi cách thức riêng. Và để tránh loại virus này lây lạn rộng ra các khu vực khác thì mỗi người phải thường xuyên nắm rõ thông tin, nếu mình có biểu hiện thì phải tự cách ly hoặc đến cơ sở y tế khám và chữa trị. Chứ đừng làm nó lây lan cho người khác cũng như người thân trong gia đình. Đó không chỉ là nhiệm vụ quan trọng của những học sinh mà còn là của chung một cộng đồng xã hội. Và trong tình hình hiện nay, học sinh cần có ý thức tự rèn luyện bản thân trong việc tự học. Vì nếu không có ý thức thì kiến thức lẫn sự tự giác của chúng ta sẽ giảm đi.
Câu trả lời của bạn
Hoài Thanh viết về thơ Tố Hữu: “Thái độ toàn tâm, toàn ý vì cách mạng là nguyên nhân chính đưa đến thành công của thơ anh”, liệu bạn có đồng ý với tôi rằng nhận định này của nhà thơ rất đúng với cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu.
Thật vậy, Thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh cánh mạng nên các chặng đường thơ cũng song hành với các giai đoạn đấu tranh ấy, đồng thời thể hiện sự vận động trong tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ.
Tập “Từ ấy” (1937 - 1946) gồm ba phần: Máu lửa, Xiềng xích, Giải phóng, tương ứng với ba chặng đường trong mười năm hoạt động cách mạng của nhà thơ. “Máu lửa” là tiếng reo náo nức của một tâm hồn được giác ngộ lý tưởng: Từ ấy... và rộn vang tiếng chim.
Nhờ đó, nhà thơ đã nhận ra được ách áp bức giai cấp, những bất công của xã hội và thân phận của con người lao khổ. ông hướng tâm hồn mình đến cảm thông với những Em bé mồ côi, Lão đầy tớ, Cô gái giang hồ, Em bé đi ở và khơi dậy ở họ lòng căm thù, ý chí chiến đấu và niềm tin ở tương lai.
“Xiềng xích” là bản quyết tâm thư của người chiến sĩ cách mạng tự dặn lòng mình quyết không khuất phục trước uy lực và sự tàn bạo của kẻ thù (Trăng trối, Con cá chột nưa...) và luôn luôn tha thiết yêu đời, khát khao tự do và hành động. Đây là phần đặc sắc của tập thơ.
“Giải phóng” - Cách mạng tháng Tám thành công, nhà thơ say sưa nồng nhiệt ca ngợi thắng lợi, ngợi ca nền độc lập, ngây ngất trong niềm “vui bất tuyệt” với cảm hứng dâng trào trước cuộc đổi đời vĩ đại của nhân dân, dân tộc. Tập ‘‘Việt Bắc” (1947- 1945)
Quân thù trở lại, cả dân tộc bước và cuộc kháng chiến anh dũng. Việt Bắc là “thủ đô kháng chiến”, nơi có Đảng, Bác Hồ lãnh đạo toàn dân đánh giặc. Việt Bắc là bản anh hùng ca ca ngợi cuộc kháng chiến anh hùng và những con người bình dị mà anh hùng của cuộc kháng chiến (như các em thiếu nhi, các anh bộ đội, các chị phụ nữ, các bà mẹ... và trên tất cả, hình ảnh tập trung, biêu biểu cho phẩm chất dân tộc là hình ảnh Bấc Hồ). Tập thơ còn ca ngợi những tình cảm điển hình của con người kháng chiến như tình yêu nước, tình yêu đồng bào, tình quân dân, tình cảm miên ngược với miền xuôi, lòng yêu thiên nhiên, kính yêu Đảng, Bác Hồ... và niềm tin tưởng ở ngày mai tươi sáng.
Vào giai đoạn cuốì với chiến công Điện Biên, hoà bình lập lại, miền Bắc được giải phóng đã chấp cánh cho hồn thơ Tố Hữu bay bổng vổi những cảm hứng sử thi mang hào khí thời đại. “Việt Bắc” là thành tựu xuất sắc nhất của văn học kháng chiến chống Pháp.
Tập “Gió lộng” (1955 - 1961), bước vào giai đoạn này cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng niềm Nam tiến tới thông nhất nước nhà:
“Rộn ràng thay cảnh quê hương
Nửa công trường, nửa chiến trường xôn xao”
Thơ Tố Hữu bám sất nhiệm vụ chính trị đó: Tập “Gió lộng” vừa thể hiện niềm vui, niềm tự hào và tin tưởng ở công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc, vừa bày tỏ tình cảm thiết tha với niềm Nam và ý chí thông nhất nước nhà, tình cảm quốc tế rộng lớn.
Trong niềm vui lớn với cuộc sông hiện tại, Tố Hữu không quên nghĩ về quá khứ để bày tỏ tình cảm biết ơn ông cha và những người đi trước mở đường. Và từ đó thấm thía ân tin? cách mạng (Ba mươi năm đời ta có Đảng, Mẹ Tơm...).
Tập “Gió lộng” tiếp tục phát triển cảm hứng sử thi và khuynh hướng khái quát với một cái tôi trữ tình đa dạng hơn và một nghệ thuật biểu hiện già dặn và nhuần nhị hơn.
Hai tập “Ra trận” (1962 - 1971), “Máu và hoa” (1972- 1977) là những chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm chống Mĩ quyết liệt và hào hùng của dân tộc cho tới ngày toàn thắng. Thơ Tố Hữu lúc này là khúc ca ra trận, là mệnh lệnh tiến công, là lời kêu gọi, cổ vũ hào hùng cả dân tộc “khắp thành thị thông thôn” vùng lên quyết đập “tan đầu Mĩ Ngụy”. “Ra trận” cũng dành hẳn một trường ca “theo chân Bác” để tái hiện hình ảnh Bác trên những chặng đường lịch sử trong hơn nửa thế kỉ.
“Máu và Hoa” là những suy ngẫm của nhà thơ về những hi sinh to lớn của dân tộc (máu) để tạo nên những chiến công (hoa) chói lọi của lịch sử “phải bao máu thấm trong lòng đất / Mới ánh hồng lên sắc tự hào”.
Thơ Tố Hữu những năm chống Mỹ cứu nước mang đậm tính chính luận và chất sử thi, nhiều chỗ vươn tới âm hưởng anh hùng ca.
Từ năm 1978 lại đây, thơ Tố Hữu được tập hợp trong hai tập “Một tiếng đờn” (1992) và “Ta với ta” (1999).
Trải qua những thăng trầm, những trải nghiêm trước cuộc đời, nhà thơ muốn bày tỏ những suy tư về cuộc sống, về lẽ đời, hướng tới những quy luật phổ quát và tìm kiếm những giá trị bền vững. Giọng thơ vì thế cũng trầm lắng, thấm đượm chất suy tưởng.
Tóm lại ta nhận ra rằng ý kiến của Hoài Thanh phù hợp với thực tế sáng tác thơ Tố Hữu và gợi ý cho chúng ta khi tìm hiểu những bài thơ thành công của Tố Hữu trong thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ý kiến đó cũng đúng về lí luận, “Nhà văn phải cố gắng sao cho những cái làm cho anh phấn khởi hay xúc động cũng là những cái làm cho dân tộc anh vui sướng hay đau khổ” (Bê-se).
Thơ Tố Hữu là một bằng chứng sống động cho sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị và nghệ thuật. Con đường thơ của ông là con đường tìm tòi sự kết hợp hài hoà hai yếu tố, hai cội nguồn là dân tộc và cách mạng trong hình thức đẹp đẽ của thơ ca. Với ngôn ngữ, thể thơ giàu tính đại chúng, dân tộc, cách mạng, thơ Tố Hữu đã truyền được cho hàng triệu độc giả niềm say mê lý tưởng cách mạng.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Về nội dung, thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình chính trị rất sâu sắc. Hồn thơ ông luôn hướng tới cái Ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng, của cả dân tộc.
Cái Tôi trữ tình trong thơ ông là cái Tôi chiến sĩ nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc với lí tưởng sống là dấn thân vào con đường giải phóng dân tộc, phấn đấu vì cuộc sống tươi đẹp của đất nước. Thơ ông không đi sâu vào cuộc sống, tình cảm riêng tư mà tập trung thể hiện những tình cảm lớn, phổ biến, tiêu biểu của con người cách mạng như tình yêu lí tưởng, yêu kính lãnh tụ, tình đồng bào đồng chí, tình cảm quốc tế vô sản. Niềm vui trong thơ ông không nhỏ bé tầm thường mà là niềm vui lớn, sôi nổi, rực rỡ, hân hoan dặc biệt là những vần thơ về chiến thắng.
Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi. Thơ thường thể hiện những sự kiện chính trị lớn của đất nước, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và tính chất toàn dân; cảm hứng chủ đạo trong thơ là cảm hứng lịch sử – dân tộc và vấn đề vận mệnh cộng đồng. Nhân vật trữ tình thường mang phẩm chất tiêu biểu cho dân tộc, mang tầm vóc lịch sử thời đại. Giọng thơ đậm chất tâm tình tự nhiên, đằm thắm chân thành.
Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà. Về thể thơ, Tố Hữu rất thành công khi vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc. Về ngôn ngữ, Tố Hữu thường sử dụng những từ ngữ và cách nói quen thuộc với dân tộc, phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, sử dụng tài tình từ láy, các thanh điệu, các vần thơ.
Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/trinh-bay-phong-cach-nghe-thuat-cua-nha-tho-to-huu-ngu-van-12-c30a4401.html#ixzz6Kii4EOQf
Về nội dung, thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình chính trị rất sâu sắc. Hồn thơ ông luôn hướng tới cái Ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng, của cả dân tộc.
Cái Tôi trữ tình trong thơ ông là cái Tôi chiến sĩ nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc với lí tưởng sống là dấn thân vào con đường giải phóng dân tộc, phấn đấu vì cuộc sống tươi đẹp của đất nước. Thơ ông không đi sâu vào cuộc sống, tình cảm riêng tư mà tập trung thể hiện những tình cảm lớn, phổ biến, tiêu biểu của con người cách mạng như tình yêu lí tưởng, yêu kính lãnh tụ, tình đồng bào đồng chí, tình cảm quốc tế vô sản. Niềm vui trong thơ ông không nhỏ bé tầm thường mà là niềm vui lớn, sôi nổi, rực rỡ, hân hoan dặc biệt là những vần thơ về chiến thắng.
Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi. Thơ thường thể hiện những sự kiện chính trị lớn của đất nước, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và tính chất toàn dân; cảm hứng chủ đạo trong thơ là cảm hứng lịch sử – dân tộc và vấn đề vận mệnh cộng đồng. Nhân vật trữ tình thường mang phẩm chất tiêu biểu cho dân tộc, mang tầm vóc lịch sử thời đại. Giọng thơ đậm chất tâm tình tự nhiên, đằm thắm chân thành.
Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà. Về thể thơ, Tố Hữu rất thành công khi vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc. Về ngôn ngữ, Tố Hữu thường sử dụng những từ ngữ và cách nói quen thuộc với dân tộc, phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, sử dụng tài tình từ láy, các thanh điệu, các vần thơ.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
...
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *