DapAnHay mời các em tham khảo bài giảng Tương Tư của nhà thơ Nguyễn Bính - thi sĩ của đồng quê. Bài giảng sẽ đưa các em đến với những cung bậc cảm xúc của một trái tim đang yêu hồn hậu, chân thành, thuần phác. DapAnHay mong rằng bài giảng sẽ đem đến cho các em nhiều kiến thức mới mẻ và thú vị. Chúc các em có thêm một bài học hay.
"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bênh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng"
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xang nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”.
Băn khoăn hờn dỗi
Than thở
→ dòng thời gian trôi qua chậm chạp, chán ngán, vô vọng → lời than thở kể lể ngán ngẩm.
→ Cách diễn tả thời gian và tâm trạng thật tinh tế và ý nhị.
Hờn trách
Nôn nao mơ tưởng
" Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn ào?"
Đề: Tìm hiểu dấu ấn của nền văn hóa truyền thống ở cách nhìn đời, cách cảm thụ thiên nhiên và phô bày cảm xúc trong bài thơ
Gợi ý làm bài
Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Song trong khi hầu hết các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của thơ ca lãng mạn Pháp thì Nguyễn Bính về với văn hóa dân gian, gắn bó với môi trường bình dị, thân thuộc của đồng quê, qua những hàng cau, giàn trầu, rặng mồng tơi, cây đa, giếng nước, sân đình... Cùng với Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân... ông đã góp một dòng thơ, phái thơ riêng - Thơ mới dân gian, làm phong phú hơn cho thơ mới. Để nắm được nội dkung của bài học, các em có thể tham khảo thêm Bài soạn Tương tư.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Nguyễn Bính (1918 - 1966) tên khai sinh là Nguyễn Bính Tuyết. Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà, biết làm thơ từ năm 13 tuổi. Năm 1937, tập thơ Tâm hồn tôi được Tự lực văn đoàn trao giải. Năm 1945, Nguyễn Bính vào Nam Bộ. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ rồi kháng chiến chống Pháp, ông ở lại tham gia kháng chiến Nam Bộ, phụ trách đoàn Văn hóa Cứu quốc tỉnh Rạch Giá. Sau đó, ông chuyển sang công tác ở Ban văn nghệ khu Tám, sáng tác thơ, viết truyện kí và tùy bút. Năm 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, tiếp tục sáng tác, là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1956, ông chủ trương tờ báo Trâm hoa. Cuối đời, ông sống ở Nam Định. Để hiểu sâu sắc hơn về bài thơ này, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Chất liệu dân gian được thể hiện trong bài thơ Tương Tư của Nguyễn Bính
- Phân tích bài thơ Tương tư của nhà thơ Nguyễn Bính
- Diễn biến tâm trạng của chàng trai qua bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Văn học dân gian và hồn thơ dân tộc.
Câu trả lời của bạn
Lỡ bước sang ngang (1940).
Thuyết minh về bài thơ Tương Tư của Nguyễn Bính.
Câu trả lời của bạn
Nếu không có sự nhút nhát đã không có bài thơ này. Chàng trai đa tình này đã phải lòng một cô gái nào đó ở thôn bên, chẳng rõ “nàng” có biết điều này không, mà chàng cứ thè' nhớ nhung, mong ngóng, hờn dỗi, trách móc, hy vọng v. v… Và chỉ… ngồi một chỗ “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”.Nếu chàng “xăm xăm băng lối” theo đúng “đạo” nam nhi chủ động tìm đến thì đã chẳng có “tương tư”, hoặc có thơ sè là một bài thơ khác. Nghịch tình, nghịch cảnh là cốt lõi của hình thái “tương tư” này. Nguyễn Bính có sở trường trong việc biểu hiện môtíp “xa cách nhớ thương” nhất là những “cách trở” trong khi chẳng có “khoảng cách” nào “cách nhau có giậu mồng tơi xanh rờn” và “đây cách một đầu đình”… thì ra ngăn trở lớn nhất là sự “nhút nhát rụt rè chân quê”. Đây cũng là một nguồn thơ Nguyễn Bính – Tương tư là hiện thân đầy đủ của một cái tôi “đa tình” mà “nhút nhát”.
Có thể nói ở Tương tư có đủ “thiên thời”, “địa lợi” còn thiếu mỗi… “nhân hòa”. Khổ thơ đầu đã gợi lên cái lẽ “tất yếu” của mối duyên này: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Cũng bởi chỉ có “một người chín nhớ mười mong một người” thôi mà khổ thơ đã viện đến cả nắng mưa, trời đất. Nêu như “gió mưa là bệnh của trời” thì “tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” nghĩa là hoàn toàn tất yếu, hợp quy luật. Nhưng chàng rụt rè một cách “ranh mãnh” nên không xuất đầu lộ diện – chàng ẩn nấp vào thôn – “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”. Sự tài hoa đã bộc lộ ngay trong cặp lục bát đầu tiên là thế, nhất là ở câu thứ hai. “Một người” đầu này một người đầu kia, giữa họ là một chiếc cầu với chín nhịp nhớ, mười nhịp mong: “Một người chín nhớ mười mong một người”.
Anh yêu em là thuận lòng trời. Anh yêu em còn thuận cả lòng… đất nữa:
Hai thôn chung lại một làng.
Nhưng đây cách một đầu đình.
Ấy thế mà chúng mình vẫn chưa phải duyên nhau, vẫn chỉ là “tình xa xôi” và ngày tháng trôi đi thật hoài phí, con người mong đợi vẫn hoài công. Chàng bắt đầu kể lể, thở than và trách móc, hờn dỗi… cái việc em không sang thật trái với “lẽ trời”, “lẽ đời”. Cuối cùng chàng còn tìm ra một “lý sự” khôn khéo nữa ở “giàn giầu” và “hàng cau”.
Nào chỉ hợp với lòng trời, nào chỉ hai thôn “tạo điều kiện” không đâu. Ngay cả nhà anh và nhà em dường như các sự vật sinh ra đã ngầm “đính ước”, “hứa hôn” với nhau rồi. Chẳng thế mà:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng.
Trầu và cau sinh ra chẳng phải để tìm nhau, gặp nhau, “phải duyên nhau”, để mà “thắm lại” hay sao? Còn về bản thân anh? Sinh ra cũng đã thuộc về môi duyên này rồi, anh yêu em là tất yếu, là hiển nhiên rồi. Chữ “thì” ở đây là lời tuyên bố chính thức của chàng:
Thôn Đoài thì nhớ Thôn Đông
Tất cả còn lại chi phụ thuộc vào một mình em thôi:
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Logic ngầm của một lời tỏ tình như vậy, “chặt chẽ” đến mức… “nguy hiểm”, “chết người”!
Phân tích nỗi nhớ mong và tâm trạng trách móc của chàng trai trong bài thơ Tương tư.
Câu trả lời của bạn
Bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính đã đề cập tới một dạng thức sống động nhất của tình yêu, đó chính là tương tư. Đó là tâm trạng của một tâm hồn đang nhớ của một trái tim đang yêu, chàng trai trong bài thơ không chỉ có nỗi nhớ mong mà thêm vào đó là cả sự hờn giận, trách móc vô cùng nhẹ nhàng, đó chính là khi trong con người chàng trai ấy đã mắc phải “căn bệnh” tương tư.
Mở đầu bài thơ, cũng như là dấu hiệu đầu tiên của căn bệnh tương tư chính là sự nhớ mong, chàng trai quê chân chất với tình yêu chớm nở còn e ấp, mang trong mình nỗi nhớ nhung da diết, khắc khoải:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người”
Tác giả đã sử dụng hình ảnh của hai thôn để biểu thị cho hai cá thể, hình ảnh đó thật tinh tế, bởi nó đã phần nào cho thấy nỗi nhớ mong của chàng trai đã mênh mang, lan tỏa vào trong không gian, cảnh vật của làng quê nơi anh đang sinh sống. Giống như nhà thơ Nguyễn Du đã từng nhận xét “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, khi con người ta nhớ mong, dường như mọi cảnh vật cũng theo đó mà mang nỗi nhớ nhung. Tuy là “thôn Đoài” nhớ “thôn Đông” nhưng thực ra là người ở thôn Đoài nhớ người ở thôn Đông, cụ thể hơn chính là chàng trai ở thôn Đoài nhớ người con gái ở thôn Đông, nhớ nhung rất nhiều. Tác giả dùng trực tiếp từ “nhớ” để diễn tả nỗi nhớ, tuy nhiên nỗi nhớ ấy lại chịu sự ngăn cách của “chín nhớ mười mong”, sự nhớ mong vừa là cầu nối lại vừa là bức ngăn cách để chàng trai tìm tới người con gái mình yêu. Số đếm trong nỗi nhớ còn có tác dụng làm cho nỗi nhớ ngày càng tăng lên gấp bội. Nỗi nhớ da diết của chàng trai khiến cho tác giả phải nhắc tới căn bệnh tương tư:
“Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Căn bệnh tương tư sẽ chẳng chừa một ai khi họ đã và đang muốn dấn thân vào thứ tình yêu thương ngọt ngào xen lẫn khổ đau. Nỗi tương tư làm cho con người ta mệt mỏi, dằn vặt nhưng chính nó là gia vị và màu sắc của tình yêu. Chàng trai quê thật thà chất phác ấy đã không ngại mà nói về căn bệnh của mình, gió mưa là quy luật tự nhiên của trời đất, người con trai yêu nhưng không được người con gái đáp lại nên đành tương tư. Thế rồi từ nỗi nhớ mong lâu ngày, chàng trai muốn được nhìn thấy người mình yêu, anh trông ngóng chờ đợi nhưng không thấy, chàng trai bỗng nhiên buông lời trách móc nhẹ nhàng:
“Hai thôn chung lại một làng…
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
Chàng trai hờn trách rằng hai thôn gần nhau, chẳng xa cách đáng là bao, chẳng cách trở đò ngang, sông dài mà chỉ “cách một đầu đình” mà bên ấy lại để cho bên này chờ đợi trong mòn mỏi, phải tương tư khổ sở đến thế. Phải chăng không phải ngại đường xá khó khăn mà em không sang mà là do em không muốn sang. Đã chờ đợi lâu thế rồi mà “bên ấy” chẳng chịu sang chơi “bên này”, càng chờ càng thấy vắng bóng, chàng trai càng băn khoăn. Đối với một tâm hồn đang yêu cháy bỏng mà nói, sự chờ đợi được nhân lên rất nhiều lần, dù là một ngày hay chỉ một giờ không được gặp người mình yêu cũng dài như mấy năm vậy. Sự chờ đợi của chàng trai đã trải dài theo thời gian “Ngày qua ngày lại qua ngày”, mong chờ dài đặng đến nỗi vạn vật thay đổi, lá xanh đã thành lá vàng. Màu sắc từ xanh chuyển vàng còn thể hiện sự chờ đợi của chàng trai trong héo mòn, khô úa. Sự chờ đợi đến như vậy, chàng trai làm sao tránh khỏi sự hờn trách, trách móc trong tình yêu.
Có thể thấy, chàng trai tương tư của Nguyễn Bính càng yêu thương thì lại càng nhớ mong, trông ngóng, mà càng nhớ lại càng chờ đợi sự hồi âm, đáp lại tình cảm, thế nhưng càng chờ anh lại càng trách móc sự hững hờ của người con gái mình yêu. Tâm trạng nhớ mong và trách móc của chàng trai đã thể hiện cái đẹp đẽ, đáng yêu của mối tình quê thắm thiết, bình dị.
Dàn ý chi tiết Phân tích bài thơ Tương tư.
Câu trả lời của bạn
1/ Mở bài
Giới thiệu tác giả và bài thơ: Bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính đã đề cập tới một dạng thức sống động nhất của tình yêu, đó chính là tương tư. Đó là tâm trạng của một tâm hồn đang nhớ của một trái tim đang yêu, chàng trai trong bài thơ không chỉ có nỗi nhớ mong mà thêm vào đó là cả sự hờn giận, trách móc vô cùng nhẹ nhàng
2/ Thân bài
3/ Kết bài: Ý nghĩa nỗi nhớ mong và tâm trạng trách móc của chàng trai: Có thể thấy, chàng trai tương tư của Nguyễn Bính càng yêu thương thì lại càng nhớ mong, trông ngóng, mà càng nhớ lại càng chờ đợi sự hồi âm, đáp lại tình cảm, thế nhưng càng chờ anh lại càng trách móc sự hững hờ của người con gái mình yêu.
Bình giảng 4 câu cuối bài thơ Tương tư.
Câu trả lời của bạn
Đó là thơ Nguyễn Bính. Nhà thơ tự học mà thành tài. Hoài Thanh, trong "Thi nhân Việt Nam" cho biết, Nguyễn Bính vào tuổi 20 đã làm gần một ngàn bài thơ. Nguyễn Bính sử dụng nhiều loại thơ, điệu thơ, nhưng thành công nhất là thơ lục bát ở những bài thơ ấy, "ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta", ta cảm thấy một điều đáng quý báu vô ngần, đó là "hồn xưa của đất nước".
Những bài thơ tình của Nguyễn Bính có một giọng điệu riêng, đẹp như ca dao, mang tính cách ca dao... Nhiều câu thơ đoạn thơ cứ thấm vào hồn ta mãi:
"Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài, nhớ giầu không thôn nào?"
Đoạn thơ trên đây trích trong bài thơ "Tương tư", rút trong tập thơ "Lỡ bước sang ngang" (1940) của thi sĩ Nguyễn Bính. Bài thơ gồm 20 câu lục bát; 16 câu đầu nói về nỗi buồn nhớ tương tư, trách móc tủi hờn: "Có xa xôi mấy mà tinh xa xôi?"... Bốn câu cuối nói lên niềm mong ước của chàng trai đa tình về một tình yêu hạnh phúc với một thiếu nữ khác thôn chung làng.
Cấu trúc song hành đối xứng, bốn câu thơ liên kết thành hai cặp, gắn bó với nhau rất hồn nhiên, tự nhiên như duyên trời đã định giữa nhà em và nhà tôi, giữa em và anh, giữa thôn Đoài với thôn Đông, giữa cau với giầu vậy. Giọng thơ thì thầm ngọt ngào như một lời cầu mong, ao ước khao khát. Từ chỗ gọi "nàng": "Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng" đã chuyển thành tiếng "em" gần gũi, thân thiết yêu thương: "Nhà em có một giàn giầu ..." Cách xưng hô từ "tôi" - "nàng" dẫn đến "em" — "anh" thân thiết hơn, phong tình và yêu thương hơn.
Giầu (trầu) với cau đã cố kết bền đẹp từ ngàn xưa, nên bây giờ mói có sự tương giao tương hợp như một thiên duyên đẹp kì lạ:
"Nhà em có một giàn cau
Nhà anh có một hàng cau liên phòng"
Điệp ngữ "nhà ... có một" làm cho ý thơ vang lên khẳng định về một sự sóng đôi tồn tại. Tuy rằng "hai thôn chung lại một làng" chẳng xa xôi mấy, nhưng "giàn giầu" nhà em và "hàng cau liên phòng" của nhà anh vẫn còn ở về hai phía không gian. Nhà em và "hàng cau liên phòng" của nhà anh vẫn còn ở về hai phía không gian. Nhà em và nhà anh mới chỉ "có một" chưa chưa có đôi. Chữ một trong 2 câu thơ rất ý vị, nó đã nói lên ước mong về hạnh phúc lứa đôi duyên giầu - cau cũng là duyên lứa đôi bền chặt, sắt son, thủy chung.
Trong bài "Tương tư", Nguyễn Bính sử dụng nhiều câu hỏi tu từ để diễn tả nỗi buồn tương tư "gỡ mãi chẳng ra"
- Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
- Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
- Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
- Bao giờ bến mới gặp đò?
Và khép lai bài thơ, chàng trai tự hỏi mình trong mơ ước và hi vọng:
"Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài, nhớ giầu không thôn nào?"
Cả một thời thương nhớ, đâu chỉ tôi nhớ nàng, anh nhớ em, mà còn có "Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông". Cảnh vật cũng dan díu nhớ mong: "Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?" Một lối nói bỏ lửng, rất tế nhị, duyên dáng, đậm đà. Anh tự hỏi mình, và cùng thổ lộ cùng em. Câu hỏi tu từ với cấu trúc bỏ lửng đã thể hiện một tình yêu chân thành về một mơ ước hạnh phúc tốt đẹp. Ước mơ ấy thật nhân văn.
Đoạn thơ cho thấy vẻ đẹp riêng trong thơ tình của Nguyễn Bính. Tác giả vận dụng sáng tạo chất liệu văn học dân gian như giầu - cau, thôn Đoài - thôn Đông, câu thơ lục bát giàu vần điệu nhạc điệu để nói lên nỗi khao khát tình yêu hạnh phúc của lứa đôi. Một tình yêu đằm thắm, chân quê. "Tương tư" thấm vào nỗi buồn, nhưng đoạn kết đã mở ra một chân trời hi vọng.
Bình giảng bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Bính là một nhà thơ lãng mạn chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của thơ ca dân gian Việt Nam. Điều này đã làm nên sự khác biệt của ông với những nhà thơ đương thời theo phong trào Thơ mới. “Tương tư” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông.
Mở đầu bài thơ đó là nỗi nhớ của người đang yêu:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Nhà thơ xưng “tôi” – không quá trang trọng và cũng không quá trìu mến – tạo sự hài hòa, gần gũi mà vẫn có chừng mực. Ý thơ mang đậm chất ca dao dân tộc tạo sự liên tưởng đến cảnh làng quê yên bình cùng một tình yêu chân thành, mộc mạc. Lời trách của “tôi” cũng vì thế mà trở nên đáng yêu:
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”
Mối tương tư của “tôi” kéo dài theo thời gian:
“Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
“Tôi” lại hờn dỗi buông lời:
“Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…”
Đó là bởi “tôi” đã quá mong mỏi đọi chờ:
“Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!”
Thế mà “nàng” lại quá đỗi vô tâm, khiến cho nỗi niềm mong mỏi của “tôi” trở nên vô vọng
“Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
“Bến” với “đò”, “Hoa khuê các” với “bướm giang hồ” – đó là lối nói ước lệ tượng trưng vốn thường xuất hiện trong ca dao Việt Nam. Nó thể hiện khát khao mãnh liệt của “tôi” với “nàng” nhưng đồng thời cũng là nỗi buồn vì tình yêu chưa đâm hoa kết trái. Bởi vậy, nhà thơ thay đổi cách xưng hô: từ “tôi” sang “anh”, từ “nàng” sang “em” để ngỏ lời yêu:
“Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một giàn cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Không còn những trách móc vu vơ, thay vào đó là những mong ước chân thật, mộc mạc. Một nhà có giầu, một nhà có cau, nếu ghép lại thì thật vừa khéo. Lời ngỏ thể hiện mong ước, chờ đợi về hạnh phúc lứa đôi son sắt, bền lâu.
Viết theo thể thơ lục bát với cách dùng từ mang đậm nét ca dao dân gian, Nguyễn Bính đã đem nét đẹp thôn quê thổi hồn vào Thơ mới vốn được xem như là một phong trào xuất hiện từ Tây phương. Nét mộc mạc, duyên dáng trong “Tương tư” nói riêng và thơ Nguyễn Bính nói chung đã tạo nên những ấn tượng nhẹ nhàng mà sâu sắc trong lòng độc giả yêu thơ văn.
Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao phân tích bài thơ "Tương tư" để làm sáng tỏ điều đó.
Câu trả lời của bạn
Trong khi hầu hết các nhà thơ mới theo nhận xét của Hoài Thanh "đều đội lên đầu dăm bảy nhà thơ Pháp" thì Nguyễn Bính đã tìm một lối đi riêng, trở về với văn hoá dân gian, với những câu hát cửa đình, giậu mồng tơi, bến đò, cây đa, giếng nước... Ông đã trở thành "chủ soái" của trường phái "thơ mới dân gian" gồm Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân. Và cũng như các nhà thơ mới khác, thơ Nguyễn Bính có tiếng hát tình yêu, song không mãnh liệt, gấp gáp như tình yêu trong thơ Xuân Diệu, cũng không tang thương như thơ tình Hàn Mặc Tử. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Điều đó thể hiện rất rõ trong "Tương tứ" - bài thơ nổi tiếng của thi sĩ.
Tương tư là một trong bốn trạng thái tâm lí của nam nữ yêu nhau, nên bài thơ hiển nhiên nằm trong thi tứ quen thuộc của thơ ca muôn đời. Trong Kinh Thi, người Trung Quốc đã bảo nhau: "Nhất nhật bất kiến như tam thu hề"(Một ngày không gặp nhau dài như ba năm). Như thế, cách đây hàng nghìn năm, người ta đã phát hiện triệu chứng nhớ nhau của bệnh tương tư. Trước khi Nguyễn Bính viết "Tương tư" từ rất lâu ca dao ta đã có rất nhiều bài diễn tả trạng thái này như:
"Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt".
Đến Thơ mới khi mà tình cảm riêng tư của con người được giải phóng, mối tương tư cũng thành trăm hình vạn trạng. Nói như Lưu Trọng Lư: "Có cái tình say đắm, cái tình thoáng qua, cái tình trong giây lát..." và chúng đã hoá thành - "Tương tư chiều" của Xuân Diệu, "Hai sắc hoa Tigôn" của TTKH... - những bài thơ nổi tiếng một thời. Như vậy, trước Nguyễn Bính đã có những đỉnh cao, vượt qua không phải là dễ, song "Tương tứ" của ông không những sống mà còn sống mãi. Bài thơ là sự rung động rất tinh tế của thi sĩ; Thơ mới kết hợp nhuần nhuyễn với thơ ca dân tộc; chất dân gian được thể hiện trước hết ở sự lựa chọn nhân vật trữ tình. Đó là một chàng trai chân quê có cảm tình với một cô gái đồng nội. Có lẽ đôi bên mới gặp nhau đâu đó trong một buổi tát nước đêm trăng:
"Hôm qua trăng sáng mờ mờ,
Em đi tát nước tình cờ gặp anh".
Hay trong một dịp đi hát sân đình:
"Hỡi cô hát ống tối qua,
Đêm nay hát nữa cho ta hát cùng".
Nếu chàng cũng mạnh dạn "xăm xăm băng lối" thì có lẽ chả có chuyện, nhưng ở đây lại "Một người chín nhớ mười mong một người". Cái "tôi" trữ tình của chàng trai là cái "tôi" rất đa tình, nhưng không bạo dạn như trong thơ Xuân Diệu "phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần", mà nhút nhát như cái chất vốn có của những chàng trai quê:
"Chiều chiều lại nhớ chiều chiều,
Nhớ người yếm thắm dải điều thắt lưng".
Chính cái "tôi" đa tình nhưng nhút nhát ấy đã dẫn đến một nghịch lí. Cái "tôi" được đặt trong tâm cảnh nhớ mong, xa xôi cách trở trong lúc không có một khoảng cách nào. Nguyễn Bính rất giỏi diễn tả sự xa cách nhớ thương, có khi đó chỉ là "một giậu mồng tơi" và lần này là cách một đầu đình:
"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người".
"Thôn Đoài", "thôn Đông" là những từ ngữ chỉ địa danh làng xóm quen thuộc trong ca dao, dân ca, khác với những từ bóng bẩy của Thơ mới, nó được sử dụng như một hình ảnh ẩn dụ khiến cho bài thơ có dáng dấp đồng quê mộc mạc. "Một người chín nhớ mười mong một người", câu thơ chứa đựng một cấu trúc ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo. "Một người" đầu câu,"một người" ở cuối câu thơ, còn ở giữa là một thành ngữ dân gian "chín nhớ mười mong". Cấu trúc ấy khiến ta liên tưởng đến một bài ca:
"Chàng ở đầu sông Tương,
Thiếp ở cuối sông Tương.
Cùng uống nước sông Tương,
Thế mà cùng chẳng thấy".
Câu thơ của Nguyễn Bính gợi lên hình ảnh một người ở đầu này, một người ở đầu kia, song cái ngáng trở chính là sự nhút nhát, rụt rè chân quê. Chàng trai núp vào "thôn Đoài" như các chàng trai trong ca dao núp vào "mận" vào "đào". "Bây giờ mận mới hỏi đào. Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?". Song với cách nói bóng gió, chàng trai đã ngầm bày tỏ với cô gái nỗi nhớ nhung xa cách đang diễn ra trong lòng chàng và niềm ao ước hạnh phúc được gặp, được gần người mình yêu. "Thôn Đoài", "thôn Đông" là khoảng cách gần đủ để quen biết mà cũng đủ xa để nhớ thương. Qua đây, chàng trai đã ý nhị giới thiệu cô gái cũng chân quê như chàng, xứng đôi vừa lứa đủ để chàng bắc nhịp cầu "chín nhớ mười mong". Lời nói được hoán cải từ thành ngữ "chín nhớ mười thương" mà chàng trai dùng để bộc lộ nỗi riêng tư của mình, diễn tả sự xa cách trong tình yêu, yêu người nhưng không được gặp,"tình yêu chưa được đền đáp. Thậm chí người ta còn chưa biết mặt, nên sinh ra bệnh tương tư, bệnh nhớ. Cái nhớ của một người dành cho một người. Phải chăng đó là bi kịch trong tình yêu? Chàng trai đành thổ lộ lòng mình với người trong mộng, với cô gái trong tưởng tượng:
"Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy, chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau."
Cách đây 200 năm, Kim Trọng tương tư Thuý Kiều và bày tỏ tâm trạng nhớ thương "Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn". Còn lời của chàng trai trong bài thơ không phải là lời thể hiện thế giới nhớ nhung mà là lời than, lời kể lể và lạ lùng nhất là lời trách móc như những câu hỏi xoáy vào lòng người: Cớ sao? có xa xôi mấy? Bao giờ mới gặp? Điều ấy không hề thấy trong ca dao và trong văn chương bác học vì nó trái với quy luật. Từ xưa đến nay, trong chuyện tình cảm, người con trai thường phải đến với người con gái.
Đằng này cô gái trong bài thơ đâu biết có người yêu mình thế mà chàng lại than lại trách. Nhưng đấy chính là chỗ hay của bài thơ. Lời than của chàng trai bề-ngoài thì vô lí, nhưng đọc lên ai cũng cảm thông vì đó là sự thể hiện cái "tôi" nhút nhát, chân quê và tình cảm sâu đậm của chàng thay đổi qua không gian và thời gian mà rõ nhất là về không gian. Tất cả những gì thuộc về thế giới của người yêu đối với chàng đều rất gần gũi, gần gũi đến mức không còn khoảng cách.
"Hai thôn chung lại một làng"
Đúng là khi đang yêu, người ta muốn hoà nhập làm một. Tản Đà đã từng có câu: "Mình với ta tuy hai mà một — Ta với mình tuy một mà hai". Mong ước hoà nhập nhưng không thể vì vẫn còn "bên ấy", "bên này", vẫn còn ngăn cách. Chỉ cách nhau có một đầu đình mà không sang được thì đúng là không gian không xa mà tình ý lại xa. Tình cảm của chàng trai dành cho cô gái sậu đậm, nó còn được thể hiện qua thời gian:
"Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng"
Dường như chàng trai đang đếm từng ngày chầm chậm trôi qua; thời gian như kéo dài trong lòng người tương tư. Sự chờ đợi còn làm thay đổi cả hình cây với lá, cũng có nghĩa là sự chờ đợi đến héo hon của chàng trai qua nhiều ngày: "Tương tư thức mấy đêm rồi". Nhưng với cái lành mạnh, khoẻ khoắn của người Việt Nam, chàng trai hi vọng:
"Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?"
"Bến" và "đò" là những ẩn dụ quen thuộc trong ca dao, dân ca. Nguyễn Bính đã sử dụng chất liệu dân gian, tạo cho bài thơ âm hưởng ca dao mộc mạc, nhưng đổng thời mang tinh thần của Thơ mới qua hình ảnh "hoa khuê các", "bướm giang hồ". Lại vẫn là câu hỏi: "bao giờ?" nhưng nó cũng hàm chứa cả hi vọng, vì con đò có trôi nổi đến đâu, cuối cùng cũng sẽ quay về với bến và bông hoa kia dù có nở trong "khuê các" thì cũng không thể ngăn bướm giang hồ; Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh cô đọng "trầu- cau" và nỗi nhớ thương khôn nguôi:
"Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?"
Trong văn chương Việt Nam, trầu cau là biểu tượng cho tình yêu và hôn nhân. Bốn câu thơ là niềm mong ước trong sáng và chân thật của người đang yêu, chân thật như chính tình cảm mà chàng trai đã dành cho cô gái. Song ước mơ ấy cũng chỉ nằm trong mộng tưởng mà thôi. Từ nỗi nhớ của một người dành cho một người ở đầu bài, đến cuối bài đã thành vùng không gian này nhớ vùng không gian kia, mà là nỗi nhớ của trầu và cau - những sản vật không thể thiếu trong lễ cưới hỏi. Trong nỗi nhớ nhung tương tư ấy đã thắp lên ước mơ muôn thuở của tình yêu "Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông"...
Không ồn ào mà dịu êm, không dữ dội mà lặng lẽ, không mãnh liệt mà chân thành mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Đó chính là tình yêu trong thơ Nguyễn Bính, sâu lắng mà không kém phần da diết, đã dệt nên khúc "Tương tư" cho muôn đời:
"Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?"
Dấu ấn thơ ca dân gian trong bài Tương tư của Nguyễn Bính.
Câu trả lời của bạn
Tên bài thơ và cũng là chủ đề của bài thơ: Tương tư là nhớ nhau. Không phải con nhớ mẹ, chị nhớ em, bà nhớ cháu… mà anh nhớ em! Tương tư là đề tài về tình yêu đôi lứa. Nhắc đến Tương tư, ta thấy đó là một đề tài quen thuộc trong ca dao, dân ca. Nền văn học dân gian còn ghi lại những vần thơ tuyệt bút viết về nỗi nhớ gái trai:
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ?
Chọn một đề tài quen thuộc trong ca dao dân ca, Nguyễn Bính đã lấy một cái tên thật gợi: "Tương tư". Những chữ Hán Việt ấy gợi cả một trời nhung nhớ, mong đợi thiết tha, giản dị, chất phác nhưng không kém phần sôi nổi của những thôn nữ, trai làng xưa:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than!
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?…
Bên cạnh đề tài, tiêu đề bài thơ những gì Tương tư của Nguyễn Bính học từ giọng điệu, hình ảnh thơ và cách ví von trong thơ ca dân gian cũng góp phần giúp bài thơ thêm thắm sắc lên hương.
Có thể nói, rất ít nhà thơ Thơ mới "dùng lại" những thể thơ cũ (họ sợ thơ mình sẽ bót "mới" chăng?). Nguyễn Bính không vậy. Nét tinh tế thiết tha ân tình của thể thơ lục bát dân gian vẫn được thi nhân nâng niu trân trọng. Nếu như ca dao Việt Nam đặc trưng bởi thể thơ lục bát, ngắt nhịp 2/2/2 hoặc 3/3, 4/4:
Anh đi/ anh nhớ/ quê nhà
Nhớ canh rau muống/ nhớ cà dầm tương
Trèo lên/ cây bưởi/ hái hoà
Bước xuống vườn cà/ hái nụ tầm xuân…
Thì thơ Nguyễn Bính cũng da diết, tình tứ nhờ thể thơ, nhịp điệu ấy.
Thôn Đoài/ ngồi nhớ/ thôn Đông
Một người/ chín nhớ/ mười mong/ một người
Nắng mưa/ là bệnh/ của giời
Tương tư / là bệnh/ của tôi/ yêu nàng.
Sự tha thiết, nhịp nhàng, lối bắt vần dễ nhớ dễ thuộc của lục bát thật thích hợp với những tình yêu đôi lứa nơi thôn dã như thế. Chưa hết, những hình ảnh thơ quen thuộc trong thơ ca dân gian đã được Nguyễn Bính học hỏi, vay mượn và sử dụng đầy hiệu quả.
Những "thôn Đoài", "thôn Đông" quen thuộc biết mấy với đời sống người nông dân. Những lề lối, phong tục Tương tư dùng làm thi liệu cũng bắt rễ từ ca dao, dân ca. Nhắc đến trầu, đến cau có ai không nghĩ đến "sự tích trầu cau" sâu nặng nghĩa tình. Lấy "miếng trầu làm đầu câu chuyện" Nguyễn Bính cũng đồng thời lấy trầu cau để nói chuyện Tương tư:
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau hên phòng
Dân gian lấy trầu cau để nói đến sự hòa hợp lứa đôi, nói đến thủy chung son sắt:
– Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân
- Giần loan giầu phượng giầu mình với ta
Giàu này em têm từ tối hôm qua
Giấu thầy giấu mẹ em mang cho chàng….
Còn Nguyễn Bính, mượn cớ nhà em có giàn giầu nhà anh có hàng cau (hòa hợp quá đi!) để tiếc nuối "Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này". Tiếc nuối và cũng là trách móc "Có xa xôi mấy mà tình xa xôi". Sự hên tưởng chàng trai thật đáng yêu. Nó ngây thơ quá đỗi. chàng cứ nghĩ có trầu có cau là thành chồng thành vợ (dân gian bảo vậy kia mà) nên dỗi hờn: sao nhà em có giầu nhà anh có cau mà… "Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng". "Lá" ở đây có lẽ cũng là lá trầu. Lá chuyển màu rơi rụng cũng là sự phôi pha xa cách của tình cảm cô gái. Sự phôi pha, xa cách ấy vì đâu? Vì "cách trở đò giang ư?". Ca dao từng nói:
Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua.
Vậy thì đâu phải xa xôi. Nhà mình nhà ta cách nhau có "một đầu đình". Mà đình làng xưa vốn là nơi để gái trai nên duyên nên phận:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.
Vậy nên chẳng hiểu vì đâu đôi ta không thành đôi thành lứa. Chàng trai với nỗi Tương tư bồn chồn chẳng dứt cứ trở đi trở lại nỗi băn khoăn:
Biết cho ai hỏi ai người biết cho
Bao giờ bến mới gặp đò?
Sử dụng những hình ảnh quen thuộc trong thơ ca dân gian, Nguyễn Bính đã gợi lại những nếp nghĩ, nếp sống mộc mạc ân tình của người nông dân nơi thôn dã. Không chỉ vậy, mượn những hình ảnh đó, nhà thơ còn giúp nhân vật trữ tình của Tương tư bộc lộ lòng mình, ấy là nỗi nhớ nhung tha thiết, bồn chồn, khắc khoải.
Lối ví von trong Tương tư cũng rất gần với dàn gian. Nói về tình yêu, dân gian vô cùng tinh tế "nói xa" rồi mới "nói gần", không bao giờ "nói thẳng như ruột ngựa". Bày tỏ niềm tiếc nuối vì người thương đã lấy chồng, chàng trai phải đưa đẩy, xa xói rồi mới bày tỏ nỗi niềm:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã lấy chồng anh tiếc lắm thay.
Tương tư cũng mượn lối nói bóng bẩy xa xôi ấy:
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Ví von như thế để khẳng định: tình yêu của mình cũng như một quy luật tất yếu của tự nhiên. Trời có nắng có mưa, người có yêu có thương, vậy mới là người!
Hình ảnh "bến", "đò", "hoa khuê các", "bướm giang hồ" cũng vốn là những hình ảnh đầy biểu tượng. Trong tình yêu, người con trai thường được ví với thuyền ra đi, với bướm giang hồ; người con gái chỉ là hoa, là bến:
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Mượn hình ảnh kín đáo ấy, chàng trai trong nỗi Tương tư dâng trào đã bày tỏ khát khao:
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?
Tình yêu dù sôi nổi bồng bột đến mấy, con người Việt Nam vẫn không mất đi sự tinh tế, kín đáo. Thơ ca đã thể hiện điều ấy qua những hình ảnh ví von rất gợi.
Tiếp thu những nét truyền thống trong thơ ca dân gian, nhưng điều ấy không hề làm thi sĩ "chân quê" trở nên "quê mùa" trước một rừng các nhà Thơ mới. Điều đó trước hết khẳng định sức sống tiềm tàng của thơ ca dân gian – tinh hoa của dân tộc bao đời. Đó cũng tạo nên phong cách riêng của Nguyễn Bính trong nền văn học dân tộc.
Cảm nhận bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Bính được mệnh danh là nhà thơ đồng nội, ghi dấu ấn trong lòng độc giả bằng phong cách nhẹ nhàng, bình dị, đậm chất thôn quê. Bài thơ Tương tư trích trong tập “Lỡ bước sang ngang” của ông thể hiện nỗi niềm tâm sự riêng tư của một người trót nhớ thương khắc khoải về một người.
“Tương tư” chắc chắn không phải là cái tên được tác giả lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Nó là một cái tên đủ để toát lên toàn bộ nỗi niềm ẩn chứa bên trong từng câu chữ. Tương tư chính là cảm giác nhớ thương khắc khoải, chờ mong hồi đáp của một kẻ đang yêu thương cuồng nhiệt, nhưng đáng tiếc lại là tình đơn phương. Tâm chân tình của kẻ yêu đơn phương ấy được dồn nén, được ấp ủ và cũng được bộc lộ qua từng vần thơ chân thành, mộc mạc:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người”
Hai câu thơ đơn giản như vẽ lên trước mắt chúng ta một bức tranh thôn quê yên bình, đơn sơ đến lạ. Tác giả mượn “thôn Đoài”, “thôn Đông”, thông qua thủ pháp nhân hóa được sử dụng tài tình để thổ lộ nỗi nhớ nhung ẩn sâu tận đáy lòng. Ta như nhìn thấy một người giữa tuổi thanh xuân phơi phới, đứng ở thôn này mà hướng mắt xa xăm về phía thôn bên, những mong có thể nhìn thấy bóng hình mà mình thầm thương trộm nhớ.
“Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Câu chuyện nắng mưa của thiên nhiên đã được tác giả sử dụng thật tài tình để nói lên tấm lòng của mình. Nỗi tương tư về một ai đó, giống như căn bệnh trầm kha tồn tại sâu trong tâm hồn và nó là chuyện bình thường, là lẽ dĩ nhiên phải thế giống như quy luật của đất trời. Chỉ với bốn câu thơ mở màn rất đơn giản, tác giả đã thành công trong việc khơi dậy sự thích thú của người đọc trước mối tình bình dị mà cuồng nhiệt của chàng trai thôn Đoài với cô gái thông Đông.
Tuy nhiên, ở những câu thơ tiếp theo, chúng ta lại cảm nhận được nỗi giận hờn, trách móc nhẹ nhàng nhưng không kém phần sâu lắng của chàng trai trước sự hững hờ từ phía cô gái:
“Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Những đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Những câu hỏi nối tiếp nhau dồn dập như lột tả trọn vẹn nỗi lo lắng, bối rối chất chồng đang thổn thức trong lòng của chàng trai đang yêu. Chàng trai bối rối và cũng giận hờn khi dường như cô gái cứ hững hờ, vờ không biết tới tình cảm của chàng trai.
Giọng điệu của mỗi câu thơ đều uyển chuyển, nhẹ nhàng và tha thiết, như chàng trai đang muốn gửi gắm thông điệp tình cảm của mình tới cô gái. Từ “cớ sao” được sử dụng khiến lời trách móc của chàng trai trở nên tế nhị và đáng yêu hơn, đồng thời nó cũng như một lời “gợi ý” cho cô gái. Suốt bao đêm tương tư, chàng trai ấy chỉ có một niềm mong mỏi là “bến” được gặp “đò”, “Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau”, mong mỏi cô gái ấy sẽ hiểu cho nỗi lòng của mình.
Và rồi trong cái tâm trạng rối bời vì chờ mong khắc khoải ấy, chàng trai lại tự hỏi:
“Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Thể thơ lục bát mang lại cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng, dễ đi vào lòng người và sức lay động trở nên to lớn hơn. “Giàn trầu”, “hàng cau” lại được tác giả “mượn” để diễn tả nỗi nhớ thương da diết của chàng trai, giống như dây trầu quấn lấy thân cau, như sự “không thể thiếu nhau” của trầu cau trong văn hóa dân gian.
Nhưng bên cạnh sự mộc mạc ấy, việc tác giả thay đổi cách xưng hô một cách táo bạo, từ “tôi với nàng” thành “anh với em” thể hiện tình cảm đó dường như đã quá lớn, quá sâu đậm, thôi thúc chàng trai trực tiếp thổ lộ nỗi lòng với cô gái. Nhân vật trữ tình trong bài thơ có sự bình dị, trong sáng, nhưng cũng có sự chân thành, mãnh liệt.
Có thể nói, nỗi tương tư vốn rất quen thuộc đã được Nguyễn Bính “nghệ thuật hóa” một cách tài tình thông qua ngòi bút xuất thần và thông qua tứ thơ bình dị, mộc mạc.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Bính (1918 -1966) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính (có thời kì lấy tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở làng Thiện Vịnh xã Đông Hội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Nguyễn Bính xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, sớm mồ côi mẹ, năm 10 tuổi phải theo anh lên Hà Nội kiếm sống. Nguyễn Bính làm thơ khi mới 13 tuổi và sớm thể hiện tài năng sáng tác của mình. Năm 1943, ông vào Nam Bộ rồi ở lại tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1954 ông tập kết ra Bắc và tiếp tục tham gia công tác báo chí văn nghệ.
Trong khi phần lớn các thi sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây thì Nguyễn Bính lại tìm về với hồn thơ dân tộc và hấp dẫn người đọc bằng chính hồn thơ này. Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian, thơ Nguyễn Bính đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương, đất nước và tình người đằm thắm, thiết tha. Vì thế. Nguyễn Bính được coi là thi sĩ đồng quê và có nhiều tác phẩm được truyền tụng rộng khắp.
Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Bính trước Cách mạng: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Hương cố nhân (1941) Mười hai bến nước (1942), Cây đàn tì bà (truyện thơ -1944); sau cách mạng có: Ông lão mài gươm (1847), Gửi người vợ miền Nam (1955), Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ - 1958). Đêm sao sáng (1962), Cô Son (chèo -1961), Người lái đò sông Vị (chèo - 1962)...
Bài thơ Tương tư được in trong tập thơ Lỡ bước sang ngang. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ chân quê của Nguyễn Bính.
Tâm trạng của người con trai trong bài thơ
Bản chất tâm lí của tâm trạng tương tư không chỉ có nhớ nhung đơn thuần mà là một phức hợp cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không xuôi chiều
Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/phan-tich-tuong-tu-cua-nguyen-binh-c38a706.html#ixzz6Kij3uQyD
Nguyễn Bính (1918 -1966) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính (có thời kì lấy tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở làng Thiện Vịnh xã Đông Hội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Nguyễn Bính xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, sớm mồ côi mẹ, năm 10 tuổi phải theo anh lên Hà Nội kiếm sống. Nguyễn Bính làm thơ khi mới 13 tuổi và sớm thể hiện tài năng sáng tác của mình. Năm 1943, ông vào Nam Bộ rồi ở lại tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1954 ông tập kết ra Bắc và tiếp tục tham gia công tác báo chí văn nghệ.
Trong khi phần lớn các thi sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây thì Nguyễn Bính lại tìm về với hồn thơ dân tộc và hấp dẫn người đọc bằng chính hồn thơ này. Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian, thơ Nguyễn Bính đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương, đất nước và tình người đằm thắm, thiết tha. Vì thế. Nguyễn Bính được coi là thi sĩ đồng quê và có nhiều tác phẩm được truyền tụng rộng khắp.
Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Bính trước Cách mạng: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Hương cố nhân (1941) Mười hai bến nước (1942), Cây đàn tì bà (truyện thơ -1944); sau cách mạng có: Ông lão mài gươm (1847), Gửi người vợ miền Nam (1955), Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ - 1958). Đêm sao sáng (1962), Cô Son (chèo -1961), Người lái đò sông Vị (chèo - 1962)...
Bài thơ Tương tư được in trong tập thơ Lỡ bước sang ngang. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ chân quê của Nguyễn Bính.
Tâm trạng của người con trai trong bài thơ
Bản chất tâm lí của tâm trạng tương tư không chỉ có nhớ nhung đơn thuần mà là một phức hợp cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không xuôi chiều
Tâm trạng tương tư trong bài thơ diễn biến qua nhiều sắc thái cảm xúc chính như sau;
Nhớ nhung:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh, của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Băn khoăn, dỗi hờn:
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Than thở:
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Hờn trách:
Bảo rằng cách trở đò ngang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Nôn nao, mơ tưởng:
Bao giờ biến mới gặp đò?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau
Ước vọng xa xôi:
Nhà em có một giàn trầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Sự phức tạp mang tính quy luật trong tâm lí khi yêu
Sự bày tỏ tình cảm của người con trai trong bài thơ có điều gì bất hợp lí. Trong tình yêu, người chủ động đi đến phải là anh con trai, đằng này anh lại trong vai thụ động, ngồi chờ tình yêu. Đã thể hiện sự thụ động lại còn hờn dỗi, trách móc. Đó là cái bất hợp lí bên ngoài.
Tuy nhiên, trong cái bất hợp lí đó lại thể hiện, cái lí của nó. Đó là cái lí về chiều sâu.
Thứ nhất, đây là một bài thơ, tác giả đã tạo ra một tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm, chứ không câu nệ vào lẽ khách quan. Thi sĩ phải đặt chàng trai vào thế thụ động mới có thể bộc bạch được tâm trạng tương tư của một người con trai quê mùa, chất phác.
Thứ hai, lối trách này không phải vì ghét, không giống sự qui kết trách nhịệm, đổ lỗi thông thường, mà trách vì yêu. Do quá mong nhớ, bị nỗi nhớ giày vò, người trong cuộc dễ tưởng mình bị hững hờ, nên sinh ra trách hờn, không có hàm ý ghét bỏ. Nói cách khác, trách chỉ là một cách để bộc bạch tình yêu.
Câu trả lời của bạn
Chất dân gian được thể hiện trong bài thơ Tương Tư của Nguyễn Bính.
Câu trả lời của bạn
Trong khi hầu hết các nhà Thơ mới – theo nhận xét của Hoài Thanh "đều đội lên đầu dăm bảy nhà thơ Pháp" thì Nguyễn Bính đã tìm một lối đi riêng, trở về với văn hóa dân gian, với những câu hát cửa đình, rặng mồng tơi, bến đò , cây đa, bến nước.... Ông đã trở thành "chủ soái" của trường phái "thơ mới dân gian" gồm Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân. Và cũng như các nhà Thơ mới khác, thơ Nguyễn Bính có tiếng hát tình yêu song không mãnh liệt, dữ dội như tình yêu trong thơ Xuân Diệu, không tang thương như thơ tình Hàn Mặc Tử. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Bài thơ "Tương tư" rất tiêu biểu cho hồn thơ và giọng thơ Nguyễn Bính trong lĩnh vực thơ tình. Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nét truyền thống và hiện đại, vừa chứa những nét dân gian chân chất vừa mang trong mình cái hồn thơ mới.
Trong dòng Thơ Mới 1930-1945 ,"Tương tư" của Nguyễn Bính có phong cách cổ điển dân dã ở cả thi liệu, thể thơ, đề tài. Nếu như thơ Xuân Diệu mới lạ trong màu sắc phương Tây, Hàn Mặc Tử siêu thực trong thơ Điên... Nguyễn Bính tinh ròng chất ca dao .Nét truyền thống trước hết thể hiện ở ngay thể thơ- thể lục bát, đây là thể thơ truyền thống do người Việt Nam sáng tạo nên. Nguyễn Bính vận dụng cách ngắt nhịp đều đặn, hài hoà như ca dao truyền thống. Đó là nhịp chẵn 2/2/2; 2/4( câu lục ) và 2/2/2/2; 4/4 ( câu bát ) thường thấy của ca dao:
"Thôn Đoài / ngồi nhớ / thôn Đông
Một người / chín nhớ / mười mong / một người"
Về đề tài, bài thơ là nỗi nhớ, tương tư trong tình yêucủa chàng trai dành cho người con gái. Đây là đề tài thường thấy trong ca dao.
Nhớ ai khổ sở thế nầy
Nhớ ai, ai nhớ, đêm ngày nhớ ai
Nhớ ai, ai có nhớ ai
Nhớ sao da diết, biết có ai nhớ mình
(Ca dao)
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
(Ca dao)
Thơ lục bát của Nguyễn Bính cũng rất tự nhiên, mượt mà, không gò ép nhưng cũng không rơi vào diễn ca, vần vè, dễ dãi. Bởi thể lục bát dường như đã nhuyễn vào hồn thơ Nguyễn Bính. Theo thi sĩ Mộng Tuyết thì Nguyễn Bính làm thơ lục bát rất dễ dàng: "Bính viết lục bát nhanh như văn xuôi". Đọc thơ Nguyễn Bính, ta như được thưởng thức những khúc nhạc êm dịu của ca dao:
Gió mưa là bệnh của trời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành;
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi.
Phát huy nhịp điệu trầm buồn, êm ái, mượt mà của thể lục bát, Nguyễn Bính đã tạo nên những dòng thơ lục bát rất hay, mang đậm phong cách thơ "chân quê":
Về ngôn ngữ, cũng như ngôn ngữ của thơ ca dân gian, ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Bính không cầu kì khuôn sáo mà gần gũi, chân thành. Ta nghe như có tiếng trách móc nhẹ nhàng đáng yêu của một chàng trai với người mình thương:
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Hay những lời kể chân chất:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Bính gần gũi với ngôn ngữ thơ ca dân gian còn bởi nó giàu hình ảnh, màu sắc, nhạc điệu. Nhà thơ đã chọn cho mình cách biểu hiện thế giới tình cảm trừu tượng thông qua những sự vật hiện tượng cụ thể xung quanh, những cảnh quan bình dị nơi thôn dã gần gũi thân quen, đó là thế giới của giàn giầu, hàng cau, mái đình, của làng quê Việt Nam thân quen, gần gũi.
Một điều đáng chú ý nữa là những từ có vùng mờ nghĩa hết sức đặc sắc của thơ ca dân gian đã hòa hợp vào "Tương tư" của Nguyễn Bính một cách rất tự nhiên. Những cụm từ phíếm chỉ tôi- nàng, Thôn Đoài – thông Đông, bên ấy – bên này, bến – đò, hoa – bướm cùng đại từ phiếm chỉ "ai" rất tế nhị, khó xác định chính xác đối tượng nhưng cũng rất dễ vận vào bất cứ người nào, làm tăng khả năng khái quát tâm trạng điển hình của nhiều người, tăng khả năng đồng cảm giữa những con người khác nhau. Nguyễn Bính đã làm người đọc phải suy nghĩ vấn vương bởi những câu có từ mờ nghĩa:
"Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai biết, ai người biết cho
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này"
Nguyễn Bính còn làm tăng sắc thái biểu hiện của ngôn ngữ thơ bằng việc sử dụng thành thạo các biện pháp tu từ mà ca dao hay dùng. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh thường xuyên đi về trong thơ Nguyễn Bính. Nói tình yêu đôi lứa, tác giả dùng hình ảnh "hoa- bướm" (hoa khuê các, bướm giang hồ), "trầu- cau" (giàn giầu/ hàng cau liên phòng), "bến - đò" (Bao giờ bến mới gặp đò).
Nguyễn Bính sử dụng rất thuần thục lối đan chữ thường thấy trong thơ ca dân gian, "chín nhớ mười mong" được hoán cải từ thành ngữ " chín nhớ 10 thương" từ thành ngữ để chàng trai bộc lộ nỗi niềm riêng tư của mình, diễn tả sự xa cách trong tình yêu, yêu người nhưng không được gặp người, tình yêu không được đền đáp, thậm chí người ta còn chưa biết nên sinh ra nỗi tương tư. Do đó, từ ngữ không còn ý nghĩa thường có của chúng bởi vì chính khi tư duy theo kiểu đan lồng những từ tương hợp thì ý nghĩa của từ đã được nhân lên gấp bội:
"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người"
Lối đan chữ "chín nhớ mười mong" đã làm tăng nỗi nhớ mong thấp thỏm của chàng trai đang trong trạng thái " tương tư".
Trong bài thơ, chất dân gian vẫn không lấn át được những tình điệu lãng mạn vốn là sản phẩm đặc thù của thời đại Thơ mới. Nét hiện đại thể hiện rõ nét qua nhịp điệu, hình ảnh và đặc biệt là cảm xúc – tình cảm cá nhân được bộc lộ trực tiếp.
Trước hết ở nhịp điệu:
Vì mang hơi thở của cái tôi Thơ Mới, lục bát của Nguyễn Bính nhiều khi phá vỡ tính cân xứng hài hoà của lục bát cổ, đặc biệt là về nhịp điệu. Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính vừa ngắt nhịp theo kiểu truyền thống vừa có những kiểu ngắt nhịp phá cách linh động diễn tả tâm hồn của nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình. Tác giả sử dụng kiểu ngắt nhịp 3/3/2 ở câu bát làm cho lời thơ sinh động hẳn lên. Nhịp thơ ngắt bất ngờ tạo sự xuất hiện đột ngột của tình huống:
Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, / bướm giang hồ /gặp nhau.
Hay sự ngắt nhịp 3/3 trong câu lục biểu thị nỗi chờ đợi mòn mỏi của chàng trai:
Ngày qua ngày/ lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng.
Với lối ngắt nhịp linh hoạt phá cách không tuân theo những quy tắc truyền thống mà tuân theo tần số dao động của tình cảm, Nguyễn Bính đã tạo cho thơ lục bát của ông những dấu ấn riêng độc đáo khác với ca dao, đem lại những xúc cảm mới mẻ cho người đọc.
Về việc sử dụng hình ảnh, Nguyễn Bính không phải là nhà thơ gây ấn tượng đối với người đọc bằng những hình ảnh mới lạ như những nhà Thơ Mới khác như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Thơ ông là sự trở về với những hình ảnh gần gũi quen thuộc trong ca dao với những giàn giầu, hàng cau, làng xóm...nhưng điều đáng chú ý là Nguyễn Bính sử dụng hình ảnh chất liệu dân dã của ca dao nhưng ông đã thổi vào đó cái hồn của Thơ Mới. Trong ca dao hay thơ trung đại, các tác giả lấy thiên nhiên làm cái cớ, ẩn chứa trong đó lí do, gửi gắm nỗi niềm, ẩn dụ cho chàng trai – cô gái
"Bóng trăng anh tưởng bóng đèn
Bóng cây anh ngỡ bóng thuyền em sang"
"Huệ nhớ thương Lan, héo vàng xác Huệ
Anh quá thương nàng, trối kệ thị phi"
Còn trong thơ Nguyễn Bính, tác giả thể hiện trực tiếp tình cảm của mình và thiên nhiên, các hình ảnh thơ để tạo không gian nhân vật sống, không gian quen thuộc nuôi dưỡng tình cảm của nhân vật trữ tình:
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Sự thực trong câu thơ đã len vào thứ giọng đậm chất thành thị của con người thời Âu hóa với đặc điểm dám gọi đích danh sự vật hiện tượng, sự vật, dám chường cái tôi của mình ra mà giãi bày – một lời giãi bày trần trụi, táo bạo và mãnh liệt. Ngay ở tên nhan đề bài thơ cũng đã thể hiện rõ ràng: "tương tư" – nó như phô bày, như khoe lòng mình trước thiên hạ rằng tôi đang yêu, tôi đang nhớ. Điều này là một sự hiếm thấy trong ca dao.
"Tương tư" của Nguyễn Bính tuy vẫn đi trên khung truyền thống của dân tộc nhưng nét mới nhất là nằm ở nội dung. Nguyễn Bính đã làm mới thể thơ lục bát bằng cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu mới mẻ, linh động, thấm đẫm cái tình tứ Thơ Mới. Bên cạnh đó đó ông đã thổi "hồn quê" vào bài thơ. Điều này đã làm cho tác phẩm có diện mạo riêng so với ca dao và các tác phẩm khác trong phong trào Thơ Mới. Nét nổi bật của hồn quê trong lục bát Nguyễn Bính là thứ hồn quê mang màu sắc cá nhân. Cũng mang "hồn quê" nhưng lục bát ca dao nó mang tính phổ quát còn trong thơ lục bát của Nguyễn Bính, không gian đồng quê được phủ lên cái tâm tư của con người hiện đại. Bài thơ vừa là sự kết hợp, kế thừa của những yếu tố truyền thống vừa có những nét mới, tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính thuộc thế hệ các nhà Thơ mới. Nhưng nếu phần lớn các thi sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây, thì Nguyễn Bính lại tìm về với chất dân ca - điệu thơ dân tộc.
“Lỡ bước sang ngang” là tác phẩm được chú ye hơn cả trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bính trước cách mạng. Bằng lối ví von mộc mạc duyên dáng, mang phong vị ca dao: tác phẩm này đã đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương đất nước và một tình người đằm thắm thiết tha. Bài thơ “Tương tư” được in lần đầu trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang”. Đây là bài thơ khá tiêu biểu cho hồn thơ Nguyễn Bính nói chung và cho lập “Lỡ bước sang ngang” nói riêng.
Tương tư là trai gái nhớ nhau. Dĩ nhiên đây là nỗi niềm u ẩn của những người yêu nhau phải xa nhau. “Tương tư” là một thi đề quen thuộc trong cả văn chương dân gian lẫn văn chương bác học. Trước Nguyễn Bính đã có những thi sĩ lừng danh như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ… viết về đề tài này. Và ngay trong làng “Thơ mới” đã có bài “Tương tư chiều” nổi tiếng của Xuân Diệu. Tất cả những điều đó là những thử thách to lớn đối với những cây bút đi sau. Nguyễn Bính đã vượt qua được thử thách đó, mang đến cho đề tài này phần nội dung mới và cách nói mới.
Nỗi niềm “Tương tư” của Nguyễn Bính được thể hiện bằng những sắc thái muôn thuở của chuyện trai gái yêu nhau mà phải xa nhau. Có nhớ nhung, có trách móc, có giận hờn, và dĩ nhiên cả khắc khoải đợi chờ…Nỗi niềm tương tư ở đây chưa đến độ cháy bóng mãnh liệt như trong thơ Xuân Diệu (“Bữa ni lạnh, mạt trời đi ngủ - Anh nhớ em, em hỡi anh nhớ em!”), nhưng cũng thật tha thiết chân thành:
“Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gío mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Thì ra, nếu gió mưa là “căn bệnh”, là sự vận động thường xuyên của thiên nhiên thì nhớ mong là căn bệnh cố hữu diễn ra như một quy luật tất yếu của những người đa tình, đa cảm, dường như có mặt ở trên đời này chỉ để thương thầm nhớ vụng. Giữa chàng trai – nhân vật trữ tình – và bạn gái dường như chẳng có cách trở gì về cả không gian lẫn thời gian? Họ ở chung một làng, chỉ cách nhau có “một đầu đình”. Cô gái có thể thuận lợi đủ điều càng khiến cho nhân vật trữ tình càng thêm băn khoăn thêm hờn dỗi. Nhưng nào có ai đâu mà chờ với đợi. Cũng như một số bài thơ khác của Nguyễn Bính thường nói đến mối tình đơn phương (như trong bài Hoa và rượu. Người phương nên lời trách móc, hờn dỗi kia rõ ràng trở thành vu vơ. Thực ra, những lời nói đó chính là sự tự bộc lộ tâm hồn nhạy cảm, khao khát yêu thương của chính nhà thơ. Khi cuộc đời còn những mối tình đơn phương, khi còn những con tim ít tuân theo những quy tắc rạch ròi; thì người đọc cũng không mấy ai nõ trách Nguyễn Bính đã “tương tư” một cách vu vơ…
Đặc biệt nỗi niềm chờ mong đáng trân trọng ấy đã đựoc nhà thơ thể hiện một cách mới mẻ. Trước hết là hình ảnh cái “tôi” có nhu cầu giãi bày, phơi trải được Nguyễn Bính diễn tả một cách trực diện không chút vòng vo:
“Gió mưa là bện của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Ngoài ra còn phải kể đến việc tác giả đã thành công khi đưa vào lời ăn tiếng nói của người nhà quê trong cuộc sống thường nhật. Những lời ăn tiếng nói ấy xuất hiện một cách tự nhiên mộc mạc, tạo nên không khí dân dã, quê mùa cho toàn bài thơ:
“Hai thôn chung lại một làng,
Có sao bên ấy chẳng sang bên này?
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?”
Đưa vào thơ lời ăn tiếng nói của đời thường, Nguyễn Bính cũng như những nhà Thơ mới đã gặt hái được một mùa hoa trái bội thu. Thơ của họ trở nên gần gũi với người đọc và nó góp phần phát hiện ra những cái mới mẻ của con người và tạo vật, mà trước đây ít nhiều thi ca bác học chưa làm được.
Như vậy, nội dung “Tương tư” có tính chất muôn thuở đã được nhà thơ Nguyễn Bính thể hiện bằng một lời nói hiện dại, mang dấu của thời đại, phản ánh một mảng tâm hồn của lớp thanh niên tiểu tư sản những năm 30 của thế kỷ này.
Song giá trị cơ bản của bài thơ không chỉ ở chỗ tác giả diễn tả khá mới mẻ cái “tôi” thiết tha chân thành, khao khát yêu đương; mà điêu chủ yếu nó gợi lên được cái “hồn xưa đất nước”, theo cách nói của nhà phê bình Hoài Thanh. “Hồn xưa đất nước” không nằm riêng ở chi tiết nào, câu thơ nào mà toát ra từ toàn bộ bài thơ qua hệ thống hình ảnh, lời ví von, cũng như giọng điệu chung.
Vốn sinh ra ở một nước nông nghiệp, cho dù đã từng “dan díu với kính thành” nói theo Nguyễn Bính, mấy ai trong số chúng ta không có trong mình một đôi kỷ niệm về một làng quê Việt Nam truyền thống? Tương tư có khả năng khơi gợi trong đáy sâu tâm hồn người đọc. Trong khi các nhà thơ cùng thời Xuân Diệu hay Lưu Trọng Lư chịu ảnh hưởng sâu đậm thơ phương Tây và chính điều đó đem lại cho phong trào Thơ mới những nét đặc sắc, thì Nguyễn Bính lại thành công khi ông tìm về với điệu thơ dân tộc, với làng quê Việt Nam thân thuộc, với những hình ảnh gần gũi tự ngàn xưa: những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải hoa vàng, những vườn bưởi vườn cam ngào ngạt hương thơm, ven đê là ruộng dâu bãi đay, bên giậu mùng tơi, cạnh giếng khơi là những cô thôn nữ đôn hậu, quanh năm dệt lụa chăn tằm, trẩy hội, xem chèo,… với trang phục cổ truyền: áo đồng lầm, quần lĩnh tía, yếm lụa sồi… Ở bài thơ “Tương tư” dường như có một sự kết nối giữa hệ thống hình ảnh đã trở thành ước lệ đối với làng quê Việt Nam. Ở đó có thôn Đoài, thôn Đông, có con đò và bến nước, có hàng cau và giàn trầu… Ở đó còn có nơi sinh thành và nuôi dưỡng lối thơ lục bát và Nguyễn Bính đã sử dụng nhuần nhuyễn lối thơ này, cách ví von mộc mạc, thực chất là những ẩn dụ: bến – đò, hoa - bướm, trầu – cau, thôn Đông – thôn Đoài… Hệ thống hình ảnh, lối thơ truyền thống với cách ví von ấy đã đánh thức con người nhà quê lâu nay ẩn náu trong lòng độc giả, làm cho họ bồi hồi xao xuyến về một làng quê Việt Nam, một dân tộc Việt Nam gần gũi và thiêng liêng.
Không những thế, “Hồn xưa đất nước” còn được biểu hiện ngay trong lối suy nghĩ gắn với trời đất, cỏ cây quê hương. Ngày xưa, năm tháng trôi qua đã được ông cha ta miêu tả qua sự biến đổi của cây lá:
“Nửa năm hơi tiếng vừa quen
Sân ngô cành biếc đã chén lá vàng”.
(“Truyện Kiều” - Nguyễn Du)
Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng đo đếm thời gian dựa vào chính sự thay đổi của cảnh sắc thiên nhiên. Điều này được thể hiện bằng những câu thơ dân dã, mộc mạc:
“Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”.
Đồng thời thiên nhiên còn là chuẩn mực để nhân vật trữ tình nhớ nhung, suy tưởng: “Gió mưa là bệnh của giời – Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Do sống hoà hợp gắn bó với cảnh sắc thiên nhiên, nên trong ca dao – dân ca, trai gái quê ta không chỉ mượn Thuyền và Bến, Sen - Hồ, Mận – Đào… để giãi bày tình yêu một cách kín đáo vừa duyên dáng, vừa tinh tế. Trong bài “Tương tư”, Nguyễn Bính sử dụng triệt để các cách nói ấy mang lại hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Nếu như ở khổ thơ thứ hai còn có câu dường như lạc hệ thốn, thiếu sự dung dị(“Hoa khuê các, “bướm giang hồ gặp nhau”) thì khổ thơ cuối cùng chính là sự kết tinh nghệ thuật của toàn bài. Ở khổ thơ này “hồn xưa đất nước” toát lên từ cách dùng hình ảnh, cách bộc lộ tình cảm kín đáo, mộc mạc của tác giả. Thay vì lối diễn đạt trực tiếp ở phần đầu đến khổ thơ cuối, Nguyễn Bính dùng lối diễn đạt gián tiếp rất tinh tế, phảng phất chất hương đồng cỏ nội của ca dao thuần khiết:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Trong phong trào Thơ mới, nhiều thi sĩ như Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân… miêu tả được những bức tranh quê tươi đẹp. Nhưng có lẽ chỉ mình Nguyễn Bính nói đúng được cái hồn quê Việt Nam. Ngày nay ở nông thôn Việt Nam phong cảnh cũng như hồn người đã đổi khác rất nhiều. Thanh niên nam nữ thường thích điệu bộ bò hơn là áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ, xe Cub đã thay cho ngựa tía võng điều…
Tuy vậy, phần nào bài thơ “Tương tư” trên đây của Nguyễn Bính vẫn như một dấu tích tâm hồn dân tộc, góp phần cho tâm hồn người đọc thêm phong phú và tươi sáng. Đấy chính là sự đóng góp đặc sắc của nhà thơ trong bài thơ này nói riêng và trong phần nhiều bài thơ của Nguyễn Bính trước Cách mạng nói chung, đấy cũng là lý do khiến nhiều người yêu thích thơ ông.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *