Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận xét: "Lời châm biếm của Bác thường vẫn rất nhẹ nhàng nhưng ý nghĩa lại rất sâu". Để hiểu hơn lời nhận xét ấy cũng như hiểu hơn về thơ văn Hồ Chí Minh, Học 247 mời các em tham khảo bài giảng Lai Tân dưới đây.
⇒ Sự thực của bộ máy chính quyền Lai Tân: thối nát, vô trách nhiệm. Tạo mâu thuẫn (tiếng cười châm biếm chỉ bật lên khi tạo được mâu thuẫn) với câu cuối.
Đề: Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh
Gợi ý làm bài
“Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tô’”trữ tình” và “hiện thực”,”Lai Tân” là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Để dễ dàng nắm được nội dung kiến thức cần đạt, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Lai tân.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Tiếng cười dân tộc đã thâm nhuần trong thơ hiện thực trào phúng của Hồ Chí Minh mà càng đọc ta càng thấy nó sâu cay. “Lai Tân” là một bài thơ cũng nằm trong số đó. Vừa có ý nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đấu sắc mạnh tố cáo châm biếm cao độ, bài thơ đã giúp ta hiểu thêm về xã hội Tưởng Giới Thạch và hiểu hơn tâm hồn tài năng của Bác. Để nắm vững kiến thức cũng như phân tích đúng hướng về tác phẩm này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích bài Lai Tân của Hồ Chí Minh
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh.
Câu trả lời của bạn
"Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tố "trữ tình" và "hiện thực", "Lai Tân" là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch.
Với tư cách là người thư ký trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan những cảnh:
"Giam phòng ban trưởng thiền thiên đổ
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự"
Khác với Tú Xương trong hoàn cảnh tự do nên có 'thể thẳng tay độp vào mặt bọn thông trị những cái tát giáng trời:
"Ớ phố Hàng Song thật lắm quan
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
Dậu lạy quan xin nọ chú Hàn"
(Lắm quan)
Hồ Chí Minh chỉ có thể mỉa mai, châm biếm sâu cay bọn thông trị bằng ngòi bút trong hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Từ cái mặt bên ngoài đến tận cùng những ngóc ngách bên trong của bộ máy thống trị Trung Hoa quốc dân đảng đã chứa đầy những mâu thuẫn. Tác giả "Lai Tân" đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính quyền Tưởng Giới Thạch đó là: "Ban trưởng","cảnh trưởng", "huyện trưởng". Cái chức "trưởng' của họ khá oai vệ, đầy uy lực, nhưng việc làm của họ đầy khuất tất, bất chính. Khuôn khổ bài thơ rất ngắn gọn nhưng lại được đặt liên tiếp ba chừ "trường" trong ba câu thơ đầu là sự "cố tình" dùng phép lặp của Bác trong việc dựng lên những chân dung tiêu biểu của giai cấp thống trị. Ba câu thơ – mỗi câu là một bức tranh sống động mang tính thời sự nóng hổi, chân thật đến từng chi tiết được vẽ bằng nét bút bình thản, lạnh lùng. Bức thứ nhất bày ra trước mắt mọi người là hình ảnh một "ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc". Bức thứ hai là hình ảnh "cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải".
Cả ban trưởng và cảnh trưởng đều là những công cụ thi hành pháp luật rất đắc lực của cái xã hội đầy rẫy những bỉ lậu, xấu xa. Chúng khoác trên mình chiếc áo "công lý" để làm những việc "bất công lý" một cách thường xuyên hết ngày này đến ngày khác. Chức "trưởng" của chúng đã to, sự phạm pháp của chúng còn lớn hơn ngàn vạn lần. Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch cảnh đó. Thoạt tiên, mới nhắc đến "ban trưởng", "cảnh trưởng" thiết tưởng đó là những người cầm cân nẩy mực chắc hẳn phải công minh, trong sạch nhưng ta thực sự bất ngờ khi biết chúng chẳng qua là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ bạc. Chúng mượn cái danh để tự đặt ra cho mình cái quyền thích làm gì thì làm. Đất Lai Tân có ban trưởng, cảnh trưởng tưởng chừng cuộc sống bình yên nhưng trớ trêu thay trật tự an ninh không được đảm bảo, những vi phạm pháp luật vẫn diễn ra đầy rẫy mà những kẻ đứng đầu bộ máy thống trị ở Lai Tân cũng chính là những kẻ cầm đầu những chuyện phạm pháp đó. Nực cười thay, nhà tù là nơi giam giữ những kẻ phạm tội vậy mà lại chính là nơi để tội phạm có thể thịnh hành rộng rãi nhất, tiêu biểu hơn cả, nhiều hơn cả vẫn là tội phạm cờ bạc mà chính giai cấp thống trị nhà lao cũng là những "đổ phạm". Cái nghịch cảnh "đánh bạc ở ngoài quan bắt tội, trong tù được đánh bạc công khai" là hiện thực thối nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể phủ nhận được.
Cấp dưới sống và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên – huyện trưởng – vẫn đêm đêm "chong đèn lo công việc". Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước. Từ chân dung một ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của ban trưởng cảnh trưởng. Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh "Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự’ vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với "công việc" nhưng thực ra lại là một kẻ quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những gì. Câu thơ phạm luật "nhị tứ lục phân minh" ở một chữ "công". Bao mỉa mai, đả kích sâu cay dồn nén vào một chữ "công" đó. Huyện trưởng "lo công việc" hay là mượn "việc công" để tạo một tấm bình phong che cho mình "io việc riềng", "chong đèn’ hút thuốc phiện? Tác giả đặt chữ "đăng" chính giữa câu thơ không nhằm mục đích tỏa sáng chận dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thông trị Lai Tân (nói riêng), hệ thống chỉnh quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung).
Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu trả lời là: Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân này!
"Trời đất Lai Tân vẫn thái bình"
Câu trả lời bất ngờ đến mức khiến người đọc ngã ngửa người. Thì ra là thế! Lời bình giá đã đi ngược lại với tất cả những mục ruỗng, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch được phơi bày ở trên. Từ lời bình giá đó đã vút lên một lời đã kích mạnh mẽ. Tác giả "Lai Tân" đã kết luận đầy châm biếm, mỉa mai sắc sảo và rất hùng hồn về cái xã hội ấy. Thủ pháp nói ngược của Bác đã làm bật ra tiếng cười trào phúng. ‘Trờiđất Lai Tân vẫn thái binh". Đúng vậy! Nhưng chỉ một chữ "vẫn" cũng đủ "điếng người’. Một cái bĩu môi dài, một cái cười khẩy, một giọng mĩa kéo dài bắc đầu từ chữ "vẫn" ấy. Nghệ thuật nâng cao – quật mạnh, nâng cao 1 quật càng được Bác sử dụng rất công hiệu ở câu thơ cuối bài này đã lay tỉnh người đọc nhìn sâu vào xã hộ ấy mà xem xét, đánh giá đúng thực chất của nó. Như con đà điểu thấy nguy hiểm là húc đầu vào sâu trong cát, giai cấp thống trị ở Lại Tân thấy trời đất thái bình là tưởng thây yên ổn chúng bằng lòng với cách thái bình đó mà không ngờ rằng dó chi là cảnh thái bình giả dối, trong đó chất chứa rất nhiều sóng gió, hiểm nguy. Điều ấy cũng thể hiện sự ngu dốt, vô trách nhiệm hết sức của bọn chúng. Ba bức tranh – ba chân dung của ba kẻ đại diện cho giai cấp thông trị chế độ Tưởng Gịới Thạch ghép lại với nhau thành một bức tranh lớn – một chân dung lớn đầy đủ, trọn vẹn về xã hội Trung Hoa quốc dân đảng. Với "nghệ thuật vế đường tròn dồng tâm"t tác giả "Lai Tân’ đã vẽ được một bức tranh sinh động mỗi lúc một toàn diện hơn chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Nhà "dột từ nóc dột xuống" chỉ qua một huyện Lai Tân mà cả bộ mặt thối nát, bỉ lậu của xã hội Tưởng được phơi bày. Tác giả đã phủ định triệt để tận gốc giai cấp thống trị ấy. Cái "loạn" của mảnh đất Lai Tân được tô đậm bằng màu xám, màu tối của những bê tha, xấu xa, vô trách nhiệm, rất quan liêu của văn võ bá quan. Và hơn thế, nó được "trang trí" bằng sự "thái bình” nhưng ai cũng hiểu trời đất Lai Tân "thái bình" như thế nào. Cách kết thúc bài thơ của Hồ Chí Minh giống lối thơ trào phúng truyền thống của các nhà thơ trào phúng Việt Nam như Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương… đồng thời đậm chất (gây cười) của phương Tây. Hai chữ Lai Tân dường như không chỉ là một tên huyện đơn thuần mà tự bản thân nó đã mang một lớp nghĩa là mảnh đất mới, sáng sủa, bình yên. Và quả thật, huyện Lai Tân rất bình yên – bình yên "như xưa". Nhưng "như xưa" ở đây nghĩa là sự trì trệ, là chậm chạp không phát triển đã thành truyền thông; "như xưa" là không hề đổi thay, là duy trì những cái xâu xã, bĩ lậu của ngày trước. Hồ Chí Minh đã đả kích trực tiếp và khách quan chế độ Tưởng, do đó sức tế cáo, châm biếm của nó rất mạnh mẽ, quyết liệt. Bác đã giáng những đòn liên tiếp, chính xác vào xã hội ấy khiến nó phải "quần lèn" ở nhát đòn quyết định có tên là "thái bình”.
Không phải chỉ ở "Lai Tân" mà ở rất nhiều bàỉ thơ khác của "Nhật ki trong tu Bác cũng đã đả kích châm biếm sâu sắc xã hội Tưởng Giới Thạch như "Trảng binh gia quyến", "Đổ", "Đổ phạm’. Đó là "những ngón đòn trào phúng thâm thúy mà Bác đă đánh thẳng vào kẻ thù, vạch trần cái vô lý, tàn tệ" của chế độ ấy khiến "ta cười ra nước mắt". Tiếng cười trào lộng cất lên vừa trữ tình, vừa đẩm chất trí tuệ khiến ta thoải mái, hả hê.
Ta chợt nhớ tới Tú Xương ngày trước cũng từng có một tiếng cười trào lộng như thế: "Tri phủ Xuân Trường được mấy niên Nhờ trời hạt ẩy cùng bình yên". (Đừa ông phủ)
Tiếng cười dân tộc đã thâm nhuần trong thơ hiện thực trào phúng của Hồ Chí Minh mà càng đọc ta càng thây nó sâu cay. "Lai Tân" là một bài thơ cũng năm trong số đó. Vừa có ý nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đâu sắc mạnh tố cáo châm biếm cao độ, bài thơ đã giúp ta hiểu thêm về xã hội Tưởng Giới Thạch và hiểu hơn tâm hồn tài năng của Bác.
Đối tượng phê phán trong bài thơ Lai Tân.
Câu trả lời của bạn
Bài thơ được viết vào giai đoạn đất nước Trung Quốc bị phát xít Nhật xâm lược, nhân dân Trung Quôc phải rên xiết dưới sự thông trị của ngoại bang và sâu mọt trong bộ máy quan lại chính quyền Tường Giới Thạch. Ba câu đầu trong bài thơ ghi lại hiện thực trong nhà tù. Đó là công việc thường ngày của ba viên quan lại tiêu biểu cho bộ máy chính quyền ờ Lai Tân. Ban trướng nhà giam thì ngày ngày đánh bạc, Cảnh trưởng bòn rút ngay cả của người tù, Huyện trường siêng năng đến độ phải chong đèn vào ban đêm để hút thuốc phiện. Đọc câu thơ cứ ngỡ là Huyện trưởng siêng năng đang làm việc vào ban đêm, nhưng đặt công việc vào hoàn cảnh chung của Ban trưởng và Cảnh trưởng thì rõ ràng Huyện trưởng đang làm công việc bất thường. Cảnh tượng hoàn toàn không bình thường đối với inột bộ máy quan lại của chính quyền nghiêm chỉnh. Câu kết bài thơ lại tạo ra một nghịch lí: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. Câu thơ không có gì là bất thường cả, guồng máy cai trị ở Lai Tân xưa nay vẫn phân công việc một cách rành mạch: Ban trưởng đánh bạc, Cảnh trưởng hối lộ, Huyện trưởng hút thuốc phiện. Cả bộ máy là một sự yên ổn, thái bình. Sự thối nát của bộ máy chính quyền đã hết sức trầm trọng, cái xâu, cái vô kỉ cương đã trở thành phổ biến, thậm chí đã trở thành một nếp sóng thường ngày. Và đó chính là sự thái bình trong cuộc sống của quan lại Lai Tân. Bộ mặt quan lại nhà tù Lai Tân được Hồ Chí Minh khắc họa đầy đủ, rõ nét với chỉ bốn câu thơ. Không những thế, bài thơ còn phê phán tình trạng thôi nát phổ biến của bọn quan lại và xã hội Trung Quốc dưới thời cầm quyền của Quốc dân đảng.
Nghệ thuật châm biếm của bài thơ Lai Tân.
Câu trả lời của bạn
Nghệ thuật châm biếm của bài thơ được tạo nên từ hai yếu tố cơ bản là mâu thuẫn và giọng điệu. Một trong những bút pháp để tạo ra tiếng cười trong nghệ thuật trào phúng là khai thác mâu thuẫn trái tự nhiên. ở đây, mâu thuẫn được tạo dựng bởi kết cấu bài thơ. Ba câu đầu kê về những việc bất bình thường theo lẽ thường. Lẽ ra với những gì trình bày trong ba câu trên, tác giả phải kết luận bằng một cầu phơi bày thực trạng xã hội, nhưng ngược lại, tác giả lại kết luận Trời đất Lai Tân vẫn thái binh, cái bất thường bổng chốc trở thành cái bình thường. Đó là tiếng cười được tạo ra một cách chua cay.
Để tiếng cười trở nén mạnh mẽ, sâu sắc và độc đáo, tác giả đà đưa ra tới ba hình tượng (Ban trưởng, Cảnh trưởng, Huyện trưởng) gắn liền với ba hiện tượng (đánh bạo, ăn hối lộ, hút thuốc phiện) và không dừng lại ờ đó, Hồ Chí Minh còn nâng sự việc lên tầm phổ quát và phổ biến bằng các từ lập lại như ngày ngày, đêm đêm, y nguyên như cũ... Những hiện tượng đó đủ để chúng ta kết luận xã hội Lai Tân đang rối loạn. Nhưng bất ngờ thay, tác giả lại kết luận là đang thái bình. Hóa ra, rối loạn hay thái bình không còn phụ thuộc ở hiện thực khách quan theo logic tự nhiên nữa mà phụ thuộc vào cách nhìn hiện thực khách quan dó. Nếu người khác nhìn thì cho đó là loạn nhưng với bộ máy quan lại Lai Tân thi cho đó là thái bình. Người đọc luôn cười nhưng lại là điệu cười chua chát vì sự thật đả bị bóp méo một cách trần trụi, lẽ thường cuộc sống đã bị chà đạp không thương tiếc.
Giọng điệu thơ chính là giọng điệu tâm hồn nhà thơ, nhà thơ không bao giờ tạo nên tiếng cười dễ dãi. Hồ Chí Minh chắt hẳn đã rất bất bình khi chứng kiến những cảnh tượng như thế. Vậy tại sao tác giả không dùng giọng điệu đanh thép, phẫn nộ mà có vẻ bình thản, nhẹ nhàng? Với bút pháp hiện thực, hơn nữa đây là hiện thực trào phúng nên tác giả đã giữ đúng thái độ khách quan nhằm mang lại giá trị phản ánh lớn nhất. Sự bình thản của Hồ Chí Minh cho ta cảm giác Người không có ý phê phán hoặc trào phúng gì cả. Tuy nhiên, với giọng thơ ấy, tác giả đã tạo ra sự đả kích mạnh mẽ, quyết liệt. Đó chính là nét độc đáo của bút pháp Hồ Chí Minh trong bài thơ.
Bình giảng bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh.
Câu trả lời của bạn
Bài thất ngôn tứ tuyệt “Lai Tân" là bài thơ số 97 trong số 133 bài thơ của “Ngục trung nhật kí" của Hồ Chí Minh. Bài thơ số 98 sau đó, với nhan đề "Đáo Liễu Châu", tác giả ghi rõ ngày viết là 9-12-1942, có câu: “Mồng chín ta vừa đến Liễu Châu – Ngoảnh lại hơn trăm ngày ác mộng...". Từ nhà lao Thiên Giang, Bác Hồ viết bài "Thiên Giang ngục" ngày 1-12-1942 (bài 94), rồi bị giải đi Lai Tân bằng tàu hỏa, được ngồi trên đống than, Bác hóm hỉnh viết: “Nhưng so với đi bộ còn sang chán!". Qua đó, ta biết bài thơ “Lai Tân" được Hồ Chí Minh viết vào tuần đầu của tháng 12-1942. Vì là "Nhật kí...” nên phải tìm hiểu cặn kẽ như thế!
“Lai Tân" là một bài thơ nhằm tố cáo cái hiện thực xấu xa, thối nát của xã hội Trung Quốc thời ấy hay chỉ là tiếng cười châm biếm của nhà thơ về những “con người" trong đám chức sắc ở Lai Tân mà nhà thơ nhìn thấy? Một câu hỏi rất thú vị được đặt ra.
Đây là bản dịch bài thơ của Nam Trân:
"Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, Cảnh trưởng kiếm ăn quanh,
Chong đèn Huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình".
Lai Tân là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Câu thơ thứ nhất nói về tên Ban trưởng - một tên cai ngục. Hắn không hung dữ, không quắt quay như những tên chúa ngục khác, mà chỉ "ngày ngày đánh bạc" (thiên thiên đổ). Hắn đã biến nhà tù thành một sòng bạc giữa thanh thiên bạch nhật. Nhà tù không phải là nơi cải tạo phạm nhân, không phải là nơi để thực thi luật pháp và công lí. Ban trưởng và tù nhân đều có vị thế như nhau: tất cả đều là con bạc, đều cùng hội đỏ đen, đang sát phạt lẫn nhau, cùng máu mê như nhau. Câu thơ chữ Hán nghĩa là: “Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc” được dịch thành “Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc" kể cũng hay, ở đây tiếng cười bật ra ở cái nghịch lí của sự vật, của con người, của hiện tượng mà nhà thơ nói đến, nhà thơ nhìn thấy, tiếng cười khẽ, thâm trầm, sâu sắc giàu trí tuệ.
Vì đã trải qua “hơn trăm ngày ác mộng", bị giải lui giải tới mấy chục nhà lao tỉnh Quảng Tây, Người đã nhìn thấy bao nghịch lí, nghịch cảnh của bức tranh tù ngục, "cái oái oăm của sự đời":
"Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội,
Trong tù đánh bạc được công khai,
Vào tù con bạc ăn năn mãi:
Sao trước không vô quách chốn này!?".
( Đánh bạc)
Mỗi bức tranh là một tiếng cười khẽ, châm biếm nhẹ nhàng mà thâm thuý, bài thơ “đánh bạc" giúp ta cảm và hiểu sâu hơn, thú vị hơn bức chân dung “Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc".
Câu thơ thứ 2, tác giả hình như nhìn thấy trên đường chuyển lao một cảnh sát trưởng:
“Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền".
Nam Trân đã dịch: “Giải người, Cảnh trưởng kiếm ăn quanh".
Nguyên tác: Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải.
Câu 1 đối xứng với câu 2, mỗi bức chân dung biếm họa có một nét riêng. Ban trưởng thì lo ăn chơi cờ bạc. Cảnh trưởng thì trắng trợn “móc túi" ăn tiền phạm nhân. Chuyện bọn cai ngục, cảnh sát trưởng ăn tiền phạm nhân đã thành “lệ” mà nhà thơ đã nhiều phen trở thành “nạn nhân". “Mới đến nhà giam phải nộp tiền - Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên" (“Tiền vào nhà giam"), “ Vào lao phải nộp khoan tiền đèn - Tiền Quảng Tây vừa đúng sáu nguyên" (“Tiền đèn").
Bình diện không gian xã hội trong bài thơ “Lai Tân" được mở rộng ở bức chân dung thứ ba:
“Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự".
“Thiêu đăng" là chong đèn, “biện công sự" nghĩa là làm việc công. Câu thơ dịch đã đảo việc công thành công việc. Những năm 60, nhiều bài viết về “Ngục trung nhật kí" đều cho rằng tên Huyện trưởng này chong đèn đêm đêm hút thuốc phiện, từ đó nhấn mạnh giá trị tố cáo hiện thực xấu xa, thôi nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Sự thật không phải như thế, chính Hồ Chủ tịch đã lấy mực đỏ gạch bỏ ba chữ “hút thuốc phiện" trong bức thư của nhóm dịch giả gửi hỏi ý kiến Người.
Trong xã hội cũ, bọn quan lại tự cho mình là “phụ mẫu” của dân, là “đèn trời soi xét”. Trong câu thơ chữ Hán có một chữ “đăng” rất đặc biệt:
“Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự".
Không phải là ngọn đèn công lí tỏa sáng vầng trán Huyện trưởng, một vị quan to mặt lớn quang minh chính đại? Ông ta có vẻ “mẫn cán" lắm, lo công việc quan suốt ngày chưa đủ, đêm đêm còn chong đèn làm việc công? Nhưng đâu phải thế, ông huyện trưởng Lai Tân là một kẻ rất quan liêu! Chuyện đánh bạc của Ban trưởng, chuyện ăn tiền phạm nhân bị giải của cảnh trưởng sờ sờ ra đó, sao ông ta không hay, sao ông ta không biết? Hay ông Huyện trưởng Lai Tân này là “cái ô” để bao che bọn thuộc hạ làm bậy “kiếm ăn quanh"!. Ba bức chân dung biếm họa song hành, cùng nối tiếp xuất hiện, mang một ý nghĩa thẩm mĩ đặc sắc, nó cho thấy một hệ thống quan lại Lai Tân là thế! Bộ máy quan liêu của chính quyền Quảng Tây thuở ấy là thế!
Trước những “gương mặt" ấy, thái độ nhà thơ như thế nào?
Câu cuối bài thơ, Người viết:
“Lai Tân y cựu thái bình thiên"
(Lai Tân vẫn thái bình như xưa).
Câu thơ toát lên một nụ cười châm biếm nhẹ nhàng mà sâu sắc. Nhà thơ như hỏi một cách bâng quơ: Lai Tân với hệ thống quan lại và chính quyền như vậy, thế mà !‘vẫn thái bình như xưa". Cách mỉa mai, châm biếm của tác giả “'Ngục trung nhật kí” là thế! Tính “hướng nội" của “Nhật kí trong tù” được thể hiện rất rõ về mặt đặc điểm thể loại, nó vừa là nhật kí lại vừa là thơ, chủ yếu là thơ trữ tình, tác giả viết cho mình, để mà suy ngẫm, để mà chiêm nghiệm, "Vừa ngẫm vừa đợi đến ngày tự do". Vì thế, bài thơ “Lai Tân" tuy có nêu ra ba chân dung về Ban trưởng, Cảnh trưởng, Huyện trưởng tiêu biểu cho cái xấu xa, đồi bại của bọn quan lại chính quyền Tưởng Giới Thạch thuở ấy, nhưng chỉ là để mỉa mai, châm biếm cái nghịch lí, nghịch cảnh mà nhà thơ đã và đang phải đối diện và cam chịu.
Đọc “Ngục trung nhật kí", ta bắt gặp một số “quan chức" nhân hậu, đáng yêu. Là Sở trưởng Long An họ Lưu “Ai ai cũng bảo bác công bình". Là Tiên sinh họ Quách “ân cần đối đãi ta". Là Trưởng ban họ Mạc “chẳng dùng quyền thế, chỉ dùng ân". Khoa viên họ Trần thì “nho nhã”, Chủ nhiệm họ Hầu thì “anh minh"... Cách nhìn của nhà thơ rất nhân hậu, trọng thị và công bằng, giữa cái xấu xa vẫn tìm thây cái tốt đẹp, cái tình người mà trân trọng. Chính nhờ những con người này, tấm lòng này, mà ta hiểu thêm cảm hứng chủ đạo bài thơ “Lai Tân": một nụ cười châm biếm tỏa rộng. Sau 3 chân dung biếm họa là một nhận xét trào lộng thâm trầm, sâu sắc. Nụ cười châm biếm trong bài thơ “Lai Tân” là nụ cười của một nhân cách văn hoá lớn: giàu trí tuệ và đạo đức cao đẹp.
Trong bài “Một tiếng nói hướng nội: Thế giới nhà tù và con người kiên nghị - trữ tình của tác giả ”, Trần Thị Băng Thanh và Nguyễn Huệ Chi có viết:
“Có khi điều trái ngược đã vượt ra khỏi khung cảnh một nhà tù, trở thành tính chất tiêu biểu cho cả xã hội Trung Hoa thời ấy (mà thật ra cũng chẳng riêng gì cho Trung Hoa và cho thời ấy): quan trên trì trệ, vô trách nhiệm, cấp dưới chỉ lo xoay xở kiếm ăn, mặc cho mọi tệ nạn cứ tự do hoành hành:
“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người Cảnh trưởng kiếm ăn quanh,
Chong đèn, Huyện trưởng bàn công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bĩnh”.
(Lai Tân)
Tất cả những việc kì cục bày ra trước mắt như thế có ý nghĩa gì? Phải chăng đây không là một sự “lưỡng phân" tiếp tục trong nhận thức của nhà thơ: ngay khi đã phải “nhập thân" vào thực tại như một hiện hữu không thể chối bỏ, ông vẫn lần lượt đi tìm ý nghĩa của cái thực và cái giả ở từng khía cạnh khác nhau và trong các hình thức tồn tại khác nhau hiển nhiên của nó, có khi điều rút ra là một nụ cười buồn...".
Câu trả lời của bạn
Trình bày cảm nhận về bài thơ Lai Tân trong Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh.
Câu trả lời của bạn
Qua bài "Lai Tân" ta cảm nhận được ý nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đấu sắc mạnh tố cáo châm biếm cao độ. bài thơ đã cho ta hiểu hơn tâm hồn tài năng của Bác và hiểu thêm xã hội Tưởng Giới Thạch.
"Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tố’"trữ tình" và "hiện thực”,"Lai Tân" là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là .một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch.
Với tư cách là người thư ký trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan những cảnh:
"Giam phòng ban trưởng thiền thiên đổ
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự"
Khác với Tú Xương trong hoàn cảnh tự do nên có ‘thể thẳng tay đập vào mặt bọn thống trị những cái tát giáng trời:
"Ớ phố Hàng Song thật lắm -quan
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
Dậu lạy quan xin nọ chú Hàn"
(Lắm quan)
Hồ Chí Minh chỉ có thể mỉa mai, châm .biếm sâu cay bọn thống trị bằng ngòi bút trong hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Từ cái mặt bên ngoài đến tận cùng những ngóc ngách bên trong của bộ máy thống trị Trung Hoa quốc dân đảng đã chứa đầy những mâu thuẫn. Tác giả "Lai Tân" đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính quyền Tưởng Giới Thạch đó là: "Ban trưởng","cảnh trưởng", "huyện trưởng cái chức "trưởng’ của họ khá oai vệ, đầy uy lực, nhưng việc làm của họ đầy khuất tất, bất chính. Khuôn khổ bài thơ rất ngắn gọn nhưng lại được đặt liên tiếp ba chữ "trường" trong ba câu thơ đầu là sự "có tình" dùng phép lặp của Bác trong vỉệc dựng lên những chân dung tiêu biểu của giai cấp thống trị. Ba câu thơ – mồi câu là một bức tranh sống động mang tính thời sự nóng hổi, chân thật đến từng cõi tiết được vẽ bằng nét bút bình thản, lạnh lùng Bức thứ nhất bày ra trước mắt mọi người là hình ảnh một "ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc". Bức thứ hai là hình ảnh "cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhãn bị giải".
Cả ban trưởng và cảnh trưởng đều là những công cụ thi hành pháp luật rất đắc lực của cái xã hội đầy rẫy những bỉ lậu, xấu xa. Chúng khoác trên mình chiếc áo "công lý’ để làm những việc "bất công ly’ một cách thường xuyên hết ngày này đến ngày khác. Chức "trưởng" của chúng đã to, sự phạm pháp của chúng còn lớn hơn ngàn vạn lần. Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch cảnh đó. Thoạt tiên, mới nhắc đến "ban trưởng", "cảnh trưởng" thiết tưởng đó là những người cầm cân nẩy mực chắc hẳn phải công minh, trong sạch nhưng ta thực sự bất ngờ khi biết chúng chẳng qua là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ bạc. Chúng mượn cái danh để tự đặt ra cho mình cái quyền thích làm gì thì làm.
Đất Lai Tân có ban trưởng, cảnh trưởng tưởng chừng cuộc sống bình yên nhưng trớ trêu thay trật tự an ninh không được đảm bảo, những vi phạm pháp luật vẫn diễn ra đầy rẫy mà những kẻ đứng đầu bộ máy thống trị ở Lai Tân cũng chính là những kẻ cầm đầu những chuyện phạm pháp đó. Nực cười thay, nhà tù là nơi giam giữ những kẻ phạm tội vậy mà lại chính là nơi để tội phạm cổ thể thịnh hành rộng rãi nhất, tiêu biểu hơn cả, nhiều hơn cả vẫn là tội phạm cờ bạc mà chính giai cấp thống trị nhà lao cũng là những "đỗ phạm’. Cái nghịch cảnh "đánh bạc ở ngoài quan bắt tội, trong tù được đánh bạc công khai" là hiện thực thôi nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể phủ nhận được.
Cấp dưới sông và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên – huyện trưởng – vẫn đêm đêm "chong đèn lo công việc". Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước. Từ chân dung một ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của ban trưởng cảnh trưởng. Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh "Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự’ vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với "công việc" nhưng thực ra lại là một kẻ quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những gì.
Câu thơ phạm luật "nhị tứ lục phân minh" ở một chữ "công". Bao mỉa mai, đả kích sâu cay dồn nén vào một chữ "công" đó. Huyện trưởng "lo công việc" hay là mượn "việc công" để tạo một tấm bình phong che cho mình "io việc riềng", "chong đèn’ hút thuốc phiện? Tác giả đặt chữ "đăng" chính giữa câu thơ không nhằm mục đích tỏa sáng chận dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thống trị Lai Tân (nói riêng), hệ thống chính quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung).
Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu trả lời là: Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân này!
Em hãy phân tích chất thép trong thơ của Bác
Câu trả lời của bạn
Thơ văn của Bác bài nào, câu nào cũng có thép nhưng chất thép được biểu hiện dưới rất nhiều hình thức khác nhau. Vì thế, đọc thơ Bác, nhà nghiên cứu, phê bình văn học Hoài Thanh viết: Khi Bác nói trong thơ có thép, ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép ở trong thơ. Có lẽ phải hiểu một cách rất linh hoạt mới đúng. Không phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép mới có tinh thần thép.
Trong bài Cảm tưởng đọc Thiên gia thi, Bác nêu rõ quan điểm của mình:
Nay ở trong thơ nền có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
Vậy thế nào là chất thép trong thơ? Căn cứ vào nội dung thơ Bác, chúng ta hiểu chất thép chính là tính chiến đấu, là tinh thần lạc quan, tin tưởng của người chiến sĩ.
Nhưng chất cách mạng và tinh thần chiến sĩ trong thơ đâu phải chỉ có một dạng biểu hiện trực tiếp mới là có chất thép? Nhật kí trong tù có những bài đề cao tinh thần chiến đấu và ý chí không gì lay chuyển nổi của người chiến sĩ cách mạng:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao
(Đề từ)
Hoặc:
Kiên trì và nhẫn nại
Không chịu lùi một phân
Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần
(Bốn tháng rồi)
Những bài như thế chiếm số lượng rất ít trong tập thơ. Phần lớn các bài thơ không nói đến cách mạng, đến tinh thần chiến đấu, có nghĩa là không hề nói chuyện thép và lên giọng thép. Ấy thế nhưng chất thép lại ẩn chứa sau từng câu, từng chữ, từng hình ảnh sinh động, vui tươi hay đằng sau nụ cười hóm hỉnh, hài hước hoặc mỉa mai. Trong tù, tay bị xích, chân bị cùm mà Bác vẫn thưởng thức vẻ đẹp của ánh trăng lọt qua song cửa, vẫn làm thơ và để Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu, đó là chất thép. Trên đường bị áp giải từ nhà lao này sang nhà lao khác, Bác phải chịu cảnh: Năm mươi ba cây số một ngày, Áo mũ dầm mưa, rách hết giày, Lại khổ thâu đêm không chỗ ngủ, Ngồi trên hố xí đợi ngày mai, đó cũng là chất thép. Nhìn xiềng xích và dây trói quấn đầy mình mà Bác lại ví: Rồng cuốn vòng quanh chân với tay, Trông như quan võ quấn tua vai. Nghe tiếng xiềng sắt loảng xoảng theo mỗi bước chân, bất chợt Bác nảy ra so sánh thú vị: Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung… thì phải nói rằng tất cả những cái đó là biểu hiện cụ thể và sâu sắc cái chất thép thấm trong cốt tủy người chiến sĩ – thi sĩ Hồ Chí Minh.
Chất thép còn thể hiện thường xuyên trong cách nhìn của Bác đối với thiên nhiên. Người say đắm trước vẻ đẹp lộng lẫy của buổi bình minh hay một hoàng hôn nơi sơn dã với cánh chim tìm về tổ, chòm mây trôi nhẹ giữa từng không, ánh lửa ấm áp bừng lên trong chiều muộn. Người vui với tiếng Chim ca rộn núi, với những làn hương thanh khiết của cỏ hoa bắt gặp trên đường lưu đày và tìm thấy ở đấy những người bạn tri âm, tri kỉ… Thưởng thức tất cả những cái hay, cái đẹp của thiên nhiên trong tư thế của một người tù bị tước đoạt tự do, phải chăng đó chính là tinh tuý của chất thép trong hồn Bác, trong thơ Bác?
Sau đây là ví dụ cụ thể về một bài thơ không nói chuyện thép, không lên giọng thép mà vẫn thấm nhuần một tinh thần thép
TỰU KHUYÊN MÌNH
Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân.
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện, tinh thần thêm hăng.
Bài thơ này Bác sáng tác trong cảnh tù ngục tối tăm, khổ ải của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Chế độ lao tù thường làm kiệt quệ thân xác và mòn mỏi ý chí con người. Trong những ngày dài chờ đợi dược trả lại tự do, Bác đã ngẫm nghĩ sâu xa và tự khuyên mình như thế. Song ý nghĩa của bài thơ không bó hẹp trong phạm vi một lời tự khuyên mình mà nó trở thành một bài học nhân sinh sâu sắc cho mỗi con người trong quá trình phấn đấu, rèn luyện để trưởng thành.
Mở đầu bài thơ, Bác đưa ra hai hình ảnh đối lập nhau để chứng minh cho quy luật bất di bất dịch của Tạo hóa:
Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân.
Một năm, trời đất trải qua bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Cái vòng tuần hoàn ấy diễn ra đều đặn như thế đã bao đời. Mùa đông, đất trời ảm đạm, lạnh giá, mấy ai ưa thích?
Nhưng không thể bỏ qua mùa đông để tìm mùa thu nắng vàng gió nhẹ đến ngay với mùa xuân, hoa lá tốt tươi. Từ chiêm nghiệm về quy luật thiên nhiên, Bác rút ra quy luật cuộc sống của con người. Trên bước đường tạo dựng sự nghiệp, ai cũng phải trải qua gian nan, thử thách, thậm chí tai ương. Có đắng cay mới có ngọt bùi, điều đó cung là một quy luật tất yếu. Những gian nan, thử thách được Bác ngầm so sánh với mùa đông khắc nghiệt.
Muốn đến được với mùa xuân (thành công, hạnh phúc), bắt buộc phải đi qua nó. Bởi hiểu rất rõ quy luật thiên nhiên, quy luật xã hội nên trước sau, Bác luôn giữ vững lòng tin vào tương lai tươi sáng của cách mạng; đồng thời Người phấn đấu hết sức mình vì sự nghiệp chung. Tư tưởng chỉ đạo mọi suy nghĩ hành động của Bác là thắng không kiêu, bại không nản. Vì thế không may lâm vào cảnh lao tù, Bác vẫn giữ vững ý chí của người chiến sĩ kiên trung:
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.
Gian truân, tai ương không thể cản bước Bác mà nó chỉ là những thử thách để Người rèn luyện tinh thần thèm hăng trên con đường phấn đấu, hi sinh cho dân tộc và đất nước. Không sợ khó khăn, biết vượt lên trên sự ràng buộc của hoàn cảnh, đó là điều kiện cần thiết để rèn luyện bản thân, là phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ. Đó cũng chính là chất thép trong con người Bác Hồ.
Bốn câu thơ nhẹ nhàng như một lời tự nhủ – mình nói với mình, nhưng lại có sức âm vang bởi đằng sau từng câu, từng chữ đều tự nhiên toát lên một tinh thần cách mạng, một ý chí gang thép và một nghị lực phi thường. Bài thơ là bài học lớn lao, thấm thía cho mỗi chúng ta trên đường đời.
Câu 2: Viết dàn ý phân tích tính chất nhân đạo trong tập thơ Nhật Kí Trong Tù của chủ tịch Hồ Chí Minh
Câu trả lời của bạn
I. Mở bài
- Nhắc đến tập thơ, sau đó nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ
- Dẫn đề: Có thể nói, tập thơ Nhật kí trong tù của Bác mang tính chất nhân đạo sâu sắc. Qua đó, ta còn có thể thấy tinh thần yêu nước, nghị lực phi thường và sự lạc quan tin tưởng vào Cách mạng của vị Lãnh tụ kính yêu của đất nước.
II. Thân bài
- Nêu mục đích của tác phẩm: Nhật kí trong tù là tập thơ được Bác Hồ viết nhằm phản ánh cái hiện thực tàn khốc của xã hội, tái hiện cuộc sống bất công cùng cực thông quan các tuyến nhân vật được miêu tả tinh tế.
- Phân tích các nhân vật được Bác Hồ nhắc tới trong tác phẩm. Qua mỗi nhân vật, rút ra nhận xét điều mà Bác muốn nhắn gửi.
- Sự nhạy cảm, đồng cảm của Bác đối với mỗi nhân vật, dù hoàn cảnh của mình cũng cơ cực không kém:
+ Bác thấu hiểu nỗi khổ của em bé khi phải lao ngục tù túng
+ Bác xót thường cùng nỗi đau của đôi vợ chồng bị ngăn cách nhau bởi song sắt của nhà tù
+ Bác cảm thương với người thiếu phụ vì nỗi nhớ chồng ở nơi xa
+ Bác đau lòng trước sự ra đi của một người tù
+ Thương cảm sự vất vả của người phu đường
+ Và cảm xúc đối với người bạn tù trốn ngục
=> Tất cảthể hiện sự nhân đạo sâu sắc
- Nhận xét: Sự nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua các cung bậc cảm xúc của Bác Hồ trước những mảnh đời bất hạnh Bác chứng kiến. Dù chính mình cũng đang phải chịu cuộc sống cơ cực, chằng khác gì những người đó. Nhưng Bác, với lòng nhân đạo của mình vẫn thương, vẫn xót, đồng cảm với từng mảnh đời.
III. Kết bài
- Tóm gọn lại tác phẩm: Tác phẩm đã để lại cho người đọc nhiều suy ngẫm và đặc biệt là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
Nguồn tham khảo: https://cunghocvui.com/danh-muc/ngu-van-lop-9
Mở bài:
Nhà văn là những người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, chính vì tư tưởng giá trị nhân văn tạo nên những giá trị đích thực trong cuộc sống tinh thần và giá trị trong toàn bộ tác phẩm. Văn học có ý nghĩa quan trọng trong việc phản ánh hiện thực cũng như phê phán sâu sắc những giá trị, tư tưởng nhân văn xuất hiện trong tác phẩm, vì vậy, nhật ký trong tù là một trong những tác phẩm như thế.
Thân bài:
+ Nhật Ký trong Tù là tác phẩm hay xuất sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh, thông qua tác phẩm bác muốn phản ánh hiện thực xã hội sâu sắc thông qua những nhân vật, cách miêu tả tinh tế, đặc biệt mang những ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống và phản ánh tình hình xã hội lúc bấy giờ.
+ Thông qua mỗi nhân vật và cách miêu tả chi tiết, chân thực, bác muốn phản ánh hiện thực của xã hội thông qua những số phận, những người ở trong tù, họ phải chịu cảnh tù tội, áp bức, bóc lột…
nhat ky
nhat ky
+ Bác chứng kiến cảnh tù tội, cuộc sống của họ rơi vào biết bao khó khăn, cực khổ, gian nan, vất vả trong cuộc sống, chính vì những lý do đó mà bác Hồ muốn thể hiện quan điểm đạo đức và nhân văn của mình trong xã hội, thể hiện qua văn chương.
+ Cuộc sống của những người tử tù vất vả, họ phải xa gia đình, chịu sự áp bức bóc lột của con người, biết bao nhiêu khó khăn, gian nan họ vẫn phải vượt qua, vượt được những giông bão của cuộc sống, vẫn ung dung tự tại vượt qua được những áp bức, đàn áp của kẻ thống trị.
+ Bác chứng kiến những người phải xa vợ con, họ phải chịu cuộc sống vất vả, nhìn cảnh vợ ở ngoài song sắt, chồng ở trong thanh sắt, cuộc sống vất vả, gian nan, biết bao nhiêu nguy hiểm, những khó khăn đó vất vả, những người chiến sĩ của chúng ta không hề bị lung lay ý chí.
+ Dù vượt qua biết bao khó khăn nhưng tinh thần đó vẫn không hề thay đổi, bác vượt qua rất nhiều những gian nan, vất vả, những khó khăn trong cuộc sống, chính vì thế để vượt qua được những khó khăn của cảnh tù tội, những người lính cách mạng cần phải giữ được tinh thần lạc quan của mình trước cuộc sống.
+ Trong tác phẩm, tấm lòng nhân đạo thể hiện ở sự đồng cảm trước số phận, cuộc đời của những người lính cách mạng, họ phải chịu những nỗi vất vả và chịu đựng những cảnh tù đầy, hành hạ cả về thể xác và tinh thần.
Kết Luận:
+ Tác phẩm đã để lại cho người đọc nhiều suy ngẫm, giá trị của cuộc sống, giá trị nhân văn đặc biệt thể hiện sâu sắc qua đoạn trích.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *