Bài giảng dưới đây sẽ giúp các em ôn lại những kiến thức cơ bản về văn học Việt Nam trung đại đã học trong chương trình Ngữ Văn lớp 11. Mong rằng các em sẽ nắm được toàn bồ những kiến thức trọng tâm của bài học Ôn tập văn học trung đại Việt Nam, chúc các em có một bài giảng hay và ý nghĩa.
* Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
Để nắm được những kiến thức về văn học trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn học kì 1 lớp 11, các em có thể tham khảo thêm bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
a. Tư duy nghệ thuật: thường nghĩ theo kiểu mẫu nghệ thuật có sẳn đã thành công thức.
b. Quan niệm thẩm mỹ: hướng về cái đẹp trong quá khứ, thiên về cái cao cả, tao nhã, ưa sử dụng những điển tích, điển cố, những thi liệu Hán học.
c. Bút pháp nghệ thuật: thiên về bút pháp ước lệ, tượng trưng.
d. Thể loại:
- Về luật có 2 loại:
+ Thất ngôn bát cú Đường luật làm theo luật trắc.
+ Thất ngôn bát cú Đường luật làm theo luật bằng.
- Về bố cục:
+ 2 câu đề
+ 2 câu thực
+ 2 câu luận
+ 2 câu kết
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Bãi cát là hình ảnh tượng trưng cho con đường danh lợi nhọc nhằn, gian khổ. Những người đi trên bãi cát là những người hướng đến công danh, quyết tâm thành công. Do đó, Cao Bá Quát sử dụng bút pháp tượng trưng thành công trong tác phẩm của mình.
Câu trả lời của bạn
Hành động cứu Kiều Nguyệt Nga là hành động trượng nghĩa của một đấng nam nhi, tinh thần dũng cảm, đó chính là truyền thống đạo lí nho gia từ xưa đến nay đều được coi trọng. Bên cạnh đó với hai câu thơ:
"Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái, ta là phận trai"
Đã đề cao truyền thống đạo lí nho gia xưa, trai gái thụ thụ bất thân.
Câu trả lời của bạn
- Lê Hữu Trác:
+ Tên tác phẩm: Vào phủ chúa Trịnh
+ Những điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật:
- Hồ Xuân Hương:
+ Tên tác phẩm: Tự tình bài (II)
+ Những điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật:
Nội dung: Thể hiện tâm trạng của Hồ Xuân Hương vừa đau buồn, vừa phẫn uất trước duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Qua đó cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương.
Nghệ thuật: Sử dụng từ ngữ và xây dựng hình tượng độc đáo.
- Nguyễn Khuyến:
+ Tên tác phẩm: Câu cá mùa thu
+ Những điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật:
- Tú Xương:
+ Tên tác phẩm: Thương vợ
+ Những điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật:
- Nguyễn Công Trứ:
+ Tên tác phẩm: Bài ca ngất ngưỡng
+ Những điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật:
- Cao Bá Quát:
+ Tên tác phẩm: Bài ca ngắn đi trên bãi cát
+ Những điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật:
- Nguyễn Đình Chiểu:
+ Tên tác phẩm: Lỡ ghét thương
+ Những điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật:
- Nguyễn Đình Chiểu:
+ Tên tác phẩm: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
+ Những điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật:
- Ngô Thì Nhậm:
+ Tên tác phẩm: Chiếu cầu hiền
+ Những điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật:
Câu trả lời của bạn
Khái quát các đặc điểm cơ bản của văn học trung đại Việt Nam
Câu trả lời của bạn
Đặc điểm cơ bản :
a. Chủ nghĩa yêu nước:
Văn hóa Ðại Việt, văn chương Ðại Việt khởi nguồn từ truyền thống sản xuất và chiến đấu của tổ tiên, từ những thành tựu văn hóa và từ chính thực tiễn hàng nghìn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm phương Bắc.
Hiếm thấy một dân tộc nào trên thế giới lại phải liên tục tiến hành những cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm như dân tộc Việt Nam. Nhà Tiền Lê, nhà Lý chống Tống. Nhà Trần chống Nguyên Mông. Nhà Hậu Lê chống giặc Minh. Quang Trung chống giặc Thanh. Những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại được tiến hành trong trường kỳ lịch sử nhằm bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc không những tôi luyện bản lĩnh dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tin, khí thế hào hùng của dân tộc mà còn góp phần làm nên một truyền thống lớn trong văn học Việt Nam: Chủ nghĩa yêu nước.
Ðặc điểm lịch sử đó đã quy định cho hướng phát triển của văn học là phải luôn quan tâm đến việc ca ngợi ý chí quật cường, khát vọng chiến đấu, chiến thắng, lòng căm thù giặc sâu sắc, ý thức trách nhiệm của những tấm gương yêu nước, những người anh hùng dân tộc quên thân mình vì nghĩa lớn. Có thể nói, đặc điểm này phản ánh rõ nét nhất mối quan hệ biện chứng giữa lịch sử dân tộc và văn học dân tộc.
Quá trình đấu tranh giữ nước tác động sâu sắc đến sự phát triển của văn học, bồi đắp, phát triển ý thức tự hào dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ. Cho nên, chế độ phong kiến có thể hưng thịnh hay suy vong nhưng ý thức dân tộc, nội dung yêu nước trong văn học vẫn phát triển không ngừng.
Các tác phẩm văn học yêu nước thời kỳ này thường tập trung thể hiện một số khía cạnh tiêu biểu như:
- Tình yêu quê hương
- Lòng căm thù giặc
- Yï thức trách nhiệm
- Tinh thần vượt khó, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc
- Ý chí quyết chiến, quyết thắng
- Ðề cao chính nghĩa của người Việt Nam trong những cuộc kháng chiến.
b. Chủ nghĩa nhân đạo
Văn học do con người sáng tạo nên và tất yếu nó phải phục vụ trở lại cho con người. Vì vậy, tinh thần nhân đạo là một phẩm chất cần có để một tác phẩm trở thành bất tử đối với nhân loại. Ðiều này cũng có nghĩa là, trong xu hướng phát triển chung của văn học nhân loại, VHTÐVN vẫn hướng tới việc thể hiện những vấn đề của chủ nghĩa nhân đạo như:
- Khát vọng hòa bình
- Nhận thức ngày càng sâu sắc về nhân dân mà trước hết là đối với những tầng lớp thấp hèn trong xã hội phân chia giai cấp
- Ðấu tranh cho hạnh phúc, cho quyền sống của con người, chống lại ách thống trị của chế độ phong kiến.
- Ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động
- Tố cáo mạnh mẽ và đấu tranh chống những thế lực phi nhân.
Phong cách thơ hồ xuân hương ?( ngắn gọn thôi ko cần dài dòng đâu)
Câu trả lời của bạn
HXH được mệnh danh là "Bà chúa thơ Nôm" nên phong cách thơ HXH chủ yếu được thể hiện trên phương diện ngôn từ:
+Thơ HXH sử dụng tài tình chất liệu ngôn ngữ dân tộc: thể thơ, hình ảnh, cách nói,... . Nói bóng gió, nói ví, nói lái, chơi chữ, sử dụng các từ thuần Việt, thành ngữ, tục ngữ, ca dao...
+Phong cách thơ của HXH là đã vi phạm qui tắc tu từ tạo sự “lệch chuẩn” ngôn ngữ để tạo nghĩa. ( như bài quả mít, bánh trôi nước, cái quạt,...)
+và vi phạm lệch chuẩn ngôn ngữ như một hình thức bộc lộ cá tính sáng tạo của Hồ Xuân Hương.
Thơ của Hồ Xuân Hương là thơ chạm trổ, hòn đá biết cười, hang động biết nói… Trong thơ của Bà sử dụng nhiều hình dung từ và động từ chỉ hoạt động đã chứng tỏ rằng nhà thơ rất chú ý vẻ bề ngoài của sự vật . Với Bà danh từ không đủ khả năng mà phải có tính từ để miêu tả sắc thái muôn hình muôn vẻ của đời sống, phải có động từ chỉ hoạt động muôn vật nhất là sự tương tác giữa chúng. Bởi vậy thế giới thơ Hồ Xuân Hương đầy màu sắc âm thanh, ánh sáng, hình khối ….Thơ của Bà tràn trề màu sắc và hầu như không mấy khi những màu sắc ở độ không mà nó luôn đỏ lóet, xanh rì , tối om,…có vai trò trong việc đẩy màu sắc đến độ cực tả , tạo ra trong văn bản cái không đồng nhất, từ bình thường sang ẩn dụ.
Qua cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo của Hồ Xuân Hương chúng ta có thể nói đến một sự “nổi lọan ” của thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Sự nổi loạn trước hết là sự vi phạm qui tắc thông thường của thơ, những từ, những vần lắt léo tạo nên sự lệch chuẩn ngôn ngữ để tạo nên những nghĩa mới của Hồ Xuân Hương. Chính sự phá cách này đã tạo bước dừng , gây sự bỡ ngỡ, gây hứng thú người đọc tìm đến nghĩa hàm ẩn trong thơ của Hồ Xuân Hương. Mặt khác trong thơ của Bà còn sử dụng nhiều thủ pháp độc đáo khác trong cách dùng ngôn ngữ. Đó là lối chơi chữ, ví dụ như trong bài "Khóc Tổng Cóc”, chỉ có 28 chữ đã có đến 5 chữ chỉ những con vật cùng loài : chuột, chàng, bén, nòng nọc, cóc. Hoặc trong bài “bỡn bà lang khóc chồng", tác giả dùng toàn những từ chỉ tên hành vi bào chế thuốc và tên thuốc: Cam thảo, quế chi, liên nhục, sao tẩm…bên cạnh đó còn sử dụng cách nói lái: Đẽo đá, lộn lèo, đứng chéo, trái gió…Hoặc sử dụng các thành ngữ đan cài vào câu thơ để mở rộng văn bản: cố đấm ăn xôi, năm thì mười họa, bảy nổi ba chìm….
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *