Bài giảng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc phần tác phẩm sẽ giúp các em hiểu sâu sắc hơn về tác giả Nguyễn Đình Chiểu, đồng thời giúp các em tìm hiểu rõ hơn về nội dung thơ văn Nguyễn Đình Chiểu qua bài văn tế. Chúc các em có một bài giảng hay.
→ Thời đại bão táp, tình thế đất nước căng thẳng, dữ dội.
→ Khẳng định sự bất tử về cái chết của các nghĩa sĩ. Tiếng thơm còn mãi muôn đời.
→ Họ là những người nông dân hoàn toàn xa lạ với việc binh đao.
⇒ Tinh thần chiến đấu ngoan cường, quả cảm, dũng mãnh
⇒ Tác giả đã xây dựng bức tượng đài bất tử về người nông dân yêu nước, họ mang vẻ đẹp của người anh hùng chân chất mà làm nên lịch sử, vừa phi thường vừa bình thường.
⇒ Khích lệ những người còn sống đứng lên đánh giặc
Đề: Hãy chỉ ra tiếng khóc bi tráng của Nguyễn Đình Chiểu trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Gợi ý làm bài:
Các em có thể dựa vào những gợi ý dưới đây:
Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ được tái hiện trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc với vẻ đẹp bên ngoài bình dị, đời thường; vẻ đẹp bên trong là lòng dũng cảm, tinh thần vì nghĩa xả thân; khi đứng trước cảnh nước nhà bị xâm lăng họ vùng lên bằng tinh thần quật khởi. Để hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên một bức tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với những phẩm chất vốn có ngoài đời của họ. Nguyễn Đình Chiểu đã tạc nên hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân trong trạng thái, tính cách, hành động theo bản chất của người nông dân. Để cảm nhận sâu sắc hơn và dễ dàng viết một bài văn hoàn chỉnh, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Bức tượng đài người nông dân qua Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
- Người anh hùng nông dân yêu nước qua Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
- Những yếu tố làm nên sức gợi cảm mạnh mẽ của bài văn tế: cảm xúc chân thành, sâu nặng, mãnh liệt (câu 3, 25), giọng văn bi tráng, thống thiết (câu 22, 23, 24), hình ảnh sống động (câu 13, 14, 15).
- Nghệ thuật ngôn ngữ: giản dị, dân dã nhưng được chọn lọc tinh tế, có sức biểu cảm lớn và giá trị thẩm mĩ cao (cui cút; tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo; chia rượu lạt, gặm bánh mì, mẹ già ngồi khóc trẻ, vợ yếu chạy tìm chồng,...), nhiều biện pháp tu từ được sử dụng thành công (câu 14, 15).
- Giọng điệu thay đổi theo dòng cảm xúc: đoạn 2 sôi nổi, hào hứng như reo vui cùng chiến thắng của nghĩa quân, đoạn 3 chuyển sang trầm lắng, thống thiết, có lúc như nức nở, xót xa (câu 24, 25), có lúc như tiếng kêu thương ai oán (câu 27); đoạn 4 trang nghiêm như một lời khấn nguyện thiêng liêng.
Câu trả lời của bạn
Đoạn Ai vãn của bài văn tế. Ở đoạn này, các tình cảm đan cài vào nhau, nên chọn phương pháp khai thác theo hình tượng. Đây là đoạn văn bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của tác giả và của nhân dân đương thời đối với người nghĩa sĩ, cho nên tính trữ tình bao trùm, nhưng xen kẽ vào đó vẫn có những yếu tố hiện thực, có giá trị làm tăng độ sâu nặng của cảm xúc.
Trước hết, các em cần đọc và tìm hiểu những nguồn cảm xúc cộng hưởng trong tiếng khóc thương của tác giả, các em cần tìm và phân tích qua những chi tiết nghệ thuật của đoạn văn:
- Nỗi xót thương đối với người nghĩa sĩ: Ở đây có nỗi tiếc hận của người phải hi sinh khi sự nghiệp còn đang dang dở, chí nguyện chưa thành (câu 16, 24), nỗi xót xa của những gia đình mất người thân, tổn thất không thể bù đắp đối với những người mẹ già, vợ trẻ (câu 25), nỗi căm hờn những kẻ đã gây nên nghịch cảnh éo le (câu 21) hoà chung với tiếng khóc uất ức, nghẹn ngào trước tình cảnh đau thương của đất nước, của dân tộc (câu 27). Nhiều niềm cảm thương cộng lại thành nỗi đau sâu nặng (“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo”), không chỉ ở trong lòng người mà dường như còn bao trùm khắp cỏ cây, sông núi, sông Cần Giuộc, chợ Trường Bình, chùa Tông Thạnh, Bến Nghé, Đồng Nai, tất cả đều nhuốm màu tang tóc, bi thương.
- Niềm cảm phục và tự hào đối với những người dân thường đã dám đứng lên bảo vệ từng “tấc đất ngọn rau”, “bát cơm manh áo” của mình chống lại kẻ thù hung hãn (câu 19, 20), đã lấy cái chết để làm rạng ngời một chân lí cao đẹp của thời đại: thà chết vinh còn hơn sống nhục (câu 22, 23).
- Biểu dương công trạng của người nông dân - nghĩa sĩ, đời đời được nhân dân ngưỡng mộ, Tổ quốc ghi công (câu 26, 28). Sau khi đã phân tích qua cả đoạn văn, các em nên chốt lại:
Tiếng khóc không chỉ thể hiện tình cảm riêng tư mà tác giả đã thay mặt nhân dân cả nước khóc thương và biểu dương công trạng người nghĩa sĩ.
Tiếng khóc không chỉ hướng về cái chết mà còn hướng về cuộc sống đau thương, khổ nhục của cả dân tộc trước làn sóng xâm lăng của thực dân. Nó không chỉ gợi nỗi đau thương mà cao hơn nữa, còn khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí tiếp nối sự nghiệp dang dở của những người nghĩa sĩ.
Chi tiết không thể bỏ sót là khi viết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu còn đang được tiếp sức bởi khí thế ngút trời của phong trào chống xâm lược những ngày đầu, khi nhân dân đang nhất tề nổi dậy khắp nơi.
Câu trả lời của bạn
* Hình ảnh của đội quân áo vải được khắc hoạ hoàn toàn bằng bút pháp hiện thực, không theo tính ước lệ của văn thơ trung đại, không bị chi phối bởi kiểu sáng tác lí tưởng hoá (các em dẫn chứng từ các câu 10, 11, 12). Đáng chú ý là những chi tiết chân thực đều được chọn lọc tinh tế, nên đậm đặc chất sống, mang tính khái quát, đặc trưng cao (ví dụ: manh áo vải, ngọn tầm bông, rơm con cúi, lưỡi dao phay gắn bó đến không thể tách rời trong cuộc sống những người nông dân thuở ấy). Do thế, bức tượng đài ánh lên một vẻ đẹp mộc mạc, giản dị mà không kém “chất” anh hùng bởi tấm lòng mến nghĩa, bởi tư thế hiên ngang, coi thường mọi khó khăn, thiếu thốn: nào đợi tập rèn, không chờ bày bố, nào đợi mang..., chi nài sắm... (Có thể so sánh với vẻ phi thường của người anh hùng Từ Hải trong Truyện Kiều: “Râu hùm, hàm én, mày ngài - Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” và hình ảnh rạng ngời oai phong của Lục Vân Tiên khi cầm quân đánh giặc ngoại xâm: “Vân Tiên đầu đội kim khôi - Tay cầm siêu bạc, mình ngồi ngựa ô”).
* Hình tượng những người anh hùng được khắc nổi trên nền một trận công đồn đầy khí thế tiến công. Các em đọc lại những câu 13, 14, 15, tìm những chi tiết miêu tả trận đánh, nhận xét về những biện pháp nghệ thuật: Hệ thống từ ngữ: dùng rất nhiều từ chỉ hành động mạnh (đánh, đốt, chém, đạp, xô, hè, ó,...), dứt khoát (đốt xong, chém đặng, trối kệ), nhiều khẩu ngữ nông thôn và từ ngữ mang tính địa phương Nam Bộ (nhà dạy đạo, như chẳng có, thằng Tây, hè, ó, trối kệ,...). Phép đối: đối từ ngữ (trống kì / trống giục, lướt tới / xông Uào; đạn nhỏ / đạn to; đâm ngang / chém ngược; hè trước / ó sau,...); đối ý (ta: manh áo vải, ngọn tầm Uông/địch: đạn nhỏ, đạn to, tàu sắt, tàu đồng; vũ khí thô sơ; rơm con cúi, lưởi dao phay / chiến thắng lớn: đốt xong nhà dạy đạo, chém rớt đầu quan hai; đối thanh bằng - trắc (kia/ nọ, kì/giục, tới/Uào, nhỏ / to, ngang / ngược, trutóc / sau,...).
Hiệu quả nghệ thuật: tạo nhịp điệu đoạn văn nhanh, mạnh, dứt khoát, sôi nổi góp phần tái hiện một trận công đồn của nghĩa quân Cần Giuộc rất khẩn trương, quyết liệt, sôi động và đầy hào hứng.
Trên cái nền trận đánh đó là hình ảnh những người nông dân nghĩa sĩ coi giặc cũng như không, liều mình như chẳng có, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ, nào sợ... đạn nhỏ đạn to... Khí thế của họ là khí thế đạp lên đầu thù xốc tới, không quản ngại bất kì sự gian khổ, hi sinh nào, rất tự tin và đầy ý chí quyết thắng. Hình ảnh đó oai phong, lẫm liệt như hình tượng các dũng sĩ trong những thiên anh hùng ca thuở xưa, nhưng lại gần gũi, sống động, tưởng như họ vừa “Rũ bùn đứng dậy sáng loà” (Nguyễn Đình Thi).
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc. Bài văn cũng là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực; ngôn ngữ bình dị, trong sáng, sinh động.
Câu trả lời của bạn
* Điều kiện và khí thế chiến đấu:
-> Nguyễn Đình Chiểu đã tạc một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước.
Nói về quan niệm sống của ông cha ta thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, Giáo sư Trần Văn Giàu đã viết: "Cái sống được cha ông ta quan niệm là không thể tách rời với hai chữ nhục, vinh. Mà nhục hay vinh là sự đánh giá theo thái độ chính trị đối với cuộc xâm lược của Tây: đánh Tây là vinh, theo Tây là nhục. Anh (chị) hãy viết một đoạn văn phân tích những câu trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc thể hiện đầy đủ, sâu sắc triết lí nhân sinh đó.
Câu trả lời của bạn
Nói về quan niệm sống của cha ông ta thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, giáo sư Trần Văn Giàu đã viết: “cái sống được cha ông ta quan niệm không thể tách rời với hai chữ nhục, vinh. Mà nhục hay vinh là sự đánh giá theo thái độ chính trị đối với cuộc xâm lược của Tây: đánh Tây là vinh, theo Tây là nhục”. Đọc “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu, ta thấy được sự thể hiện đầy đủ, sâu sắc triết lý nhân sinh đó.
Ngay từ đầu bài văn tế, tác giả đã dành một lời khẳng định tuyệt đối dành cho niềm vinh quang của những người sống theo chân lý về sự vinh, nhục đó: “Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi tợ phao; một trận nghĩa đánh Tây tuy là mất tiếng vang như mõ”. Nhà thơ đã lấy sự đối lập giữa cuộc đời của một nông dân bình thường, bình lặng không được ai biết đến với một cuộc sông “một phút huy hoàng”, được sống, chiến đấu và hi sinh hết mình cho sự nghiệp cứu nước vinh quang. Quan niệm: thà chết vinh còn hơn sống nhục của vị tướng thời Trần, Trần Bình Trọng đã trở thành một quan niệm sống của những người nghĩa sĩ yêu nước Cần Giuộc. Nguyễn Đình Chiểu đã thay lời họ nói lên những lời khẳng khái: “Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc thấy lại thêm buồn; sông làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”. Cuộc sống đi theo quân tà đạo là một cuộc sống nhục nhã, đi ngược lại với đạo đức và truyền thống của nhân dân Việt Nam, “chia rượu lạt, gặm bánh mì” từ những kẻ thực dân đế quốc như một sự ăn xin, nhục nhã, ê chề, không chỉ hổ thẹn với đất nước mà cũng nên hổ thẹn cả với chính bản thân mình. Và ông nói thay cho quan niệm sống của những người nông dân, mà cũng chính là quan niệm sống của mình: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”. Họ thà chọn cho mình cái chết nhưng giữ vững được tinh thần, ý chí chống kẻ thù (câu địch khái) để khỏi hổ thẹn với tổ tiền mình còn hơn chịu hai chữ “đầu Tây ». Đó là lối sống anh dũng, là cái chết vẻ vang: “Thác mà trả non nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ / Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia...”. Đó là một quan niệm sống - chết tích cực, và đúng với đạo lý làm người và truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam chỉ như vậy mới có thề để lại danh thơm muôn thuở. Nó đã trở thành động lực thôi thúc người nghĩa sĩ quên mình chiến đấu cho sự nghiệp cao cả và vinh quang. Cùng với quan niệm đó, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng nên bực tượng đài sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ còn lại mãi với thời gian.
Câu trả lời của bạn
Tác phẩm không chỉ thể hiện sự bi tráng của dân tộc, mà qua đó nó thể hiện những anh dũng, kiên cường, bất khuất của cả dân tộc, khi mất mát đi những tài sản to lớn đó là tính mạng của những nghĩa sĩ anh dũng.
Tiếng khóc trong tác phẩm, thể hiện sâu sắc qua những giọt nước mắt của dân tộc Việt Nam, trước sự hy sinh của toàn thể những chiến sĩ anh dũng vì độc lập tự do của dân tộc, những người chiến sĩ, kiên cường, bất khuất, luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ độc lập tự do cho dân tộc, chiến đấu kiên cường, vượt qua mọi khó khăn, gian nan để nắm chắc tay súng để bảo vệ đất nước.
Câu “ súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ” trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã khái quát đầy đủ hai mặt biến cố chính trị lớn lao của thế kỉ XIX như thế nào? Câu đầu tiên tạo ra sự đối lập nào? Phân tích ý nghĩa khái quát của các đối lập ấy
Câu trả lời của bạn
* Câu “ súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ” đã khái quát đầy đủ hai mặt biến cố chính trị lớn lao của thế kỉ XIX:
* Câu đầu tiên tạo ra các sự đối lập:
* Ý nghĩa: Từ những đối lập, gay gắt, quyết liệt ấy, tác giả muốn biểu hiện: Khung cảnh bão táp của thời đại, xã hội Việt Nam đầu những năm 60 thế kỉ XIX. Biến cố chính lớn lao, trọng đại chi phối toàn bộ thời cuộc là cuộc đụng độ giữa thế lực xâm lược của thực dân Pháp (súng giặc) và ý chí bất khuất bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam (lòng dân).
Câu trả lời của bạn
Trước khi cầm vũ khí đánh giặc, những người nghĩa sĩ Cần Giuộc là những người nông dân lam lũ, tủi cực, quanh năm chỉ biết “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”. Họ hoàn toàn xa lạ với công việc binh đao. Tác giả đã miêu tả họ trong sự đối lập giữa những việc chỉ quen làm (nghề nông) với việc binh đao chưa từng biết đến bao giờ:
− Những hình ảnh này càng tôn thêm vẻ đẹp của người nghĩa sĩ nông dân. Đánh giặc không phải là “sở trường” của họ. Thế nhưng khi quân giặc đến, họ không ngần ngại bỏ ruộng vườn, sẩn sàng hi sinh cả tính mạng của mình để cùng nhau đánh đuổi quân thù. Đó là những con người giàu lòng yêu nước và ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm. Lòng căm thù giặc của họ bộc lộ rất tự nhiên. Họ coi kẻ thù cũng giống như những loài sâu, loài cỏ hại lúa, cần phải diệt trừ :
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan ; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Câu trả lời của bạn
Cuộc chiến đấu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trận công đồn rất náo nhiệt, bừng bừng khí thế. Những người nông dân rạ trận với vũ khí rất đỗi thô sơ (ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi,…) lại chưa từng được trang bị một chút hiểu biết gì về chiến trận (ban võ nghệ, trận binh thư,…). Đối đầu với họ là đội quân xâm lược có vũ khí hiện đại (đạn nhỏ, đạn to, tàu sắt, tàu đồng,…), có tổ chức chính quy (quan quân, mã tà, ma ní,.„). Bù lại, họ có thừa dũng khí chiến đấu, sẵn sàng xông lên giết giặc mà không cần có đủ điều kiện (nào đợi tập rèn võ nghệ, không cần bày bố binh thư,…).
Tác giả đã tái hiện rất thành công không khí sôi sục của cuộc chiến đấu bằng hàng loạt động từ mạnh, bằng nhịp văn ngắn, gấp gáp khiến cho người đọc có cảm giác như đang được chứng kiến trận chiến đấu trước mặt:
Chi nhọc quan quản gióng trông kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không ; nào sợ thằng Tầy bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh ; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.
Câu trả lời của bạn
Hình ảnh người nghĩa sĩ được miêu tả nổi bật vói những phẩm chất:
− Căm thù giặc sâu sắc (“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan ; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”).
− Sẵn sàng đánh giăc bằng bất cứ phương tiện nào mình có : dao phay, tầm vông,…
− Vượt qua gian khổ, hi sinh : “nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to”, “trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”.
Đó thực sự là những con người quả cảm.
Câu trả lời của bạn
Khi Thực dân Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy lo sợ → trông chờ → ghét → căm thù → đứng lên chống lại.
Thái độ đó được diễn tả bằng những hình ảnh cường điệu mạnh mẽ mà chân thực (như nhà nông ghét cỏ muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ)
Nhận thức về tổ quốc: Không dung tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm. Do vậy, họ chiến đấu một cách tự nguyện (mến nghĩa… nào đợi ai đòi ai bắt….) -> Đây là sự chuyển hoá phi thường.
Câu trả lời của bạn
Đây là đoạn văn trữ tình rất thống thiết. Không chỉ đảm bảo việc thể hiện những tình cảm tiếc thương thường có ở một bài văn tế, tác giả đã biểu lộ những tình cảm trực tiếp, xuất phát từ sự chân thành sâu sắc. Qua đó, những động cơ, ý nghĩa của hành động chiến đấu cùng nỗi tiếc thương vô bờ của tác giả và những người thân đã được thể hiện trong trạng thái xúc động mãnh liệt:
− Họ đã chiến đấu bằng sự thôi thúc từ tâm can (“ơíẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm”), bằng lòng căm thù giặc tận xương tuỷ (“bát cơm manh áo ở đòi, mắc mớ chi ông cha nó”) và trên hết là nghĩa khí của những con người không bao giờ chịu luồn cúi, khuất phục (“Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh ; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”).
− Họ ngã xuống, để lại bao nỗi xót thương cho nhân dân, đến cả cỏ cây cũng phải nhỏ lệ (“Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng ; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ”). Trong đó, khó có thể tầ xiết nỗi đau của những ngưòi thân (“Đau đớn bấy ! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều ; não nùng thay ! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”).
Đọc đoạn trích:
Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiều làm sống lại phong trào chống Pháp oanh liệt và bền bỉ của nhân dân Nam Bộ suốt 20 năm trời từ 1860 về sau…
Hồi tưởng lại cuộc chiến đấu anh dũng vô song của dân tộc Việt Nam, của nhân dân Nam Bộ hồi ấy, lòng chúng ta đau như cắt xé… Không phải ngẫu nhiên mà thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, phần lớn là những bài văn tế, ca ngợi những người anh hùng suốt đời tận trung với nước và than khóc những liệt sĩ đã trọng nghĩa với dân. Ngòi bút nghĩa là tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả, thật sinh động và não nùng, cảm tình củ dân tộc đối với người chiến sĩ nghĩa quân, vôn là người nông dân, xưa chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước…
Văn tế và Bình Ngô đạo cáo: hai bài văn lớn trong hai cảnh ngộ lớn, hai thời buổi, nhưng một dân tộc. Cáo của Nguyễn Trãi là khúc ca khải hoàn, ca ngợi những chiến công oanh liệt chưa từng thấy, biểu dương những chiến thắng làm rạng rỡ nước nhà. Văn tế là khúc ca những người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang ở một thời khổ nhục nhưng vĩ đại.
(Theo Đỗ Văn Hỷ, trong Nguyễn Đình Chiểu- về tác giả, tác phẩm)
Thực hiện yêu cầu:
Câu 1. Theo đoạn trích, thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, phần lớn là thể loại nào? Những tác phẩm thuộc thể loại đó phán ánh điều gì?
Câu 2. Chỉ ra sự khác biệt giữa Bình Ngô đại cáo và Văn tế được nhắc đến trong đoạn trích trên?
Câu 3. Hãy ghi lại những câu văn thể hiện sự nhận thức về đất nước thống nhất, về trách nhiệm với sự nghiệp cứu nước và tự nguyện sung vào đội quân chiến đấu? (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Câu trả lời của bạn
“Hỡi ôi! Súng giặc đất rền ; long dân trời tỏ. Mười mấy cống vỡ ruộng,chưa ắt còn danh nổi như pháo; một trận nghĩa đánh Tây,tuy là mất tiếng vang như mõ”
Câu trả lời của bạn
Trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Hãy nêu hình tượng người nông dân, nghĩa sĩ
Và Phân tích ngắn gọn chuyển biến tư tưởng tình cảm
giúp iem voies mọi người ơi :(((
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Đinh Chiểu là nhà thơ mang một tấm lòng yêu nước sâu nặng. Trong cuộc đời cầm bút của mình, nhà thơ luôn lấy quan niệm đạo đức, tấm lòng vì dân vì nước làm tâm điểm trong sự nghiệp sáng tác của mình. Viết về nhiều đề tài khác nhau, nhưng có lẽ luôn sát cánh và cập nhật nhất vẫn là những vần thơ chống giặc, cổ động tinh thần yêu nước cùng nhân dân. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm tiêu biểu cho những áng văn yêu nước của tác giả, thể hiện một quan niệm, một cách nhìn mới về người anh hùng của nhà thơ trong văn học.
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết theo thể phú luật Đường, bố cục gồm bốn phần đúng như quy định của thề văn tế. Tác phẩm ra đời đã khẳng định sự thành công trong ngòi bút viết vận tế cùa Nguyễn Đình Chiểu. Bài văn được ra đời để tưởng nhớ đến các chiến sĩ cần Giuộc đã anh dũng hi sinh trong cuộc chiến đấu chống xâm lược, cổ vũ, khích lệ tinh thần chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của nhân dân. Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ. Ở đây là người nông dân nghĩa quân chống giặc, cứu nước.
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc là một tượng đài nghệ thuật hiếm có. Bi tráng là tầm vóc và tính chất của tượng đài nghệ thuật ấy: Vừa hoành tráng, hùng tráng vừa thông thiết, bi ai. Thể hiện một quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu một cách mới lạ mà người đọc chưa từng thấy trong văn học yêu nước giai đoạn trước đó.
Quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu có gì khác so với các nhà Nho yêu nước xưa? Trước kia, khi xây dựng hình tượng người anh hùng, nhiều nhà văn thường tập trung thể hiện những bậc hào kiệt, những con người kiệt xuất lãnh đạo các phong trào đấu tranh của nhân dân. Còn đến với văn thơ Nguyễn Đình Chiểu hình ảnh về người anh hùng không có gì xa lạ mà ngay trong bản thản nông dân hiền lành, suốt ngày chỉ biết cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó. Có thể nói về người anh hùng, tác giả của chúng ta không phải đi tim kiếm những hình tượng ở đâu xa xôi cả mà đó là những người nông dân chân chất, thật thà có tấm lòng yêu nước sâu nặng. Cái tài của Nguyễn Đình Chiểu là đã phát hiện và xây dựng được hình tượng người anh hùng nông dân áo vải. Đây không phải là một cá nhân cụ thê mà đó là cả tập thể những người anh hùng, họ là những nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Hình ảnh trung tâm của tác phẩm là những chiến sĩ nghĩa quân. Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo, suốt cuộc đời cui cút sau lũy tre xanh, chất phác, cần cù chịu khó làm ăn chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ. Họ là lớp người chân lấm tay bùn chì biết: Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó. Thế nhưng khi đất nước, quê hương bị giặc xâm lược những người dân ấp dân lăn ấy đã anh dũng đứng lên mến nghĩa làm quân chiêu mộ. Đánh giặc để cứu nước nhà, để bảo vệ Bát cơm manh áo ở đời là cái nghĩa lớn mà họ mến và đeo đuối. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu văn giản dị mà thấm đượm một tinh thần yêu nước cao đẹp.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Nhà văn đã tái hiện lại một cuộc chiến đấu với sức mạnh quật cường và khí thế chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ Cần Giuộc. Quân trang chỉ là một manh áo vải, vũ khí chỉ có một ngọn tẩm vông, hoặc một lưỡi dao phay, một súng hỏa mai bằng rơm con cúi. Thế mà họ vẫn lập được chiến công chém rớt đầu quan hai nọ và đốt xong nhà dạy đạo kia. Quả thực, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên một tượng đài nghệ thuật về những người anh hùng chiến đấu bất khuất, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ Tổ quốc.
Chi nhọc quan quản gióng trông kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Đây là những câu văn tuyệt bút. Không khí chiến trận thật sôi sục trống kỉ, trống giục, đạp rào lướt tới, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có. Các chiến sĩ coi cái chết như không tấn công như vũ bão vào đồn của giặc. Với giọng văn hào hùng, phép đối tài tình, các động tứ mạnh được chọn lọc và đặt đúng chỗ... đã tô đậm tinh thần chiến đấu quả cảm vô song của các nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu đà dành cho các chiến sĩ nghĩa quân những tình cảm đẹp nhất, ngợi ca, khâm phục tự hào. Qua đó, ta thấy được lần đầu tiên hình tượng người nông dân đi vào thơ văn với tầm đứng của các anh hùng dân tộc, những anh hùng xuất thân từ tầng lớp nóng dân, quanh năm chân lấm tay bùn dường như chỉ biết có việc cày, việc cuốc, vậy mà khi có giặc xâm lược, họ đã anh dũng đứng lên một cách tự nguyện và hăng hái nhất, chiến đấu quên mình cho nền độc lập dân tộc.
Cái độc đáo ở Nguyễn Đình Chiểu là nhìn thấy được những con người anh hùng ngay bên cạnh mình, đó không phải là các bậc hào kiệt anh tài mà chỉ là những người nông dân sống hiền lành, chăm chỉ làm ăn. Hàng ngày, họ vẫn luôn luôn gần gũi với chúng ta. Xuất phát từ cái nhìn của Nguyễn Đình Chiểu - về người anh hùng nông dân, làm cho người đọc nhận ra rằng những anh hùng, những con người cao cả không phải ở đâu xa mà họ luôn ngay cạnh bên mình. Có thể nói, quan niệm tiến bộ về hình ảnh người nông dân làm cách mạng không phải ai cũng có được mà ta thấy rằng Nguyễn Đình Chiểu là lá cờ đi đầu về quan niệm này.
Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Tấm lòng chiến đấu và hi sinh của họ là tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm đời đời bất diệt, sáng rực mãi, trường tồn cùng sông núi. Bài học lớn nhất của người chiến sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về sống và chết. Sống hiên ngang, chết bất khuất. Tâm thế ấy đã tô đậm chất bi tráng "Tượng đài nghệ thuật về người nông dân đánh giặc". Bài văn tế được đúc kết thành một triết lí, một quan niệm sống của nhân dân ta.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp được trả thù kia...
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được xem là một áng văn chương xuất sắc cho văn học thời trung đại. Bằng một bút pháp trữ tình kết hợp nhuần nhuyễn với bút pháp hiện thực, bằng ngôn ngữ bình dị, mà tinh tế, bài văn đã tái hiện chân thực và đầy xúc động cả một thời đại đau thương nhưng anh dũng của dân tộc. Tác phẩm là một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người anh hùng nông dân khởi nghĩa, thể hiện sức mạnh bất diệt của dân tộc ta trong chống giặc xâm lược. Bài văn tế là lời ca ngợi, biết ơn của Nguyễn Đình Chiểu về những con người hùng dùng hiên ngang, hình ảnh của họ mãi mãi đi vào tâm trí nhân dân với sự biết ơn và ngưỡng mộ, tự hào.
Câu trả lời của bạn
* Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ:
- Họ xuất thân là những người nông dân nghèo khó. Mở đầu là cuộc đời cui cút, khép lại là cuộc đời nghèo khó. Người nông dân chỉ biết việc cuốc, cày, bừa, cấy. Họ không biết gì về chiến trận như cung, ngựa, trường, nhưng, chưa từng tập khiên, súng, mác, cờ…
- Tuy nhiên, khi giặc Pháp đánh chiếm quê hương, họ trở thành người nghĩa sĩ anh dũng đánh Tây. Thực dân Pháp tiến công Nam Bộ đã hơn mươi tháng, người dân mong chờ triều đình đánh giặc, nhưng trông tin quan, như trời hạn trông mưa. Quê hương bị tàn phá dưới gót giày xâm lược của giặc, người dân sục sôi căm thù. Lúc đầu nghe thấy kẻ thù hôi tanh, họ ghét thói xâm lăng mọi rợ như nhà nông ghét cỏ, thấy cỏ ở ruộng lúa là phải nhổ cho sạch. Khi kẻ thù hiện hình cụ thể trước mặt, lòng căm ghét chuyển sang căm thù, họ muốn ăn gan, muốn ra cắn cổ kẻ thù. Điều này diễn tả mức độ căm thù của nhân dân đối với giặc lên đến tột đỉnh.
- Bên cạnh sự căm thù của tình cảm là sự căm thù của lí trí. Cả tình cảm lẫn lí trí đều nổi giận và do ý thức trách nhiệm công dân, họ tự nguyện đứng lên đánh giặc, ra tay với khí thế hào hùng.
- Trong trận tập kích đồn Cần Giuộc, họ là những người dũng sĩ công đồn. Họ không đợi tập rèn luyện võ nghệ, cũng không chờ bày bố trận binh thư. Những người nông dân ấy cũng không chuẩn bị quân trang. Vũ khí chỉ là ngọn tầm vong vạt nhọn, con cúi làm mồi lửa, lưỡi dao phay – vốn là những vật dụng bình thường trong sinh hoạt hằng ngày. Nhưng khi đã ở trong tay người nghĩa sĩ, tất cả đều trở thành vũ khí vô địch.
=> Qua đoạn văn tế trên, tác giả đã phát hiện và ca ngợi bản chất cao quý tiềm ẩn đằng sau manh áo vải của những người nông dân lam lũ là lòng yêu nước và ý chí quyết tâm bảo vệ quê hương.
* Nghệ thuật:
- Bằng cách sử dụng biện pháp đối lập, tác giả đã tả quyết tâm chiến đấu của người nông dân nghĩa sĩ, dù kẻ thù có sức mạnh quân sự hơn ta nhiều lần. H
- Hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ bình dị, giàu cảm xúc, những từ ngữ giàu sức gợi.
- Ngôn ngữ chính xác, chân thực, cách so sánh, sử dụng động từ mạnh.
Câu trả lời của bạn
- Thể văn tế: gắn với phong tục tang lễ, đọc khi cúng tế người chết, âm điệu thường bi thương, lâm li, thống thiết.
- Bố cục:
+ Lung khởi (Từ đầu đến tiếng vang như mõ) là cảm tưởng khái quát về cuộc đời những người nghĩa sĩ Cần Giuộc.
+ Thích thực (Từ Nhớ linh xưa… đến tàu đồng súng nổ) là hồi tưởng cuộc đời và công đức của người nghĩa sĩ.
+ Ai vãn (Từ Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng đến cơn bóng xế dật dờ trước ngõ) là lời thương tiếc người chết của tác giả và người thân của các nghĩa sĩ.
+ Kết (còn lại) là tình cảm xót thương của người đứng tế đối với linh hồn người chết.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Đình Chiểu được biết đến không chỉ là một nhà Nho tiết tháo mà còn là một nhà thơ với tinh thần yêu nước nồng nàn. Bởi vậy, đau đớn trước cảnh các nghĩa sĩ hi sinh thân mình vì đất nước, nhà thơ đã sáng tác "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" để bày tỏ nỗi xót thương với họ. Nhận xét về tác phẩm, đồng chí Phạm Văn Đồng cho rằng: Bài thơ là khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được sáng tác trong hoàn cảnh vô cùng đau thương. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu, nhiều người nông dân đã tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc. Cuộc khởi nghĩa đã giết được một tên quan hai của Pháp và chi viện nhưng lại bị dập tắt đẫm máu khiến cho 20 nghĩa sĩ hi sinh. Bài văn tế được đọc trong buổi lễ truy điệu những người nghĩa sĩ, khiến ai ai cũng không khỏi cảm thấy xót xa.
Trước tiên, ở những người nghĩa sĩ ấy người đọc thấy được tượng đài sừng sững hiên ngang của tinh thần quả cảm không ngờ. Họ vốn xuất thân là những người nông dân áo vải và hoàn toàn xa lạ với công việc của người lính:
"Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu,ở trong làng bộ".
Vậy mà, khi nghe tiếng "súng giặc đất rền", họ căm thù chúng sâu sắc "trông tin quan như trời hạn trông mưa", "ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ". Ẩn dưới cách nói khẩu ngữ của người nông dân ấy là nhận thức sâu sắc về chủ quyền dân tộc, để rồi họ lâm trận với manh áo vải làm đồng còn lấm lem bùn đất: "Ngoài cật có một manh áo vải", "trong tay cầm một ngọn tầm vông". Đối lập với những trang thiết bị hiện đại, quân lính chuyên nghiệp của kẻ thù là võ trang thô sơ, sơ sài của những người nghĩa sĩ. Họ ra trận chỉ có tấm lòng và tinh thần dũng cảm vô song, nhưng họ chiến đấu bằng tất cả những gì họ có với khí thế ngùn ngụt: "Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ", "Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có". Những động từ mạnh như "đạp rào lướt tới", "xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có", "kẻ đâm ngang, người chém ngược" đã miêu tả sự quyết liệt , dữ dội của trận đấu cùng với những hành động quyết đoán của nghĩa sĩ Cần Giuộc. Kết quả là, họ đã làm nên chiến thắng to lớn, uy hiếp khiến kẻ thù lo sợ: "mã tà ma ní hồn kinh, bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ".
Qua ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu, người nông dân được ca ngợi với những chiến công hiển hách, nhưng nhà thơ cũng không thể tránh được cảm xúc đau lòng: "Đoái sông Cần Giuộc: Cỏ cậy mấy dặm sầu giăng; Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ". Nỗi xót xa ấy càng tăng thêm gấp bội với nỗi bất hạnh cuả những gia đình đang đánh mất trụ cột duy nhất: "Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ".
Càng thấm thía nghịch cảnh éo le của những người nghĩa sĩ bao nhiêu, Nguyễn Đình Chiểu lại càng đề cao, ca ngợi công lao của họ, để rồi hình tượng người nghĩa sĩ hiện lên vĩnh viễn hóa, bất tử hóa. Họ hiên ngang không chỉ trong chiến đấu, mà ngay cả khi thất thế, ở họ ta vẫn thấy tầm vóc hùng hũng, lớn lao: "Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ", "Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ bình, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó". Vẻ đẹp bi tráng với lí tưởng và lòng trung hiếu của những người nông dân áo vải ấy đã, đang và sẽ trường tồn mãi mãi với thời gian, như một chân lí không thể thay đổi. Bài thơ vì thế đau thương nhưng cũng trở nên hào hùng hơn bao giờ hết.
Thật vậy, lời nhận xét của đồng chí Phạm văn Đồng về những người nghĩa sĩ quả thực rất chính xác. Tuy rằng cuộc chiến của họ bị dập tắt nhưng vượt lên tất cả, vẻ hiên ngang oai hùng của họ sẽ luôn sống mãi với thời gian. Tượng đài bi tráng ấy sẽ vĩnh viễn hóa, bất tử hóa cùng với nhân dân, dân tộc.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong số những tác phẩm nổi bật trong chương trình ngữ văn lớp 11, bên cạnh bài làm văn Đồng chí Phạm Văn Đồng cho rằng: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang. Hãy phân tích và chứng minh ý kiến trên, học sinh và giáo viên tham khảo thêm các bài làm văn mẫu Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Hình ảnh người nông dân qua Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Quan niệm về người anh hùng trong Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc, và cả phần Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Câu trả lời của bạn
- Xuất thân của người nghĩa sĩ:
Là những người nông dân quanh năm côi cút làm ăn, hiền lành chất phác, ngòi bút tác giả vừa chân thực vừa sống động làm nổi lên cuộc sống bình dị khát vọng của người dân cày nghèo
Nhấn mạnh cái gốc nông dân của người nghĩa sĩ là một bước tiến một cái nhìn tiến bộ của ông Đồ Chiểu trong nền văn học bấy giờ (văn học trung đại thường ngợi ca những anh hùng là quan tử, nho sĩ mà bỏ qua người nông dân)
Nguyễn Đình Chiểu chính là người đầu tiên mở đường cho hình tượng người nông dân nghĩa sĩ bước vào văn học
- Phẩm chất người nông dân nghĩa sĩ:
Họ hiền lành chất phác, chăm chỉ cần cù, lời ăn tiếng nói mang đậm chất Nam Bộ
Khi đất nước bị xâm lược họ mang trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc thề không đội trời chung với giặc
Họ có ý thức tự tôn dân tộc, lòng mến nghĩa, tinh thần tự nguyện đánh giặc
⇒ Họ là hiện thân cho hai nét tính cách của người nông dân Việt Nam: giản dị- anh hùng.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *