Bài giảng Lẽ ghét thương sẽ đưa các em đến với những tình cảm yêu ghét phân minh xuất phát từ tấm lòng thương dân của Nguyễn Đình Chiểu. Đồng thời bài giảng cũng sẽ giúp các em hiểu được những đặc trưng cơ bản bút pháp trữ tình của tác giả. Chúc các em có thêm một bài giảng hay.
⇒ Qua lời của ông Quán, tác giả đã đứng về phía nhân dân, xuất phát từ quyền lợi của nhân dân mà phẩm bình lịch sử. Đó là cơ sở của tình cảm “ghét”. Thể hiện tấm lòng thương dân sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu.
⇒ Nguyễn Đình Chiểu xuất phát từ cuộc đời, từ sự an bình của nhân dân mà thương, mà tiếc cho những tài năng bị các triều đại vua chúa vùi dập
Đề: Phân tích đoạn trích "Lẽ ghét thương" của Nguyễn Đình Chiểu
Gợi ý làm bài
Đặc biệt vấn đề về đạo đức của con người được nhà thơ quan tâm và thể hiện ở nhiều góc độ. Và Lục Vân Tiên là tác phẩm tiêu biểu cho vấn đề này. Đó là điều cốt lõi, là khát vọng xây dựng mối quan hệ bè bạn giữa người với người. Trong hệ thống nhân vật lí tưởng của tác phẩm, ông Quán là một nhân vật hấp dẫn. Đó là một nhà Nho ở ẩn, thực chất cũng chính là bản thân Đồ Chiểu tự bộc bạch tình cảm của mình trước sự đời. Để nắm được những kiến thức cần đạt về bài thơ này, các em có thể tham khảo thêm bài soạn Lẽ ghét thương.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Yêu thương và căm ghét rạch ròi, không mập mờ mà đan cài nối tiếp được tác giả diễn tả một cách sâu sắc, để rồi Nguyễn Đình Chiểu cho ta thấy một cách sâu sắc hơn về điều thương lẽ ghét. Bởi vậy, lẽ thương hay ghét trong đoạn trích chính là tình thương bao la đối với cuộc đời, với sự nghiệp của nhân dân. Để dễ dàng lập dàn ý và viết bài văn mẫu về bì thơ này, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu
- Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
- Lẽ ghét thương là đoạn trích từ câu 473 đến câu 504 của Truyện Lục Vân Tiên, kể lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và bốn chàng nho sinh (Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm) khi họ cùng uống rượu, làm thơ trong quán của ông trước lúc vào trường thi.
Câu trả lời của bạn
Ông Quán chỉ là một nhân vật phụ trong truyện nhưng lại rất được yêu thích, bởi lẽ đó là biểu tượng của tình cảm yêu ghét phân minh, trong sáng của quần chúng.
Câu trả lời của bạn
Tác phẩm được viết bằng thể thơ lục bát, thể thơ của văn học dân gian.
Câu trả lời của bạn
Xuất phát từ tấm lòng yêu thương dân sâu sắc nên ghét những kẻ làm hại dân.
Câu trả lời của bạn
“Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”
Biết ghét vì biết thương. Vì thương dân nên ghét những kẻ làm hại dân. Ông Quán bày tỏ thái độ thương ghét của mình.
⇒ Đây là câu nói có tính chất khái quát tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu trong cả đoạn trích. Tác giả lí giải căn nguyên chuyện ghét thương của mình.
Câu trả lời của bạn
Các thế lực cầm quyền bạo tàn:
- Đời Kiệt, Trụ mê dâm.
- Đời U, Lệ đa đoan.
- Đời Ngũ bá phân vân.
- Đời thúc quý phân băng.
- Nhân dân khổ sở trăm bề.
Câu trả lời của bạn
Nghệ thuật được sử dụng:
- Điệp từ “ghét”, “đời”, “dân”.
- Liệt kê các điển cố : Kiệt, Trụ, U, Lệ
- Nghệ thuật đối giữa vua quan với dân
⇒ Tác dụng: Tác giả nhấn mạnh nỗi căm ghét những tên vua dâm ác, tàn bạo, những kẻ đã gây ra hệ lụy chiến tranh, loạn lạc và bộc lộ lòng thương xót sâu sắc đối với người dân vô tội
Câu trả lời của bạn
Các danh sĩ là những người cũng đồng cảnh ngộ với Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu cũng muốn giúp đời, lập nên nhiều công danh nhưng cuộc đời đầy bất hạnh, lại thêm thời thế đầy nhiễu nhương.
Câu trả lời của bạn
Điểm giống nhau: Vua chúa không chăm lo đến đời sống của nhân dân, khiến nhân dân lầm than.
Câu trả lời của bạn
Vương Chiêu Quân và Tây Thi là hai trong bốn tứ đại mỹ nhân trong lịch sử Trung Quốc, gồm Tây Thi, Vương Chiêu Quân, Điêu Thuyền và Dương Quý Phi.
Câu trả lời của bạn
Điểm chung giữa các danh sĩ trong sử sách: Họ đều là những người có tài, có chí muốn hành đạo giúp đời, giúp dân nhưng vì thời cuộc đều không đạt được sở nguyện.
Câu trả lời của bạn
- Đoạn trích khá thành công trong việc sử dụng cặp từ đối nghĩa ghét – thương.
+ Từ ghét và thương đều được lặp lại 12 lần, sắp đặt sóng đôi, đăng đối khá linh hoạt (hay ghét – hay thương; thương ghét – ghét thương; ghét ghét – thương thương; lại ghét – lại thương).
+ Phép lặp cũng như sự vận dụng linh hoạt hai từ ghét – thương đã giúp biểu hiện nổi bật và phân minh hai tình cảm trong tâm hồn tác giả.
+ Trong trái tim tác giả, ghét và thương rành rọt, không mập mờ, lẫn lộn và đều sâu nặng, không nhạt nhòa, chung chung. Việc lặp lại hai từ này cũng làm tăng cường độ của cảm xúc: yêu thương và căm ghét đều đạt đến độ tột cùng, đều hết sức nồng nhiệt.
Câu trả lời của bạn
- Điệp ngữ “nửa phần”.
- Nghệ thuật tiểu đối “thương”, “ghét”.
⇒ Tuy nói chuyện sử sách nhưng ít nhiều đều phù hợp với chế độ thối nát của nhà Nguyễn và tâm sự của Nguyễn Đình Chiểu lúc bấy giờ.
Câu trả lời của bạn
- Vì chưng hay ghét cũng là hay thương ý nói: Biết ghét là vì biết thương. Vì thương dân nên ghét những kẻ làm hại dân. Đây là câu nói có tính chất khái quát tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu trong cả đoạn trích. Tác giả đã lí giải căn nguyên chuyện ghét thương của mình.
- Ông Quán ghét những kẻ đã bày ra “chuyện tầm phào”. Đó là những nhân vật nổi tiếng tàn ác: Kiệt Trụ mê dâm, U lệ đa đoan, Ngũ bá phân vân, thúc quý phân băng. Hai nhân vật nổi tiếng tàn bạo trong lịch sử phong kiến Trung Hoa thời cổ đại.
- Điểm chung: chúng đều là những kẻ thì ăn chơi, hưởng thụ sa đoạ, say sưa tranh giành quyền lục, tất cả bọn chúng đều đẩy nhân dân vào cuộc sống vô cùng khổ cực. Ông Quá ghét những kẻ làm nhân dân phải chịu khổ cực. Căn nguyên của cái ghét ở đây là do lòng thương dân, vì dân, ghét những kẻ hại dân, làm cho nhân dân sa hầm sẩy hang, chịu lầm than, nhọc nhằn…
- Đối tượng “thương” là nhân vật cụ thể, những bậc hiền tài một lòng giúp đời, giúp dân. Đó là: Khổng Tử, Nhan Tử, Gia Cát, Đổng Tử, Đào Tiềm, Hàn Dũ, Liêm, Lạc.
- Điểm chung: Họ đều là những con người nổi tiếng về tài và đức, song lại gặp chuyện không may mắn. Họ đều là người có nhân cách cao cả, đều hết lòng thương yêu dân chúng, sống trọn đạo bề tôi, giữ vững phẩm cách của nhà Nho. Đối tượng “thương” đều là những người tài đức vẹn toàn. Thái độ thương ở đây bao gồm cả sự cảm thông, trân trọng, kính phục của tác giả và cũng là sự tự thương mình của ông Đồ Chiểu.
Câu trả lời của bạn
- Yêu và ghét là hai tình cảm có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời trong tâm hồn của nhà thơ. Bởi thương đến xót xa trước cảnh nhân dân phải chịu lầm than, khổ cực, thương những con người tài đức mà bị vùi dập, phải mai một tài năng thì Nguyễn Đình Chiểu càng căm ghét sâu sắc những kẻ làm hại dân, hại đời, đẩy con người vào những cảnh ngộ éo le, oan nghiệt.
- Trong trái tim yêu thương mênh mông của nhà thơ, hai tình cảm yêu, ghét cứ đan cài, nối tiếp nhau hòa cùng nhịp đập với cuộc đời, với nhân dân, bởi "Vì chưng hay ghét cũng là hay thương".
=> Đó chính là đỉnh cao tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu.
=> Đoạn thơ mang tính triết lý đạo đức mà không khô khan, cứng nhắc, ngược lại rất trữ tình, dạt dào cảm xúc.
Câu trả lời của bạn
- Thời điểm sáng tác: Khoảng đầu những năm 50 của thế kỷ XIX, Nguyễn Đình Chiểu bị mù về dạy học và chữa bệnh cho dân Gia Định
- Thể loại: thuộc truyện thơ Nôm bác học nhưng lại mang nhiều tính chất dân gian
- Nội dung: xoay quanh cuộc xung đột giữa thiện và ác với hai mục đích:
Đề cao tinh thần nhân nghĩa
Thể hiện khát vọng, lí tưởng của tác giả và của nhân dân đương thời về một xã hội tốt đẹp. Ở đó, quan hệ giữa người với người đều thấm đượm tình cảm yêu thương, nhân ái.
Câu trả lời của bạn
Câu thơ thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tướng và tình cảm của cả đoạn trích là câu:
"Vì chưng hay ghét cũng là hay thương"
- Yêu và ghét là hai tình cám có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời trong tâm hồn của nhà thơ. Bới thương đến xót xa trước cảnh nhân dân phải chịu lầm than, khổ cực, thương những con người tài đức mà bị vùi dập, phải mai một tài năng, chí nguyện nên Nguyễn Đình Chiểu càng căm ghét sâu sắc những kẻ làm hại dân, hại đời, đẩy con người vào những cảnh ngộ éo le, oan nghiệt. Trong trái tim yêu thương mênh mông của nhà thơ, hai tình cảm yêu, ghét cứ đan cài, nối tiếp nhau hoà cùng nhịp đập với cuộc đời, với nhân dân, bởi "Vì chưng hay ghét cũng là hay thương". Đó chính là đỉnh cao tư tưởng và tình cảm của Nguyền Đình Chiểu vậy.
- Đoạn thơ mang tính chất triết lí đạo đức mà không hề khô khan, cứng nhắc, trái lại vẫn giàu chất trữ tình và dạt dào cảm xúc. Những cảm xúc sâu sắc và nồng đượm đó xuất phát từ cõi tâm trong sáng, cao cả của nhà thơ, từ một trái tim nặng trĩu tình đời, tình người tha thiết.
Câu trả lời của bạn
- Từ “ghét” lập lại đến 12 lần trong toàn bộ đoạn trích, bộc lộ sâu sắc và mãnh liệt tình cảm “ghét” trong tâm hồn nhân vật, cũng là của tác giả. “Ghét” đến mức tận cùng: “Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm”.
- Sử dụng nhiều điển cố rút ra từ sách sử Trung Quốc, nhưng vẫn dễ hiểu vì tác giả đã diễn giải cụ thể.
- Các điều mà ông Quán ghét:
Đời Kiệt, Tụ thì hoang dâm vô độ
Đời U, Lệ thì đa đoan, lắm chuyện rắc rối
Đời ngũ bá, thúc quí thì lộn xộn, chia lìa, đổ nát, chiến tranh liên miên.
- Tất cả các triều đại này đều có điểm chung là chính sự suy tàn, vua chúa đắm say tửu sắc, không chăm lo đến đời sống nhân dân.
- Ông Quán “ghét” tất cả các triều đại trên là vì “dân”:
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân
⇒ Qua lời của ông Quán, tác giả đã đứng về phía nhân dân, xuất phát từ quyền lợi của nhân dân mà phẩm bình lịch sử. Đó là cơ sở của tình cảm “ghét”. Thể hiện tấm lòng thương dân sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu.
Câu trả lời của bạn
- Càng “thương” thì càng “ghét”. Ông Quán không hề nhập nhằng khi bàn về những điều mình thương và ghét. Những cặp câu mở đầu là ghét sau đó là thương rồi kết đoạn “Nửa phần …lại thương”.
- Ông ghét đến điều mà thương cũng đến độ. “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”: tình cảm “thương”, “ghét” cứ đan xen nối tiếp nhau, hoà cùng nhịp đập với cuộc đời, với nhân dân. Ghét cũng chỉ là một biểu hiện khác của tình yêu thương ⇒ Đó là đỉnh cao tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu.
Câu trả lời của bạn
- Từ “thương” được lập lại 12 lần, nhằm nhấn mạnh tình cảm “thương” trong lòng ông Quán.
- Ông “thương” những người:
Khổng Tử lận đận "Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông"
Nhan Uyên "dở dang" yểu mệnh
Gia Cát "đành phui pha" tài năng bởi không thể xoay chuyển nôi thời vận nhà Hán.
Đổng Trọng Thư chí lớn mà "không nguôi"
Đào Nguyên Lượng phải "lui về cày"
Hàn Dũ bị "đày đi xa"
Chu Đôn Di và Trình Di; Trình Hạo bị "xua đuổi"
- Tất cả họ đều là những bậc hiền nhân quân tử theo kiểu mẫu nho giáo, là người có đức có tài có chí muốn hành đạo giúp đời giúp dân nhưng không đãt được được ý nguyện những con người ấy ít nhiều đều có những nét đồng cảnh với Nguyễn Đình Chiểu, bởi thế tình thương ở đây chính là niềm cảm thông sâu sắc tự tấm lòng nhà thơ.
⇒ Nguyễn Đình Chiểu xuất phát từ cuộc đời, từ sự an bình của nhân dân mà thương, mà tiếc cho những tài năng bị các triều đại vua chúa vùi dập.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *