Bài giảng Chiếu cầu hiền sẽ giúp các em hiểu được thể loại "chiếu", và tấm lòng của vua Quang Trung đối với dân với nước lúc bấy giờ. Học 247 mời các em tham khảo bài giảng dưới đây, chúc các em có thêm một bài giảng hay.
→ ông có những đóng góp tích cực cho triều đại Tây Sơn
→ Dùng hình ảnh so sánh, lấy từ luận ngữ tạo nên tính chính danh cho "Chiếu cầu hiền" vừa đánh trúng vào tâm lí của nho sĩ Băc Hà. Cho ta thấy Quang Trung là người có học, biết lễ nghĩa.
→ Gặp nhiều khó khăn ⇒ đòi hỏi sự trợ giúp của nhiều bậc hiền tài.
→ Tư tưởng dân chủ tiến bộ, đường lối cầu hiền: rộng mở, đúng đắn.
Biện pháp cầu hiền: cụ thể, dễ thực hiện.
→ vua Quang Trung là người có tầm nhìn xa trông rộng cũng như khả năng tổ chức, sắp đặt chính sự, biết giải tỏa những băn khoăn có thể có cho mọi thần dân, khiến họ yên tâm tham gia việc nước.
Đề: Nêu cảm nhận của em về tư tưởng và tình cảm của vua Quang Trung được thể hiện qua bài chiếu
Các em có thể tham khảo các gợi ý dưới đây:
“Chiếu cầu hiền” là bài chiếu mà vua Quang Trung- Nguyễn Huệ giao cho Ngô Thì Nhậm viết bài chiếu để chiêu mộ người có đức, có tài ra phục vụ triều đình giúp dân, giúp nước. Thay tâm nguyện của đức vua Ngô Thì Nhậm đã thể hiện cho muôn dân thấy được tấm lòng vì dân, vì nước của vua Quang Trung, cũng như sự hiểu biết và tầm nhìn xa trông rộng của đức vua. Để nắm vững kiến thức về văn bản này, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Chiếu cầu hiền.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Bài Chiếu cầu hiền thể hiện tấm lòng vì nước, vì dân của triều đại Tây Sơn cũng như tầm nhìn sâu rộng của vị Vua anh minh mà tài hoa này. Ông chiêu mộ người tài không bằng những lời lẽ hoa mỹ, văn vẻ mà ông dùng cái tâm, sự chân thành của mình để gửi tới tấm chân tình của mình tới những người hiền tài, sẵn sàng chiêu mộ người tài trong bất cứ hoàn cảnh nào. Để nắm được hướng triển khai bài viết về Chiếu cầu hiền, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm
- Hình tượng vua Quang Trung qua bài Chiếu cầu hiền
- Tấm lòng và tài năng của vua Quang Trung qua Chiếu cầu hiền
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Phân tích Chiếu cầu hiền để thấy tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của Quang Trung.
Câu trả lời của bạn
Năm 1788, triều Lê – Trịnh sụp đổ, vua Quang Trung xây dựng lại đất nước nhưng còn gặp nhiều trở ngại do đất nước loạn lạc, kẻ sĩ bi quan, chán chường. Mặc khác, vẫn không ít sĩ phu, nhân tài bảo thủ với triều đại cũ mà bất hợp tác với triều đình Tây Sơn. Trước tình hình ấy, Quang Trung đã ban Chiếu cầu hiền để thuyết phục trí thức Bắc Hà hiểu đúng vai trò và sứ mệnh xây dựng đất nước. Mặc dù người trực tiếp viết chiếu thư là Ngô Thì Nhậm nhưng nội dung tư tưởng vẫn là của vua Quang Trung.
Bằng lối văn nghị luận cổ, Chiếu cầu hiền được Ngô Thì Nhậm thể hiện thành công qua cách viết súc tích, thiết thực. Văn bản được chia làm 4 phần rõ ràng theo bố cục của một bài chiếu cũng là theo cách thuyết phục người hiền của vua Quang Trung.
Mở đầu bài chiếu, tác giả đã đưa ra quy luật xử thế của người hiền bằng hình ảnh so sánh độc đáo: người hiền như ngôi sao sáng còn thiên tử như sao Bắc thần. Chỉ khi quy phục sao Bắc thần thì những ngôi sao kia mới sáng thật sự cũng như chỉ khi phụng sự vua, phục vụ cho nhân dân thì bản lĩnh và tài năng của họ mới thật sự phát huy. Thế nên việc người hiền quay về, tìm đến dưới trướng vua là thuận theo lẽ tự nhiên, hợp lòng dân, ý trời. Để tăng sức thuyết phục, tác giả đưa ra phản đề đánh đúng tâm lý những kẻ sĩ đang ở ẩn. Bên cạnh đó, Ngô Thì Nhậm còn mượn cứ liệu từ sử sách Trung Quốc như luận ngữ của Khổng Minh vừa hợp lòng sĩ tử vừa cho thấy Quang Trung cũng là người hiền, từng đọc sách thánh hiền.
Sau khi khẳng định cách xử thế đúng đắn của hiền tài, Ngô Thì Nhậm đã đưa ra những chứng cứ xác thực trực tiếp từ việc ứng xử của các sĩ phu Bắc Hà.
“Trước đây thời thế suy vi…lẩn tránh suốt đời” là những ví dụ điển hình trước đây kẻ sĩ mai danh ẩn tích, trốn tránh việc đời hoặc chọn nhầm con đường…Qua đó, tác giả cũng thể hiện rõ quan điểm của nhà vua. Quang Trung cho những điều đó là sai lầm nhất thời, là vạn bất đắc dĩ, không truy cứu, không trách cứ những chuyện đã qua. Đối với sĩ phu Bắc Hà từng nhận lộc của vua Lê – Trịnh, nặng chữ trung nên khó chấp nhận việc thay đổi triều đại, Quang Trung cũng đề cập đến một cách rất chi tiết bằng việc phân tích nguyên nhân và lí giải thấu tình. Tác giả Ngô Thì Nhậm đã truyền đạt lại suy nghĩ của vua bằng những lời lẽ châm biếm nhưng không hề khiến người nghe phẫn uất. Ngược lại những điều chiếu ban trở thành ân tình mà lẽ ra các sĩ phu phải đón nhận từ sớm. Tấm lòng của bậc minh vương thánh đế thể hiện qua cách cư xử và thái độ trân trọng người hiền dù trước kia người ấy có ý đối nghịch với chính mình.
Kẻ sĩ là những người học hành để phụng sự cho đất nước. Vậy đang lúc xã tắc đang cần há chẳng phải là lúc thích hợp nhất để người hiền trong thiên hạ bộc lộ khả năng của mình? Để chỉ ra nhu cầu của đất nước trong thời điểm hiện tại, người viết không giấu giếm những yếu kém về kinh tế, chính trị, xã hội nhưng lại có cách nói khéo léo. Đất nước gặp rất nhiều khó khăn, bao nhiêu nhiệm vụ mới mẻ chưa hoàn tất, từ việc binh đao nơi biên cương đến việc học hành, chỉnh đốn văn hóa đều rất cần người tài giúp sức. Đã vậy mà nội bộ triều đình lại rối ren, một vị minh quân dù có tài giỏi đến nhường nào cũng không thể quán xuyến hết một đất nước nếu không có những cánh tay đắc lực. Giọng điệu vừa tha thiết, chân thành vừa khiêm nhường, hiểu biết khiến người hiền không thể không giúp triều đình. Qua đấy ta cũng thấy được tấm lòng và trí tuệ của vua Quang Trung.
Sau khi đánh đúng tâm lý trung quân ái quốc của các sĩ phu Bắc Hà, nhà vua đã vạch ra đường lối cầu hiền từ việc chỉ ra đối tượng đất nước đang cần đến những biện pháp, cách thức mà hiền tài nên thực hiện để đóng góp sức lực cho triều đình. Theo đó mọi viên quan trăm họ đều được dâng sớ tấu để trình bày kế hoạch, cho phép viên quan văn võ tiến cử hiền tài đồng thời khuyến khích người có tài tự tiến cử. Mọi tư tưởng tiến bộ trong chính sách trị nước của Quang Trung thể hiện rõ ràng. Nhà vua không chỉ trong tầng lớp trí thức như trước đây mà còn đãi ngộ với những thợ thủ công, nghệ nhân lành nghề giỏi thực hành. Qua những chính sách rất thiết thực, cụ thể và rất khả thi, chúng ta thấy rằng Quang Trung là chẳng những là vị vua anh minh tài giỏi về mặt quân sự, chính trị mà còn là một nhà quản lý, tổ chức khéo léo.
Để kết thúc bài Chiếu, tác giả một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của hiền tài đối với đất nước và tính cấp thiết của vấn đề qua lời kêu gọi tha thiết, khích lệ cùng chung một gánh giang sơn “Nay trời trong sáng, đất thanh bình chính là lúc người hiền gặp hội gió mây, những ai có tài có đức hãy cùng cố gắng lên, ghi tên tại triều đình..”
Bằng lời văn sáng tạo, súc tích, lập luận chặt chẽ, khúc chiết nhưng thấu tình đạt lý, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung trong việc cầu hiền tài phụng sự cho đất nước. Thông qua đó, chúng ta nhìn rõ hơn về tài năng và đức độ của một vị vua áo vải.
Hình tượng người hiền tài trong hai tác phẩm Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm và Hiền tài là nguyên khí của quốc gia.
Câu trả lời của bạn
“Chiếu cầu hiền” do Ngô Thì Nhậm biên soạn. Ông từng làm quan dưới triều Lê-Trịnh, sau đi theo Tây Sơn và có nhiều đóng góp nên được vua Quang Trung trọng dụng và tin tưởng. Nhiều văn kiện ông được vua Quang Trung chỉ định biên soạn. Trong đó phải kể đến “Chiếu cầu hiền”, là một văn kiện quan trọng thể hiện chủ trương đúng đắn nhà Tây Sơn nhằm động viên các tầng lớp tri thức Bắc Hà tham gia xây dựng đất nước, đồng thời phản ánh tầm nhìn xa trông rộng và tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung Nguyễn Huệ.
Sau khi đã lấy lại được nền độc lập từ quân Thanh nhưng trước tình hình chúa Trịnh ngày càng lộng hành và áp đặt vua Lê, Nguyễn Huệ đã thần tốc kéo quân ra bắc với khẩu hiệu “phù lê diệt Trịnh” và chiến thắng lập ra triều đại Tây Sơn. Nhưng trong giới sĩ phu miền bắc còn có quan niệm bảo thủ, không chấp nhận hiện thực lịch sử thậm chí có thái độ bất hợp tác. Và giờ đây nhiệm vụ thiết yếu nhất là thuyết phục tầng lớp tri thức hợp tác cùng vua xây dựng, khôi phục lại đất nước.
Mở đầu của bài chiếu, Ngô Thì Nhậm dẫn lời của Khổng Tử nhằm tạo ấn tượng mạnh đối với các nho sĩ:
“Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luân ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”.
Ngay đoạn đầu tác giả đã muốn khẳng định người hiền tài như tài sản quý giá của đất nước, hình ảnh so sánh người hiền tài với “ngôi sao sáng” phần nào đánh trúng tâm lí của các bậc nho sĩ tri thức bấy giờ. Một cách so sánh đầy sáng tạo đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài chiếu. Hình ảnh “sao sáng trên trời” tượng trưng cho sự tinh anh, sáng suốt khiên nhà vua rất trọng dụng. Đồng thời ta thấy được tài năng dẫn dắt, nêu vấn đề rất trúng đích của tác giả.
Ở đoạn tiếp theo, tác giả đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Điều làm trăn trở vua vì để lỡ nhân tài một cách vô ích.
“Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám noi năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời”
Qua đó ta thấy được rằng nhà vua như có ý muốn trách móc những người hiền tài. Uổng phí tài năng, thu hẹp bản thân một cách yếu hèn. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước thái bình, xã tắc thịnh trị nhà vua cần có sự hợp tác của nhân tài để quốc gia được thịnh trị. Thế mà các người là hiền tài thì lại ở ẩn hoặc cố giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những con người thì ra giúp vua nhưng lại không tận tâm trong công việc.
“Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sống, chết đuối trên cạn mà không tự biết”. Đây là cách phên phán đầy hình ảnh nhưng tế nhị mà cũng đầy thâm thúy. Việc tập hợp người hiền tài giúp vua trong việc xây dựng đất nước là việc quang trọng hơn bất cứ thứ gì. Vì vậy, nhà vua luôn “sớm hôm mong mỏi”
Lời nói khiêm nhường, chân thành và lập luận có tình có lúc cùng chính sách sử dụng người hiền tài của nhà vua khiến các bậc hiền tài không thể không đem tài sức ra phụng sự. Đường lối cầu hiền của vua quang trung đúng đắn và mở rộng. Trước hết là tất cả mọi tầng lớp nhân dân từ quan viên lớn nhỏ đến dân chúng trăm họ đều được phép dâng sớ bày tỏ ý kiến về việc nước, nghĩa là ai cũng có quyền tham gia đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước, cách tiến cử đa dạng, có hai cách. Cuối cùng nhà vua kêu gọi người tài đức hãy cùng triều đại chung vai gánh vác việc nước để cùng nhau tận hưởng hạnh phúc dài lâu: “trong khoảng trời đất, hiền tài còn ẩn náu, trước đây thì nên thế. Nay trời trong sáng, đất thanh bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió mây, những ai có tài đức hãy cùng cố gắng lên, ghi tên tại triều đình, cùng nhau cung kính, cùng nhau hưởng phúc làm tôn vinh”
“Chiếu cầu hiền là một bài văn nghị luận mẫu mực, thể hiện ở sự chặt chẽ tính logic, ở tài thuyết phục khéo léo mà đầy khiêm tốn chân thành. Các điển cố được dử dụng trong bài cho thấy nhận thức tinh tế, trình độ hiểu biết sâu rộng. Cách diễn đạt tạo nhiều ấn tượng tốt về vua Quang Trung- một bậc anh minh sáng suốt, văn võ song toàn.
Bài chiếu đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung trong việc nhận thức về tầm quan trọng của hiền tài đối với đất nước, là nguyên khí quốc gia. Ngô Thì Nhậm nắm chắc chiến lược cầu hiền của vua Quang Trung và đã thể hiện một cách thành công và đầy thuyết phục.
Hoàn cảnh ra đời Chiếu cầu hiền.
Câu trả lời của bạn
Năm 1788, vua Lê Chiêu Thống rước quân Thanh vào xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung rồi đem quân ra Bắc quét sạch 20 vạn giặc Thanh cùng bọn tay sai bán nước. Lê Chiêu Thống và tàn quân chạy theo Tôn Sĩ Nghị, triều Lê sụp đổ. Trước sự kiện trên, một số bề tôi của nhà Lê hoặc mang nặng tư tưởng trung quân lỗi thời, hoặc sợ hãi vì chưa hiểu triều đại mới nên có người đã bỏ trốn, hoặc đi ở ẩn, hoặc tự tử,… Quang Trung giao cho Ngô Thì Nhậm thay mình viết Chiếu cầu hiền kêu gọi những người tài đức ra giúp nước an dân.
Văn bản thể hiện rõ sự khát khao cầu hiền của nhà vua trẻ tài đức, qua đó ta thấy được Ngô Thì Nhậm thật là uyên bác, cao tay trong việc dùng văn bản, thay mặt nhà vua chiêu hiền đãi sĩ. Ông xứng đáng là người được vua Quang Trung tin cậy.
Thể loại: Chiếu
Là một thể văn thư nhà vua dùng để ban bố mệnh lệnh cho thần dân.
Công văn hành chính thời xưa gồm hai loại: một loại do cấp dưới đệ trình lên nhà vua hoặc triều đình (tấu, chương, biểu, sớ, khải,…), một loại do nhà vua truyền xuống cho bề tôi (chiếu, mệnh, lệnh, chế, dụ, cáo, …).
Chiếu nói chung, chiếu cầu hiền nói riêng thuộc loại văn nghị luận chính trị - xã hội. Mặc dù chiếu thuộc loại công văn nhà nước, lệnh cho thần dân thực hiện, nhưng ở đây, đối tượng của bài chiếu là các bậc hiền tài, hơn nữa đây là cầu, tức là vua Quang Trung cầu, chứ không phải là lệnh.
Kết cấu của “Chiếu cầu hiền”
Chiếu cầu hiền là một tác phẩm chính luận có kết cấu chặt chẽ, lập luận chắc chắn, lí lẽ sắc bén. Bài chiếu chia làm 3 phần:
nghệ thuật sử dụng trong bài chiếu cầu hiền là gì ạ????
Câu trả lời của bạn
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *