Nội dung bài học Hai đứa trẻ giúp các em cảm nhận được tình cảm xót thương của Thạch Lam đối với những con người sống nghèo khổ, quẩn quanh và sự cảm thông, trân trọng của nhà văn trước mong ước của họ về một cuộc sống tươi sáng hơn. Thấy được một vài nét độc đáo trong bút pháp nghệ thuật của Thạch Lam qua một truyện ngắn trữ tình.
⇒ Không đủ sức khuấy động không khí lặng lẽ, tù đọng của phố huyện.
⇒ Tác giả miêu tả bước đi của thời gian rất cụ thể, tỉ mỉ, chi tiết -> thời gian có sự vận động: chậm rãi, lặng lẽ -> nhịp sống buồn bã, tẻ nhạt của phố huyện từ chiều tàn đi dần vào đêm khuya.
Bóng tối | Ánh sáng |
⇒ Bóng tối đang luồn lách, bám sát vào mọi cảnh vật, mọi hoạt động âm thầm của sinh vật, con người. |
⇒ Lẻ loi, hiếm hoi, yếu ớt, không đủ xé rách màn đêm, làm cho đêm tối mênh mông hơn.
|
⇒ Tương phản: động - tĩnh; ánh sang - bóng tối, nhịp điệu câu văn chậm rãi... -> Khung cảnh phố huyện ảm đạm, xao xác, ngập chìm trong bóng tối đậm đặc.
→ Nhịp sống cứ lặp lại một cách đơn điệu, quẩn quanh, tẻ nhạt, mỏi mòn, buồn chán,... Tuy vậy, họ vẫn hi vọng - cho dù hi vọng đó rất mơ hồ: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Chính sự mong đợi mơ hồ này càng tô đậm thêm tình cảnh tội nghiệp của những nhân vật trong truyện.
⇒ Tất cả đều hiện ra trong cái nhìn xót xa, thương cảm của Thạch Lam, qua lời văn đều đều, chậm buồn, giàu chất thơ và những chi tiết dường như khách quan.
⇒ Đánh thức kỷ niệm về Hà Nội đẹp đẽ thiết tha.
⇒ Hiện thực buồn tẻ, tù đọng của tác phẩm càng nặng nề vì Liên đã ý thức được đầy đủ và sâu sắc về cuộc sống đó.
Ví dụ
Đề: Chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ trích từ tập Nắng trong vườn (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội, 1938). Cũng như những truyện ngắn khác, tác phẩm phản ánh những cảnh đời bề ngoài dường như không có gì đáng để ý, nhưng đi vào bên trong, nơi sâu lắng của tâm hồn thì mảnh đời nào, nhất là của tầng lớp nghèo khổ, cũng gợi lên bao nỗi xót xa, thương cảm, có lúc sâu sắc, tinh tế đến bất ngờ. Để nắm được những nội dung kiến thức cần đạt khi học văn bản này, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Hai đứa trẻ.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ thể hiện thái độ đồng cảm, xót thương của tác giả Thạch Lam với những số phận bất hạnh trong xã hội cũ trước năm 1945. Qua khung cảnh phố huyện nghèo đói, lụi tàn, Thạch Lam muốn bày tỏ niềm xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé, vô danh, không bao giờ biết đến ánh sáng của hạnh phúc. Họ phải sống cuộc đời tẻ nhạt, vô nghĩa, đời sống cạn kiệt, mòn mỏi cả về vật chất lẫn tinh thần. Để nắm vững nội dung bài học cũng như nắm được cách phân tích các vấn đề xoay quanh tác phẩm này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người ở phố huyện nghèo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Nét đặc sắc về phong cách nghệ thuật của Thạch Lam qua truyện ngắn Hai đứa trẻ
- Cảm nhận về truyện ngắn Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam
- Phân tích chất thơ trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Cảm nghĩ về truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam
- Chất hiện thực và chất lãng mạn trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Phân tích giá trị hiện và giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Phân tích nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Bức tranh phố huyện nghèo qua Hai đứa trẻ của Thạch Lam
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Nghệ thuật miêu tả tương phản trong Hai đứa trẻ.
Câu trả lời của bạn
Là một thành viên trụ cột trong bút nhóm tự lực văn đoàn, Thạch Lam đã tự khẳng định mình bằng một hướng đi riêng, đặc biệt là những tác phẩm viết về nông thôn, những người dân nghèo nơi phố huyện. Hai đứa trẻ rút trong tập nắng trong vườn là một truyện ngắn hay, thấm đẫm tinh thần nhân văn nhân đạo, tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật miêu tả tương phản của ông.
Giống như hầu hết các truyện ngắn khác của Thạch Lam Hai đứa trẻ là truyện không có chuyện. Câu chuyện như một bài thơ, cốt chuyện tình tiết, tâm trạng, biến cố đều nhẹ nhàng, dịu êm... Truyện là tâm trạng thao thức đợi tàu, là những cảm xúc, những mảnh ghép cuộc sống, là cảnh vật xung quanh của hai đứa trẻ Liên và An. Truyện chỉ có vậy nhưng qua ngòi bút của Thạch Lam, những điều ấy trở nên sống động, làm cảm động lòng người. Thủ pháp nghệ thuật tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, giữa bầu trời và mặt đất, giữa quá khứ và hiện tại... đã gọi nên nhiều suy nghĩ thấm thía, sâu xa về những cảnh đời, những kiếp người nhỏ bé, sống vô danh vô nghĩa và héo mòn cùng những hi vọng mỏng manh và mơ hồ trong xã hội cũ.
Con người luôn khao khát và luôn cần ánh sáng, thế nhưng với chuyển động của thời gian, chuyển động của trái đất quay quanh trục của nó, mặt trời chỉ có thể chiếu sáng cho chúng ta một nửa thời gian trong ngày. Bởi vậy, cái khoảnh khắc thao thức, cái sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối cùng xuất hiện, thời khắc chiều tà và đêm khuya bên cạnh nhau, tương phản nhau, cùng soi tỏ cho nhau. Ánh sáng và bóng tối đã xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện, ánh sáng yếu ớt của mặt trời "như hòn than sắp tàn" và xen vào đó là những hình ảnh đầu tiên của bóng tối "dãy tre làng trước mặt đen lại". Nhưng ám ảnh và có khơi gợi nhiều hơn cả là một không gian tối- sáng lúc phố huyện vào đêm: "Liên ngồi lặng im bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị". Trong sự đối lập sáng- tối đó, bóng tối là gam màu chủ yếu. Bóng tối dày đặc, mênh mang, bao phủ khắp một vùng còn ánh sáng thì mờ nhạt, nhỏ nhoi, leo lét không đủ để xua đi bóng tối. Thạch Lam thường miêu tả bóng tối nhưng chỉ trong hai đứa trẻ, bóng tối mới đủ hình hài, cung bậc: "đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối", bóng người làm cong lung lay bóng dài, bóng bác phổ Siêu mênh mang ngã xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ". Phố xá thì tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sạm đen hơn nữa. Đêm ở phố huyện tĩnh mịch và đầy bóng tối". Trong cái thế giới ngập tràn bóng đêm, dưới một bầu trời thăm thẳm bao la đầy bí mật của phố huyện, ánh sáng lại quá yếu ớt, mà nhạt, nhỏ bé, leo lét. Ánh sáng của các cửa hiệu chỉ là những khe sáng, lọt ra ngoài, hắt xuống mặt đường gồ ghề khiến mặt đất dường như nhấp nhô hơn vì những hòn đá nhỏ vẫn còn một bên sáng một bên tối. Ánh đèn của bác phở Siêu chỉ là những chấm nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối. Ánh sáng ngọn đèn của chị em Liên thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa... Có lẽ trong văn học xưa nay, ánh sáng cũng đã từng xuất hiện nhiều nhưng không mấy ai miêu tả ánh sáng là khe, là vệt, là chấm, là hột, là quầng... Một cách riết róng như Thạch Lam. Đặc biệt là hình ảnh ngọn đèn chị Tí, một quầng sáng nhỏ nhoi, chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ, xuất hiện hai lần trong tác phẩm, tạo nên sức ám ảnh và khơi gợi về cảnh đời, những kiếp sống nhỏ bé, lay lắt trong đêm đen, trong bóng tối cuộc đời.
Điều Liên, An và những người dân nơi phố huyện mong chờ là thứ ánh sáng nơi bàn tay con người từ chuyến tàu cuối cùng của đêm " các toa đèn sáng trưng, đồng và kền lấp lánh"... Giữa đêm, thời điểm tưởng như bóng tối nặng nề, đông đặc nhất lại chính là thời điểm ánh sáng bừng lên rực rỡ, sáng lóa cả không gian và tâm hồn con người. Bầu trời bao la và mặt đất cũng có sự đối lập. Mặt đất sau buổi chợ tàn chỉ còn lại rác rưởi, bụi bẩn và mùi của đất, là mặt đất bụi bặm, khổ đau, chứa đầy bóng tối. Còn bầu trời thì khắc, nó đỏ rực lúc chiều tà, là hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, là sự kì diệu, thuộc về ước mơ, khao khát, là những kỉ niệm của một thời nay chỉ còn là vang bóng. Ánh sáng và bầu trời thuộc về ước mơ, là để thắp lên, đợi chờ, khát khao. Bóng tối và mặt đất là cái thực tại, là cái hằng chiều, là bóng đêm con người phải sống, phải đối mặt.
Với việc sử dụng nghệ thuật đối lập tương phản trong thiên truyện. Thạch Lam đã làm nổi bật lên cuộc sống buồn bã, tẻ nhạt, tối tăm của những con người nơi phố huyện đang héo mòn vì bóng tối. Qua đó Thạch lam đã bộc lộ rõ được tinh thần nhân đạo, trong niềm day dứt, dằn vặt, thể hiện cái tài và cái tâm của tác giả, tạo nên cả đẹp lãng mạn, nhẹ nhàng đầy thi vị cho tác phẩm.
Dàn ý cảm nhận của anh/chị về bức tranh phố huyện lúc đêm tối trong truyện ngắn ''Hai đứa trẻ'' của Thạch Lam.
Câu trả lời của bạn
Mở bài:
Hai Đứa Trẻ là tác phẩm nổi tiếng của Thạch Lam, trong đó bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện nghèo nổi lên làm nổi bật thêm về chủ đề, nội dung của chính tác phẩm.
Thân bài:
Kết Luận:
Bức tranh thiên nhiên hiện lên với những hình ảnh quen thuộc, với không gian rộng lớn của thiên nhiên, đất nước, mọi cảnh vật trở nên gần gũi, quen thuộc với cuộc sống của những người dân nghèo khổ.
Mỗi truyện của Thạch Lam là một bài thơ trữ tình. Phân tích Hai đứa trẻ để làm sáng tỏ nhận định trên.
Câu trả lời của bạn
Trên diễn đàn văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, Thạch Lam chưa được xếp ở vị trí số một nhưng cũng là một tên tuổi rất đáng coi trọng và khẳng định. Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhưng sở trường của ông là truyện ngắn bởi tài năng nghệ thuật được bộc lộ một cách trọn vẹn, tài hoa. Nguyễn Tuân nhận xét: "Nói đến Thạch Lam người ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài". Đóng góp của Thạch Lam không chỉ ở nghệ thuật mà còn ở phương diện nuôi dưỡng tinh thần. Nó giúp ta thanh lọc tâm hồn. Vì mỗi truyện của ông "như một bài thơ trữ tình chứa đựng biết bao tình cảm mến yêu chân thành và sự nhạy cảm (...) trước những biến thái của cảnh vật và lòng người" (Ngữ văn 11- chương trình cơ bản, trang 94). Truyện ngắn Hai đứa trẻ là "một bài thơ trữ tình" như thế.
Thạch Lam tuy là thành viên trong tự lực văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ lại theo một hướng riêng. Ông xây dựng trong tác phẩm một thế giới nhân vật khác. Ông lặng lẽ hướng ngòi bút của mình về phía những người nghèo khổ với tấm lòng trắc ẩn chân thành. Thế giới nhân vật của Thạch Lam thật nhỏ bé và tội nghiệp. Họ thường nép mình trong bóng tối của một không gian hẹp thường là nơi phố huyện tiêu điều, xơ xác hoặc những xóm nghèo ngoại ô Hà Nội. Nhân vật của Thạch Lam thường tìm kiếm nơi ẩn náu trong gia đình, giữa bốn bức tường hoặc trong trong sân vườn, có nghĩa là tách khỏi cuộc đời, nơi xã hội đầy bất trắc bên ngoài. Có lẽ như thể con người mới cảm nhận hết về mình và về cuộc sống xung quanh. Dường như họ thu mình trước thực tại, để xót mình và thương người, đệ bâng khuâng man mác khi hồi tưởng về quá khứ, không dám nhìn về tương lai, mang nặng một tình cảm mờ mịt trong lòng khi nghĩ về mai sau. Còn cảm quan của Thạch Lam có thể gói gọn trong ba chữ "niềm xót thương". Những con người nhỏ bé ấy bao giờ cũng được nhà văn bao bọc trong một không khí trữ tình đầy mến thương tỏa ra một cách dịu dàng từ tấm lòng tác giả.
Truyện của Thạch Lam không có cốt truyện đặc biệt, giọng điệu và ngôn ngữ nhiều chất trữ tình. Mỗi truyện ngắn có cấu tứ và giọng điệu như một bài thơ trữ tình, gợi sự thương xót trước số phận của những con người nhỏ bé bất hạnh. Một giọng văn bình dị mà tinh tế! Âm điệu man mác buồn bao trùm hầu hết các thiên truyện từ mở đầu cho đến kết thúc. Văn cứ mềm mại, uyển chuyển, giàu hình ảnh, nhạc điệu. Đó chính là chất thơ trong truyện ngắn Thạch Lam, "có cái dìu dịu ở nơi đây" khiến ta vương phải. Hai đứa trẻ là đặc trưng của hồn văn Thạch Lam. Nó là một bài thơ trữ tình đầy xa xót.
Truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam là một mẩu chuyện sinh hoạt kéo dài của hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một phố huyện nghèo gần một cái ga xép. Đêm đêm có những bóng người bình thường lù mù đi qua trước gian hàng. Những bóng người ấy cũng lù mù như những chấm lửa ở những nguồn ánh sáng quanh quất nơi phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có tiếng động mạnh và những luồng sáng mạnh mà một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em ngày nào cũng chờ chuyến thâu đêm này rồi mới chịu đóng cửa hàng. Nguyên Tuân đã tóm tắt truyện như thế. Đúng vậy, truyện này dường như không có cốt truyện, không có biến cố. Nó chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn. Từ khoảng năm giờ chiều khi "phương tây đỏ rực như lửa cháy" đến chín giờ tối "đêm rối hao bọc chung quanh". Nó chỉ diễn biến bên trong "tâm hồn nhà thơ của hai chị em Liên, An trong một buổi tối cua cái thường ngày tưởng như "tẻ nhạt", không có gì"... Song vượt lên trên cái thường ngày ấy, Thạch Lam bằng con đường nghệ thuật riêng với thế giới nghệ thuật riêng, một thời gian riêng, không gian riêng, nhân vật riêng, ngôn ngữ riêng đã tạo nên khí vị nhẹ nhàng, buồn man mác, đậm đà hương vị thôn quê, nhiều bóng tối mà chói sáng mối tình thương yêu hiền hòa, nhân hậu, xót thương chân thành, phảng phất thơ tỏa lên từ quê hương. Truyện không có cốt truyện nhưng chất chứa bao cảnh đời, bao tâm trạng, tâm cảnh sâu lắng tinh tế.
Diện mạo phố huyện được Thạch Lam tái hiện là một khung cảnh buồn, là cảnh chiều tàn đi dần vào đêm khuya. Hàng ngày, những cái ồn ào của buổi sáng làm không khí bị nhòe đi trong nắng nhưng đến chiều thì bộ mặt thật của phố huyện hiện ra với tất cả những cái tiêu điều, xác xơ, tàn lụi. "Chiều chiều rồi" như là một lời thảng thốt, bàng hoàng, như một tiếng thở dài. Thế là một buổi chiều nữa lại đến, chiều là buồn. Ấn tượng về buổi chiều khá sâu đậm. Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn để nói lên được tất cả bộ mặt của phố huyện, Chợ là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê. Biểu hiện thuần phong mỹ tục của làng quê. Người ở nông thôn thường trông chờ vào ngày chợ phiên đông vui, tấp nập. Thạch Lam đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ, tiêu điều của phố huyện. Mặc dù không tả buổi chợ phiên nhưng ông đã tả những phế phẩm còn lại của buổi chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống đầy hay vơi của phố huyện. Tả những con người cuối cùng trao đổi với nhau rồi bước vào các ngõ tối. Rác chỉ là những phế thải vớ vẩn "rác rười, vỏ bưởi, vò thị, lá nhãn và lá mía, thanh nứa, thanh tre...". Lũ trẻ vẫn còn ra bòn mót, nhặt nhạnh. Ngày chợ phiên như thế thì sức sống đã kém lắm, đã yếu lắm rồi. Người bán trông vào người mua và ngược lại nhưng chỉ là sự vô vọng, luẩn quẩn trông chờ vào sự vô vọng. Mùi vị tỏa ra trong không gian này là một thứ mùi đặc trưng để nói tới sự nghèo nàn. Đó là mùi lá mía, vỏ bưởi, đất ẩm, mùi khói, mùi cỏ, mùi phân trâu nồng nồng ngai ngái... Cái mùi vị ấy cũng góp phần làm cho khung cảnh thêm phai tàn tạ héo úa, lụi dần.
Có thể thấy xung đột giữa bóng tối và ánh sáng khá mạnh mẽ, ánh sáng và bóng tối đang giao tranh nhau. Ánh sáng yếu dần. Ban đầu là "phương tây đỏ rực như lửa cháy, và những đám mây lửa than sắp tàn" sau đó là bóng mờ đen của luỹ tre làng và cuối cùng bao trùm lên phố huyện là bóng tối mênh mông. Tín hiệu sáng chỉ còn ngọn đèn hoa kì của chị Tí, ở đây ánh sáng và bóng tối còn mang ý nghĩa tượng trưng, ánh sáng là ước mơ, bóng tối là nghèo nàn và cô đơn. Mở đầu truyện ánh sáng tắt dần, bóng tối chiếm lĩnh. Chính cái ánh sáng cuối cùng đó báo hiệu rõ màn đêm vừa sâu vừa dày sẽ diễn ra tiếp đỏ. Ánh sáng càng ngày càng thu nhỏ phạm vi hoặc ở xa mỏng manh, li ti như ánh sáng của ngôi sao trên bầu trời hoặc yếu ớt ảm đạm lọt qua khe cửa khép hờ, hoặc tỏa trên cái chõng tre của chị Tí. Ánh sáng ấy biểu hiện mót sự tàn lụi bởi cường độ thấp và khả năng thu hẹp của nó. Tiếng trống thu không rời rạc, chạm, lè tẻ và cứ tắt lịm dần. Những âm thanh nhỏ nhất như tiếng muỗi vo ve gợi cảm giác về sự ngưng đọng chiếm lĩnh không gian, thời gian đang chết lặng. Đó là những âm thanh không có hồi âm, nó chỉ nhấn mạnh thêm cái buồn tẻ đến rợn người của phố huyện lúc chiều tối. Tất cả hô ứng, quy tụ để cho người đọc thấy rõ được khung cảnh thật của phố huyện một ngày tàn. Thạch Lam miêu tả, nhận xét một cách tinh tế, sâu xa bước đi của thời gian nơi phố nghèo. Người đọc dường như thấy được bước chuyển biến của thời gian rung lên bằng ngôn ngữ riêng. Sức rung động của câu văn có khả năng đánh thức con người hãy cảm nhận thật tinh tế khung cảnh phố huyện và tâm sự của Thạch Lam.
Trên cái nền ấy, những cảnh đời, những con người, đúng hơn là những phiên cảnh về cuộc đời, về con người bé mọn, hoàn toàn không có ước vọng, khát khao được khắc họa rõ nét. Họ nói chuyện với nhau nhưng dường như chẳng có nội dung. Họ có đi lại, ăn nói với nhau nhưng chỉ thấy họ vừa lòng thỏa mãn với cảnh đời hẹp. Mua chịu nửa bánh xà phòng, bán rong hơn một ngấn rượu trong chiếc cút bé nhỏ... Chị Tí là điển hình cho người dân phố huyện vợi nhịp sống quẩn quanh. Ban ngày mò cua bắt tép, tôi đến chị mới dọn cái hàng bán nước. Trông chờ vào vài khách xuồng tàu ga xép, dăm ba người lính lệ là quá bấp bênh kiếm sống. Cái đáng sợ là biết bán không được gì mà vẫn cứ dọn hàng. Đây không phải là sự sống thực sự mà là sự sông cẩm chừng, cầm cự, giao tranh, giành giật trong sự đói nghèo. Cách nhà văn miêu tả chi tiết chị Tí trả lời câu hỏi của Liên - "Chị Tí đê chõng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồi mới chép miệng trả lời Liên cho ta thấy nhịp sống chậm chạp, luẩn quẩn, bế tắc của đời sống gia đình này. Bác phở Siêu có vẻ khá hơn nhưng nguy cơ lại lớn hơn vì thức mà bác bán là thứ quà xa xỉ mà ngay cả chị em Liên cũng không dám ăn. Bác xẩm tóp tiếng đàn run bần bật trong đêm tối, mà không hề có tiếng động nào của một đồng xu. Bà cụ Thi, một bà già hơi điên là hình tượng bất lực của cả một đời đổi chọi mưu sinh không thành. Đến tận tuổi già tàn lụi, héo lìa, đành chấp nhận. Hàng đêm lần ruột tượng lấy ba đồng xu mua cút rượu, ngửa cổ uống một hơi cạn sạch, khanh khách cười đi vào bóng đêm, cho ta cảm giác rợn người về một kiếp sóng sắp đến hồi tàn. Nhân vật này chỉ xuất hiện qua vài dòng ít ỏi nhang đã ám ánh người đọc, đánh thức trong họ lòng trắc ẩn chân thành.
Ở vị trí tiên cảnh của bức tranh đời buồn thảm, héo tàn, mờ mờ lay động bóng hai chị em nhỏ tuổi cũng âm thầm không kém với cái "cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu" mà khách hàng là những người khốn khổ có khi không đủ tiền mua nổi nửa bánh xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rượu nhỏ "uống một hơi cạn sạch". Liên xót xa cho những kiếp người lay lắt, nhưng cuộc sống của Liên cũng cám cảnh, cầm chừng không kém. Nỗi khổ của Liên có lẽ còn cao hơn nỗi khổ vật chất của những người khác. Đó là bi kịch tinh thần bởi những người kia khổ mà không biết mình khổ, còn Liên đã thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm và đơn độc hết ngày này sang ngày khác. Niềm vui duy nhất được khuây khỏa nỗi hắt hiu, đơn điệu chỉ là đêm nào cũng mỏi mắt cố gắng chờ đợi một chuyến tàu đi qua "đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Ánh sáng của đoàn tàu là máng ánh sáng rực rỡ, mạnh mẽ song cũng chỉ vụt lóe lên nhanh như một vì sao băng để rồi vĩnh viền tắt lịm trong màn đêm khiến ta phải ngơ ngác, bàng hoàng. Dường như "Hai đứa trẻ" là truyện của những nguồn ánh sáng hồi tưởng của Liên cũng là hồi tưởng về ánh sáng. Lần đầu tiên Liên "nhớ lại" Hà Nội một kí ức không rõ rệt. Hà Nội là một vầng sáng rực và lấp lánh Hà Nội nhiều đèn quá. Lần thứ hai, Liên mơ tưởng "Hà Nội xa xăm". Cái cảnh tượng của quá khứ đẹp đẽ ấy tương phản gay gắt với tăm tối mịt mù dưới gốc bàng của hiện tại đang diễn ra. Quá khứ và hiện tại, ánh sáng và bóng tối, lãng mạn và hiện thực, giấc mơ đẹp và sự thật nghèo khổ, tất cả tạo nên hiến động sâu kín trong tâm hồn Liên. Ánh sáng cựa đoàn tàu là ánh sáng của mơ ước, nó chí thoáng qua, để rồi tất cả lại chìm trong bóng tối mênh mang, buồn tẻ.
Tất cả các nhân vật đó đã hiện ra dưới cái nhìn xót thương của Thạch Lam "chứa đựng biết bao tình cảnh chân thành và nhạy cảm". Nỗi thương cảm của Liên đối với mấy đứa trẻ đi nhặt rác, với chị Tí, với bác Siêu, với cụ Thi điên cũng là cảm xúc của chính Thach Lam. Thạch Lam đã hóa thân vào nhân vật đã nói cái cảm quan xót thương của mình, Đoàn tàu với thoáng sáng vụt qua rất nhanh rồi tắt lịm đã thay đổi một chút ít không khí của thế giới hiện tại. Phải chăng đó là khát vọng day dứt về một kiếp sống tàn lụi, héo úa, đơn điệu, có mà như không chứ không chỉ có xót thương thông thường. Chính vì vậy mà ông trình bày hiện thực của phố huyện mang ý nghĩa khái quát lớn của xã hội Việt Nam về sự trí trệ. Nếu đặt trong dòng thời sự văn hóa thời ấy ta thấy Thạch Lam phản ánh khá rõ một nét hoàn cảnh, tâm lí thời đại mà Nam Cao - một "bộ máy cảm quan" tài năng cùng thời cũng đã từng thốt lên: "Cuộc đời là những tháng ngày vất vả".
Hai đứa trẻ là một truyện ngắn như một bài thơ trữ tình bởi câu tứ, giọng điệu, ngôn ngữ của nó, giống như một bài thơ. Câu từ của truyện là câu tứ vòng tròn xoay quanh hình ảnh bóng tối được lặp đi lặp lại nhiều lần (không dưới ba mươi lần). Khi miêu tả cảnh phố huyện cũng như cảnh đời những con người phố huyện, tác giả đặc biệt có dụng ý sử dụng mô típ bóng tối. Bóng tối bao trùm cảnh vật và con người được tác giả miêu tả từ nhiều thời điểm, từ nhiều góc nhìn, từ nhiều tâm cảnh khác nhau. Bóng tối như một ám ảnh, như một sự hăm dọa, như một quái vật đè nặng lên cảnh vật và con người. Tác giả nhắc đến bóng tối nhiều lần bằng những hình ảnh và ngôn từ khác nhau. Bóng tối là "buổi chiều lầm than sắp tàn", "đèn đen lọi", "chiều, chiều rồi", "bóng tối ngập đầy ", "bước của buổi chiều", "ngày tàn". Tác giả miêu tả rất nhiều trạng thái khác nhau của bóng tối. Bóng tối đến với tiếng trống thu không từ trên chòi cao, bóng tối sắp đến với những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, bóng tối đến với dãy tre làng đen lại, bóng tối đến với cánh muồi vo vo, bóng tối đến với những viên đá nhỏ trên con đường mấp mỏ, bóng tối trùm lên đường phố và các ngõ huyện... Nói tóm lại, bóng tối được lặp đi lặp lại như một cái gì hào hùng đang hoạt động, đang thâm nhập, đang len lỏi, luồn lách, bám sát vào mọi cảnh vật, mọi trạng thái hoạt động âm thầm của mọi sinh vật. Nó là không gian nghệ thuật của tác phẩm và không gian xã hội của con người. Bởi tối là lúc chị Tí xuất hiện "tối đen chị mới dọn cái hàng dưới gốc cây bàng", về đêm bác phở Siêu mới xuất hiện như một chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra ... Bóng tối là nơi cụ Thi mang đến và mang đi "một tiếng cười khanh khách nhỏ dần". Một cụ Thi cuộc đời không rõ nhưng rõ ràng là đang chứa ẩn nỗi lòng u uất cứ chìm trong bóng tối. Vợ chồng bác Xẩm thu gọn cuộc đời trên manh chiếu chật hẹp trong đêm. Với chị em Liên, tác giả kể tỉ mỉ hơn những tâm trạng, những suy nghĩ của hai đứa trong đêm tối. Bóng tối ngập đầy đôi mắt Liên. Liên thích ngồi yên lặng ngắm nhìn trong đêm tối, về khuya, Liên ngồi yên lặng chờ đón đoàn tàu. Khi tàu vụt qua, Liên ngập dần vào giấc ngủ yên tĩnh trong một phố huyện tĩnh mịch và đầy bóng tối ...
Lặp đi lặp lại gián tiếp hay trực tiếp hình tượng bóng tối cũng chính là cách để tác giả bộc lộ chủ đề tác phẩm qua cảm quan xót thương và tạo cho truyện có âm hưởng, cấu tứ như một bài thơ trữ tình.
Việc miêu tả những cảm giác thiên nhiên thường rất hiếm thấy trong các tác phẩm của văn học hiện thực. Nếu ta coi Hai đứa trẻ là một tác phẩm hiện thực, ta sẽ thấy Thạch Lam luôn luôn miêu tả thiên nhiên khi có cơ hội. Thiên nhiên bao bọc truyện với nhiều trạng thái phong phú. Tác giả còn chú ý khắc họa được cảm giác mơ hồ về giờ khắc của ngày tàn, về vũ trụ thăm thẳm bao la rất gần gũi với những tứ thơ lãng mạn "mang mang thiên cổ sầu". Nét hòa đồng với thiên nhiên một cách dịu dàng của làng quê Bắc Bộ là một nét cảm giác rất quen thuộc và gần gũi mang sắc thái dân tộc, cũng chính vì vậy mà nhân vật chính của câu chuyện là Liên cứ mang theo vẻ hồn man mác.
Chất thơ còn được thể hiện ở ngữ điệu nhỏ nhẹ, man mác thú vị ở lời văn, ở những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dễ rung động. Truyện cứ trải dài ra như một tình ca buồn, lắng sâu thanh lọc hồn ta, chất nhạc thấm trong từng câu văn thấm thía. Một giọng văn bình dị mà tinh tế, đầy ưu ái. Có thể nói Hai đứa trẻ là một bài thơ trữ tình trọn vẹn của Thạch Lam.
Khi nói "mỗi truyện là một bài thơ trữ tình" thì người nói muốn nhấn mạnh cả về nội dung lẫn hình thức của truyện. Nội dung thể hiện hình thức và ngược lại. Nó là sự gắn bó hài hòa để tạo nên tác phẩm. Văn phong "điềm đạm nhưng chứa bao tình cảm mến yêu chân thành với lòng xót thương sâu sắc của Thạch Lam được thể hiện đặc trưng trong Hai đứa trẻ, đúng như cảm nhận của Nguyễn Tuân: "Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ dư vị và cái nhã thú của phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học".
Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam.
Câu trả lời của bạn
Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân, em ruột của hai nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), xuất thân từ một gia đình công chức gốc quan lại. Ông nội nhà văn quê ở làng Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam, ra làm quan ở đất Bắc rồi sống luôn ngoài ấy. Thạch Lam sinh năm 1910, tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, quê mẹ. Lớn lên, ông học Trung học ở Hà Nội, rồi bỏ học đi làm báo, viết văn cùng các anh và trở thành một cây bút đắc lực của báo Phong hóa và Ngày nay. Sự nghiệp văn chương đang trên đà phát triển thì ông mắc bệnh lao và mất năm 1942, mới 32 tuổi.
Thạch Lam sáng tác không nhiều nhưng đủ để mọi người nhận thấy ông là một nhà văn có phong cách riêng trong sáng, giản dị mà thâm trầm sâu sắc. Mỗi truyện của ông giống như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao cảm xúc thương yêu con người và cảnh vật. Ông có nhiều đóng góp đáng quý cho sự nghiệp phát triển văn xuôi trước Cách mạng tháng Tám, đặc biệt trong thể loại truyện ngắn. Tác phẩm Thạch Lam để lại là truyện ngắn: Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc,… tiểu thuyết Ngày mới; bút kí Hà Nội 36 phố phường; tiểu luận: Theo dòng…
Truyện ngắn Hai đứa trẻ trích từ tập Nắng trong vườn (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội, 1938). Cũng như những truyện ngắn khác, tác phẩm phản ánh những cảnh đời bề ngoài dường như không có gì đáng để ý, nhưng đi vào bên trong, nơi sâu lắng của tâm hồn thì mảnh đời nào, nhất là của tầng lớp nghèo khổ, cũng gợi lên bao nỗi xót xa, thương cảm, có lúc sâu sắc, tinh tế đến bất ngờ.
Hai đứa trẻ nói về hai chị em Liên và An. Chị độ mười hai, mười ba; em lên tám, lên chín. Gia đình trước ở Hà Nội, sau vì sa sút nên phải về quê ở phố huyện này. Mẹ bận làm hàng xay hàng xáo, giao cho hai chị em trông coi quầy hàng xén nhỏ xíu ở gần ga. Mẹ dặn phải thức cho đến khi xe lửa đi qua, may ra còn có người ở tàu xuống ghé mua hàng. Hai chị em ngồi trên chõng trước hiên chờ. Em buồn ngủ, ngả vào người chị nhưng vẫn nhắc hễ tàu đến thì đánh thức dậy. Chị ngồi nhìn quang cảnh xung quanh. Sự sống chỉ còn thu lại ở cái chõng hàng nước, một gánh phở, một gia đình nhà xẩm. Tất cả đều chìm trong bóng tối mênh mông, còn ánh sáng rực rỡ trên các toa tàu thì vun vút qua mau như từ một cõi nào xa lạ. Hai chị em trông theo làn ánh sáng ấy cho đến lúc nó khuất hẳn ở đằng xa mới đóng cửa đi ngủ.
Nội dung truyện chỉ có vậy nhưng cả một thế giới đã được gợi lên với niềm thương cảm sâu xa. Đó là một thế giới âm thầm, lặng lẽ trong bóng tối của đêm đen; bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó; trong im lìm quạnh quẽ của phố huyện xác xơ. Những đốm sáng lù mù, leo lét lại càng làm nổi rõ thêm màu sắc u ám của cuộc sống khốn cùng. Cũng như ánh sáng rực rỡ thoáng qua ở các toa tàu có vẻ như một ảo ảnh xa xôi không bao giờ dám mơ ước tới. Cái thế giới ấy hai đứa trẻ đã quen thuộc, hơn nữa, đã hòa nhập vào đó với tất cả tâm hồn.
Tác giả chia truyện ra làm ba phần theo trình tự chuyển biến của thời gian và không gian. Phần một là cảnh chợ chiều lúc vừa có tiếng trống thu không, hai chị em Liên đang còn loay hoay xếp dọn cửa hàng. Phần hai là quang cảnh phố huyện về đêm, bóng tối bao phủ khắp nơi. Dấu hiệu của sự sống chỉ còn là mấy ánh đèn. Phần ba là cảnh phố huyện lúc có chuyến tàu đêm vun vút chạy qua trong chốc lát cùng tiếng ồn và ánh sáng.
Câu chuyện diễn ra trong một khung cảnh thiên nhiên được cảm nhận ở cả hai chiều thời gian và không gian. Đó là khoảng thời gian rất ngắn, không gian có sự thay đổi từ cảnh chiều tàn cho đến khi màn đêm buông xuống và đất trời về khuya. Màu sắc của cảnh vật thì từ nhờ nhờ chuyển sang đen sẫm. Màu của cuộc sống ban đêm càng khuya càng tăm tối. Trên cái nền ấy nổi lên một số cảnh tình cứ xoáy mãi vào lòng người đọc. Đó là cảnh ngày tàn nơi phố huyện nhỏ bé, một phiên chợ tàn, một góc chợ đơn sơ, một quán nước nghèo nàn, những kiếp người cơ cực và hình ảnh đoàn tàu vụt qua trong đêm tối.
Mở đầu truyện là hình ảnh phố huyện lúc hoàng hôn được tác giả miêu tả bằng những câu văn có nhịp điệu thong thả, chậm rãi, cùng với những âm thanh, hình ảnh báo hiệu đã hết một ngày:
Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.
Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.
Các hình ảnh trên đều gợi cảm giác bâng khuâng, man mác.. Gọi là phố huyện nhưng là huyện nhỏ, hiệu lệnh phát ra từ một cái chòi chứ không phải là một tháp canh. Cái chòi bé tí lại lẩn vào dãy tre làng đang đen lại, vào lúc trời tây đỏ rực nhưng sắp tàn. Ngoài cánh đồng, tiếng ếch nhái kêu ran theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng của chị em Liên, tiếng muỗi vo ve. Liên bỗng dưng thấy cái buồn của ngày tàn thấm thìa vào tâm hồn khi ngồi bên cạnh những quả thuốc sơn đen, đôi mắt ngập đầy dần bóng tối.
Trong bức tranh chiều tàn nơi phố huyện có sự hoà trộn giữa hai loại hình ảnh: hình ảnh êm đềm, thi vị và hình ảnh gợi sự nghèo khổ, bần cùng. Chẳng hạn: tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều là thơ mộng; còn tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve… thì đã gợi ra cuộc sống nghèo nàn nơi thôn dã.
Thật ra, cũng khó mà nói cho rạch ròi nỗi buồn từ cảnh vật thấm vào lòng người hay nỗi buồn trong tâm hồn thơ ngây của hai chị em lan tỏa ra, nhuốm vào cảnh vật. Chỉ biết ở đây có một cái gì đó thật nhịp nhàng, hòa hợp giữa cảnh với người.
Đoạn văn mở đầu vừa giàu hình ảnh, nhạc điệu, vừa uyển chuyển, tinh tế. Nó không những khiến người đọc hình dung ra cảnh vật mà còn khơi gợi tình cảm, xúc cảm trước thiên nhiên gần gũi, bình dị của quê hương.
Sau một ngày làm lụng cực nhọc, cái chờ đợi mọi người chỉ là bóng tối và sự vắng lặng, quạnh hiu. Cảnh chợ chiều đã vãn bộc lộ rõ cái nghèo: rác rưởi vung vãi trên nền chợ và những đứa trẻ lom khom tìm kiếm những gì có thể dùng được cho cuộc sống nghèo khổ của gia đình chúng. Đó là mặt trái, là một thứ bóng tối của chợ.
Bấy nhiêu chi tiết đều tập trung vào xu thế thu nhỏ lại, lụi tàn đi của những cảnh vật ban ngày trước cái thế chiếm lĩnh, tràn dâng mỗi lúc một mạnh của những cảnh tình ban đêm mà bóng tối dần dần ngự trị. Mở đầu truyện là bóng tối, chấm dứt truyện cũng là bóng tối. Bóng tối mênh mang, phủ trùm lên tất cả cảnh vật và con người.
Lúc còn tranh tối tranh sáng, tuy các nhà đã lên đèn nhưng những nguồn sáng ấy không thể xua tan bóng tối, khiến những hòn đá nhỏ hãy còn một bên tối. Bắt đầu đêm thì đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Bác hàng phở lom khom nhóm lửa thì bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng và kéo đến tận đàng xa. Chị em Liên ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối chung quanh. Toàn là bóng tối. Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại đen sẫm hơn nữa. Trống cầm canh cũng đánh tung lên một tiếng ngắn rồi chìm ngay vào bóng tối. Lúc này, các cửa hàng cơm ở ga cũng im lặng, tối đen như ngoài phố. Con tàu với ánh đèn sáng trưng đi qua rồi thì đêm tối lại bao quanh, màn đêm của đất quê, của đồng ruộng mênh mang và im lặng. Chị em Liên cũng đi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối.
Bóng tối át cả ánh sáng. Vài ánh sáng thưa thớt, mờ nhạt khiến bóng tối lại càng dày đặc. Vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào cành cây, cũng như hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh trên liền trời… Thứ ánh sáng xa vời ấy là sản phẩm của đêm, hoà tan trong bóng đêm. Đáng chú ý là ngọn đèn le lói trên chõng hàng nước của mẹ con chị Tí, bếp lửa thấp thoáng nơi gánh phở của bác Siêu, ánh đèn yếu ớt trong quầy hàng của chị em Liên và từ cái đèn lồng trong tay người nhà hiệu khách, từ chiếc đèn ghi xanh lét của nhà ga. Ngọn đèn trên chõng hàng nước của chị Tí chỉ là một quầng sáng nhỏ nhoi giữa mặt đất ngập tràn bóng đêm, dưới một bầu trời bao la thăm thẳm đầy bí mật. Bếp lửa của bác Siêu chỉ là một chấm lửa nhỏ và vàng, lơ lửng đi trong đêm tối, thoáng hiện, thoáng mất, chỉ làm cho bóng bác mênh mang. Ánh đèn trong cửa hàng chị em Liên thì thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa. Ánh đèn lồng thì lung lay cái bóng đen dài của người cầm đèn. Chiếc đèn ghi thì lửa xanh biếc như ma trơi. Trong khi đó, chung quanh những điểm sáng leo lét ấy là cả một bóng tối đen kịt, mênh mông, vô tận. Những hột sáng, những chấm lửa ấy chỉ làm cho bóng đêm thêm dày đặc, âm u.
Trang sách nhuộm đầy bóng tối là để gắn vào cái khung tối tăm ấy những mảnh đời không kém tối tăm. Trong cảnh ngày tàn, chợ tàn, hiện lên những kiếp người tàn tạ. Những kẻ kiếm sống ban ngày với phiên chợ như mấy bà bán hàng về muộn, mấy đứa trẻ nhặt rác, chị em Liên. Những người kiếm sống ban đêm quanh góc chợ và sân ga xép như mẹ con chị Tí, bà cụ Thi, bác phở Siêu, gia đình bác xẩm…
Họ có chung cuộc sống tối tăm, nghèo đói, chung cảnh ngộ tẻ nhạt, buồn chán. Tuy vậy, trong tâm hồn họ vẫn ánh lên vẻ đẹp của tình người, tình quê hương và le lói một niềm hi vọng vào một ngày mai tươi sáng.
Sau khi phiên chợ chiều đã vãn, bóng tối chưa buông xuống nhưng những cuộc đời bóng tối đã hiện ra. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ tranh nhau nhặt nhạnh tất cả những gì có thể dùng được, một thanh nứa, thanh tre hay bất kì cái gì. Đó là cuộc sống cùng khổ của chúng với những thứ mà người ta đã vứt đi.
Vào đêm thì có cuộc đời của mẹ con chị Tí với cái hàng nước đơn sơ. Ban ngày thì hai mẹ con mò cua bắt tép; từ chập tối cho đến đêm thì bán nước chè tươi, điếu thuốc lào cho dăm ba phu gạo, phu xe, mấy chú lính trong huyện hay người nhà thầy thừa, thầy lục, có khi chờ mãi mà chẳng thấy ai ra. Hai mẹ con vừa xách, vừa vác trên lưng, vừa đội trên đầu… vậy mà chỉ vẻn vẹn có cái chõng tre, vài mặt ghế, cái ấm mấy cái chén, chiếc điếu cày, nắm đóm… Thằng con loay hoay nhóm lửa nấu nồi nước chè. Nước, thuốc đã sẵn sàng. Chị Tí luôn tay phe phẩy túm lá chuối khô, bất giác thốt lên nỗi nóng lòng sốt ruột trước cảnh ế ẩm: Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ? Dù rằng chị đã biết trước: Ối chao, sớm với muộn thì có ăn thua gì! Câu nói ngẫu nhiên mà giúp người đọc hình dung tận đáy cảnh sống của mẹ con chị, đã cơ cực mà chỉ còn trông cậy vào sự rủi may, một sự trông chờ cầm chắc là chẳng mấy hi vọng.
Nhưng mẹ con chị Tí vẫn có một chiếc ghế để ngồi, một ngọn đèn để soi sáng; còn gia đình bác xẩm thì nằm ngồi ngổn ngang ngay trong chiếc chiếu rách trải trên mặt đất. Thằng con nhỏ bò ra đất, cái thau sắt trắng chờ tiền thưởng trống trơn để trước mặt. Im lìm như một gia đình bò sát, nếu không có mấy tiếng đàn bầu bần bật nổi lên góp chuyện. Rồi sau đó không khách, không hát, không tiền, họ lăn ra ngủ luôn trên đất.
Còn cảnh sống bí hiểm của bà cụ Thi, một bà cụ già hơi điên. Bà đến quán của chị em Liên với tiếng cười khanh khách quen thuộc, mua cút rượu (xị rượu), khen Liên rót đầy rồi ngửa cổ uống cạn sạch, lảo đảo bước đi, lẩn vào bóng tối và tiếng cười khanh khách nhỏ dần.
Ba cảnh đời trên của lũ trẻ ven chợ, của mẹ con chị Tí, của gia đình bác xẩm đều bị bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó phủ lên đen ngòm. Sự thê thảm lồ lộ, chẳng ẩn giấu chút gì. Riêng bà cụ Thi vẫn có tiền uống rượu, vẫn nói năng ôn tồn, âu yếm với cô bé bán hàng nhưng rượu thì nốc một hơi, lại cười khanh khách, không biết vì duyên cớ gì? Đêm đêm, chỉ thấy bà từ trong làng đi ra rồi lại lẩn vào bóng tối phía làng. Oan ức gì chăng? Buồn khổ gì chăng? Không rõ, nhưng chắc chắn bóng tối đã đè nặng lên cuộc đời bà, góp thêm một hình ảnh vừa lạ lùng vừa đáng sợ vào những cảnh đời – bóng tối ở phố huyện này.
Bác Siêu bán phở không xa nhưng cũng không gần các cảnh đời kia. Bác như dấu gạch nối giữa hạng người bần cùng với những hạng người khác trong phố huyện. Họ thấp thoáng ở nơi có người cầm đèn lồng đi đón bà chủ ở ga về, nơi có hội bài tổ tôm sát phạt nhau hàng chục bạc mà hạng người khốn khổ nằm mơ cũng không thấy nổi, nơi có lính tráng đánh trống thu không và mõ cầm canh. Cuộc sống khá giả của họ như tấm phông làm nổi bật những cảnh đói nghèo, như ánh sáng tương phản với bóng tối.
Trong bối cảnh của truyện, nét nào cũng tối đen: lũ trẻ ven chợ như loài dơi chờ xẩm tối mới mò ra, tìm cái sống ở bất cứ cái gì người ta vứt đi. Mẹ con chị Tí hàng nước kiếm sống ở sự chờ đợi rủi may. Gia đình nhà xẩm hầu như sắp lẩn mình vào đất. Bà cụ Thi hơi điên chứa chất một góc tối om trong sâu kín tâm hồn. Nhập chung lại thì toàn là những cảnh đời – bóng tối. Liệu còn le lói chút uớc mong nào không? Khung cảnh phố huyện giờ đây thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí, bởi ở đó còn có ngọn đèn tù mù, trong khi cả phố tối om. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ của họ.
Trong bức tranh phố huyện lúc đêm về có một sự hoà trộn đầy dụng ý giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng thì chỉ là khe sáng, chấm sáng, hột sáng,… mà bóng đêm thì vừa dày đặc vừa mênh mông. Tối hết cả con đường ra sông, con đường vào làng, các ngõ càng thẫm đen hơn nữa. Tối đến mức dường như tiếng đàn bầu của bác xẩm và tiếng trống cầm canh của phố huyện tưởng chừng cũng không vang lên được. Điều này khiến người đọc phần nào hình dung ra những kiếp sống chìm khuất, mỏi mòn gần như bị bỏ quên nơi ga xép của phố huyện nghèo nàn, đồng thời gợi một niềm thương cảm sâu xa.
Diễn biến tâm trạng hai đứa trẻ trước khung cảnh thiên nhiên và bức tranh đời sống nơi phố huyện được nhà văn Thạch Lam miêu tả tỉ mỉ và ẩn chứa nhiều ý nghĩa.
Chưa nói tới dụng ý của tác giả khi xây dựng hình tượng hai đứa trẻ và lấy đó làm nhan đề cho tác phẩm; hãy cứ biết đó là hai đứa trẻ với những đặc điểm của lứa tuổi thiếu nhi. Chị đã biết quý mến và hãnh diện với cái dây xà tích bạc vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang. Như thế thì chưa hẳn là lớn mà vẫn vương chút trẻ con. Biết thay mẹ tính toán tiền nong, sắp xếp hàng họ, biết thương em, đó mới thật là cô gái lớn ngoan hiền.
Ngồi trước cửa hàng, Liên lặng lẽ cảm nhận khung cảnh chiều quê, tuy buồn bã nhưng thân thuộc, gần gũi và cảm thông, chia sẻ với những con người sống lay lắt nơi phố huyện nghèo.
Hai chị em trước đây sống ở Hà Nội cùng gia đình, nhưng vì cảnh nhà sa sút nên mới dọn về đây. Mẹ mở một quán tạp hoá nhỏ xíu giao cho hai chị em trông nom. Ban ngày bán hàng, ban đêm đóng cửa cài then cẩn thận. Chập tối, mẹ ghé qua thăm, dặn các con phải thức đến lúc xe lửa đi qua mới được ngủ. Vì thế nên hai chị em Liên đã quen thuộc với con người và cảnh vật trong phố huyện, đã hoà nhập vào cuộc sống nơi này một cách hồn nhiên.
Trước hết là quen với bóng tối. Hà Nội nhiều đèn quá, một vùng sáng rực và lấp lánh, còn ở đây thì ngược tại. Màn đêm buông xuống, mắt Liên ngập dần bóng tối và Liên không hiểu sao, thấy buồn. Dần dần, Liên quen không sợ bóng tối mà còn chú ý đến những gì diễn ra và chứa đựng trong đó: thấy những hòn đá nhỏ trên đường một bên sáng một bên tối; cảm nhận mùi âm ẩm lẫn mùi cát bụi lúc chợ đã vãn mà tưởng là mùi riêng của đất này. Nhìn lũ trẻ nghèo nhặt nhạnh bất cứ cái gì trên nền chợ mà hai chị em động lòng thương. Khi mẹ con chị Tí mang vác cả hàng nước ra, Liên lặng lẽ quan sát từng cử chỉ một. Nghe tiếng cười khanh khách là Liên nhận ngay ra bà cụ Thi. Nhìn bọn trẻ nô đùa, An cũng muốn nhập bọn nhưng sợ trái lời mẹ dặn. Thấy một chấm lửa hiện ra rồi mất đi là hai chị em biết gánh phở bác Siêu thấp thoáng đằng xa. Lúc mọi nơi đều đã tối đen, ánh sáng từ ngọn đèn trong quán toả ra chỉ là vài hột sáng lọt qua phên nứa, thì hai chị em đã buồn ngủ ríu cả mắt. Khi đoàn tàu đã đi qua thì hai tâm hồn trẻ thơ ấy cũng rơi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối, giống như mọi người nghèo khổ khác ở phố huyện này.
Đêm nào Liên và An cũng cố thức cho tới giờ xe lửa chạy qua theo đúng lời mẹ dặn, nhưng còn vì một lí do đặc biệt khác. Có phải là các em chỉ đơn giản muốn được nhìn chuyến tàu, một hoạt động cuối cùng của đêm khuya? Không phải! Còn có cái gì đó sâu xa hơn nhiều đối với hai chị em và đám người khốn khổ ở phố huyện này. Với hai đứa trẻ, đoàn tàu là một thế giới khác hẳn với cuộc sống tù túng, tẻ nhạt hằng ngày của chúng.
Có lẽ chính vì vậy mà hình ảnh chuyến tàu được Thạch Lam tập trung miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng qua tâm trạng chờ mong và cảm nhận của hai chị em Liên và An. Cách quan sát, miêu tả của Thạch Lam tinh tế và giàu tính nghệ thuật. Tác giả quan sát, miêu tả hình ảnh đoàn tàu đêm từ Hà Nội về theo trình tự từ xa đến gần bằng nhiều giác quan, bằng sự đan xen giữa hồi ức và thực tại.
Đoàn tàu chưa tới nhưng đã được báo trước bằng ánh đèn của người gác ghi và tiếng còi tàu từ xa vẳng lại. Liên trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, rồi nghe thấy tiếng còi xe lửa trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió. Sau đó, nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa… Thế rồi tàu rầm rộ đi tới, các toa đèn sáng trưng, những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh. Cuối cùng là cảnh đoàn tàu đi xa dần, mất hút trong đêm tối mênh mông, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt, cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre…
Có một sự tương phản nổi bật giữa hình ảnh đoàn tàu – một thế giới khác mà chuyến tàu đêm mang qua phố huyện trong chốc lát và hình ảnh của sự trở về trạng thái lặng lẽ, tối tăm, không thay đổi nơi phố huyện. Một bên là sự hoạt động nào nhiệt cuối cùng của đêm và một bên là sự im lặng mênh mông của đêm tối, trong giấc ngủ và cả trong sự lãng quên. Chuyến tàu đêm sáng rực, vui vẻ và huyên háo, đầy hấp dẫn nhưng lại chỉ thoáng qua trong chốc lát rồi lại trả cuộc sống phố huyện về trạng thái mênh mang, yên lặng và đầy bóng tối. Điều đó dường như làm cho nỗi buồn càng thêm thấm thía trong tâm hồn hai đứa trẻ; để lại cho chúng sự khát khao, nuối tiếc không nguôi. Gần như đã thành nếp, những người dân nơi phố huyện chỉ chấm dứt hoạt động của một ngày khi chuyến tàu đêm đã đi xa.
Đối với chị em Liên, đoàn tàu đến từ Hà Nội gợi lại những kỉ niệm đẹp, nơi hai chị em đã sống thời thơ ấu êm ấm và sung sướng. Đó là cuộc sống ở một thời chưa xa, hoàn toàn khác với cuộc sống ở phố huyện buồn tẻ và nghèo nàn này.
Đoàn tàu còn là hình ảnh của tương lai, nó khiến những người nghèo khổ hình dung ra một thế giới giàu sang, nhộn nhịp, đầy âm thanh và ánh sáng.
Đối với người đọc, vẻ đẹp của đoàn tàu và thái độ háo hức, sung sướng đến lặng người của hai đứa trẻ khi ngắm đoàn tàu không chỉ đem đến một thoáng vui mà còn gợi thật nhiều bâng khuâng, thương cảm.
Đúng là hai đứa trẻ vui vì niềm khao khát, đợi chờ vừa được thỏa mãn. Nhưng đoàn tàu ấy lại thuộc về một thế giới quá xa xôi và nó càng sáng rực, vui vẻ, huyên náo thì càng làm cho khung cảnh nơi phố huyện trở nên tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng. Chỉ có hình ảnh đoàn tàu lướt qua hằng đêm mà những người dân phố huyện ai cũng nôn nao chờ đợi. Người đọc cùng Thạch Lam thông cảm với tâm trạng của lớp người sống lầm lũi trong tăm tối, nghèo khổ. Tuy thế, truyện cũng nhen nhóm trong lòng người đọc hi vọng vượt lên sự tẻ nhạt, tầm thường của cuộc sống hằng ngày.
Nghệ thuật miêu tả và giọng văn của Thạch Lam trong truyện Hai đứa trẻ thật độc đáo. Tác giả miêu tả rất tinh tế sự biến đổi của cảnh vật và diễn biến tâm trạng của nhân vật. Cách miêu tả này góp phần quan trọng tạo nên không khí cho tác phẩm.
Có sự tương ứng giữa thế giới ngoại cảnh (bức tranh phố huyện) với thế, giới nội tâm nhân vật (tâm trạng cô bé Liên) trong từng thời khắc: cảnh chiều buông thì người buồn man mác; cảnh đêm xuống thì người đợi chờ khắc khoải; cảnh đêm khuya, chuyến tàu đi qua thì người buồn tiếc, mơ tưởng, khát khao,…
Tuy nhiên, ở một vài đoạn văn, tác giả miêu tả thế giới ngoại cảnh và thế giới nội tâm không thuần nhất mà có sự pha trộn vui buồn khó tả. Những hình ảnh êm đềm thi vị hoà trộn với hình ảnh nghèo nàn lam lũ; ánh sáng hoà trộn vào bóng tối; cái huyên náo chốc lát hoà vào cái im lặng mênh mông… Tất cả những cái đó kết hợp với nhau thật hài hoà, tự nhiên, làm nổi bật tâm trạng của nhân vật.
Giọng văn Thạch Lam nhẹ nhàng, khách quan nhưng ẩn chứa một tình cảm xót thương thực sự đối với những con người nghèo khổ. Tình cảm nhân đạo của tác giả rất đáng trân trọng. Ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả tinh tế mà vẫn rất tự nhiên, khiến người đọc khó quên.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ là lời gợi nhắc về tình cảm gắn bó với nguồn cội, quê hương, với những kí ức đẹp mà buồn. Đó là tấm lòng nhân ái của nhà văn đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ, quẩn quanh, đơn điệu, mỏi mòn; là niềm trân trọng đối với từng mong ước nhỏ nhoi của những con người bất hạnh bị bỏ quên nơi ga xép của những chuyến tàu thời gian vô định.
Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ, ta thấy đằng sau vẻ chân chất, dung dị lại là sự tinh vi, sâu sắc, rất đúng với phong cách Thạch Lam. Đi vào tác phẩm của Thạch Lam là đi vào thế giới tâm tình. Tình tiết của truyện đơn sơ nhưng chính những cảm nghĩ chân thành của nhà văn đối với những mảnh đời khốn khó khiến cho người đọc xúc động. Nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét: Truyện “Hai đứa trẻ" có một hương vị thật là man mác. Nó gợi một nỗi niềm về quả vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì còn ở trong tương lai… Nơi cái thế giới quan của một đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc “Hai đứa trẻ" thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín. (Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học – Hà Nội – 1998)
Vì sao đêm đêm chị em Liên cố thức đợi tàu trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Câu trả lời của bạn
Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất của nhà văn Thạch Lam. Chuyện có cốt truyện đơn giản, như có, như không. Nhân vật là nhân vật trữ tình với nội dung tất cả đều xoay quanh tâm trạng của hai chị em Liên. Nhân vật của Thạch Lam đều có một điểm chung như vậy, không có những suy nghĩ quá sâu sắc, thường chỉ thể hiện những cảm giác, những vui buồn. Họ chỉ ngồi yên lặng lắng nghe tiếng nói thầm kín trong tâm tưởng mình, biết phân tích, lý giải và đề xuất những khái quát đầy triết lý như trong các nhân vật thường thấy của Nam Cao.
Nhưng, đằng sau thế giới nhân vật với những tâm trạng như thế, người ta vẫn có thể thấy thấp thoáng đâu đó hình ảnh của tác giả, người kể chuyện. Nhân vật này thì giao những suy tư, thương được phát biểu bằng một giọng nói rất dịu dàng, nhỏ nhẹ với những ý nghĩa nhân đạo sâu sắc.
Cả tác phẩm xoay quanh một buổi tối đợi tàu của hai chị em Liên. Đọc Hai đứa trẻ, có rất nhiều người thắc mắc rằng tại sao chúng đêm nào cũng cố thức để nhìn thấy chuyến tàu đi qua. Để trả lời được câu hỏi này thì ta cần phải có một cái nhìn khái quát, bao gọn toàn bộ tác phẩm.
Truyện ngắn xuôi theo logic tâm trạng của nhân vật trữ tình là Liên. Đến cuối cùng của tác phẩm, tô đậm lên đó là tư tưởng mà Thạch Lam muốn gửi gắm.
Đầu tiên, ta có thể thấy được tâm trạng buồn của Liên trước quang cảnh tàn lụi của một ngày. Đó là thiên nhiên, làm âm thanh, là cảnh đời nơi phố huyện nghèo đói lúc chiều muộn. Tâm trạng này đã được tác giả ghi rất rõ ràng: “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập gần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị, Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.”
Ngày tàn trước hết được báo hiệu bằng tiếng trống thu không như gọi buổi chiều ở mỗi miền quê. Phương tây thì đỏ rực như lửa cháy, như hình ảnh của hòn than sắp tàn. Bóng tối lấn dần, lấn dần ánh sáng… nhìn xuống mặt đất, đó là cảnh chợ tàn, không có gì vui vẻ, háo hức khi chợ đông nhưng lại chẳng có gì có thể buồn hơn, thê thảm hơn khi chợ tàn.
Buồn vì mọi người đã ra về hết cả, tiếng ồn ào, tiếng náo nhiệt lụi tắt. Sự sống dường như cũng dần tàn lụi. Cái nghèo, sự lạc hậu tự phô bày mà không chờ đợi ở những rác rưởi bỏ lại, mấy đứa trẻ nhà nghèo long không nhặt nhạnh những thứ vật vẫn còn có thể dùng được mà những người bán hàng đã để lại.
Chị em Liên và những người trong phố huyện cũng vậy, họ đều mang một cuộc đời tàn lụi: cái hàng nước lèo tèo của chị Tí thì ế khách (“Ôi chao, sớm hay muộn mà có ăn thua gì”). Cửa hàng của chị em Liên cũng vậy (“Hôm nay ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì”). Và hình ảnh bà cụ Thi điên lảo đảo bước đi trong ngày tàn lại càng tô đậm thêm nữa một cảnh ngộ đầy bế tắc: “Chị đi lẫn vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ về phía làng.”
Trước khung cảnh tàn lụi như vậy, Liên có một tâm trạng buồn và chán nản. Cái tối tâm, cái quẩn quanh, cái đơn điệu của những cư dân nơi phố huyện đang dần dần khiến cho cuộc sống của hai chị em Liên đi vào bế tắc.
Tất cả mọi việc đều diễn ra giống như hàng trăm hàng nghìn đêm trước đó. Đường phố và các ngõ đã chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng cửa im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, chỉ hé ra một thứ ánh sáng nho nhỏ như những khe sáng. Sau hàng nước nhà chị Tí, gánh hàng phở của bác Siêu cũng đã xuất hiện như một chấm lửa nhỏ lơ lửng đi trong đêm tối. Rồi đến gia đình nhà bác Sẩm với cái thau sắt trắng chỏng trơ và thằng con ra đất bòn nghịch với những thứ rác bẩn vùi trong cát cũng được miêu tả… Đúng là những kiếp người mà chẳng bao giờ biết đến hạnh phúc. Hiện tại thì cực khổ, quá khứ lại đau thương và tương lai thì mù mịt. Sự tồn tại của họ dường như chỉ là để chờ đợi vu vơ một thứ gì đó may mắn không xảy đến: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày.”
Những kiếp sống tối tăm, khó khăn, nghèo khổ được tô đậm nhất trong tác phẩm này. Điều đáng chú ý ở đây đó là cái tối tăm lại được diễn tả bằng ánh sáng, thứ ánh sáng leo lét của ngọn đèn nơi chõng hàng nước của chị Tí, đối chọi với bóng tối một cách yếu ớt và thảm hại. Không phải ngẫu nhiên mà thiên truyện ngắn lại chỉ vẻn vẹn có mấy trang mà hình ảnh ngọn đèn hàng nước chị tí được nhắc đi nhắc lại những bảy lần. Nó trở thành một biểu tượng về những kiếp sống mù tối, lắt lay của những câu dân nghèo khổ bị chôn vùi đến cùng đường mãn kiếp trong cái bóng tối u ám của phố huyện tiêu điều. Họ sống một cuộc sống như đã bị bỏ quên…
Một lối thoát duy nhất mà người dân phố huyện và chị em Liên có thể trông chờ vào đó chính là chuyến tàu đêm. Nó không phải là lối thoát trong thực tế mà la lối thoát trong tưởng tượng. Bởi khi con tàu đi qua nó đã đem đến một thế giới khác hẳn với cái thế giới của phố huyện: một thế giới sáng rực, huyên náo, vui vẻ và sang trọng. Đó là thế giới mà họ vẫn hằng mơ tưởng. Bỗng chốc, họ sống được với thế giới ấy một thời gian ngắn. Vậy nghĩa là đã thoát ra khỏi cái cuộc sống tối tăm, xơ xác, nhàm chán và đầy bế tắc của phố huyện nghèo. Cuộc sống đó dù chỉ là tưởng tượng, dù là chỉ diễn ra trong chốc lát nhưng cũng là điểm sáng duy nhất trong ngày. Đêm tối và sự im lặng minh mông lại bao bọc tất cả khi đoàn tàu đi qua. Nỗi buồn chán lại trở về với hình ảnh ngọn đèn con của chị Tí leo lét giữa đêm. “Liên đến bên em nằm xuống. Chị gối đầu lên tay nhắm mắt lại. Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ.”
Qua diễn biến của tâm trạng nhân vật liên, tác giả muốn nhắn nhủ một điều rất dịu dàng nhưng cũng vô cùng thấm thía. Đó là tiếng nói xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé, Cơ cực, sống quẩn quanh, bế tắc không tương lai. Những con người ấy dường như đã bị chôn vùi trong những kiếp sống vô danh, vô nghĩa của xã hội cũ. Đến ngay cả trong những giấc mơ thì họ cũng không biết ước mơ gì hơn một chuyến tàu đêm vụt qua phố huyện tiêu điều xác xơ, thắp lên những hy vọng mòn mỏi cuối cùng…
Đây là một khía cạnh mới mẻ của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam từ năm 1930 đến 1945, khi xuất hiện những thế hệ nhà văn có ý thức cá nhân sâu sắc, ý thức về sự tồn tại của mỗi cá nhân trên đời. Thạch Lam là một tác giả tiêu biểu và Hai đứa trẻ chính là minh chứng rõ ràng nhất.
Phân tích tâm trạng cô bé Liên đêm đêm thức đợi xem chuyến tàu đi qua phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Câu trả lời của bạn
Thạch Lam là một ngòi bút truyện ngắn được nhiều người yêu thích Không phải vì cốt truyện đặc biệt, vì tình tiết li kì, mà chủ yếu là do ông đã sáng tạo ra một lối truyện ngắn: loại truyện tâm tình. Sức hấp dẫn của truyện ngắn Thạch Lam là ở tâm trạng nhân vật. Có thể thấy điều đó qua tâm trạng cô bé Liên đêm đêm thức đợi xem chuyến tàu đi qua phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của ông.
Vì sao đêm nào cũng vậy, Liên (và em) đều cố thức để đợi xem chuyến tàu đi qua phố huyện? Tâm trạng thức đợi tàu của Liên như thế nào? Muốn hiểu được điều đó phải bắt đầu từ cuộc sống của em ở cái phố huyện này.
Đó là cuộc sống buồn tẻ, đơn điệu, tàn lụi và đáng thương nơi phố huyện trong thời khắc của một ngày tàn. Phiên chợ chiều đã vãn, phô bày tất cả cái nghèo nàn, cái tiêu điều xơ xác trong hình ảnh những đứa trẻ lom khom tìm kiếm, nhặt nhạnh trong rác rưởi, và tiếng trống thu không dội xuống phố huyện, từng tiếng, từng tiếng mòn mỏi, rời rạc, buồn thấm thía... Rồi đêm tối bao phủ kín mít phố huyện, bủa vây những kiếp người sống lầm lũi tội nghiệp như những cái bóng: mẹ con chị Tí hàng nước, bác phở Siêu, gia đình bác xẩm với manh chiếu, chiếc chậu thau sắt và đứa bé bò lê la trên rác bẩn, một bà lão điên mua rượu uống cười sằng sặc... Đến mức cái ánh lửa từ thùng phở bác Siêu chỉ hắt ra một vầng sáng con con và ngọn đèn leo lét trên chõng hàng nước chị Tí cũng "chỉ chiếu sáng một vùng leo lét trên chõng hàng nước chị Tí cũng "chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ" - biểu tượng về những kiếp sống nhỏ nhoi leo lét, vô nghĩa giữa đêm tối mênh mông của cuộc đời. Hình ảnh ngọn đèn con của chị Tí cứ trở đi trở lại đến bảy lần trong mấy trang truyện ngắn như một ám ảnh không thôi về cuộc sống héo hắt, tội nghiệp nơi phố huyện nghèo nàn, tăm tối.
Chính giữa cảnh điêu tàn như vậy của phố huyện, Thạch Lam đã miêu tả tâm trạng khắc khoải chờ đợi chuyến tàu của Liên. Đó là cô bé đã từng có những ngày sống ở một nơi không đến nỗi nghèo khổ và tối tăm như thế. Với Liên, nơi ấy, Hà Nội luôn đọng lại một kỉ niệm xa xôi và mơ hồ nhưng bao giờ cũng êm đềm, đẹp đẽ rực rỡ ánh sáng và niềm vui. Ngày nào cũng giống hệt ngày nào, cuộc sống cứ lặp lại một cách đơn điệu, tẻ ngắt: sáng dậy mở cửa dọn hàng, bán hàng; chiều tối lại kiếm tiền, thu hàng - và đó là những món hàng nhỏ nhoi không hề thay đổi: một bao diêm, một cuộn chỉ, mấy bánh xà phòng... Chi tiết chiếc chõng tre cũ, sắp gãy được Thạch Lam đưa vào đây thật đầy ý nghĩa: cuộc sống của hai đứa trẻ lớn lên sao mà đã sớm già nua tàn tạ! Cái thế giới mà Liên và em gái đang sống, đang tiếp cận ngày này qua ngày khác chỉ có thế. Đâu là niềm vui biết lấy gì mà kỳ vọng?
Tâm trạng buồn chán của Liên đã dẫn đến khát vọng muốn thoát ra khỏi cuộc sống mà cô đang phải sống, dù chỉ để hi vọng vu vơ về một cái gì ở bên ngoài khác với cái thế giới ngưng đọng và tàn lụi này. Cô phải tìm đến một cuộc sống khác, dù cuộc sống ấy chỉ đi qua trong khoảnh khắc. Và cô đã tìm thấy nó trong hình ảnh đoàn tàu đi qua phố huyện mỗi đêm. Dù buồn ngủ ríu cả mắt, cô vẫn thức đợi tàu. Để được, trong chốc lát, thoát ra khỏi cuộc sống nhàm chán, đơn điệu hiện nay. Đoàn tàu là một nhu cầu bức thiết về tinh thần của cô, vì chuyến tàu là hình ảnh một thế giới khác đi qua cuộc đời cô, một thế giới giàu sang, nhộn nhịp, huyên náo và đầy ánh sáng. Trong cả một ngày dài buồn tẻ, đây là những giây phút bừng sáng và hạnh phúc của cô, dù là chỉ sống trong mơ ước tưởng tượng.
Bởi vậy, khi tàu đến thì tâm hồn Liên bị cuốn hút ngay vào đoàn tàu - đoạn này được Thạch Lam miêu tả sinh động và đẹp: "Liên phắt đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng". Đoàn tàu đã đi qua nhưng tâm hồn Liên thi vẫn gửi hút theo nó mãi cho đến khi chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre. Đến lúc ấy, cô như sống trong mơ tưởng, trong sự tiếc nuối một cái gì đã qua nhưng dư vang của nó thì vẫn còn đọng lại rõ rệt trong tâm hồn mình: "Liên lặng theo mơ tưởng, Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng". Trong tâm trạng cô bé có sự tương phản rõ rệt giữa hai cuộc sống: cuộc sống đẹp đẽ của ước mơ và cuộc sống nơi phố huyện.
Khắc họa thành công tâm trạng đợi tàu của bé Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ. Thạch Lam muốn nói với người đọc nhiều điều sâu sắc. Đó là cuộc sống buồn tẻ đáng thương của những đứa trẻ trong chế độ cũ, và suy rộng ra, là cuộc sống của những kiếp người nhỏ bé, vô danh, không bao giờ được biết đến ánh sáng và hạnh phúc, cuộc sống mãi mãi bị chôn vùi trong tăm tối, nghèo đói, buồn chán nơi phố huyện, và rộng ra, trên đất nước còn chìm đắm trong cảnh nô lệ đói nghèo. Những cuộc đời mới đáng thương sao, nhưng lại có những ước mơ bé nhỏ, tội nghiệp mà chân thành tha thiết và cảm động rất đáng trân trọng như ước mơ đợi tàu đêm đêm của cô bé Liên. Ước mơ đó đã lay tỉnh những tâm hồn uể oải, đang lụi tắt, đốt lên trong lòng họ ngọn lửa của lòng khao khát được sống trong cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang muốn chôn vùi họ.
Em hãy tưởng tượng mình là Liên trong tác phẩm "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam và kể lại câu chuyện.
Câu trả lời của bạn
Không gian nơi đây sao yên tĩnh quá! Khung cảnh nơi đây tự bao giờ đã trở nên thân thuộc với tôi đến thế. Kìa, đâu đó tiếng trống thu không trên cái chòi văng vẳng lại chỗ tôi. Vậy là chiều sắp về rồi. Tôi hướng mắt về phía mặt trời xa xăm… Phương tây đỏ rực như hòn lửa và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng cạnh ngõ trúc quang co đang đen dần lại rồi cắt hình rõ rệt trên nền trời.
Chiều, chiều rồi. Âm thanh quanh đây bỗng trở nên náo nhiêt hơn một chút bởi tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve,… Tôi thì vẫn ngồi lặng yên bên mấy quả thuốc sơn đen. Tôi không hiểu sao nhưng tôi thấy ánh nhìn tôi ngập đầy dần bóng tối, Cái buồn của khung cảnh nơi đây ngày nào cũng thế nó như thấm dần vào tâm hồn tôi. Tôi thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn… Có lẽ bởi tôi như đã thấm đẫm được nỗi buồn không tên này. Phải chăng tôi buồn vì một ngày nữa lại trôi qua… cũng đều vô vị như mọi ngày…?
Tiếng An cắt ngang dòng suy nghĩ miên man của tôi: -Em thắp đèn lên chị Liên nhé!
Tôi thấy vẫn còn sớm nên kêu An ra ngoài này với tôi cho khỏi muỗi…
Chị em tôi nhìn ra phố, ánh mắt như quá thân quen. Chúng tôi thấy những đứa trẻ đang cố lượm nhặt những gì còn sót lại của phiên chợ. Thấy chúng lòng tôi rất thương cảm và muốn giúp chúng nó, nhưng rồi bản thân tôi nhận ra: Cuộc sống của tôi cũng không phải là khá giả gì. Vậy nên tôi cũng chỉ có thể bất lực lặng nhìn chúng nó, rồi cầu mong chúng tìm được thứ gì đó…
Lại một khung cảnh hiện tại khéo tôi vào những dòng suy nghĩ miên man, kéo tôi chạy mãi, chạy mãi khỏi hiện thực… Lúc này trời khá nhem tối… Từng ánh đèn yếu ớt dần hiện lên.. Ánh đèn leo lắt của chị Tí cùng với ánh đèn của các cửa hàng khiến cát bụi lấp lánh từng chỗ và con đường trông như mấp mô hơn vì những hòn đá một bên sáng một bên tối. Có mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá! Lâu dần tôi cứ ngỡ đây là mùi riêng của đất, của quê hương này…
Cái cửa hàng tôi và An trông nhỏ xíu, được mẹ tôi thuê sau khi cả nhà tôi dọn từ Hà Nội về. Mẹ tôi ngày nào cũng phải làm thêm xáo hàng, còn chị em tôi ngủ lại trông quán… Trước khi thầy tôi mất việc tôi từng sống vui vẻ lắm… Giờ đây tôi thấm thía được phần nào nỗi bất hạnh, khó khăn của người dân nơi đây. Chị Tí ngày nào cũng mò cua bắt tép, tối đến lại mở cửa hàng nước… Bác Phở Siêu với mùi phở thơm ngào ngạt nhưng ở đây mấy ai có thể mua được thức quà xa xỉ này… Hay cụ Thi-Người phụ nữ này có lẽ là người bất hạnh nhất vì cụ là sản phẩm của xã hội đầy bất công này…Ngay cả gia đình tôi, hoàn cảnh cũng không hơn họ là mấy.
Trời đã bắt đầu vào đêm, một đêm mùa hạ êm ả, từng ngọn gió mát len lỏi qua từng kẽ tóc tôi. Đường phố và cảnh vật nơi đây dần ngập đầy bóng tối. Không khí vốn ảm đạm nay càng sầu uất, u ám hơn… Những tia sáng càng yếu ớt dần, bóng tối như đang lao đến nuốt trọn những tia sáng cuối cùng. Hay những tia sáng nhỏ bé đấy chỉ khiến nơi đây chìm trong bóng tối nhiều hơn… Phía trước có bọn trẻ con đang chơi đùa, ánh mắt An như cũng muốn nhập hội với chúng. Tôi hiểu, nhưng chúng tôi không thể làm trái lời mẹ.
Chị em tôi nhìn về con đường trước mật, lần lượt nhìn những người lần lượt qua lại. Trên tròi các ngôi sao như ganh đua nhau lấp lánh. Chị em tôi ngước lên nhìn trời cao như đang muốn trốn tránh hiện thực buồn bã này… Nhưng chỉ một lúc, chúng tôi đã mỏi ý nghĩ… Tôi hướng mắt nhìn vào quầng sáng thân mật chung quanh chõng hàng của chị Tí. Bỗng một chấm lửa khác lơ lửng đang tiến gần về phía chúng tôi cùng với hương thơm ngào ngạt… Mùi phở thơm của bác siêu khiến tôi nhớ về Hà Nội… Lúc đấy gia đình tôi còn khá giả, tôi và An được đưa đi nhiều nơi, ăn nhiều thức quà ngon lạ… chúng tôi được chơi bờ hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Hà Nội lúc đấy nhiều đèn lắm… sáng chói một vùng trong tâm trí tôi. Phở-thức quà đặc trưng của Hà Nội đã kéo tôi về quá khứ đầy tươi đẹp đấy. Để giờ khi nhớ lại tôi khao khát được quay về thời điểm đấy… Bỗng tôi thấy nhớ Hà Nội quá…!
Đêm tối đã dần trở nên quen thuộc với tôi. Lúc đầu tôi còn sợ lắm nhưng lâu dần tôi không còn sợ nữa. Tối hết cả, cảnh vật, đường phố nơi đây tối hết cả, tối thăm thẳm… Giờ chỉ còn ánh đèn bếp lửa của bác Siêu chỉ chiếu sáng một vùng đất cát với hột sáng trên ngọn đèn của chị em tôi. Tất cả như thu nhỏ lại… Vợ chồng bác Sẩm thì trải mang chiếu nhưng chưa có khách nên chưa hát. Từng ấy người trong đêm tối dường như đang mong ngóng một điều gì dó. Họ mong sẽ có một vài người khách, mong kiếm được thêm vài hào chăng? Không, tôi nghĩ rằng chừng ấy người trong bóng tối đang mong một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ.
Tôi và An như ríu cả mắt lại, nhưng chúng tôi vẫn cố gượng thức khuya chút nữa. Không phải vì lời dặn của mẹ để bán thêm gì nữa… Bởi lẽ tôi biết rằng họ cũng chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng… Hôm nay phiên chợ tôi còn không bán được mấy huống chi là đêm khuya? Chúng tôi thức vì một lý do khác… Vì chuyến tàu đêm…. Vì chuyến tàu là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya.
Tôi thấy mi mắt An sắp sửa rơi xuống nhưng vẫn dặn với tôi: -Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé!
Tôi đồng ý và khẽ quạt cho An. Trên tròi sao vẫn lấp lánh, dưới lá bàng có vài con đom đóm đang chơi trốn tìm dưới mặt lá, thỉnh thoảng hoa bàng khe khẽ rụng trên vai tôi. Tâm hồn tôi bỗng yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu…
Trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng khô khan rồi nhanh chóng bị màn đêm nuốt chửng. Bỗng bác siêu hướng về phía ga nói: -đèn ghi đã sang kia rồi… Xa xa có ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma chơi. Rồi tiếng còi xe vang lại kéo dài theo ngọn gió xa xôi. Tiếng còi như xé tan sự tĩnh lặng của khung cảnh nơi đây. ánh sáng của ngọn lửa xanh biếc chiếu sáng một vùng đất nơi mà nó đi qua… Ánh sáng đó khắc hẳn những tia sáng, hột sáng trong khu phố? Tôi nhanh chóng gọi An dậy. An tỉnh dậy lấy tay dụi mắt. Chúng tôi nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi. Một làn khói trắng bốc lên từ đằng xa, rồi tiếng khách ồn ào khe khẽ. Trước kia ở sân ga có vài quán cơm nhỏ mở đến tận nửa đêm nhưng bây giờ họ đóng cửa cả rồi…
Chúng tôi không chờ lâu thì đã nghe thấy tiếng còi rít lên, tàu rần rộ đi tới. Tôi dắt tay An đứng dậy để nhìn đoàn tàu đi qua. Các toa đèn sáng trưng, chiếu sáng cả xuống đường. Tôi chỉ thoáng thấy những toa hạng sang lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, các cửa kính sáng… rồi đoàn tàu đi vào đêm tối để lại những đốm đỏ bay tung trên đường sắt… Chúng tôi còn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên xe sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre. Đoàn tàu như một con tàu lớn, hung hãng, quyết liệt trước bóng tôi dày đặc. Đoàn tàu đã mang một thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn. Khắc hẳn quầng sáng của chị tí, ánh đèn của bác Siên hay hột sáng len qua phiên nứa trên chiếc đèn của chị em tôi. Ánh sáng xanh đoàn tàu mang đến không hiểu sao nhưng tôi thấy ấm áp vô cùng. Phải chăng màu xanh là màu của hi vọng?
– Tàu hôm nay không đông chị nhỉ?
Tôi cầm tay An không đám. Bởi tâm hồn tôi đang trôi lơ lửng giữa suy nghĩ của tôi.Tàu hôm nay không đông và cũng kém sáng hơn. Nhưng như thế không thể khiến ánh sáng của tàu yếu đi. Nó vẫn sáng long lanh… Đặc biệt khách trên tàu là từ Hà Nội về. Hà Nội đày huyên náo và vui vẻ. Tôi thôi nghĩ vu vơ về tương lai xa mờ đen kịt đấy. Bóng tối đã trải dài khắp nơi từ đồng lúa mênh mông đến con sông dài thăm thẳm…. Không gian lại trở nên tĩnh lặng sau khi đoàn tàu đi qua….
Cả phố huyện lúc này mới thực sự là hết náo động, chỉ còn là đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn… Chị Tí đương sửa soạn đi về, bác siêu đã gánh hàng đi vào màn đêm đen, còn vợ chồng bác Sẩm thì ngủ gục thêm manh chiếu. An lúc này cũng đã ngủ say… tất cả mọi người như đợi chuyến tàu đêm đi qua… Chiếc tàu như chuyên chở ước mơ của người dân nơi đây về một cục sống tốt đẹp hơn….
Gió đã thoáng lạnh và đom đóm không còn nữa… Tôi vực An vào trong, mắt cũng đã ríu lại… Tôi cẩn thận vặn nhỏ ngọn đèn rồi đến bên An nằm xuống. Tôi gối đầu lên tay, mắt nhắm lại… Những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn tôi, có chút gì đó lưu luyến còn vương vấn… Hình ảnh thế giới dần mờ đi trong mắt tôi… tôi thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết nữa… như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu một vùng đất cát nhỏ! Nhưng tôi không nghĩ được lâu, đôi mắt tôi nặng dần… Tôi chìm vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở ngoài phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối…
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Câu trả lời của bạn
Thạch Lam là một trong những cây bút chủ lực của nhóm "Tự lực văn đoàn". Sáng tác của ông bao gồm nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí sự, phê bình...Nhưng lĩnh vực thành công nhất của ông là truyện ngắn.Trong những truyện ngắn có khuynh hướng hiện thực cuộc sống của Thạch Lam có thể nói "Hai đứa trẻ" là một tác phẩm thành công tiêu biểu.Truyện không có những tình tiết hấp dẫn, li kì, gây cấn chỉ xoay quanh sinh hoạt của người dân ở một phố huyện nghèo trong khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng qua đó Thạch Lam đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Đọc "Hai đứa trẻ" chúng ta thấy bao trùm lấy câu chuyện là cuộc sống xơ xác, tiêu điều của một phố huyện nghèo. Cuộc sống đó đã được tác giả miêu tả ở một thời điểm hết sức tiêu biểu-thời điểm ngày lụi tàn: "Trống thu không từng tiếng một vang lên", "phương Tây đỏ rực như lửa cháy", "những đám mây ánh hồng như những hòn than sắp tàn", "ngoài ruộng tiếng ếch nhái kêu rang vọng vào phố chợ..". Một khoảng không gian mênh mông của đồng ruộng vừa đẹp lại vừa buồn gợi ra trước mắt người đọc.
Trên nền của bức tranh ấy, cuộc sống của người những người dân phố huyện được Thạch Lam miêu tả hết sức đặc sắc: Khi trời nhá nhem tối, mẹ con chị Tí bày cái hàng nước ra dưới gốc cây bàng. Liên dọn dẹp của hiệu tạp hóa rồi cộng sổ tính tiền. Bà cụ Thi đến cửa hàng Liên mua một cút rượu, ngửa cổ uống sạch rồi biến đi lẫn vào trong bóng tối với tiếng cười khanh khách. Đám trẻ con tụ họp chơi đùa trên các thềm nhà. Bác Siêu dọn gánh hàng phở ra bên bếp lửa bập bùng. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, trước cái thau trắng chờ có khách để hát kiếm tiền.
Qua ngòi bút chấm phá tinh tế của Thạch Lam chúng ta thấy cuộc sống ở phố huyện nghèo ấy hiện ra như một thế giới đang hấp hối, tàn lụi.
Trong bối cảnh ấy, hai chị em Liên và An cũng như những người dân phố huyện vừa náo nức vừa khắc khoải, mòn mỏi chờ đợi chuyến tàu từ Hà Nội về đi ngang qua phố huyện. Đêm nào cũng vậy, khi trời vừa bắt đầu tối thì hai chị em đã thấp thỏm chờ đợi chuyến tàu. Rồi chuyến tàu đến như hằng đêm nó vẫn thường đến với sức hấp dẫn kì lạ đối với hai chị em Liên - An cũng như người dân nghèo của phố huyện.
Tàu đến với tiếng còi và tiếng rầm rộ của bánh xe. Liên dắt em đứng lên để nhìn chuyến tàu vụt qua, chuyến tàu đầy sức hấp dẫn bởi nó tràn ngập ánh sáng. Ở những toa đèn sáng trưng chiếu ánh cả xuống đường. Những toa thuộc hạng sang trọng lố nhố người; đồng và kềnh lấp lánh. Cái nguồn sáng ấy vút qua, biến vào đêm tối để lại những đóm than nhỏ bay tung tóe trên mặt đường...
Chuyến tàu đêm ấy đã khơi gợi lên trong hồn Liên bao biến động. Đó là hoài niệm về Hà Nội thuở xa xăm. Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Đối với Liên, con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Thế giới ấy khác hẳn với thế giới mà Liên đang sống, khác hẳn với vầng sáng nhỏ nhoi của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bập bùng trong gáng hàng của bác Siêu...
Nhìn lại toàn bộ câu chuyện, người đọc không khỏi thắc mắc vì sao hằng đêm chị em Liên-An cứ mòn mỏi đợi chuyến tàu đi ngang qua phố huyện? Vì sao hình ảnh con tàu tràn ngập ánh sáng lại dấy lên trong tâm hồn Liên bao biến động? Bởi vì trong cuộc sống thường ngày ở phố huyện xơ xác, tiêu điều ấy, họ không thể tìm đâu ra niềm vui. Cuộc sống diễn ra chung quanh họ hết sức đơn điệu, nhạt nhẽo, vô vị...Chuyến tàu sáng rực đối với người dân phố huyện là hình ảnh của một thế giới khác hẳn, đối lập hoàn toàn với cái thế giới mà Liên và An đang sống - đó là thế giới của văn minh, niềm vui và hạnh phúc.
Từ đó mà ta cũng nắm bắt được vấn đề sâu sắc mà Thạch Lam gửi gắm vào truyện: Đó là khát vọng vươn ra thế giới văn minh, hạnh phúc của những con người nhỏ bé - giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
Bên cạnh giá trị về mặt chủ đề, "Hai đứa trẻ" còn nổi bật lên những đặc sắc về nghệ thuật, thể hiện tập trung qua ngòi bút miêu tả của Thạch Lam trong việc tả người, tả cảnh cũng như miêu tả tâm trạng của con người. Gắn liền với nghệ thuật miêu tả là thủ pháp đối lập đã được nhà văn sử dụng hết sức thành công trong truyện. Trước hết là sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, đối lập giữa tĩnh và động. Thủ pháp đối lập này đã góp phần đắc lực cho Thạch Lam trong việc làm nổi bật chủ đề tác phẩm.
"Hai đứa trẻ" là một truyện ngắn đặc sắc và rất tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam. Qua tác phẩm chúng ta thấy rõ tấm lòng nhân đạo của Thạch Lam đối với con người và nhất là những con người nhỏ bé trong xã hội. Chuyện đượm buồn nhưng đó là nỗi buồn cần thiết bởi nó có giá trị thanh lọc tâm hồn con người.
Dàn ý phân tích tâm trạng của nhân vật Liên trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Câu trả lời của bạn
1. Mở Bài
2. Thân Bài:
* Tâm trạng của Liên trước cảnh ngày tàn:
* Tâm trạng của Liên trước những mảnh đời tàn:
* Tâm trạng của Liên trong lúc đợi chuyến tàu đêm:
3. Kết Bài
Diễn biến tâm trạng nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Câu trả lời của bạn
“Văn học là nhân học” (M.Gorki). Trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mi mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hoà quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.
“Hai đứa trẻ” vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.
Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ xác và lại càng xơ xác, tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng” dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ngòai đồng, thế cũng đủ làm thành cái buổi chiều êm như ru như bao chiều khác.
Như một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh lại hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn gánh, vài đứa trẻ đi thu lượm các thứ lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa” nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong “Hai đứa trẻ”.
Song bức trang phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gi? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mang trong mắt Liên dường như quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tý, bố con nhà hát sẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.
Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn.Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện "rõ ràng" không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi từng bước phát triển của nội tâm. Từ "tiếng trống thu không" đến một câu văn nhẹ nhàng: "chiều, chiều rồi" cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những "tạp âm", của ban ngày chỉ còn "vòm trời với ngàn ngôi sao xanh ganh nhau lấp lánh". Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng đều có phần thi vị hoá nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.
Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ cón tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.
Sự tài tình cính là ở chỗ nhà văn vừa hoà nhập hai tâm hồn quan sát là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật minh của nhân vật. "Liên mãi ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả sơn đen lại". "Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng gió mát". Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chỉnh xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn hay chính là từ tâm hồn của Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt "Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm".
Nếu như đầu tối phố huyện còn được "trang hoàng" bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thi bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Một vài tia sáng le lói từ kẻ cửa thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tim đến cái mong manh của thứ đom đóm lập loè trong kẽ lá bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn "chớp" nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có vài hiện thực vừa có sự bay bổng của người bút phác lên và đằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quẩn quanh lầm lũi.
Ánh đèn của chỉ Tý đủ soi một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai "gam màu" sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phát đã trải qua một ngày bươn bải với cuộc sống để kiếm cái ăn, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để làm thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.
Vậy thì cái gi đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là nơi để họ sống...Âm thanh của cuộc sống phát ra từ những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vi, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.
Chẳng có một nét chấm phá nào trong bức tranh nhưng tất cả những con người có mặt đã làm nên tổng thể của cảnh vật cuộc sống.
Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt của đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được "đo bằng" một đơn vi "lãng mạn" nhất định. Nét bút của ông đã phát hoạ một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lý do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành dật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hoà thực sự, ấm áp tinh người và mỗi người khi ra về chắc chắn vẫn giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.
Sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện nhân cách tuyệt vời của ông.
Trở lại với cảnh sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chỉ em Liên. Đây chính là điểm nhà văn đã tập trung khắc hoạ. Liên gây ấn tượng bởi nội tâm sâu sắc, xuất phát từ
một con người đa cảm. Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác buồn trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương: đó là những chú bé nheo nhóc nhớn nhác giữa chợ đã vãng từ lâu để nhặt những mẩu que kem và những gi còn có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Tư thế của một người chị còn bé hơn thế nữa, nỗi lòng buồn báo hiệu một sự "trưởng thành" về tâm sinh lí.
Bức tranh phồ huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi. Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng
cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng cảm giác thân thuộc vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi người lần lượt đi qua tâm hồn tưởng như non nớt của Liên.
Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống của cả một quần thể người dân quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quẩn chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảnh đất trống "Lá đa lác đác trước lều" và những "con người ấy" mà thôi. Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ mà trong số trên chẳng có ai. Một hành động tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là "đợi tàu". Nếu mẹ Liên ở đó chắc không cho cô thức. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc hoạ hình ảnh Liên cùng em đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con.
Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó càng làm lòng Liên có một mỗi buồn vô hình xâm lấn. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại chợt gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã lẩn khuất sau màn đêm dày đặc, không gian của phố huyện thoáng dao động rồi lại trở về như xưa. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết nên vui hay nên buồn. Vui có lẽ đúng hơn vì hàng ngày chuyến tàu vẫn là niềm mong mỏi của chị. Có người nói "chờ đợi là một điều khủng khiếp"; song, không có gi để chờ đợi lại càng khủng khiếp hơn. Với Liên điều khủng khiếp chỉnh là niềm vui mà chỉ có thể tự tạo cho mình. Chất lãng mạn ngay trong cảnh đợi tàu. Cảnh đợi tàu ở đây tuy có khác với cảnh đợi tàu trên sân ga nhưng lại vẫn chung một nỗi niềm mong mỏi. Điều đáng nói hơn là duy chỉ một cô bé Liên đợi. Cuộc sống bon chen đã không làm chị chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao niềm vui của cuộc sống. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để minh sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có cấu tứ khá hoàn chỉnh; nhưng đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Cho đến nay, chị vẫn sống với một niềm vui của chuyến tàu đem lại. "Liên" là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện, tạo nên bằng một cuộc đời, tạo nên như là người dẫn chuyện.
Thành công của thạch Lam chỉnh là sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn cùng lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới. Ai đó đã định nghĩa về thơ: "Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơ nữa" thì truyện ngắn "Hai đứa trẻ" và nhiều thiên truyện khác nữa của Thạch Lam có đầy đủ những yếu tố mang phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại "cuộc đời" thật nhiều sâu sắc.
Dàn ý nêu ý kiến của em về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Câu trả lời của bạn
I. Mở bài
II. Thân bài
“Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu, như đã đem đến một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối dường như vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”.
a. Những dòng liên tưởng của Liên
⇒ Cái vầng sáng và ánh lửa của những con người nhỏ bé tội nghiệp sống lầm lũi nơi phố huyện nghèo nàn tăm tối không đẩy lùi được bóng tối đang bủa vây và đè nặng lên cuộc đời họ. Đó cũng là cuộc sống hiện tại của hai chị em Liên, cuộc sống đơn điệu đến nhàm chán và ngưng đọng.
⇒ Bản thân hai hình ảnh này vốn mang ý nghĩa tượng trưng cho những kiếp người nhỏ bé tội nghiệp trong chế độ cũ, vì vậy khi Thạch Lam đưa nó vào dòng mơ tưởng của Liên thì giá trị khái quát càng cao, ý nghĩa hiện thực càng lớn.
b. Chủ đề của tác phẩm
III. Kết bài
Dàn ý phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Câu trả lời của bạn
I. Mở bài: giới thiệu về tác phẩm Hai đứa trẻ
Ví dụ: Hai đứa trẻ là tác phẩm được in trong tập “Nắng trong vườn”, là một tác phẩm được coi là nổi bật nhất của ông. Hai đứa trẻ là tác phẩm nói lên cuộc sống khó khăn tại một huyện nghèo với bao con người và cuộc sống khổ cực. Nơi ấy là quê ngoại của tác giả vào năm 1945, chính vì thế mà tác phẩm được thể hiện hết sức đặc biệt và thấm đượm tình cảm. Chúng ta cùng đi tìm hiểu tác phẩm để hiểu rõ hơn về hoàn cảnh sống của con người lúc bấy giờ.
II. Thân bài: Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ
II.1. Bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo
a. Bức tranh thiên nhiên
b. Bức tranh sinh hoạt của con người
II.2. Cảnh đợi tàu:
a. Lí do đợi tàu:
b. Hình ảnh đoàn tàu:
III. Kết bài: Nêu cảm nhận của em về truyện ngắn Hai đứa trẻ
Ví dụ: Truyện ngắn Hai đứa trẻ thể hiện một khung cảnh vùng quê nghèo khó, khổ cực và có cuộc sống hết sức khó khăn. Những niềm mơ ước và hi vọng của những con người có niềm tin và niềm hi vọng được gửi gắm qua hình ảnh đoàn tàu.
Phân tích Chất thơ trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Câu trả lời của bạn
Mỗi tác phẩm đều có những nét biểu hiện riêng, nó được tạo nên bởi chất thơ hay tính chất mà tác phẩm thể hiện trong mỗi tác phẩm. Và truyện Hai Đứa trẻ là một trong những bài thơ như thế, chất thơ được thể hiện trong tác phẩm hiện lên thật tinh tế, sâu sắc trong lòng người đọc.
Chất thơ trong tác phẩm đó là sự hòa quyện giữa cảm xúc và tâm trạng của nhân vật xuất hiện tron tác phẩm, những chất thơ được tác giả nồng ghép để tạo nên những nét riêng, tinh tế hơn trong tác phẩm của mình. Mỗi chi tiết, mỗi lời văn đều được tác giả miêu tả tinh tế với nhịp điệu riêng của cảm xúc, của tâm hồn, với sự tinh tế trong việc lựa chọn cảm xúc, tâm lý nhân vật, hình ảnh chuyến tàu đêm được miêu tả sinh động, sâu sắc trong từng lời văn, lời thơ của mỗi tác phẩm.
Trong truyện ngắn Hai Đứa Trẻ, hình ảnh của nhân vật được biểu lộ đầy tinh tế, thể hiện sự trong sáng, thuần khiết với sự rung động, tinh tế trong cách nhìn, cũng như nghệ thuật miêu tả đầy tinh tế, mang những nét riêng, sinh động và đầy hấp dẫn, mỗi lời văn hay cách mô tả nhân vật đều thể hiện sự trong sáng, thuần khiết. Tác giả có thể cảm nhận được chính cuộc sống, con người cũng như sự tinh tế trong cách mô tả nhân vật của tác giả.
Mỗi nhân vật đều được tác giả mô tả với nét tinh cách riêng, đặc sắc, sự tinh tế trong cách thể hiện nhân vật, nét tinh cách đặc biệt, mang ý nghĩa sâu xa cho tác phẩm. Trước những vấn đề của cuộc sống, tác giả xây dựng nên những nét thơ mộng trong việc sáng tác nhân vật, hình ảnh đoàn tàu, với tia sáng, trong sáng, len lỏi trong mọi góc khuất của tâm hồn mỗi nhân vật, nó lại biểu hiện một cái nhìn riêng, sâu sắc và đầy tinh tế.
Trước mọi hoàn cảnh của cuộc sống, tác giả đang mơ mộng, thể hiện cảm xúc của mình trước khung cảnh thiên nhiên, với nét tinh tế trong cách mô tả, hình ảnh đó hiện lên thật hấp dẫn, mang đậm hình ảnh thơ mộng về tương lai tươi sáng của con người. Với những nét tinh tế, ngộ nghĩnh và sự miêu tả đầy tài năng, tác giả đã thể hiện được chính bức tranh phố huyện nghèo, ở đó có biết bao nhiêu số phận, con người đang gặp phải những vấn đề khó khăn, do cái nghèo đói đang bủa vây.
Chi tiết Liên và An đang hoài niệm đến hình ảnh xưa, một hình ảnh Hà Nội tráng lệ đã cho chúng ta thấy cảm xúc và hoài niệm về một quá khứ thơ mộng, ở đó con người đang sống trong những ánh sáng hào hoa. Còn giờ đây hình ảnh tối tăm, nghèo đói của khu phố huyện đã xuất hiện. Với sự mô tả tinh tế, chân thực, hình ảnh phố huyện hiện lên với những nét miêu tả đầy chân thực, hình ảnh cụ Thi Điên, hình ảnh những em nhỏ nghèo đói, khổ cực, nhặt nhạnh rác sau phiên chợ tàn.
Trước không gian và thời gian của khu phố huyện, mọi hình ảnh đều hiện lên sâu sắc, chi tiết nhất, nó biểu lộ cảm giác tinh tế, nhưng có chút hướng tới những tương lai tươi sáng hơn về quá khứ tươi đẹp. Riêng hình ảnh chuyến tàu đêm, cùng việc mô tả chi tiết hình ảnh đợi tàu của hai nhân vật Liên và An đã cho chúng ta thấy được một bức tranh thiên nhiên, ở đó con người đang bị bủa vậy bởi những sự nghèo đói, con người đang sống trong khoảng khắc, khổ cực, đau thương, nghèo đói. Chỉ có ánh sáng của chuyến tàu làm họ lóe lên tia sáng về một cuộc sống hạnh phúc, tươi đẹp, đang chờ đón họ ở phía trước.
Mỗi chi tiết đều được biểu hiện một cách chi tiết, sinh động về cuộc sống ở vùng phố huyện nghèo, với ngôn ngữ đầy chất thơ, tác giả đã thể hiện thành công, hình ảnh phố huyện nghèo, nhưng trong đó con người sống trong biết bao nhiêu khoảnh khắc, giá trị và niềm tin vào một cuộc sống tươi đẹp hơn.
Thạch Lam (1910 – 1942) tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân. Ông cùng với Nhất Linh và Hoàng Đạo là những cây bút chủ lực của nhóm Tự lực văn đoàn. Thạch Lam có biệt tài về truyện ngắn, thường viết những truyện không có chuyện, chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật. Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà thâm trầm, sâu sắc. Mỗi truyện của ông như một bài thơ trữ tình đượm buồn, giọng điệu điềm đạm, thâm trầm. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam. Đặc biệt, tác phẩm đã thể hiện đạm nét chất thơ trong truyện ngắn.
Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở trái tim”, là cái nhụy của cuộc sống được chưng cất thành thơ. “Chất thơ” có thể hiểu là chất trữ tình – tính chất được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn. Còn “Chất thơ trong truyện ngắn” là cái được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn. Đó là những rung động, rung cảm của nhà văn trước vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con người và tình người. Voltcure đã từng nói: “Thơ là âm điệu của tâm hồn cao cả, đa cảm”. Chỉ nhờ âm nhạc của lòng mình người nghệ sĩ mới có thể truyền cảm xúc đến với người đọc, khơi lên trong tâm hồn độc giả lòng yêu thích con người, quý trọng sự sống. Chính chất thơ làm cho trang văn trở nên tinh tế vút cao, đi vào lòng người đọc một cách mãnh liệt hơn.
Vốn là một nhà văn có tâm hồn tinh tế và nhạy cảm, Thạch Lam đã cho ra đời nhiều tác phẩm thấm đẫm chất thơ như “Gió lạnh đầu mùa”, “Dưới bóng hoàng lan” và đặc biệt là truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. “Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam, tác phẩm được in trong tập “Nắng trong vườn” xuất bản năm 1938. Cốt truyện “Hai đứa trẻ” khá đơn giản, đó là cảnh một phố huyện nghèo được miêu tả trong một khoảng thời gian ngắn từ chiều muộn cho đến đêm. Nơi ấy, có những người dân nghèo, ngày nào cũng tái diễn những công việc đơn điệu, buồn tẻ và đặc biệt trong thế giới ấy có hai đứa trẻ được mẹ giao cho trông coi một cửa hàng nhỏ, đêm chúng cố thức để đợi chuyến tàu đi qua. Đọc tác phẩm ta không thể quên được những dư âm trong trẻo và tươi sáng bởi ngôn ngữ miêu tả giàu hình ảnh, ngòi bút tài hoa giàu cảm xúc, giọng văn ngân nga như có nhạc điệu, vẻ đẹp bình dị của cuộc sống đời thường, những tình cảm ngây thơ cùng sự bay bổng của những niềm mong ước xa xôi….
Chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” trước tiên được tỏa ra từ khung cảnh thiên nhiên của buổi chiều tà. Đó là bức tranh quê bình lặng, êm đềm “Chiều chiều rồi, một buổi chiều êm như nhung và thoảng qua giáo mát”. Buổi chiều ấy được gợi lên từ âm thanh của tiếng trống thu không báo hiệu một ngày sắp tàn, từ tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào, cùng tiếng muỗi đã bắt đầu vo ve. Nổi bật trong bức tranh buổi chiều ấy là màu đỏ rực như lửa cháy của phương tây, điểm thêm là màu hồng như hòn than sắp tàn của những áng mây chiều. Bức tranh ấy còn có những đường nét thật rõ rệt “Dãy tre làng trước mặt đã bắt đầu đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Chỉ vài chi tiết miêu tả nhưng Thạch Lam đã làm bức tranh quê hiện lên thật gần gũi, bình dị. Bức tranh ấy được cảm nhận qua tâm hồn ngây thơ của Liên và An “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngơ con dần dần chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một khe ánh sáng.
Trẻ con tụ họp nhau ở thềm hè, tiếng cười nói vui vẻ, khiến An thèm muốn nhập bọn với chúng để nô đùa, nhưng sợ trái lời mẹ dặn phải coi hàng, nên hai chị em đành ngồi yên trên chỏng, đưa mắt theo dơi những bóng người về muộn, từ từ đi trong đêm”. Cát trên phố lấp lánh trên những chỗ mấp mô. Thấp thoáng trong bức tranh ấy là hình ảnh của mấy đứa trẻ con nhà nghèo đang lom khom, tìm tòi những thứ con xót lại sau buổi chợ, chúng nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì còn có thể dùng được của những người bán hàng để lại. Chứng kiến những cảnh đời ấy Liên thấy thương chúng nhưng chị cũng không có tiền để cho. Và đọng lại trong tâm hồn Liên là một nỗi “buồn man mác” trước khoảnh khắc của ngày tàn. Có lẽ nhà văn Thạch Lam đã vẽ nên bức tranh nơi phố huyện nghèo nơi đây bằng chính kí ức tuổi thơ của mình, khi ông cùng gia đình có một thời gian chuyển về sống ở phố huyện Cẩm Giàng(Hải Dương) nên cảnh vật và con người nơi đây hiện lên rất chân thực, gần gũi và màu sắc trữ tình – chất thơ có phần đậm nét hơn.
Sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn là một đặc điểm nổi bật trong phong cách sáng tác của Thạch Lam, chính sự kết hợp ấy đã giúp Thạch Lam tạo nên những trang văn vừa mang hơi thở của đời sống, vừa nhẹ nhàng, thanh thoát giàu chất thơ cho tác phẩm “Hai đứa trẻ”.. Có lẽ chất thơ đã thực sự lan tỏa khi nhà văn viết về cuộc đời của những con người nơi phố huyện nghèo. Chính những rung cảm tinh tế mà nhẹ nhàng, Thạch Lam đã làm cho chất thơ len lỏi sâu vào tâm hồn người đọc, khiến họ không thể rời mắt khỏi cuộc sống của những con người nơi đây – một cuộc sống mờ nhạt, buồn tẻ. Và dường như đằng sau những câu văn ấy là tiếng thở dài đầy xót thương cho những kiếp người lầm lũi nơi phố huyện của Thạch Lam.
Để làm nổi bật lên cuộc sống lầm lũi, khắc khổ của những con người nơi phố huyện, Thạch Lam đã nhấn mạnh đến thời gian nghệ thuật. Thời gian được đề cập đến ở đay là lúc phố huyện về đêm. Khi phố huyện về đêm, bóng tối phủ mờ lên cảnh vật, đè nặng lên cuộc đời của những người dân nơi đây. Bóng tối là một hình tượng nghệ thuật đày ám ảnh, nó trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm. Bóng tối đã phủ đày khắp nơi. Tối hết cả, từ con đường ra sông, con đường qua chợ về nhà đều chứa đầy bóng tối. Bóng tối tràn lan, đậm đặc khiến cho tiếng trống cầm canh đánh tung lên một tiếng khô khan rồi chìm ngay vào bóng tối. Bóng tối chính là hình tượng ẩn dụ cho cho cuộc sống của những con người nơi phố huyện nghèo – một cuộc sống tẻ nhạt, buồn chán, đến một lúc nào đó nó sẽ “mòn ra”, “mục ra”, “rửa đi” và tan vào trời đất. Cũng có đôi lúc nhà văn đã cho thắp lên vài ánh sáng nhưng đó chỉ là thứ ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu, là ánh sáng của những con đóm đóm bay là là trên mặt đất, là ánh sáng của chấm lửa bay lơ lửng nơi gánh phở của bác Siêu, là những khe sáng, hột sáng lọt qua phên nứa… Đặc biệt, hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí nhắc đi nhắc lại tới bảy lần trong tác phẩm, nó trở thành nỗi ám ảnh về số phận, kiếp người nơi phố huyện này, đồng thời gợi lên sự nhỏ bé đáng thương đến tội nghiệp của ánh sáng.
Đêm là lúc con người, vạn vật được nghỉ ngơi. Đáng lẽ đây là khoảng thời gian để con người được thư giãn sau một ngày dài làm việc vất vả. Thế nhưng đố với những con người nơi đây, họ vẫn phải đốt đêm làm ngày để tiếp tục kiếm sống. Họ phải làm việc để kiếm từng đồng lẻ, dẫu biết rằng “chẳng kiếm được là bao” nhưng họ vẫn phả để làm duy trì sự sống. Đó là hình ảnh của mẹ con chị Tí lam lũ, vất vả. Ban ngày chị đi mò cua bắt ốc, tối đến dọn hàng nước ra để bán. Gọi là hàng nước cho oai chứ hàng của chị chỉ có lèo tèo vài phong thuốc lào và ấm nước chè xanh. Sức ám ảnh trong “Hai đứa trẻ” còn được gợi lên qua tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi điên. Tiếng cười khanh khách trong vô thức của bà đã xoáy sâu vào tâm thức của người đọc về một cuộc đời xế bóng nơi phố huyện. Rồi cuộc sống ấy sẽ đi về đâu? Thê lương nhất trong miền đời bị lãng quên ấy là gia đình bác xẩm. Gia đình bác sống nhờ vào của bố thí của thiên hạ. Hôm nay chiếc thau trắng để trước mặt vẫn còn trống rỗng. Bác góp vui bắng mấy tiếng đàn bầu rưng lên bần bật nghe thật não nề. Gia đình bác ngồi trên manh chiếc rách, thằng con bò ra ra khỏi chiếu để nghịch cát bẩn bên đường. Đâu đó còn là hình ảnh của bác Siêu với gánh phở kẽo kẹt trên vai. Món hàng mà bác bán là một món quà xa xỉ, không bao giờ mua được không chỉ đối với chị em Liên mà còn đối với những con người nơi đây. Bóng bác trải dài mênh mông cả một vùng thật thê lương và ẩm đạm. Chị em Liên mặc dù có cuộc sống khá giả hơn nhưng cũng khổ hơn bởi cả hai đều bị quá khứ ám ảnh. Trước đây gia đình Liên sống ở Hà Nội, nhưng vì bố mất việc mà phải chuyển về nơi đây. Dù đang tuổi ăn, tuổi chơi nhưng hai chị em phải giúp mẹ trong coi cửa hàng tạp hóa nhỏ. Lúc nào chị em Liên cũng mơ tưởng về một Hà Nội sáng rực, xa xăm với cuộc sống đầy đẻ và sung túc. Quá khứ ấy như một minh chứng cho cái buồn thê lương, bế tắc ở hiện tại và nó như một dự cảm về tương lai mờ mịt. Có ai đó đã từng nói rằng “Nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại”, phải chăng chính vì lẽ đó mà trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” Thạch Lam đã miêu tả rất chân thực về cuộc sống nhàm chán, mờ nhạt của những con người nơi đây. Dù mỗi con người một hoàn cảnh nhưng ai cúng nhếch nhác, lam lũ đến tội nghiệp, người lớn như cây héo hắt, còn trẻ con thì như những màm non còi cọc không có tương lai.
Nếu nhà văn Nam Cao thường đi vào phân tích những quá trình tâm lí phức tạp thì Thạch Lam lại chủ yếu đi sâu vào những trạng thái của tâm hồn mà những rung động trong tâm hồn mới là đối tượng của chất thơ. Ở truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam đã vẽ nên hình những cảm xúc mong manh, mơ hồ thật tinh tế như “ những rung động của một cánh bướm non”. Và trong những rung động nhẹ nhàng, tinh tế ấy đã được Thạch Lam thể hiện qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên. Khi chứng kiến cảnh chiều về nơi phố huyện Liên thấy tâm hồn nhẹ nhàng lay động theo cảnh chiều quê. Ngồi bên “mấy quả thuốc sơn đen” Liên cảm nhận được hình ảnh bóng tối ngập đày dần, “đôi mắt chị chứa đầy bóng tối”. Mùi âm ẩm của rác rưởi, mùi cát bụi và hơi nóng lan tỏa cũng khiến cho Liên cảm nhận đó là “mùi riêng của đất”, của quê hương, xứ sở này. Đọc truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta như thấy rõ được tình cảm của Thạch Lam dành cho nhân vật của mình. Đó dường như là sự cộng hưởng giữa cảm xúc và hiện thực để tạo thành một sức hút da diết, bền lâu của tác phẩm.
Chất thơ trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” còn được thể hiện rõ hơn bao giờ hết qua những hi vọng, khát khao của những con người nơi phố huyện nghèo. Trong hoàn cảnh tối tăm của cuộc đời họ vẫn hi vọng và trông đợi vào một cái gì đó tươi sáng hơn ở tương lai. Dù có mệt mỏi, buồn ngủ thì họ vẫn cố thức để chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện. Chuyến tàu ấy ngỡ như rất bình thường nhưng nó lại có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với những con người nơi đây. Tàu chưa đến họ mong ngóng đợi chờ, khi tàu đến họ rát đõi mừng vui dù theo lời An thì “Tàu hôm nay không đông” và “kém sáng hơn” nhưng thứ ánh sáng mà đoàn tàu mang lại khác hẳn với thứ ánh sáng leo lét ở nơi đây. Chính thứ ánh sáng ấy đã khiến họ được sống trong niềm vui, hạnh phúc trong chốc lát. Đoàn tàu đã tiếp thêm cho họ sức mạnh để vượt qua cảnh tối tăm của hiện tại, hi vọng vào một tương lai tươi sáng hơn. Đối với chị em Liên, đợi tàu không phải vì nhu cầu về vật chất mà đơn giản, đoàn tàu ấy đã làm sống dậy quá khứ xa xăm, tươi đẹp một thời, phá tan không khí tù túng, ngột ngạt nơi đây. Thể hiện thành công tâm trạng đợi tàu ấy, nhà văn Thạch Lam đã gợi lên niềm xót thương cho những kiếp người nhỏ bé đang sống trong nghèo nàn, tăm tối và tù túng để từ đó lay tỉnh tâm hồn của họ để họ vươn tới ánh sáng của tương lai.
“Nghệ thuật làm nên linh hồn của tác phẩm”. Sẽ rất thiếu sót nếu ta không đề cập tới chất thơ được thể hiện qua nghệ thuật. Qua truyện ngắn, Thạch Lam đã xây dựng được một thế giới hình ảnh vừa chân thực vừa sống động với những không gian và thời gian có sự vận động, biến chuyển. Thạch Lam còn xây dựng được những chi tiết nhỏ nhưng lại thể hiện được một cách tinh tế và sâu sắc thế giới của những cảm xúc mơ hồ, mong manh của con người. Chính nhà văn Thạch Lam đã từng quan niệm: “Nhà văn cốt nhất là phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những tính tình và cảm giác thành thực, tức là tìm thấy tâm hồn mọi người qua tâm hồn chính mình” và ở truyện ngắn “Hai đứa trẻ” Thạch lam đã làm được điều đó. “Hai đứa trẻ” là truyện dường như không có cốt truyện, mạch truyện không vận động theo mạch những tình tiết mà vận động theo tâm hồn, cảm xúc của nhân vật. Câu văn của Thạch Lam nhiều thanh bằng gợi một nhịp điệu chậm buồn nhưng có sức lan toả. Chẳng hạn khi miêu tả vẻ trầm buồn nhưng cũng rất đỗi nên thơ của phố huyện. Câu văn ngắn, nhịp văn chậm rãi, thong thả. Dù diễn tả cái náo nức bên trong, cái sôi động của ước mơ thì Thạch Lam vẫn rất nhẹ nhàng, vẫn tự nén ngòi bút của mình. Tất cả những đặc sác nghệ thuật trên những đặc sắc nghệ thuật trên được Thạch Lam sử dụng một cahs thành thạo qua giọng văn thủ thỉ, nhẹ nhàng, êm đềm nhỏ nhẹ nhưng có thể phân biệt được từng âm vị.
Trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, chất thơ được chưng cất từ đời sống bình dị, thường nhật bằng chính rung động của tâm hồn nhà văn, chất thơ toả ra từ tình yêu cái đẹp, từ cái nhìn tinh tế trước thiên nhiên, đời sống và niềm tin ở thiện căn của con người từ hình thức nghệ thuật tới nội dung được biểu hiện. Qua tác phẩm Thạch Lam đã phát hiện ra được “Cái đẹp ẩn chứa ở chỗ không ai ngờ tới”, đó là vẻ đẹp kín đáo bị khuất lấp bởi đời sống nhọc nhằn mà chỉ có những tâm hồn tinh tế, nhạy cảm mới có thể cảm nhận hết được.
Dàn ý chất thơ trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Câu trả lời của bạn
a. Mở bài:
b. Thân bài:
b.1. Chất thơ và chất thơ trong truyện ngắn:
b.2. Chất thơ trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ":
b.2.1. Vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm:
b.2.2. Vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật:
c. Kết luận:
Phân tích giọng văn trong bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Câu trả lời của bạn
Đọc "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam không ai quên đó là một loại truyện không có truyện nhưng lại giàu sức gợi. Không ai quên có một cô bé Liên đảm đang, dịu đàng và cũng đầy mộng mơ, mong ước, không ai quên những đêm khuya trên sân ga phố huyện Liên cùng em đứng chờ những chuyến tàu để mơ tưởng khi chuyến tàu đã "vụt qua".
"Liên lặng theo mơ tưởng, Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo". Hà Nội thật sôi động. Đó là Hà Nội trong kí ức tuổi thơ; Hà Nội của những kỷ niệm trong Liên mà đã bấy lâu nay Liên thiết tha muốn được sống lại những ngày xưa hạnh phúc ấy dù chỉ trong khoảnh khắc theo dòng mơ tưởng về Hà Nội. Sống ở phố huyện yên tĩnh, lặng lẽ này, một người con gái có cuộc sống nội tại mạnh mẽ và sôi nổi như Liên cảm thấy rất buồn. Đôi mắt chị bóng tối ngập dần dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn thơ ngây của chị. Có lẽ vì vậy mà đêm nào Liên cũng đợi tàu ở Hà Nội về một cách tự giác như một thói quen khó dứt bỏ. Chị muốn hưởng một chút cái náo nức, vui vui mà đoàn tàu như chở cả thế giới phồn hoa đô hội qua phố huyện nghèo nơi chị đang sống. Chị khao khát ánh sáng và sự hoạt động biết bao! Và chỉ có sự háo hức đợi tàu mỗi đêm là có thể giải thoát chị khỏi nỗi buồn lặng lẽ. "Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua" – thế giới của đô thành sôi động, sầm uất vang dội đủ thứ âm thanh của cuộc sống đời thường trong Liên. Chỉ cần "một chút" – "một chút" thế thôi là Liên cũng cũng cảm thấy lòng mình rộn rã hẳn. Chị thấy "thanh thản", niềm vui nhè nhẹ khẽ len vào lòng.
"Liên sống giữa bao nhiêu sự xa xôi". Thế giới thực tại của Liên là phố huyện "tịch mịch", tĩnh lặng, buồn tẽ, ít trở mình. Nó càng tịch mịch, tĩnh lặng hơn khi con tàu đã vút qua chấm dứt mọi sự hoạt động của một ngày tẻ nhạt. Một thế giới mờ mịt, "đầy bóng tối", chỉ le lói vài vầng sáng hắt ra từ những ngọn đèn tù mù, bầy đom đóm nhấp nháy, những chòm sao xa tít tắp... Trong truyện, nhiều lần Thạch Lam nhắc đến ánh sáng trên cái nền của bóng tối. Đó là cuộc đấu tranh thực sự giữa ánh sáng và bóng tối mà ánh sáng chỉ như một viên đá ném vào giữa cái ao lớn là bóng tối. Mặt ao chỉ khẽ xao động rồi lại yên lặng như cũ cũng như ánh sáng không thể át đi bóng tối rợn ngợp bao trùm. Thế giới thực tại đó của Liên cũng là thế giới khác hẳn với với thế giới mà đoàn tàu đã chở qua phố huyện mỗi đêm. Đoàn tàu vụt nhanh trong đêm tối, "các toa đèn sáng trưng, những toa hạng trên sang trọng lô" nhô' những người đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng". Không như phố huyện "quê mùa" ngày ngày lặng lẽ, thế giới đô thành đầy ắp ánh sáng, sang trọng và đông vui nhộn nhịp. Nhìn theo đoàn tàu nhìn theo ánh sáng mang hơi thở của Hà thành, Liên biết bao xao xuyến, rạo rực. Ánh sáng ấy vút qua bừng lên khoảnh khắc trong mắt Liên, đưa Liên vào cõi "mơ tưởng". Liên nghĩ về quá khứ, nghĩ về tương lai và nghĩ về hiện tại. Quá khứ tuổi thơ sống hạnh phúc giữa đất Hà Nội huyên náo qua lâu rồi. Tương lai thì mờ mịt. Và hiện tại đầy bóng tối. Cuộc sống thật tẻ nhạt và đáng buồn... Con tàu vụt qua, "đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia; đồng ruộng mênh mang và yên lặng". "Cả phố huyện bấy giờ mới thật là hết náo động". Chuyến tàu "đi qua phố huyện" là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya". Đêm tối đối với Liên đã "quen" lắm rồi, nhưng Liên vẫn khao khát được thấy ánh sáng, được sống giữa ánh sáng ngập tràn và nhất là được sống trong không khí sôi động, náo nhiệt. Bởi Liên không phải là người dễ dàng chấp nhận số phận. Chị cũng có bao ước mơ và hơn hết, chị còn có một sức sống nội tại mãnh liệt, sôi nổi. Sống giữa phố huyện yên lặng, vắng vẻ mà tâm hồn chị không yên lặng chút nào. Trong chị dường như luôn có những con sóng ngầm cồn cào, dữ dội. Đó là những khao khát, những ước vọng được sống một cuộc sống mới mà ở đó có ánh sáng và âm thanh chứ chị không muốn an phận nơi đất quê ẩm mốc, nơi phố huyện nhỏ bé, thưa thớt này.
Trong dòng "mơ tưởng", tâm trạng Liên buồn vui lẫn lộn trước những gì thuộc về quá vãng, trước hiện tại đáng buồn và hướng về một tương lai lờ mờ ảo ảo, mơ hồ, xa xôi... Thạch Lam đã dẫn dắt câu truyện đi theo mạch nội tâm nhân vật khiến người đọc có cảm giác dịu êm lan tỏa. Ông đi sâu vào miêu tả tâm trạng, cuộc sống nội tâm nhân vật; ông nâng niu trân trọng những ước mơ đổi thay cuộc sống như ước mơ của Liên và cả của An – em Liên – của bao người dân phố huyện bình lặng ấy nữa, dù chỉ là ước mơ nhỏ bé nhất. Chừng nào cuộc sống còn lắm ước mơ, con người còn ước mơ đổi thay cuốc sống thì chừng đó cuộc sống còn đẹp và con người còn được đáng trân trọng.
Với "Hai đứa trẻ" Thạch Lam đã nói về cuộc sống chìm trong bóng tối và niềm khát khao vươn tới ánh sáng của những kiếp người nhỏ bé tội nghiệp ở một miền quê nơi phố huyện nghèo. Chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc đầy chất trí tuệ của Thạch Lam biểu hiện qua giọng văn ngọt nhẹ, thấm thía với một lời khuyên chân thành, đầy tính nhân văn. Dù cuộc sống tối tăm đến đâu cũng đừng đánh mất đi ước mơ đổi thay cuộc sống. Tư tưởng hướng về cuộc đời đổi thay và hiểu cuộc đời còn nhiều ý nghĩa đáng để người ta sống của Thạch Lam đã gặp gỡ và đồng điệu với tư tưởng, tâm hồn của những người như Nam Cao, Xuân Diệu cùng thời. Nhưng nếu như Nam Cao nói về khát vọng ấy của khiếp người nhỏ bé tội nghiệp thông qua sự tố cáo, lên án mạnh mẽ xã hội thực dân phong kiến thì Thạch Lam lại đi sâu vào phân tích nội tâm nhân vật để thấy được sự lặng lẽ của kiếp người đó quanh năm chỉ biết có bóng tối cùng nỗi buồn nhạt nhẽo, tẻ ngắt bủa vây lấy đời mình khiến người đọc càng thấm thía nỗi xót xa hơn. Đó chính là nét mới trong tư tưởng nhân văn cũng như trong nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam. Còn so với "Tỏa nhị Kiều" của Xuân Diệu, "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam có sự gặp gỡ ở điểm: cùng nói về cuộc sống nhạt nhẽo, vô vị triền miên trong bóng tối của những con người tội nghiệp đáng thương, đồng thời phản ánh niềm khao khát của nhân vật, của chính tác giả về một cuộc sống có ý nghĩa, có hạnh phúc.
Trải suốt trong "Hai đứa trẻ" là giọng văn nhẹ nhàng gợi một không gian vừa có chiều sâu vừa có chiều rộng giọng văn thủ thỉ, trữ tình đằm thắm, thiết tha, gợi mở trong tâm hồn người đọc những rung động êm dịu tinh tế, chứa chan tình người, tình đời của Thạch Lam. Giọng văn ấy đặc biệt thể hiện rõ qua đoạn trích nói về sự "mơ tưởng" của Liên khi đoàn tàu từ Hà Nội về vút qua sân ga phố huyện nhỏ bé, buồn tẻ – nơi Liên và em gái đang sống. Và một điểm nữa người ta không thể không nhắc đến khi đọc truyện Thạch Lam đó là chất thơ tạo tính hàm súc cho truyện của ông. Đoạn trích nói về dòng "mơ tưởng" của Liên là một đoạn như thế. Tác giả đã dùng các phép lặp để tạo sự nhịp nhàng, ấn tượng, rất riêng cho văn mình. "Hà Nội" phồn hoa hiện lên trong Liên rất rõ, rất lâu, lắng trong Liên bao cảm xúc về một thời đã qua; "thế giới khác" mà con tàu chở qua bừng lên trong ánh mắt Liên ánh sáng của "thế giới khác" và của thế giới phố huyện Liên đang sống nối tiếp nhau hiện về trong dòng mơ tưởng của Liên; và "đêm" mênh mông rợn ngợp trùm lên tất cả... Những hình ảnh đó cứ trùng điệp nối tiếp nhau nhịp nhàng như những lớp sóng khiến câu văn Thạch Lam lúc nhẹ nhàng lúc lan tỏa, lúc dồn nén... Có lẽ vì vậy mà "câu văn Thạch Lam cứ như câu văn của hôm nay" (Phong Lê), "trẻ rất dai, mới rất lâu" (Phạm Văn Phúc).
Và mỗi khi nhắc đến "Hai đứa trẻ" sẽ chẳng bao giờ người ta có thể quên Thạch Lam như có dùng nghệ thuật dựng cảnh của điện ảnh để tạo nét thực – ảo đan xen trong quá trình dựng hình ảnh "Liên lặng lẽ theo mở tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đem một chút thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí, và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng".
Suy nghĩ về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Câu trả lời của bạn
Thạch Lam được biết đến là một cây viết cứng và khỏe của nhóm Tự lực văn đoàn. Các tác phẩm của ông luôn khiến độc giả và rất nhiều nhà phê bình phải lưu tâm và nó để lại dấu chấm hỏi lớn đáng suy ngẫm. Những tác phẩm của ông được ví như “truyện mà không có cốt truyện”, song hàm chứa trong nó lại là những băn khoăn, trăn trở mà tác giả gửi gắm. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” được coi là một dấu ấn lớn trong sự nghiệp của Thạch Lam. Có ý kiến băn khoăn “truyện là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn hay là câu chuyện về niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn?”. Vậy theo bạn ý kiến của bạn là gì?
Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam chủ yếu hướng về cuộc sống quẩn quanh bế tắc đến tội nghiệp của những người dân nghèo khổ nơi phố huyện. Đó là tàn dư của chế độ thực dân nửa phong kiến mà con người phải hứng chịu trước cách mạng tháng Tám - 1945. Vì thế có thể khẳng định trước hết đó là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và một cuộc đời tàn.
Mở đầu câu chuyện đó là khung cảnh của một phiên chợ tàn vùng quê nghèo xơ xác “Chiều chiều rồi, một chiều êm ả như ru văng vẳng tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Đó cũng là một buổi chiều với tiếng trống thu không như gọi chiều yên ả và tĩnh mịch đến cô liêu. Hình ảnh mặt trời đỏ rực, những cây tre quen thuộc,… Như càng tô đậm vẻ tịch liêu đến hoang xơ nơi vùng quê yên bình. Đó cũng là dấu hiệu bắt đầu của màn đêm buông xuống, “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Tất cả khung cảnh vũ trụ chìm vào bóng đen mịt mờ bóng tối bao trùm mọi cảnh vật.
Nỗi buồn đó càng được khắc họa rõ nét qua cảm nhận của nhân vật Liên “Liên không hiểu vì sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Dẫu không có bất cứ lời văn nào u uất hay thấm đẫm buồn thương thế nhưng Thạch Lam đã phần nào khiến người đọc mường tượng ra được không gian một buổi chiều tà đầy lặng lẽ buồn thương đến nao lòng.
Đây cũng là lúc mọi hoạt động của con người dường như cũng tạm ngưng. Nó càng khiến cho lòng người trở nên ảm đạm và chan chứa nỗi niềm xúc động.
Ai đó đã từng nói “muốn biết tình hình đời sống của một khu dân cư chỉ cần nhìn vào buổi chợ của những con người nơi đó”. Những thứ xót lại của buổi chợ tiêu điều này sẽ cho bạn cảm nhận được về cuộc sống con người nơi đây. “Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía”. Đó là những thứ biểu trưng cho sự nghèo nàn xơ xác đời sống khốn khó của người dân nơi đây. Những dư vị còn xót lại của phiên chợ chỉ còn là mùi đất xộc lên. Chao ôi cái mùi vị của cuộc sống nghèo khó, lầm than đến xót xa tội nghiệp.
Hòa cùng với khung cảnh tiêu điều đó là những mảnh đời héo hon đến tội nghiệp. Lầm lũi trong bóng đêm càng tô đậm sự cô tịch. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo lom khom mặt đất lạnh nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay bất thứ cái gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại”. Đáng nhẽ ở cái tuổi ấy chúng sẽ được đến trường, được vui chơi tận hưởng một cuộc sống vui vẻ thế nhưng lại phải bon chen đánh vật với cuộc sống mưu sinh. Hình ảnh những người lớn cũng chẳng khá khẩm hơn bao nhiêu. Chị Tí mò cua bắt tép đến tối lại dọn cái chõng tre ra bán nước, bác phở Siêu với gánh hàng phở ế ẩm khốn khó, anh phu xe, chị hàng gạo… Những mảnh đời bé nhỏ bất hạnh như chìm vào trong bóng tối của màn đêm ảm đạm.
Trong cái hoàn cảnh đó, Liên và An cũng không thoát ra được cái nghèo. Từ ngày bố mất việc rời Hà Nội về sống với mảnh đất nghèo khó này. Mẹ chúng lăn lộn với gánh hàng xáo, hai chị em trông coi cái cửa hàng tạp hóa bé xíu. Tuổi thơ của chúng cũng không được học hành tử tế, thậm chí đối với hai chị em bát phở của bác Siêu cũng trở thành những món quà vặt đầy xa xỉ.
Không gian tiêu điều của phố huyện càng được tô điểm bởi những hột sáng hắt ra từ ngọn đèn Hoa Kì vặn nhỏ của chị em Liên, của ánh đèn của chị Tí và bác Phở Siêu. Tưởng rằng những thứ ánh sáng ấy có thể khiến không gian sáng sủa hơn nhưng nó chỉ làm cho bóng đêm trở nên thăm thẳm hơn. Hình ảnh ngọn đèn con ở chõng tre của chị Tí đã trở thành những hình ảnh có sức gợi đặc biệt. Nó tô đậm sự nhỏ nhoi của những mảnh đời khiến tâm trạng người đọc trở nên u buồn day dứt.
Cái ngày tàn của phố huyện sẽ là những chuỗi ngày nối tiếp nhau dài bất tận, ngày mai, ngày kia và hôm nào cũng thế. Thế nhưng dường như sự nghèo đói không khiến ước mơ của con người bị dập tắt. Bởi con người nếu không có hi vọng sẽ không thể tồn tại được. Họ vẫn mong chờ vào một thứ gì thật tươi sáng mặc dù đó là những thứ rất mơ hồ. Hình ảnh những đứa trẻ ngóng chờ sự xuất hiện của đoàn tàu đêm càng khắc họa mảnh đời bất hạnh ở đó.
Sự đối lập giữa khung cảnh bên ngoài với sự nhộn nhịp của đoàn tàu càng khiến khung cảnh bên ngoài thêm đìu hiu. Họ chờ đợi để bán hàng dù chỉ đôi bao diêm gói thuốc thế nhưng nó mang đến giá trị tinh thần lớn lao. Đã là thứ khát vọng gửi gắm vào thứ ánh sáng phồn hoa kia dù nó rất mơ hồ. Khát vọng vì một ngày mai tươi sáng những mảnh đời bất hạnh sẽ không còn lầm than nữa. Đây chính là dụng ý nghệ thuật cũng là sự nhạy cảm về tâm hồn của Thạch Lam.
Có thể nói trong tác phẩm này Thạch Lam đã khắc họa thành công một buổi chợ tàn, một buổi chiều tàn và một cuộc đời tàn bên cạnh đó còn gửi gắm những khát vọng vì cuộc sống tươi sáng. Hình ảnh đoàn tàu mang ý nghĩa ẩn dụ lớn lao thể hiện giá trị tinh thần nhân đạo mà nhà văn gửi gắm vào tác phẩm của mình.
Nêu ý kiến của em về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Câu trả lời của bạn
Hành trình của văn học là hành trình đi từ trái tim đến những trái tim. Vì vậy, mỗi nhà văn khi đã cầm bút đều có thiên chức của mình. Như Thạch Lam quan niệm: "Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn". Ý thức được sâu sắc nhiệm vụ thiêng liêng đó, mỗi tác phẩm của Thạch Lam luôn nâng đỡ những yêu thương cao quý ở đời. "Hai đứa trẻ" là chút "Nắng trong vườn" vừa là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ vừa là câu chuyện về niềm khát kháo vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Mỗi tác phẩm văn học ra đời đều có một chủ đề khác nhau. Chủ đề là vấn đề cơ bản, trung tâm được nêu lên trong tác phẩm. Nó thể hiện được chiều sâu tư tưởng, khả năng nắm bắt những vấn đề cuộc sống của người viết. Qua đó biểu hiện nhận thức, sự đánh giá và tư tưởng của tác giả đối với đời sống hiện thực. Trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ", Thạch Lam không chỉ tái hiện số phận của những con người sống âm thầm, lay lắt, tàn lụi trong bóng tối của cuộc đời cũ nơi phố huyện nghèo mà còn gửi gắm giá trị nhân văn sâu sắc. Đó là niềm tin vào cuộc sống và lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khát khao thoát khỏi cuộc sống tăm tối mù mịt hiện tại. Chính vì thế, “Hai đứa trẻ" không chỉ là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ mà còn là câu chuyện về niềm khát kháo vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Trước hết, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là câu chuyện về một ngày tàn. “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru.” “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa” gọi buổi chiều nơi phố huyện. Trong ánh mặt trời dần lụi tàn ở "phương tây đỏ rực như lửa cháy", cảnh vật cũng dần bước vào trạng thái tàn lụi: “những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” và dãy tre làng “đen lại”, “cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Cả không gian ngập tràn âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng”, tiếng muỗi vo ve trong cửa hàng tối. Bóng tối lan dần, nuốt chửng lấy cả phố huyện “tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Trong bóng tối mênh mông ấy, chỉ có chút ánh sáng “le lói, lập loè, yếu ớt” của đàn đom đóm, một “quầng sáng lờ mờ” của ngọn đèn hàng nước chị Tí và những “hột sáng” nhỏ nhoi lọt qua phên nứa nơi gian hàng của chị em Liên. Cái buồn của ngày tàn lặng lẽ len lỏi vào cả những con người cũng đang dần chìm trong bóng tối và thấm thía vào tâm hồn Liên: “Đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không hiểu vì sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Khung cảnh ngày tàn được tái hiện qua những câu văn êm dịu, uyển chuyển, tinh tế. Mỗi câu như một nét vẽ đơn sơ, mộc mạc không cầu kỳ không kiểu cách nhưng lại gợi được cái hồn của cảnh vật và cái thần thái của thiên nhiên. Có thể nói, không gian phố huyện lúc chiều tàn hiện lên tuy buồn nhưng thơ mộng, mang dáng hình của một hồn quê Việt Nam quen thuộc, gần gũi vô cùng bình dị. Qua đó gửi gắm tình cảm gắn bó của Thạch Lam.
Trong không gian của ngày tàn còn có cả một câu chuyện về một phiên chợ tàn nơi xã hội thu nhỏ này. Phiên chợ đã "vãn từ lâu", "người về hết và tiếng ồn ào cũng mất", chỉ còn lại sự nghèo nàn, xơ xác với những "rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía", chỉ còn lại "mùi âm ẩm bốc lên", hơi nóng ban ngày, mùi cát bụi quen thuộc”. Cuộc sống tẻ nhạt, nghèo khổ từng nét hiện ra qua vẻ xác xơ, tiêu điều của phiên chợ tàn.
Và trên phông nền thời gian, không gian tàn lụi của một ngày tàn và một phiên chợ tàn là những cuộc đời tàn tạ, những kiếp người đang âm thầm hoà mình chìm trong bóng tối. Chân dung những con người nghèo khổ lam lũ của phố huyện hiện dần ra. Đó là “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Chợ đã vãn từ lâu, chúng tìm được gì ở nơi đã tàn ấy? Cuộc sống nghèo khổ gieo rắc bất hạnh lên những kiếp người, cướp đi tuổi thơ của chúng và trả về gánh nặng mưu sinh.
Không một ai thoát khỏi cảnh tù túng nơi phố huyện nghèo. Mẹ con chị Tí, “ngày mò cua bắt tép” tối đến lại lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng. Dù không kiếm được bao nhiêu, nhưng ngày nào chị cũng dọn giống như đang chờ đợi một điều gì đó. Còn gia đình bác Xẩm, họ ngồi trên manh chiếu với cái thau sắt để trước mặt, rồi không khách không tiền. Mệt mỏi, họ lăn ra đất và như đã lẫn vào trong đất. Bác Siêu với gánh hàng phở ế ẩm khốn khó. Hai chị em Liên với cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu mở ra từ ngày cả nhà rời Hà Nội về phố huyện này. Bà cụ Thi điên nghiện rượu, bà cười “khanh khách” rồi lảo đảo đi vào trong đêm tối gợi cho người đọc nỗi buồn thương về những kiếp người đang dần bị vùi lấp trong cái nghèo khố tối tăm và sự lãng quên của cuộc đời. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, khổ cực và tàn tạ.
Phố huyện nghèo kéo theo những kiếp người gần tàn vào bóng tối mênh mông mờ mịt. Ánh sáng âm ỉ trong bóng tối bao trùm, mong manh tới nỗi chỉ là “hột sáng” hắt ra từ ngọn đèn con của chị Tí, bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn Hoa Kì vặn nhỏ của chị em Liên. Chút ánh sáng ấy không làm cho đêm tối trở nên sáng sủa hơn mà ngược lại chỉ càng làm thêm mịt mù u tối. Với nghệ thuật đối lập khi miêu tả ánh sáng và bóng tối, Thạch Lam đã khắc họa thành công nhịp sống tẻ nhạt, u buồn lay lắt của con người nơi phố huyện nghèo. Trong khi bóng tối nuốt chửng cả phố huyện thì ánh sáng xuất hiện là “hột sáng”, “khe ánh sáng”, “đốm sáng”, “vệt sáng” thật bé nhỏ, chúng “mất đi rồi lại hiện ra trong đêm tối”. Ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt đó le lói cùng những phận người bấp bênh, trôi nổi. Nhịp sống ấy lặp đi lặp lại quẩn quanh, đơn điệu từ ngày này sang ngày khác.
“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu,
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người”.
Nhưng “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức” (Thạch Lam). Dưới cái nhìn đầy yêu thương của Thạch Lam, "Hai đứa trẻ" còn là một câu chuyện về niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn của những cuộc đời tàn tạ. Ngày tàn, phiên chợ cũng đã tàn nhưng không che lấp đi niềm tin và khao khát của những cuộc đời. Trong hoàn cảnh tàn tạ, con người vẫn ước mơ, vẫn hi vọng. Cuộc sống của họ vẫn tiếp diễn lặp lại dù họ biết mình không nhận được bao nhiêu. Nhưng dường như, họ vẫn luôn chờ đợi, chờ đợi điều gì đó chưa đến “Chừng ấy con người sống trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Và họ chờ, chờ chuyến tàu cuối ngày ngang qua phố huyện.
Trong cảnh chờ tàu, Thạch Lam đã sử dụng thủ pháp tương phản rất tự nhiên có sức khơi gợi về cuộc sống đời thường: tẻ nhạt, đơn điệu nhưng lại chứa bên trong nhũng vận động đến xôn xao. Ánh sáng bừng lên trong bóng tối, cái đẹp ẩn trong cái bình thường, nỗi khao khát và ước mơ ẩn mình trong cam chịu, sự xao động nằm trong sự tĩnh lặng, cái tăm tối lại hiển hiện những kỉ niệm sáng tươi và hé mở một tương lai hi vọng dù cho còn mơ hồ xa xăm. Đó là nhìn của một nhà văn lãng mạn nhưng giàu lòng nhân hậu với con người và cuộc đời. Hai đứa trẻ chờ đợi tàu trong vui buồn phức tạp. Thạch Lam đã khéo léo tái hiện “những rung động cực điểm của những tâm hồn thơ dại” khi miêu tả sự thiết tha chờ tàu chạy qua tới mức An đã buồn ngủ nhíu cả mắt mà vẫn dặn chị: “Tàu đến chị gọi em dậy nhé!”.
Đoàn tàu ngang qua đem đến cho phố huyện không khí náo nhiệt, rạo rực bởi âm thanh, hình ảnh, màu sắc và ánh sáng của nó. Tiếng còi gióng lên hối hả, tiếng các toa tàu dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng người đi lại ồn ào huyên háo. Trên những toa tàu, đèn điện sáng trưng: “Đồng và kền lấp lánh ở những ô cửa kính sáng”. Chuyến tàu ở Hà Nội mang cho phố huyện cả một thế giới hoa lệ “như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Một thế giới tươi sáng khác hẳn với chút ánh sáng le lói nơi đây. Chuyến tàu mang theo nuối tiếc về “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Nó thức dậy trong Liên một trời kỉ niệm đã qua để Liên sống với tuổi thơ trong chốc lát, sống lại một thời xa xôi nay chỉ còn trong hồi ức, thời mà thầy chưa mất việc, sống ở Hà Nội “chủ nhật được đi bờ hồ uống những cốc nước xanh đỏ”. Tàu đến rồi lại đi, lao về phía trước mở ra một chân trời tương lai khác mà không biết bao giờ con người mới đến được. Chị em Liên đứng nhìn theo con tàu mãi.
Qua khung cảnh đầy cảm động ấy, Thạch Lam với sự thức tỉnh ý thức cá nhân sâu sắc đã bày tỏ lòng xót thương vô hạn đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh không bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc. Trái tim của một nhà văn chân chính - "nhà nhân đạo từ trong cốt tủy" đã nâng niu và trân trọng niềm tin của con người, dù cho niềm tin ấy vô cùng mong manh.
Trong thiên truyện ngắn của mình, Thạch Lam đã sử dụng thành công ngôn ngữ truyện giàu cảm xúc, giọng văn thủ thỉ điềm tĩnh, nhẹ nhàng như ẩn chứa một tâm sự kín đáo có sức khơi gợi sâu vào cảm xúc người đọc kết hợp nghệ thuật đối lập tương phản, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật. Từ đó sáng tạo thành công một câu chuyện không có cốt truyện nhưng lại như một thứ thơ bằng văn xuôi ấn tượng. “Hai đứa trẻ” là bức tranh phác họa cảnh phố huyện nghèo trong một ngày tàn, qua một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của Liên. Bên cạnh niềm cảm thương chân thành đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm, Thạch Lam còn khẳng định và ngợi ca niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn của họ. Để rồi "Hai đứa trẻ" không những là tác phẩm tiêu biểu cho cây bút tài năng của "Tự lực văn đoàn" mà còn tiêu biểu cho tấm lòng nhân đạo, yêu thương và nâng đỡ con người của Thạch Lam.
Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" với chủ đề nhân văn cao đẹp, mang theo thiên chức cao quý của người cầm bút giống như viên ngọc sáng được thời gian mài giũa. Cho đến tận hôm nay, nó vẫn âm thầm sống mãi trong lòng độc giả với tuyên ngôn văn học của một nhà văn chân chính: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Tác dụng của nghệ thuật miêu tả tương phản trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam).
Câu trả lời của bạn
Thạch Lam là một nhà văn có khuynh hướng lãng mạn rất rõ trong sáng tác. Ông thường sử dụng thủ pháp đối lập để thể hiện tư tưởng của mình. Trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, nghệ thuật tương phản cũng đã được sử dụng thành công.
Cũng giống như nhiều truyện ngắn khác của Thạch Lam “Hai đứa trẻ” dường như không có cốt truyện rõ ràng. Không gian truyện là khu phố chợ ở một huyện nhỏ từ lúc xế chiều đến đêm khuya. Hai chị em Liên và An thức đợi tàu với những cảm xúc, suy nghĩ về cuộc sống, cảnh vật quanh mình.
Truyện chỉ có vậy nhưng qua ngòi bút của Thạch Lam, những điều ấy trở nên sống động, làm cảm động lòng người. Thủ pháp tương phản góp phần rất lớn vào thành công ấy. Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, giữa bầu trời và mặt đất, giữa quá khứ và hiện tại... đã gợi ra rất nhiều suy tưởng, tình cảm cho người đọc.
Con người cần ánh sáng và khát khao ánh sáng. Nhưng thiên nhiên chỉ ban tặng một nửa thời gian sáng tỏ ánh mặt trời. Bởi vậy, thời khắc chiều tà và đêm khuya chính là lúc ánh sáng và bóng tối cùng xuất hiện, bên cạnh nhau tương phản nhau, soi tỏ nhau.
Ánh sáng và bóng tối hiện lên cùng lúc ngay ở đầu thiên truyện, ánh dương rực rỡ mà yếu ớt như cố níu kéo thời khắc tồn tại “đỏ rực như lửa cháy” những đám mây “như hòn than sắp tàn”. Và bóng tối đang mon men xuất hiện”. “Dãy tre làng trước mặt đen lại”.
Bóng chiều đổ xuống được bác hiệu bằng “đôi mắt... bóng tối ngập đầy” của Liên. Như vậy cũng có nghĩa là đã tối trời rồi, mặt trời đã tắt hẳn, màn đêm đã sập cửa vũ trụ. Ánh sáng bây giờ “leo lét” tội nghiệp phát ra từ những ánh đèn treo “trong quán phở”, trong nhà. một vài người dân, “trong hiệu sách”... Sự tranh chấp giữa ánh sáng và bóng tối diễn ra ngay trên từng viên sỏi trên đường: “cát lấp lánh từng chỗ” “những hòn đá nhỏ một bên sáng, một bên tối”.
Trời nhá nhem tối vẫn là những ánh sáng leo lét của ngọn đèn. Nhưng ánh sáng không đủ sức soi tỏ con người nữa. Để têm trầu, chị Tý phải “dịch ngọn đèn Hoa Kỳ lại”. Và bà cụ Thi thì “lần vào bóng tối”. Cái yếu ớt của ánh sáng và tràn đầy của bóng tối là điều tất yếu về đêm tôi.
Vậy nên, khi “trời đã bắt đầu đêm” cũng là lúc các ngõ con, đường phố “chứa đầy bóng tối”, ánh sáng bây giờ chỉ còn là những “khe sáng”. Dường như ánh sáng hiểu rằng không thể tranh giành với bóng tối nên thu mình lại, nhường nhịn và bất lực. Nhưng kìa, trên nền trời “hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh” những “vệt sáng của những con đom đóm”, ánh sáng rực rỡ một phần bởi màn đêm đặc tối. Càng tối đen, ánh sáng dù yếu ớt cũng trở nên sáng tỏ, rõ ràng. Thứ ánh sáng nơi bầu trời đêm xa xăm không đủ cho con người và cũng không thuộc về con người. Vì thế, Liên trở về với những tia sáng, đốm sáng, nguồn sáng nơi mặt đất.
Điều Liên, An và những người dân phố chờ đợi chờ là thứ ánh sáng từ bàn tay con người, từ chuyến tàu cuối cùng của đêm - “Một làn khói bừng sáng trắng”, “các toa đèn sáng trưng chiếu ánh cả xuống đường”, “các cửa kính sáng” “đốm than đỏ bay tung”. Giữa đêm, thời điểm tưởng như bóng đêm nặng nề, đông đặc nhất lại chính là thời điểm ánh sáng bừng lên với biết bao màu, hình sắc ánh sáng của khói, của toa đèn, của kính của đốm than... chúng rực rỡ, sáng lòa không gian và tâm hồn con người.
Ánh sáng và bóng tối trong thiên truyện song song tồn tại từ đầu đến cuối thiên truyện. Bóng tối thuộc về tất yếu của tự nhiên mạnh mẽ và chiếm đầy không gian. Ánh sáng thuộc về con người, yếu ớt, mỏng manh nhưng khao khát lan toả, níu kéo sự tồn tại. Có lúc chúng loé sáng, bừng lên nhưng vụt sáng trong khoảnh khắc để rồi “xa xa mãi... khuất”.
Mặt đất buổi tan chợ đáng thương và tội nghiệp “chỉ còn rác rưởi”, còn “mùi âm ẩm bốc lên”. Còn gì nữa? Con người cũng lầm lũi gần với đất bụi “Mấy đứa 'trẻ cúi lom khom... nhặt nhạnh..”, rồi cái buồn buồn của Liên, cuộc sống lam lũ bẽ bàng của chị Tý, vợ chồng người hát xẩm, bác Siêu... Mặt đất trần thế của con người bụi bặm, khổ đau và chứa chan bóng tối.
Bầu trời thì khác. Nó khi thì “đỏ rực” lúc chiều tà; đến đêm khuya nó “thăm thẳm” mênh mông kỳ diệu với “hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Bầu trời bao giờ cũng diệu kỳ với ánh sáng thuộc về riêng nó. Ngay cả khi ánh sáng được đợi chờ nhất của con người biến mất (chuyến tàu đêm) thì bầu trời vẫn điềm nhiên với “sao trên trời vẫn lấp lánh”.
Bầu trời bao la thăm thẳm “làm mỏi trí nghĩ” Liên không thể nào dõi theo được. Nhưng mặt đất thì khác, nó gần gũi bình yên “thân mật”, Liên thỏa mắt nhìn suốt cả buổi đêm.
Ánh sáng và bầu trời thuộc về ước mơ: ánh sáng là điều để thắp lên, để đợi chờ; bầu trời là nơi để “ngước mắt lên nhìn” khao khát. Bóng tối và mặt đất là thực tại, là cái hằng chiều, hằng đêm con người nơi phố huyện vẫn phải sống chung và đối mặt.
Với riêng cô bé Liên một “tâm hồn ngây thơ” rất trẻ, lòng cô còn xốn xang với những hoài niệm về quá khứ và những nỗi buồn hiện tại.
Cứ chiều về, đêm đến, Liên lại “thấm thía” những nỗi buồn của “chiều quê” đêm phố. Lòng cô “man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Nhìn những đứa bé bới rác, cô “động lòng thương” nhưng cũng buồn vì chẳng có tiền cho chúng. Cuộc sống của Liên cũng leo lét, buồn buồn, chậm chạp đầy bóng tối như những người dân nơi đây. Cô đang thuộc về bóng tối và mặt đất của hiện thực trụi trần.
Những từ hiện tại nhiều buồn thương, lòng Liên lấp lánh thứ ánh sáng của quá khứ đủ đầy sung sướng: “Liên nhớ lại khi ở Hà Nội..”.. Sau cái “nhớ lại” ấy là một chuỗi kỷ niệm “những thức quà ngon, “lạ” “đi chơi Bờ Hồ”... kỷ niệm trong Liên là “một vùng sáng rực và lấp lánh”. Liên đợi chờ chuyến tàu đêm cũng là đợi chờ giây phút được ngắm nghìn “một thế giới khác” cái thế giới của “Hà Nội xa xăm” một thời tuổi thơ cô đã đi qua...
Với việc sử dụng thủ pháp đối lập trong thiên truyện, Thạch Lam đã làm nổi bật nhịp sống buồn nhạt, tối tăm, buồn thương nơi phố huyện, nơi những con người đang héo mòn vì bóng tôi. Mặt khác, thủ pháp đối lập cũng tạo nên vẻ đẹp lãng mạn cho “Hai đứa trẻ” - truyện trở nên nhẹ nhàng, trong trẻo đầy thi vị.
Thạch Lam là một nhà văn có tài và có tâm. ổng luôn dành cho những người dân nghèo một vị trí đầy yêu thương, đồng cảm trong trang văn của mình. Thủ pháp nghệ thuật miêu tả tương phản được ông sử dụng nhiều, đạt những hiệu quả nhất định qua đó góp phần thể hiện cái Tài và cái Tâm của tác giả. “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn tiêu biểu trong việc sử dụng thủ pháp đặc biệt này.
Lòng nhân ái của Thạch Lam qua truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Câu trả lời của bạn
Thạch Lam (1910 - 1942) là cây bút có tài nhất trong Tự lực Văn đoàn. Hàng loạt những truyện ngắn của ông ghi dấu ấn của một tấm lòng nhân ái , như làn gió đầu mùa se lạnh, thấm đẫm niềm cảm thông trước những số phận bất hạnh, những cuộc đời chìm trong bóng tối. Thấp thoáng trong những câu chuyện của ông bóng hình kỷ niệm của những ngày tháng đã hằn sâu trong ký ức tuổi thơ Thạch Lam. Hai đứa trẻ, tác phẩm thấm đượm tình người, như minh chứng tiêu biểu cho một tấm lòng nhân ái.
Có người đã nhận xét, mỗi truyện ngắn Thạch Lam như một bài thơ trữ tình. Thế Lữ, một người bạn của ông đã nhận xét: "Sự thực của tâm hồn mà Thạch Lam diễn trong lời của văn chương phức tạp nhiều hình nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương". Tình thương với con người trong Hai đứa trẻ hình thành trên nền không gian phố huyện nghèo đầy bóng tối, với những cuộc đời lầm lũi, vất vả mưu sinh: mẹ con chị Tí, bác phở Siêu, gia đình bác Xẩm. Nhưng những nhân vật được ông dành cho "chút lệ thầm kín", yêu thương chân thành nhất có lẽ là hai chị em Liên và An. Bởi hai đứa trẻ chính là một mảng đời nghèo túng của hai chị em Thạch Lam tại phố huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Thế giới phố huyện hiện ra qua góc nhìn trẻ thơ chứa đựng những bí mật mơ hồ. Hơn ai hết, Thạch Lam hiểu rõ tâm trạng của những em bé không có tuổi thơ khắc khoải, đau đớn thế nào, bởi đó chính là những gì nhà văn đã từng trải nghiệm. Tất thảy những gì nhà văn đem đến trong câu chuyện không có cốt truyện này: không gian đìu hiu phố huyện, thời gian đi dần vào đêm khuya, đến những khoảnh khắc sống của Liên và An chờ đợi chuyến tàu cuối cùng băng qua phố huyện... mang ý nghĩa thông điệp của một tấm lòng chân thành : đừng bao giờ lãng quên những cuộc đời trong bóng tối! Và chính ông là người đã khơi dậy những nguồn sáng lạ kỳ để mỗi người đọc chúng ta thấm thía vẻ đẹp bình dị và sâu sắc của con người.
Thạch Lam là người ý thức rõ hơn hết về thiên chức của người cầm bút chân chính trong lời tựa Gió đầu mùa: "Văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên. Mà trái lại văn chương là một thứ khí giới đắc lực và thanh cao mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác; vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn lên". Quan niệm ấy đã thể hiện trên từng trang văn, từng dòng cảm xúc ở Hai đứa trẻ, làm nên phẩm chất hàng đầu ở văn Thạch Lam, làm người đọc được sống cùng thế giới của lòng nhân ái. Tấm lòng ấy giúp ông tạo dựng được không khí thắm đượm tình người, đi sâu khai phá những vẻ đẹp rất người và nói lên những tâm tình khát vọng con người. Người đọc có dịp thẩm thấu những nét đời thường một cách tinh tế mà nếu vô tình chúng ta rất dễ bỏ qua, trong một câu chuyện đan xen những yếu tố hiện thực - thi vị trữ tình, với những ấn tượng và cảm giác không thể phai mờ về cuộc sống và con người phố huyện.
Đó là cuộc sống đã được nhà văn tái hiện bằng tất cả những ấn tượng đậm nét nhất của một thời dĩ vãng. Không gian được dựng lên bằng hồi tưởng giúp ta suy tưởng sâu sắc hơn về cuộc sống của con người trong những hoàn cảnh đầy ám ảnh bóng tối phủ chụp lên cuộc đời. Mỗi một chi tiết của phố huyện như khơi dậy bao nỗi niềm con người. Từ một nhịp sống chậm chạp, nặng nề, rời rạc mở đầu với "tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều", một cảm giác lắng buồn cứ tăng dần cùng âm thanh "ếch nhái" đến "tiếng muỗi vo ve". Sự yên tĩnh không đem lại cảm giác êm ả cho lòng người mà tiếp liền đó là những hình ảnh hiện lên qua ánh nhìn của cô bé Liên, một đôi mắt đầy bóng tối. "Cái giờ khắc của ngày tàn" cũng mở ra những cuộc đời tàn héo.
Những cuộc đời ấy thấp thoáng trong quang cảnh chợ vãn: "Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất", "mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại". Những nét phác họa đơn sơ ấy làm tăng nét hiện thực điển hình của phố huyện. Những chi tiết ấy không chỉ chứng tỏ năng lực quan sát tinh tường của nhà văn mà còn cắt nghĩa cụ thể cho độ nhạy cảm của một tâm hồn không bỏ qua bất cứ một biểu hiện nhỏ nhặt bình thường của cuộc sống để từ đó khơi ln những liên tưởng về thân phận con người. Để rồi, ông hướng sự quan tâm của người đọc về những số phận cụ thể: mẹ con chị Tý ngày đi mò cua bắt tép, tối dọn hàng nước, chiều nào cũng thế, theo một chu kỳ đều đặn "từ chập tối cho đến đêm", một bà cụ Thy nửa điên nửa tỉnh thoáng hiện nhưng khó quên, một gánh phở bác Siêu với chấm lửa nhỏ và vàng hiện lên từ đêm tối, một gia đình bác Xẩm... những con người ấy đã tô đậm cuộc sống phố huyện về đêm, hoà cùng gian hàng tạp hoá của chị em Liên và An.
Cuộc sống ấy chìm trong bóng tối, ảm đạm và buồn tẻ. Ánh sáng cứ bị lấn át dần. Thạch Lam đã xây dựng bức tranh phố huyện bằng thủ pháp đối lập ánh sáng và bóng tối rất quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn. Những ngôn ngữ giàu sức gợi của nhà văn đã đem đến ý nghĩa hiện thực đậm nét cho tác phẩm. Ánh sáng và Bóng tối không phải là những ý niệm tượng trưng trong văn Thạch Lam mà hiện hình cụ thể trong từng khung cảnh , từng mảnh đời, ẩn chứa những xung đột ngấm ngầm của cuộc sống tưởng như bình lặng. Viết về bóng tối, nhưng thực chất nhà văn muốn hướng người đọc về ánh sáng. Ông dùng ánh sáng để soi tỏ từng bí ẩn của tâm hồn con người. Ấn tượng về bóng tối, ánh sáng gắn với cảm nhận của một cô bé Liên - bóng dáng người chị thân yêu của chính tác giả, dẫn dắt người đọc khám phá những góc khuất của tâm hồn con người phong phú và sâu sắc. Thông qua đó, nhà văn cũng nói lên đầy đủ sự thông cảm thương yêu đối với con người bé nhỏ.
Phân tích nghệ thuật miêu tả tương phản trong Hai đứa trẻ.
Câu trả lời của bạn
Là một thành viên trụ cột trong bút nhóm tự lực văn đoàn, Thạch Lam đã tự khẳng định mình bằng một hướng đi riêng, đặc biệt là những tác phẩm viết về nông thôn, những người dân nghèo nơi phố huyện. Hai đứa trẻ rút trong tập nắng trong vườn là một truyện ngắn hay, thấm đẫm tinh thần nhân văn nhân đạo, tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật miêu tả tương phản của ông.
Giống như hầu hết các truyện ngắn khác của Thạch Lam Hai đứa trẻ là truyện không có chuyện. Câu chuyện như một bài thơ, cốt chuyện tình tiết, tâm trạng, biến cố đều nhẹ nhàng, dịu êm... Truyện là tâm trạng thao thức đợi tàu, là những cảm xúc, những mảnh ghép cuộc sống, là cảnh vật xung quanh của hai đứa trẻ Liên và An. Truyện chỉ có vậy nhưng qua ngòi bút của Thạch Lam, những điều ấy trở nên sống động, làm cảm động lòng người. Thủ pháp nghệ thuật tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, giữa bầu trời và mặt đất, giữa quá khứ và hiện tại... đã gọi nên nhiều suy nghĩ thấm thía, sâu xa về những cảnh đời, những kiếp người nhỏ bé, sống vô danh vô nghĩa và héo mòn cùng những hi vọng mỏng manh và mơ hồ trong xã hội cũ.
Con người luôn khao khát và luôn cần ánh sáng, thế nhưng với chuyển động của thời gian, chuyển động của trái đất quay quanh trục của nó, mặt trời chỉ có thể chiếu sáng cho chúng ta một nửa thời gian trong ngày. Bởi vậy, cái khoảnh khắc thao thức, cái sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối cùng xuất hiện, thời khắc chiều tà và đêm khuya bên cạnh nhau, tương phản nhau, cùng soi tỏ cho nhau. Ánh sáng và bóng tối đã xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện, ánh sáng yếu ớt của mặt trời "như hòn than sắp tàn" và xen vào đó là những hình ảnh đầu tiên của bóng tối "dãy tre làng trước mặt đen lại". Nhưng ám ảnh và có khơi gợi nhiều hơn cả là một không gian tối- sáng lúc phố huyện vào đêm: "Liên ngồi lặng im bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị". Trong sự đối lập sáng- tối đó, bóng tối là gam màu chủ yếu. Bóng tối dày đặc, mênh mang, bao phủ khắp một vùng còn ánh sáng thì mờ nhạt, nhỏ nhoi, leo lét không đủ để xua đi bóng tối. Thạch Lam thường miêu tả bóng tối nhưng chỉ trong hai đứa trẻ, bóng tối mới đủ hình hài, cung bậc: "đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối", bóng người làm cong lung lay bóng dài, bóng bác phổ Siêu mênh mang ngã xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ". Phố xá thì tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sạm đen hơn nữa. Đêm ở phố huyện tĩnh mịch và đầy bóng tối". Trong cái thế giới ngập tràn bóng đêm, dưới một bầu trời thăm thẳm bao la đầy bí mật của phố huyện, ánh sáng lại quá yếu ớt, mà nhạt, nhỏ bé, leo lét. Ánh sáng của các cửa hiệu chỉ là những khe sáng, lọt ra ngoài, hắt xuống mặt đường gồ ghề khiến mặt đất dường như nhấp nhô hơn vì những hòn đá nhỏ vẫn còn một bên sáng một bên tối. Ánh đèn của bác phở Siêu chỉ là những chấm nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối. Ánh sáng ngọn đèn của chị em Liên thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa... Có lẽ trong văn học xưa nay, ánh sáng cũng đã từng xuất hiện nhiều nhưng không mấy ai miêu tả ánh sáng là khe, là vệt, là chấm, là hột, là quầng... Một cách riết róng như Thạch Lam. Đặc biệt là hình ảnh ngọn đèn chị Tí, một quầng sáng nhỏ nhoi, chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ, xuất hiện hai lần trong tác phẩm, tạo nên sức ám ảnh và khơi gợi về cảnh đời, những kiếp sống nhỏ bé, lay lắt trong đêm đen, trong bóng tối cuộc đời.
Điều Liên, An và những người dân nơi phố huyện mong chờ là thứ ánh sáng nơi bàn tay con người từ chuyến tàu cuối cùng của đêm " các toa đèn sáng trưng, đồng và kền lấp lánh"... Giữa đêm, thời điểm tưởng như bóng tối nặng nề, đông đặc nhất lại chính là thời điểm ánh sáng bừng lên rực rỡ, sáng lóa cả không gian và tâm hồn con người. Bầu trời bao la và mặt đất cũng có sự đối lập. Mặt đất sau buổi chợ tàn chỉ còn lại rác rưởi, bụi bẩn và mùi của đất, là mặt đất bụi bặm, khổ đau, chứa đầy bóng tối. Còn bầu trời thì khắc, nó đỏ rực lúc chiều tà, là hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, là sự kì diệu, thuộc về ước mơ, khao khát, là những kỉ niệm của một thời nay chỉ còn là vang bóng. Ánh sáng và bầu trời thuộc về ước mơ, là để thắp lên, đợi chờ, khát khao. Bóng tối và mặt đất là cái thực tại, là cái hằng chiều, là bóng đêm con người phải sống, phải đối mặt.
Với việc sử dụng nghệ thuật đối lập tương phản trong thiên truyện. Thạch Lam đã làm nổi bật lên cuộc sống buồn bã, tẻ nhạt, tối tăm của những con người nơi phố huyện đang héo mòn vì bóng tối. Qua đó Thạch lam đã bộc lộ rõ được tinh thần nhân đạo, trong niềm day dứt, dằn vặt, thể hiện cái tài và cái tâm của tác giả, tạo nên cả đẹp lãng mạn, nhẹ nhàng đầy thi vị cho tác phẩm.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *