Bài giảng dưới đây sẽ đưa các em đến với một tình bạn đẹp, đến với những giá trị đời thường nhất, chân thành trong cuộc sống. HOC 247 mời các em đến với baì giảng Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến!
Qua nỗi đau đớn, tiếc thương người bạn tri kỉ, bài thơ ca ngợi tình bạn cao quý.
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta
⇒ Một tình bạn keo sơn, gắn bó, chân thành, sâu sắc.
Cách nói giảm nói tránh nhưng không cân bằng được tâm trạng sửng sốt, bàng hoàng: "làm sao", "chợt nghe". Dường như nỗi đau tinh thần quá lớn, đã vượt qua nỗi đau thể xác: "chân tay rụng rời"
Trình bày những đặc sắc về nghệ thuật trong bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến
Các em có thể viết thành một bài văn dựa trên những gợi ý dưới đây:
Bài thơ Khóc Dương Khuê được Nguyễn Khuyến viết khi vừa nghe tin bạn mình - Dương Khuê, qua đời. Bài thơ này được chính Nguyễn Khuyến dịch ra tiếng Việt từ bài thơ chữ Hán Vãn đồng niên Vân Đình Tiến sĩ Dượng Thượng thư (Viếng bạn đồng niên Vân Đình Thượng thư họ Dương) của mình. Để nắm được nội dung và nghệ thuật của bài thơ, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Soạn bài Khóc Dương Khuê.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, bài thơ Khóc Dương Khuê của nhà thơ Nguyễn Khuyến được xếp vào hàng những tác phẩm xuất sắc nhất viết về đề tài tình bạn. Bao trùm bài thơ này là nỗi lòng đau xót khôn nguôi của tác giả trước việc bạn qua đời. Để cảm nhận được bài thơ cũng như những nỗi lòng của Nguyễn Khuyến, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích đoạn thơ đầu bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến
- Dàn ý phân tích hai câu thơ cuối bài thơ Khóc Dương Khuê
- Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Cách dùng “Thôi đã thôi rồi”: cách nói giảm nói tránh để giảm bớt nỗi đau mất bạn, kết hợp với việc sử dụng các từ láy “man mác”, “ngậm ngùi” cùng với nhịp thơ 4/4 ở câu bát diễn tả nỗi đau kéo dài như vô cùng vô tận. Nỗi đau từ chính cõi lòng của nhà thơ lan tỏa ra cả không gian rộng lớn, bao la.
Câu trả lời của bạn
Hai câu thơ sử dụng điển tích Trung Quốc:
“Giường kia treo cũng hững hờ / Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn”
Câu trả lời của bạn
Những chi tiết thể hiện nỗi đau đớn, trống vắng của Nguyễn Khuyến khi nghe tin bạn mất:
“Làm sao bác vội về ngay
Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời”
- Chân tay rụng rời khi nghe tin bạn mất
“ Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa.”
- Rượu ngon giờ không có bạn hiền cùng uống, câu thơ hay không có ai bình luận, đàn gảy không ai thấu hiểu. Nguyễn Khuyến đã mất đi một người bạn tri âm, tri kỉ.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Bài thơ có thể được chia thành ba đoạn:
- Đoạn 1 (hai câu thơ đầu): Nỗi đau đột ngột khi mất bạn.
- Đoạn 2 (từ câu 3 đến câu 22): Những kỉ niệm tươi rói về tình bạn sống lại trong hồi tưởng của nhà thơ.
- Đoạn 3 (phần còn lại): Nỗi đau tắc nghẹn, hẫng hụt, chơi vơi khi đối diện với hiện thực phũ phàng (mất người tri âm, tri kỉ).
Câu trả lời của bạn
Bác Dương thôi dã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
- Câu thơ đọc lên nghe nhói đau, quặn thắt bởi cái sự không lành kia đến đột ngột quá. Câu lục ngắt nhịp 2/1/3 thể hiện đúng cái trường độ đứt đoạn của những tiếng nấc tắc nghẹn trong nỗi đau đến quá đỗi bất ngờ. Trong khi đó nhịp thơ dàn trải và đều đặn ở câu bát làm nỗi đau lan toả ra khắp không gian, trời đất. Một tượng đài đáng kính, đáng trọng trong lòng nhà thơ vừa mất đi một cách quá bàng hoàng khiến người trong cuộc choáng váng, tiếc nuối mà biết rằng không thể cưỡng lại được.
- Đau gắn với nhớ, càng nhớ càng đau. Hiện tại phũ phàng khơi gợi về những ngày tươi đẹp trong quá khứ đê rồi khi những ki niệm kia vụt tan thì hiện thực lại càng gợi sự đớn đau quặn thắt hơn. Câu thơ lặng lẽ trôi về quá khứ, dựng dậy cả một thời "quá khứ hoàng kim" của tình bạn, với mấy chục năm trời gắn bó:
+ Từ buổi đầu gặp gỡ ("thủa đăng khoa ngày trước") đến tận khi tóc bạc da mồi ("Bác già tôi cũng già rồi");
+ Có lúc thật phong lưu tài tử ("Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang") lại có khi chia sẻ cay đắng gian nan ("Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn"),...
=> Dường như nỗi đau mất bạn như đang muốn tựa vào quá khứ để níu giữ một cái đã vĩnh viễn mất đi. Nguyễn Khuyến không đối diện với quá khứ mà sống cùng nó, sống trong nó. Cái chết không thể chôn vùi được những giá trị tinh thần cao quý. Tình bạn nặng trĩu trong từng câu chữ. Cái tình không chỉ là yêu thương, quý mến,... mà là "kính yêu" - cái tình cúa hai trí thức lớn. Đoạn thơ hồi tướng không ồn ào mà đằm thắm, thiết tha, sâu lắng.
Câu trả lời của bạn
- Nghệ thuật nói giảm nói tránh “Bác Dương thôi đã thôi rồi”
- Bài thơ rất thành công trong nghệ thuật tu từ, nhất là nghệ thuật sử dụng các câu hỏi tu từ trong đoạn cuối của bài thơ. Hàng loạt các câu thơ như: Làm sao bác vội vê ngay; Vội vàng sao đã mải lên tiên,... để rồi lắng đọng trong những câu thơ hụt hẫng, chơi vơi:
Rượu ngon không cố bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
- Hư từ không dùng trong trường hợp này thật hợp và cũng thật sắc. Không mua rượu không phải vì không tiền, mà vì mất bạn. Không có tri kỉ thì độc ẩm chỉ tăng thêm nỗi xót xa. Chữ không tạo thành nghịch lí: Có tiền mà không mua. Chuyên uống rượu đối với nhà thơ đã thành "nghĩa tửu" bới thế mà nó không chỉ còn là câu chuyện vật chất tầm thường nữa. Chỉ một cặp lục bát mà chồng xếp 5 chữ không diễn tả thật đúng cái trống vắng khủng khiếp khi mất bạn: Câu thơ không viết, câu thơ không biết đưa ai, chiếc giường treo không bạn, tiếng đàn ngơ ngẩn không tri âm. Ý thơ trống vắng, chơi vơi để rồi kết đọng trong tiếng khóc đáng thương của người bạn già tri kỉ:
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
=> Câu thơ buông nhẹ mà khơi gợi, xót đau, hờn tủi.
Câu trả lời của bạn
⇒ Một tình bạn keo sơn, gắn bó, chân thành, sâu sắc.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Nỗi đau đớn bàng hoàng khi nghe tin bạn mất:
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta
Câu trả lời của bạn
Mở bài
Giới thiệu bài thơ: Đau buồn trước hung tin bạn mất, Nguyễn Khuyến đã sáng tác bài thơ Khóc Dương Khuê để bày tỏ nỗi lòng mình trước vong linh tri kỷ.
Thân bài
- Sơ lược về Dương Khuê và tác phẩm:
- Hai câu thơ đầu:
- 14 câu thơ tiếp "Nhớ từ...than trời"
⇒ Tất cả những kỷ niệm ấy đều in dấu sâu đậm trong lòng Nguyễn Khuyến, là những thú vui, là những hạnh phúc dẫu thông thường, giản dị thế nhưng lại mang nhiều ý nghĩa sâu sắc với tác giả.
- 6 câu thơ tiếp "Bác già...chưa can":
⇒ Tình cảm càng trở nên tha thiết, sâu nặng.
- 10 câu thơ tiếp "Kể tuổi...tiếng đàn"
- 4 câu thơ cuối:
Kết bài
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Các em có thể viết thành một bài văn dựa trên những gợi ý dưới đây:
Hoàn cảnh ra đời Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là hai người bạn rất thân với nhau, Nguyễn Khuyến hơn Dương Khuê 4 tuổi nhưng hai người đậu cử nhân cùng một khoa. Mỗi người có một cách sống khác nhau. Khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, Nguyễn Khuyến liền từ quan không hợp tác với triều đình, Dương Khuê thì ra làm quan cao cho Pháp đến chức tổng đốc Nam Định.
Dù thế hai người vẫn giữ tình bạn thân thiết, keo sơn, gắn bó không hề thay đổi. Năm 1902 Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến nghe tin liền làm bài thơ này khóc bạn.
Dương Khuê là người ở làng Vân Đình, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội).
Xuất thân trong một gia đình nhà Nho. Ông là con cả Đô ngự sử Dương Quang, và là anh ruột của danh sĩ Dương Lâm.
Dương Khuê mất ngày 6 tháng Ba năm Nhâm Dần (1902). Nghe tin, bạn thân ông là Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ Khóc Dương Khuê để viếng ông.
Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất. Nhưng ông còn là một dịch giả tài hoa.
Nguyễn Khuyến đã sáng tác trên 1000 bài thơ. Nhưng tổng số đơn vị tác phẩm sưu tầm được vào loại nhiều nhất cho đến nay chỉ là 353.
Trong đó gồm 267 bài chữ Hán và 86 bài chữ Nôm. Riêng trong 86 bài chữ Nôm đã có đến 20 bài là tác phẩm tự dịch từ 20 bài trong 267 bài chữ Hán.
Bài thơ Khóc Dương Khuê là một trong số ấy, được Nguyễn Khuyến sáng tác năm 1902 khi nghe tin Dương Khuê mất.
Phân tích Khóc Dương Khuê để cho thấy đây là khoảnh khắc tình bạn quân tử của Nguyễn Khuyến.
Câu trả lời của bạn
Khóc Dương Khuê là bài thơ hay nhất, cảm động nhất nói về một tình bạn đẹp, thắm thiết, thủy chung của 2 nhà nho, 2 nhà thơ một trăm năm về trước. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng như đang tự khóc mình.
Tình bạn được xếp hạng thứ năm trên thang giá trị "Ngũ luân". Không tình bạn nhân loại khó phát triển bình thường được. Tình bạn quân tử tập hợp chứ không hề hùa. Không đòi hỏi kết chặt như tình vợ chồng, bạn đời mà chấp nhận sự đứt nối, vơi đầy qua năm tháng. Tính bất nhất ấy thường dễ gây tan vỡ nhưng cũng có khi làm tình bạn đậm đà thêm ra. Quy luật tâm lí ấy cũng tương đương quy luật vật lí: Chỗ nối lại thường bền chắc hơn chỗ chỗ chưa đứt, số đo giữa vơi với đầy luôn lớn hơn giữa đầy với... chưa vơi! Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến ra đời trong trường hợp như thế, và do đó đạt độ đậm đà tha thiết hiếm có. Mối kết giao giữa hai người từng bị sờn đi, vơi đi một thời gian dài, nếu Nguyễn Khuyến không giữ đạo “thẳng thắn và tha thứ” của người quân tử, hẳn tình bạn giữa hai người khó lòng hàn gắn và Khóc Dương Khuê khó phô hết chân tình.
Họ là bạn đồng niên (cùng đỗ khoa thi Hương 1864). Với người quân tử, bạn đồng niên là “chuẩn” nhất, bởi phương châm của họ là “không kết bạn kẽ không bằng mình, thậm chí còn cầu toàn một chiều đến vô nghiệm, kết bạn phải hơn mình, như mình thì không bằng không kết. Nói tắt một lời thì trong kết bạn, quân tử nặng lí trí hơn tình cảm, nhưng chính nhờ vậy mà vẫn “hòa hợp dù không đồng lòng". Tình trạng ấy thực đã xảy ra giữa giao tình Nguyễn Khuyến và Dương Khuê.
Khi kinh thành thất thủ (1883), Nguyễn Khuyến nhất quyết lui về ẩn dật cho đúng đạo “lúc đạt thì làm tốt cho cả thiên hạ, lúc cùng thì làm tốt cho riêng mình". Trái lại, Dương Khuê giữ đạo quân tử theo cách khác: "quân tử làm quan là làm điều nghĩa”, mà thời điểm ấy mới cần đến điều nghĩa biết bao! Vả chăng Á thánh đã dạy "Lúc thường giữ cho đúng lề lối, lúc biến linh động theo tình hình". Thế nên Dương không lui về như Nguyễn mà nấn ná thêm sáu đời vua đầy rối ren, không cơn biến nào sánh kịp. Rồi khi Nguyễn phải “dằn tâm” làm “Ông phỗng đá” để “giữ thân” trong lớp vô gia sư bất đắc dĩ ở dinh Kinh lược Bắc Kì thì Dương đường đường là quan Tham Tá của Nha Kinh lược ấy (ông Tham tá nọ hẳn kha mẫn cán nên sau đó mới thăng Tổng đốc Nam Định - Nam Bình rồi về hưu với hàm Binh bộ Thượng thư).
Ai cũng biết rằng đối với phe hợp tác (Lê Hoan, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Hữu Độ v.v...) Nguyễn Khuyến thường có lời lẽ ác cảm (cả khi họ đã qua đời). Tuy nhiên thánh nhân cũng dạy; “Nước quá trong không cá – xét nét quá không bạn” vì thế Nguyễn Khuyến đã châm chước cho Dương Khuê những khoảnh khắc tình bạn quân tử mà một trong những khoảnh khắc ấy đạt đến cao trào là 38 câu Khóc Dương Khuê.
Nỗi đau mất mát của ông bật lên thống thiết.
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta (câu 1-2)
Tiếng kêu thảng thốt ấy thật là đầy ắp chân tình. Ông đã quên mình để xót xa tột cùng cho số phận bạn. Người đọc không thể không nhận ra nỗi niềm ấy. Thế nhưng ở bài chữ Hán (bộ phận thơ văn chủ yếu mỗi nhà nho) thì câu đầu là “Dĩ hĩ Dương đại niên” (Thôi rồi bác Dương ơi). Hai chữ “Dĩ hĩ” ở đầu câu ngụ ý tiếc vì “mất người tri kỉ“ hơn tiếc vì ‘‘người tri kỉ mất”. Nếu không trả lại bản gốc chữ Hán, ta dễ nhầm rất nhiều “ý ngầm” của ông Tam Nguyên ngay trong bản Nôm.
Tiếp theo là 12 câu nhắc những kỉ niệm chung của hai người:
Nhớ tử thuở... điển phần trước sau (câu 3-14)
Hai mươi năm (1864-1883) giao du tương đắc ấy lại bao kỉ niệm êm đềm! Chính những năm tháng đậm đà tình nghĩa ấy cộng với độ lượng quân tử nơi Nguyễn Khuyến mới đủ sức hàn gắn những sứt mẻ hiển nhiên khi mà Dương không đồng chí hướng với Nguyễn để giữ cái "Đạo chưa cùng” như hàng trăm nho sĩ khác, kẻ lui về ẩn dật, kẻ bỏ đi kháng chiến. Sự không bằng lòng của Nguyễn “bọc nhung" trong bốn câu:
Buổi dương cửu... thì thôi mới là (câu 15-18).
Lời thơ nghe tưởng như kể lể thật tâm đắc tình họ “tuy hai mà một”, ai ngờ lại là lời chỉ trích không khoan nhượng, bấm đúng vào “yếu huyệt” của kẻ sĩ; đạo xuất xử của người quân tử. Lời trách nhẹ nhàng như có mà như không, tất cả chỉ găm chặt vào hai tiếng mới là! Nếu không rõ hành trạng của mỗi người, ta rất dễ “mắc lỡm” lối nói lấp lửng ấy; tuy cùng gặp buổi mạt vận của đạo Thánh (dương cửu) nhưng Nguyễn nhận ra để “biết thôi” còn Dương thì... chưa chịu biết! Nguyễn có bổn phận vạch ra điều ấy vì “trách cho tốt ra là cái đạo bạn bè. Tâm lí người đời thì “nghĩa tử là nghĩa tận” nhưng với người quân tử đấy mới là lúc người ta “tính sổ” nhau thật thẳng thắn vồ “tăm tiếng” lẫn về “tai tiếng” đế còn răn đời; Bởi vì "đậy áo quan công luận mới xác định” (có lẽ vì thế mà tập quán Á Đông trọng ngày chết trơn trọng ngày sinh như Âu Tây chăng?)
Lời thơ giải thích cho việc ngại đi lại là vì tuổi tác:
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác
Trước ba năm gặp bác một lần (câu 19-20)
Trước ba năm, ấy là lúc Nguyễn 65, Dương 61. Liệu có đúng là cả hai đã “già”, đã “nhác đi lại” không? Đừng quên rằng với hàm trí sĩ một Tham tri như Nguyễn, một Thượng thư như Dương, khái niệm “để lại” của họ chỉ giới hạn trong việc bước xuống thuyền hay ngồi lên cáng, vây quanh tiểu đồng, là học trò, là giai nhân, là... một trọng khoa bảng, danh vọng. Tôi nghĩ rằng hai tiếng mới ở câu 18 thực sự “chịu trách nhiệm” việc nhác “đi lại” của họ chứ không phải hai tiếng tuổi già ở câu 19, bằng cớ là ở bản chữ Hán, tuổi già hoàn toàn... ngoại phạm: "Vãng lai bất xác đác”. (Qua lại không... thật đặng). Cách đặt câu đến lạ! Nếu dùng trong bài thi, chắc gì ông đỗ Tam Nguyên nhưng trong Khóc Dương Khuê thì đừng thế nghe mới xứng Tam Nguyên!
Có lẽ họ “nhắc đi lại” vì còn lí do khách quan nữa: Cả hai đều ngại gảy ghi ngờ cho dư luận lẫn thực dân, trừ lẩn gặp nhau hồi ba năm trước rất có khả năng là chuyện bất khả kháng: Đám tang vợ Nguyễn Khuyến. Và như vậy, câu “Trước ba năm gặp bác một lần” độ nhấn tất phải năm vào chữ một, đó là trường hợp "bất qui tắc” của “Qua lại không... thật đặng”.
Dù sao thì chuyện cũng thật buồn. Người bạn duy nhất còn lại 131, thật ra chỉ còn... phân nửa tình bằng hữu, chợt cũng qua đời nốt! Nguyễn Khuyến cảm thấy bơ vơ thật sự, bàng hoàng thật tình, ông như góa bụa thêm lần nữa, cái chết vốn gợi lòng trắc ẩn, mà “lòng trắc ẩn là đầu mối của đức nhân, đức nhân đem lại là nền tảng của Ngũ thường, người quân tử nào chẳng thấm nhuần điều đó. Thế nên những ray rứt của ông (câu 19-28) rất “cận nhân tình”. Mất Dương Khuê, liệu trên đời có còn ai hiểu Nguyễn Khuyến? Quản Trọng khóc Bảo Thúc, Khổng Minh khóc Chu Du cũng đều bởi lẽ ấy: “Quen biết đầy thiên hạ, hiếu lòng chẳng mấy người”. Việc Nguyễn Khuyến chẳng còn thiết gì rượu, thơ, giao (câu 29-34) là chuyện hoàn toàn dễ thông cảm. Bút mực Tam Nguyên nhân vậy mà có dịp cống hiến cho đời những vần thơ thấm tình bằng hữu.
Ở bốn câu kết, thái độ quân tử của Nguyễn Khuyến mới thật rạch ròi, sòng phẳng đến lạ lùng (theo góc nhìn của chúng ta).
Bác chẳng ở... hai hàng chứa chan (câu 35-38).
Ông ấy thế là chết thật rồi. Tôi chí nhớ (những kỉ niệm cũ) chứ không thương, không khóc. Y sờ sờ là thế nhưng ma lực của lời lẽ bản Nôm cứ lôi người đọc theo lòng tha thứ hơn là tỉnh táo nhận ra đạo thẳng thắn của tác giả. Cái tài ông Tam Nguyên thật đáng nể. Hãy thử phân tích một câu:
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương
Chữ tuy vốn phủ nhận nhất thời cái ý đi kề sau nó (ví dụ: tuy giàu nhưng bủn xỉn, tuy nghèo mà xài sang...). Vậy là ông “nhác khóc”, có chung lí do với “nhắc đi lại”. Thẳng thắn đến thế thật quá đáng! Như suy lòng ta để phê phán lòng quân tử lại quá đáng hơn.
Vậy Khóc Dương Khuê đích thực là khoảnh khác tình bạn quân tử. Tình bạn ở họ vốn chuẩn mực, lí trí. Họ “nhanh nhạy trong công việc mà thận trọng trong lời cân nhắc giữa hai bản Hán và Nôm, ta thấy Khóc Dương Khuê là đem lòng tha thứ làm dịu đi dạo thẳng thắn quá căng ở nguyên tác. Ít ai chịu nhận ra ý đồ ấy vì người đời quen nghĩ rằng khóc là việc của tình cảm đơn thuần, quân tử, Tam nguyên gì cũng thế thôi, Nguyễn Khuyến vận dụng đúng đắn “đạo thẳng thắn và tha thứ“ của người quan tử vào cả hai bài nhưng điều thú vị là ông dành thẳng thắn cho nguyên tác, dành tha thứ cho bản Nôm. Rốt cuộc, quân tử vẫn đủ chất quân tử mà không làm chạnh lòng những “phi quân tử”. Không độc đáo được thế thì tài Tam nguyên còn kể làm gì!
Cũng nên biết thêm rằng trong nguyên tác, Nguyễn Khuyến xưng mình là dư chứ không xưng ngã. Xưng dư nghe lãnh đạm hơn, có thể phiếm xưng với cả người không quen biết (Kiểu Chu Hi mở đầu bài tựa Kinh Thi: “Hoặc hữu vấn ư dư viết”. Nếu ai đó hỏi Ta rằng...). Cũng trong nguyên tác, Nguyên gọi Dương vỏn vẹn hai lần bằng chữ Quân thích đáng, phải chăng (để nhắc quãng ngày thân thiết), còn bảy lần xưng hô tiếp theo (các câu 17, 23, 24, 25, 28, 35, 36) ông đều gọi bằng công là cách thường dùng ở ngôi thứ ba và chỉ dùng xưng hô trực tiếp khi cố tránh vẻ mặn mà. Trong bản Nôm, Nguyễn Khuyến dịch thành “bác” cho cả quân lẫn công, thế là ông “quân tử thêm phen nửa”, vẻ lạnh nhạt của ông đã che chắn khéo léo, cảnh “hòa nhi bất" càng ít bị nhận ra càng hay. Chính vì thế mà Khóc Dương Khuê càng thực thụ là khoảnh khắc tình bạn quân tử.
Cái kiểu “giận thì giận mà thương thì thương” ấy thật chẳng nhất quán, chăng đồng bộ chút nào, nhưng phải thế mới cân bằng giữa lí trí với tình cảm. Với chúng ta, điều ấy nghe rất chướng nhưng đạo quan tử thà đành phải thế. Chỗ đặc sắc của Khóc Dương Khuê là nó làm vừa lòng cả hai phía cảm thụ: phía thích nghĩ răng Nguyễn nẫu cả lòng vì thương bạn lẫn phía nhận ra rằng người thực sự chẳng thương bạn mà chỉ không kìm nổi xúc động vì “chút nghĩa”. Chính khả năng hai chiều ấy mới làm đậm dấu ấn Tam Nguyên. Cái lối người đọc vốn là thú sở trường của Nguyễn Khuyến (nhất là trong lĩnh vực câu đối). Cũng đừng quên rằng đâỵ là bài thơ tự sự riêng tư chứ không phải nét để chia buồn, để truy điệu theo kiểu thù tạc đời thường. Rất có thể tang gia họ Dương vào thời điểm ấy chưa mấy ai biết đến.
Cuối cùng, nếu có ai đó nghĩ rằng “bảo là khóc nhưng cuối cùng nhác khóc thì thà đừng khóc”. Nghĩ như thế là dựa lập trường “phi quân tử” để phủ nhận tính cách quân tử của Nguyễn Khuyến cũng như trong cuộc đời và đánh mất đi của cõi đời một kiệt tác về Tình Bạn vậy.
Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến.
Câu trả lời của bạn
Trong nền thơ hơn một nghìn năm của dân tộc Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Khuyến có một vị trí thật vẻ vang. Ông là nhà thơ của những bài thơ Việt Nam đích thực, những bài thơ mà ở đó, những tình cảm đẹp đẽ của con người Việt Nam được diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ Việt Nam thuần khiết, giản dị và đẹp đẽ. Trong những bài thơ ấy, cần phải nói tên một bài thơ không mấy ai không biết: bài Khóc Dương Khuê.
Xét cho cùng, tình bạn giữa hai người Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vốn không phải là một tình bạn thật hoàn toàn như ý. Tuy đỗ cử nhân cùng khoa thi với Nguyễn Khuyến, rồi đỗ tiến sĩ, cùng làm quan cho triều Nguyễn, nhưng sau năm 1884, năm đất nước thật sự mất vào tay thực dân Pháp, Dương Khuê lại không có được cái chí như Nguyễn Khuyến. Không cáo quan về làng, Dương Khuê tiếp tục làm quan cho triều đình tay sai thực dân cho đến tận lúc qua đời ở tuổi 64 (1902).
Tuy vậy, nói thế là để nhìn rõ hết mọi chuyện. Người Việt Nam ta vẫn có câu: nghĩa tử là nghĩa tận. Cái chết đột ngột của Dương Khuê đã thật sự li: một nỗi đau cho Nguyễn Khuyến. Lúc ấy, quên hết mọi điều, ông chỉ còn biết một điều duy nhất: ông đã mất một người bạn thân, mất một nguồn tình cảm quí giá không thế lấy gì thay thế được. Lúc ấy, tự đáy lòng, từ nột tình bạn mà hình như chính ông cũng không thể đo lường hết chiều sâu, Nguyễn Khuyến đã chợt kêu lên những tiếng kêu thảng thốt:
Bác Dương thôi đã, thôi rồi,
Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta.
Hầu như không có một chút vãn chương chữ nghĩa nào trong hai dòng thơ trên, đặc biệt là dòng thơ thứ nhất. Chỉ có nỗi đau, nỗi đau chân thành, trọn vẹn, tự mình thể hiện ra thành lời. Hai tiếng “thôi” dân dã và tự nhiên, cứ như bật lên từ lời nói của một người dân quê bình dị nào đó. Đặt câu thơ này vào trong hoàn cảnh xã hội mà sự “cao nhã“ luôn luôn được coi là một yêu cầu hàng đầu của văn chương, ta càng thấy ở đây sự chân được nhà thơ coi trọng đến chừng nào. Nói đến cái chết, ông không dám động đến từ “chết”. Trời đất cao dày ơi lẽ nào chuyện ấy đã đến thật rồi sao? “Thôi đã... thôi rồi”! Thế là hết! Thật thế rồi! Một kẻ quyền quí ngày xưa khi lỡ tay làm rơi mất viên ngọc lưu li độc nhất vô nhị trong thiên hạ, có lẽ cũng chỉ kêu lên đau đớn đến như thế là cùng. Không đau nỗi đau thật, làm sao có thể khóc một tiếng khóc thật như thế được.
Có điều là, với nỗi đau, Nguyễn Khuyến không thét lên, tiếng khóc của ng là khóc với mình, khóc cho tự mình nghe, tiếng khóc lắng vào lòng. Tâm hồn vốn giản dị, ông chúa ghét sự ồn ào. Lúc này ông muốn ngồi một mình, đối diện với bạn, cùng nhắc lại tình bạn, cùng bạn ôn lại những gì đã từng có giữa hai người. Đã có bao nhiêu là kỉ niệm. Từ những ngày tường đã rất xa xôi:
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Những sớm hôm tôi bác cùng nhau,
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời
Đó là kỉ niệm khi hai người vừa mới lần đầu gặp nhau trong khoa thi Hương và cùng thi đỗ. Nguyễn Khuyến quê ở Bình Lục, Hà Nam, Dương Khuê quê ở Vân Đình, Hà Đông, hai người vốn chẳng quen biết gì nhau. Thế mà, cứ như duyên trời định sẵn, tình bạn đã bắt đầu gắn bó từ đây. Chữ nghĩa của Nguyễn Khuyến sao mà bình dị đến thế, nôm na, thân mật đến thế! Nào là “lúc sớm hôm”, rồi là "tôi bác", với những “cùng nhau”... Nhà thơ cũng xác định cái nhìn đầu tiên của mình về người bạn: đó là lòng kính yêu trọn vẹn, “kính yêu từ trước đến sau".
Cùng với giọng kể lể chân thành như thế, nhà thơ nhắc lại với bạn về những kỉ niệm khác:
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo,
Có khi từng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.
Kỉ niệm giừa đôi bạn như thế quả là rất nhiều, rất đậm. Họ đã từng cùng trải qua những giờ phút thú vị, chứng tỏ họ là những người bạn ý hợp tâm đầu, có tâm hồn biết thưởng thức và chia sẻ những niềm vui thanh cao của kẻ tao nhân mặc khách. Nhắc lại những kỉ niệm đó, tâm hồn nhà thư như còn rung cảm vì tiếng suối “róc rách lưng đèo” nơi “dặm khách” xa xôi. Nhà thơ như cùng đang sống lại với những cảm giác thích thú “nơi từng gác cheo leo”, lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát của các đào nương. Có người sẽ hỏi: nhà thơ Nguyễn Khuyến mà cũng đi hát ả đào sao? Thi có gì đâu mà nhà thơ không đi hát ả đào! Hát ả đào là một thú vui trong xá hội phong kiến. Có lúc thú vui này bị người ta lợi dụng (thì trên đời thiếu gì điều tốt đẹp bị người ta lợi dụng). Tuy vậy, đối với đa số nhà Nho, đó lại là nơi để thưởng thức cái đẹp của lời ca, tiếng hát, tiếng đàn, cũng là nơi di dưỡng tâm hồn sau những tháng ngày gò mình trong khuôn khổ của chốn công danh, vốn được sáng tác để cho các đào nương hát lên đó sao? Nguyễn Khuyến không có những bài thơ như vậy, nhưng rõ ràng là ông đã không thể quên “thứ vui con hát”, bởi đó là thú vui được “lựa chiều cầm xoang”, trải lòng mình theo tiếng đàn, tiếng hát.
Là đôi bạn đến với nhau, thân nhau vì lòng mến mộ lẫn nhau, tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thật là chỗ tri âm tri kỉ, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”:
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp,
Chén quỳnh tương ăm áp bầu xuân,
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau.
Nói về việc cùng bạn uống rượu mà nhà thơ dùng từ "nháp”, lại “cùng nháp” thì thật chính xác và tinh tế, bởi đây là việc uống rượu của người “uống cho vui”, chứ không phải kiểu uống của các bợm rượu. Nhà thơ có lần đã tự nói về khả năng uống rượu của mình:
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
(Thu ẩm)
Chén các cụ dùng uống rượu ngày xưa là loại chén rất nhỏ, thường được gọi là “chén hạt mít”. Nói “nhấp” tức là uống từng hớp nhỏ, như chỉ vừa chạm môi vào, vừa uống vừa ngẫm nghĩ, vừa uống vừa thưởng thức cái vị đậm, cái mùi thơm của rượu. Rượu uống chỉ như thế nhưng lại “ăm áp bầu xuân”. Bầu xuân này là bầu rượu và cũng là “bầu thơ“, bầu rượu đầy cho bầu thơ càng thêm lai láng. Hai tiếng “ăm ắp” mà nhà thơ dành cho bầu xuân” thật gợi cảm và sảng khoái. ‘‘Người thanh cái tiếng cũng thanh”, đến cách chơi cũng cho ta biết được bản chất con người, không phải bất kì ai cũng có được cái “rượu ngon cùng nhấp” ấy, nhất là cái căm nhận “ăm áp bầu xuân” ấy.
Thật là những ngày vui. Nhưng cũng có những ngày buồn, rất buồn. Đó là những ngày nước mất. Là nhà Nho, cùng phụng sự cho một triều đại, đôi bạn cùng chung chia sẻ nỗi đau của thời đại mình:
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn
Phận đấu thăng chẳng dám than trời
Bác già, tôi cũng già rồi
Biết thôi thôi thế thì thôi mới là!
Những câu thơ của Nguyễn Khuyến đọc lên nghe thật buồn bã, ngao ngán. Nói “buổi dương cửu” để chỉ thời kì loạn lạc khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhà thơ coi đó như là một vận hạn mà đất nước và con người phải trải qua. Không làm gì được trước vận hạn ấy, nhà thơ chỉ còn một cách lựa chọn là rời bỏ công danh, chẳng còn dám tham cái lộc trời “thăng đấu” của kẻ làm quan. Nhà thơ nói như một kẻ an phận mà nghe ra thật đau đớn. Ông cảm thấy mình bất lực, cảm thấy mình đã già. Đặc biệt câu thơ cuối đoạn, có đến ba từ "thôi” trùng diệp, khác nghĩa nhau mà như cùng một nghĩa, bổ sung cho nhau, tạo ra ấn tượng về một tâm trạng cam chịu thật nặng nề: Biết thôi- thôi - thế thì thôi. Đúng là tâm trạng của nhà thơ khi cáo quan về làng và cho đến cả những năm sau này: đau buồn trước cảnh nước mất nhưng không có thể làm gì cho đất nước ngoài việc từ quan để khỏi làm việc cho kẻ thù.
Qua 16 dòng thơ, Nguyễn Khuyến đã nhắc lại một cách cô đọng và đầy đủ về mối quan hệ bạn bè giữa đôi bạn Nguyễn Khuyến - Dương Khuê, đặc hiệt là độ sâu, độ bền của tình bạn đó. Những kỉ niệm đã được nhà thơ nói tới mọt cách giản dị nhưng đầy trân trọng. Nhắc lại những kỉ niệm ấy, ôn lại và ngẫm nghĩ về tình bạn ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi đau mà mình phải chịu hôm nay thật là một điều vô lí. Ông chưa bao giờ hình dung ra sự mất mát có thể xảy đến vào lúc này. Nhà thơ nhớ lại:
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác
Trước ba năm gặp bác một lần
Cầm tay hỏi hết xa gần
Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.
Xét về rnặt văn chương, bốn dòng thơ trên không phải là những câu thơ thật mới lạ sắc sảo, bởi những câu thơ ấy sao mà nôm na bình thường, nào la “tuổi già thèm nhác”, rồi lại “hỏi hết xa gần”, với lại “tinh thần chưa can”, cứ như lời lẽ cua một ông lão quê mùa nào đó ở vùng đất Hà Nam. Thì đúng vậv, Nguyễn Khuyến có làm văn chương đâu, ông chỉ bộc lộ nỗi niềm của mình! Nhà thơ còn tự mình lí sự với mình:
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác
Tôi lại đau trước bác mấy ngày
Làm sao bác vội về ngay
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!
Chỉ khi người ta đau đớn thật lòng, người ta mới có kiểu lí sự như vậy. Như thế có khác gì nói rằng: tại sao bác lại chết trước tôi nhỉ? Người chêt trước lẽ ra phải là tôi chứ? Chính từ những lí sự này, mấy tiếng cuối cùng của đoạn thơ nổi lên thật chân thành và ai oán:
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!
Trước nỗi đau dã là sự thật, nhà thơ đành chấp nhận nồi đau và càng thấy điều này là thật vô lí:
Ai chẳng biết chán đời là phải
Vội vàng chi đã mải lên tiên
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua.
Cái chết là một quy luật không ai có thể phủ nhận được. Tuy vậy, trong trường hợp này, Nguyễn Khuyến vẫn tìm thấy sự vô lí: cái chết của người bạn đã đến một cách vội vã quá, nó cướp mất của ông một người bạn hiền và như thế, cũng cướp mất của ông tất cả mọi niềm vui. Câu thơ của ông nói về trường hợp riêng của mình, nghe thật giản dị mà vang lên nhơ một chân lí về tình bạn đích thực ở đời:
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua
Trong hai dòng thơ, từ “không” xuất hiện đến năm lần như những cái lắc đầu buồn bã.
Không còn bạn, không còn thiết uống rượu, bởi không còn người để chia sẻ vị ngon của rượu. Không còn bạn, khóng còn hứng thú làm thơ, bởi vì sao?
Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?
Lắc đầu bằng những tiếng “không”, đến đây nhà thơ tiếp tục lắc đầu bằng những câu hỏi. Hỏi cũng là để nói “không”. Thơ viết ra mà không có người thưởng thúức được, cảm thông được, thì còn viết làm gì? Âm “iết” láy đi láy lại trong hai dòng thơ,rồi hai tiếng “ai”, hai tiếng “đưa” trung điệp (đưa ai - ai biết - mà đưa” cứ mở ra, khép lại, rồi lại mở ra, như một nỗi day dứt khôn nguôi.
Nhà thơ nghĩ đến những mối tình bạn mà sách vở xưa kia đã từng ca ngợi, coi nhơ tuyệt đỉnh của tình bạn: Trần Phồn đời Hậu Hán sau khi bạn ra về thì treo giường lên, không để cho ai ngồi vào cái giường chỉ dành riêng để tiếp bạn; Bá Nha sau khi Chung Tử Kì chết thì quyết bỏ không chơi đàn bởi thấy không còn ai hiểu được tiếng đàn. Ông thay mối tình giữa ông với Dương Khuê chính là một tình bạn như thế; sự mất mát của ông sau cái chết của Dương Khuê đúng là sự mất mát như thế:
Giường kia treo cũng hững hờ
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn
Có thể lấy gì để bù đắp vào sự mất mát này không? Nhà thơ đã khẳng định rằng không. Chỉ còn một cách, như người ta vẫn thưừng làm, là tìm cho mình một cách an ủi. Rằng người chết không còn có thể sống lại được, rằng nước mắt xót thương cũng sẽ chàng giúp được gì... Nguyễn Khuyến muốn dùng cái lẽ thường ấy của đời sống để tự an ủi mình:
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương
Nhà thơ còn tự khuyên bảo mình:
Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
Nhà thơ khuyên mình không nên khóc, bởi tuổi già còn ít nước mắt lắm, chỉ như những hạt sương mong manh thôi, làm sao có thể ép cho nước mắt tuôn chảy thành hai hàng chứa chan được. Nhưng nói như thế là nói lí. Tự nhà thơ vẫn hiểu rằng không thể “lấy nhớ làm thương” được, và càng hiểu ràng hai hàng nước mắt chứa chan của ông lúc này đâu phải do ông “ép lấy”. Mỗi chữ trong thơ ông đều đẫm đầy nước mắt, những hạt lệ từ một nỗi đau lớn, từ một tình bạn lớn.
Có thể khẳng định rằng trong thơ Việt Nam đã có rất nhiều bài thơ hay thể hiện tình cảm đẹp đẽ chân thành, nhưng cả cho đến nay, chưa có bài thơ nào nói về tình bạn có thể sánh bằng bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Cái hay ấy trước hết xuất phát từ một tình bạn đẹp và chân thành của một tâm hồn cao thượng. Cái hay ấy còn là cái hay của một nghệ thuật diễn đạt, một ngôn ngữ diễn đạt gian dị, tự nhiên,đầy tính dân tộc, hoàn toàn phù hợp với nội dung tình cảm mà bài thơ cần diễn đạt.
Cảm nhận về bài thơ Khóc Dương Khuê.
Câu trả lời của bạn
Bên cạnh chủ đề tình yêu quê hương đất nước, tình cảm lứa đôi được nhắc tới qua rất nhiều tác phẩm thì ta cũng chẳng thể nào quên được những bài thơ viết về một thứ tình cảm rất đỗi thiêng liêng khác - đó chính là tình bạn. Trong nền văn học Việt nam, chắc hẳn những người yêu thơ ca chẳng thể nào được bài thơ “Khóc Dương Khuê” của nhà thơ Nguyễn Khuyến viết dành tặng người bạn hiền của mình đã khiến bao trái tim phải thổn thức.
Bắt nguồn cảm hứng từ nỗi lòng thương tiếc khôn nguôi của tác giả trước tin bạn qua đời, Nguyễn Khuyến đã gửi những tâm tình của mình qua những lời thơ sau:
“Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”
Còn nỗi đau nào xót xa hơn khi hay tin người bạn, người thân của mình đột ngột qua đời. Người sống kẻ chết, biết còn gì đây. Ngay khi hay “bác Dương" qua đời, tác giả đã chợt thốt lên một tiếng lòng thảng thốt, tiếc nuối. Hai tiếng "thôi” như một lời buông xuôi, chẳng thể nào cứu vãn được sự thật đắng cay ấy đây. Tác giả dường như muốn phủ nhận cái chết của người bạn ấy mà chẳng nhắc đến một từ “chết” trong câu. Chỉ là tiếng “thôi đã thôi rồi” càng thể hiện nỗi bất lực, một nỗi đau đến vô thức, nỗi đau chèn nén giữa lồng ngực mà chẳng thể nào bật lên tiếng khóc. Mất bạn rồi, không gian nơi đây càng trở nên trống trải, vắng vẻ biết nhường nào “nước mây” cũng thấm đượm một nỗi buồn khôn nguôi. Tựa như câu thơ của nguyễn Du “Người buồn cảnh có bao giờ vui đâu”.
Sau những phút giây khiến con người ta phải giật mình, thảng thốt, Nguyễn Khuyến ngồi đây và nhớ lại những kỉ niệm thuở người còn sống. Còn nhớ những ngày chúng ta cùng đi thi, đi học, đỗ đạt.
“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau
Kính yêu từ trước đến sau
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời”
Tác giả nhớ lại khoa thi năm giáp tí, hai người đã cùng nhau “đăng khoa”, Nguyễn Khuyến đậu giải trạng nguyên nhưng tôi và bác vẫn sớm hôm cùng nhau, tâm sự bàn thế sự đời. Cuộc gặp gỡ ấy tựa như duyên trời định, cảm thấy chẳng bao giờ có thể tách rời. Những kỉ niệm được tác giả sắp xếp, giãi bày từ những giây phút đầu tiên gặp gỡ, cho đến ngày ta cùng nhau tiến bước, góp mặt trong những giai đoạn cuộc đời của nhau khiến cho mối quan hệ ấy càng trở nên quan trọng, gắn bó. Trong tình bạn ấy có cả sự kính trọng, tin tưởng và thề suốt đời thủy chung bên nhau.
“Cũng có lúc chơi nơi dặm khách;
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo.
Có khi từng gác cheo leo,
Khúc vui con hát lựa chiều cầm xoang.
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp:
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích điển phần trước sau”
Nguyễn Khuyến và người bạn ấy đã cùng nhau chu du đến những vùng đất mới, nơi có tiếng suối reo lưng đèo, từng hòa chung niềm vui trong nhịp hát ả đào, cùng nhau uống rượu đầy ắp khí xuân thực là mãn nguyện. Sung sướng biết bao khi tôi và bác còn được bàn luận văn chương, chữ nghĩa của đức thánh hiền để sống sao cho phải đạo làm người.
Tác giả còn hồi tưởng lại những thời khắc mà ông và Dương Khuê cùng sống trong bối cảnh đất nước hoạn nạn nhưng vẫn cùng nhau giúp đỡ, chia sẻ những khó khăn vất vả:
“Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn
Phận đấu thăng chẳng dám than trời
Bác già tôi cùng già rồi
Biết thôi thôi thế thì thôi mới là”
Khi đất nước lâm vào cảnh lầm than, nhân dân bị bóc lột đô hộ, phận là những người làm quan thật khiến lòng xót xa khi phải chứng kiến những cảnh ấy. Sau đó, Nguyễn Khuyến đã từ quan về ở ẩn, tránh xa những cảnh tham quan bóc lột, đánh đập tôi tớ. Sống trong cảnh hoạn nạn ấy, tác giả chẳng dám mong được hưởng danh vọng, bổng lộc cao sang. Sau bao năm cống hiến tuổi trẻ cho đất nước, giờ đây cáo phó chức quan về với chốn quê nhà, ngẫm lại thật khiến cho người xót xa khi giờ đây, đôi ta phải trở thành nạn nhân của thời thế hoạn nạn.
Đường đi lại, tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm, gặp bác một lần,
Cầm tay, hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.
Tuy xa nhau nhưng lòng vẫn luôn hướng về nhau. Tuổi tác giờ đây đã chẳng thể khiến cho tôi và bác được cùng nhau rong ruổi trên những miền đất mới. Biết bao năm ta mới được hàn huyên, tâm sự đôi lần, thế nhưng nhìn thấy bác vẫn mạnh khỏe, tâm tính vẫn thanh cao trong sạch thật khiến cho Nguyễn Khuyến thấy an lòng.
Vậy nên, sau biết bao lời thăm hỏi gần xa, bỗng nhiên hay tin bác ra đi, thật khiến cho tác giả không thể tin được. Nhà thơ tự đặt ra câu hỏi rằng:
“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác
Tôi lại đau trước bác mấy ngày
Làm sao bác vội về ngay
Chợt nghe tôi những chân tay rụng rời”
Cái chết đến đâu có phân biệt già trẻ trước sau, bác đi trước rồi sẽ được an nghỉ nơi đất mẹ, nhưng nỗi đau của người sống biết lời nào diễn tả cho hết. Nghe tin đột ngột như sét đánh ngang trời, thật khiến cho người ta bủn rủn, rụng rời. Cảm xúc chân thực của tác giả khi nghe tin như vậy thật chân thực, sâu sắc biết bao.
“Ai chả biết chán đời là phải,
Vội vàng chi đã mải lên tiên.
Rượu ngon, không có bạn hiền,
Không mua, không phải không tiền không mua.”
Sự ra đi của người bạn hiền khiến cuộc đời tác giả trở nên chán chường, buồn tủi biết bao. Cớ sao tuổi chưa phải quá già, mà bạn đã vội vàng rời xa trốn trần tục để đến một nơi thật xa. Biết lấy gì đây bù đắp lại nỗi trống vắng mà người đã khuất để lại. Câu thơ để lại một lời trách móc, nhưng đằng sau đó là một lời thổn thức về những tâm trạng đang ngổn ngang trong lòng tác giả. Tuổi ta đã già, sống ở ẩn ở chốn yên bình này, giờ đây mất đi người bạn tâm giao thật khiến cảm thấy cô quạnh biết nhường nào. Rượu ngon, nhưng không có bạn hiền bầu bạn thì uống để làm gì. Uống rồi chỉ càng thêm sầu thương, nhớ bạn mà thôi.
“Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa.
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn !”
Bao lời chất chứa trong lòng nay muốn được viết thành tràng thơ, nhưng viết rồi biết đưa ai để còn bình luận, tâm tình như những ngày tháng trước đây. Mất bạn rồi, những hứng thú trước đây cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Không uống rượu, không làm thơ, đàn cũng không muốn gảy, giường phải treo lên, những thứ đã gắn bó biết bao năm tháng trong suốt cuộc đời Nguyễn Khuyến giờ đây cũng đã chẳng còn quan trọng nữa. Chắc hẳn, tác giả đã phải trải qua một cú sốc thật lớn trước những mất mát mà cái chết của người bạn hiền mang tới. Thật buồn!
Sau điệp từ “không” được nhắc lại tới 11 lần trong các câu thơ, tác giả một lần nữa sử dụng nghệ thuật trùng điệp ở trong khổ thơ cuối:
“Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở;
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương,
Tuổi già, hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan ?
Tuy thương, tuy nhớ biết bao nhưng bác cũng chẳng thể ở lại chốn nhân gian, để bầu bạn cùng tôi. Câu thơ mang những dòng cảm xúc dồn dập, hối hả để diễn tả ước mong của Nguyễn Khuyến như muốn níu giữ sự sống của Dương Khuê. Thế nhưng kết thúc bài thơ bằng tiếng khóc, đã được kìm nén biết bao lâu “hạt lệ như sương”. Sau bao thăng trầm biến cố, Nguyễn Khuyến tưởng rằng đâu còn nước mắt để khóc bạn. Nỗi đau đớn nhất của lòng người chính là chẳng thể nào thể hiện qua được những giọt nước mắt. Một người đã từng giữ chức ở chốn quan trường, mạnh mẽ là thế nhưng giờ đây đang ướt đẫm hai hàng nước mắt nóng hổi gửi tới sự ra đi của người bạn tri kỉ.
Bằng tài năng của mình, tác giả đã để lại cho đời một bài thơ khiến cho biết bao trái tim độc giả cũng cảm nhận được nỗi đau thương, mất mát khi mất đi những người thân yêu của mình. Biện pháp so sánh, ẩn dụ, điệp từ được sử dụng khéo léo tài tình, những tình cảm chân thành của Nguyễn Khuyến dành cho Dương Khuê đã được lưu danh tới muôn đời qua bài thơ "Khóc Dương Khuê”.
Phong cách sáng tác của nhà thơ Nguyễn Khuyến là gì?
Câu trả lời của bạn
Nhận thức về phong cách, điểm nhìn nghệ thuật và kiểu tác giả Nguyễn Khuyến, nhà nghiên cứu xác định ba nhiệm vụ nghiên cứu chính:
“Thứ nhất, xác lập nội hàm khái niệm phong cách và phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến - khái niệm cho phép lần tìm và lý giải mối quan hệ giữa các yếu tố tạo nên hệ thống chỉnh thể nhà văn; xác định Con đường dẫn đến phong cách Nguyễn Khuyến, nhận diện và khu biệt Nguyễn Khuyến như một hiện tượng phong cách trong sự vận động nội tại của cả một quá trình văn học (văn học trung đại Việt Nam ở giai đoạn cuối cùng - nửa sau thế kỷ XIX).
Thứ hai, đi sâu vào sáng tác Nguyễn Khuyến, khảo sát, phân tích, khái quát và xác định đặc trưng của thành tố chủ đạo trong cấu trúc phong cách tác giả. Đấy là tư tưởng nghệ thuật với cái nhìn riêng độc đáo của tác giả về con người và thế giới.
Thứ ba, chỉ ra và lý giải mối quan hệ phù hợp, thống nhất giữa hệ thống các yếu tố nội dung và hệ thống các yếu tố hình thức thể hiện của phong cách Nguyễn Khuyến; phân tích, khái quát đặc trưng của phong cách Nguyễn Khuyến qua hệ thống bút pháp, giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả” (tr.25-26).
Trong Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, tác giả đã công phu sưu tập, hệ thống hoá và khảo sát chi tiết nội dung các tác phẩm thơ ca theo nhiều bình diện cốt lõi khác nhau như "cái nhìn về con người", “cái nhìn về thế giới”, “sự đa dạng, năng động và uyển chuyển trong bút pháp”, “nét riêng trong giọng điệu”, “đặc sắc ngôn ngữ nghệ thuật thơ”… Điều này tạo nên tính đồng tuyến giữa các vấn đề, sự rành mạch giữa các chương mục và tạo dựng những cách hình dung khác nhau về thơ Nguyễn Khuyến, đưa đến những cách lý giải mới mẻ hơn về mối quan hệ giữa thơ chữ Hán và chữ Nôm cũng như những sắc thái trữ tình sâu lắng gắn với các giai đoạn sáng tác khác nhau trong cuộc đời Yên Đổ...
Chúc cậu học vui vẻ nha ^^
Nhớ tick mình nhé^^
Những bài thơ ông sáng tác thể hiện nội dung sáng tác:
Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, gia đình, bạn bè
Phản ánh cuộc sống của những con người cực khổ, thuần hậu, chất phác
Châm biếm, đả kích thực dân xâm lược và tầng lớp thống trị
Bộc lộ tấm lòng ưu ái đối với dân, với nước.
Hướng dẫn soạn bài " Khóc Dương Khuê" - Nguyễn Khuyến
Câu trả lời của bạn
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
Dương Khuê (1839 - 1902) là người làng Vân Đình, huyện ứng Hoà, Hà Tây. Đậu cử nhân cùng khoa với Nguyễn Khuyến, sau đậu tiến sĩ nên còn được gọi là Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư. Dương Khuê là người có nhân cách, là một ông quan thanh liêm, chính trực. Ông còn là một nhà thơ lớn của thế kỷ XIX. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là hai người bạn tâm đầu ý hợp, cùng có tấm lòng với dân tộc, nhưng họ lại đi hai con đường khác nhau, Nguyễn Khuyến cáo quan về ở ẩn còn Dương Khuê tiếp tục làm quan…
Bài thơ được Nguyễn Khuyến viết để khóc bạn, lúc đầu viết bằng chữ Hán với nhan đề “Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư”. Sau tác giả tự dịch ra chữ Nôm lấy tên là “Khóc bạn”, nay quen gọi là “Khóc Dương Khuê”. Bài thơ thể hiện xúc động tình bạn tri âm tri kỷ của hai nhà thơ. Nghe tin bạn qua đời, nhà thơ đã vô cùng đau đớn và những kỷ niệm ngày xưa đã ùa về trong kí ức. Qua bài thơ khóc bạn, tác giả đã bộc lộ tâm trạng cô đơn, những trăn trở day dứt của nhà thơ về nhân tình thế thái.
II. RÈN KĨ NĂNG
1. Bài thơ có thể chia thành ba đoạn:
+ Hai câu đầu: đau xót khi nghe tin bạn mất.
+ Từ câu 3 đến câu 22: Nhớ lại những kỷ niệm giữa hai người và thể hiện tâm trạng thời cuộc của nhà thơ.
+ Phần còn lại: Nỗi đau mất bạn và tâm sự cô đơn vì thiếu tri kỷ.
Bố cục này đã thể hiện một cách chân thực mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình tác giả trước sự ra đi của người bạn tri âm tri kỉ.
2. Hai câu thơ mở đầu đã diễn tả rất tinh tế nỗi đau mất bạn của nhà thơ. Cách gọi “bác” vừa đúng mực, vừa rất thân mật. Để giảm nhẹ nỗi đau, để tự an ủi mình và thể hiện sự trân trọng đối với người bạn vong niên, nhà thơ đã dùng từ “thôi” để chỉ sự ra đi vĩnh viễn của người bạn già. Nhà thơ đã dùng cách nói giảm để thể hiện nỗi đau của mình. Còn nỗi đau mất bạn cũng được diễn tả hình ảnh “Nước mây man mác…”. Nỗi buồn đau thấm cả vào cảnh vật. Nỗi đau của người già thâm trầm kín đáo nhưng sâu sắc. Những từ “man mác”, “ngậm ngùi” đã thể hiệ được sắc thái tinh tế ấy trong cách thể hiện tâm trạng của nhà thơ. Đau đớn nhưng không ồn ào mà da diết.
3. Khi khóc bạn, nhà thơ ôn lại kỉ niệm gắn bó giữa hai người. Kỉ niệm được nhắc lại bắt đầu từ khi họ gặp nhau và cho đó là “duyên trời”. Cách diễn đạt này của tác giả đã khẳng định một lần nữa tình bạn sâu sắc của hai người. Họ đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, cùng “chơi nơi dặm khách”, “rượu ngon cùng nhấp”, cùng “bàn soạn câu văn”. Không chỉ có những kỷ niệm ngọt ngào, họ cũng đều cùng là nạn nhân của thời thế. Vì thế, tin người bạn mất đã làm nhân vật trữ tình vô cùng xúc động. Nỗi niềm ấy được nhà thơ thể hiện một cách chân thực:
Bác già tôi cũng già rồi
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là
Ba từ thôi thể hiện rõ nỗi xót xa đau đớn, sự hụt hẫng của người bạn già. Câu thơ vừa là nỗi khóc bạn vừa là nỗi thương mình.
4. Đoạn từ câu 19 đến câu 28 vẫn trực tiếp thể hiện niềm thương tiếc người tri âm tri kỉ. Đó là hồi ức về lần gặp cuối cùng giữa hai người. Tính chất bất ngờ của tin bạn mất lại được nhắc lại :
Làm sao bác vội về ngay
Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời
Sự ra đi của ngươì bạn già lại được dùng bằng một cách nói khác đoạn trên “vội về ngay”. Về là về với tiên tổ. Cũng là một cách nói giảm nhưng xmang sắc thái biểu cảm khác.
Không phải chỉ là thương cho người ra đi đã phải sớm từ giã cuộc đời mà còn là thương mình, thương cho người ở lại đã mất đi một tri âm. Vẫn mang trong lòng nỗi u uất thời thế nên trong lời khóc bạn, trong nỗi đau mất tri kỷ có cả nỗi đau thời thế:
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Vội vàng chi đã mải lên tiên.
Giữa họ, trong những ngày không gặp nhau khi mỗi người đi một con đường, vẫn chung nỗi đau thế sự. Xác nhận “chán đời là phải” là sự thể hiện một cách kín đáo và thâm trầm của nhà Nho về thời thế. Thời thế hỗn loạn, những giá trị đạo đức văn hoá truyền thống đang bị phá huỷ đã khiến những nhà nho có nhân cách và biết tự trọng như Nguyễn Khuyến luôn cảm thấy “chán đời”.
5. Tác giả đã dùng một loạt điển tích, điển cố về tình bạn tri âm để diễn tả nỗi đau mất bạn một cách sâu sắc ở đoạn thơ cuối cùng. Mất đi người tri âm, người ở lại sẽ rơi vào cô đơn, sẽ không còn người để giãi bày tâm sự. Lời khóc bạn của người già khác với nỗi đau của người trẻ tuổi. Đây là nỗi đau nuốt nước mất vào trong. Tình cảm chân thành của một người bạn già đã được thể hiện thật chân thành và sâu sắc.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *