Bài học Chí Phèo giúp các em nắm vững được các kiến thức trọng tâm của tác phẩm như: hoàn cảnh ra đời, ý nghĩa nhan đề, hình ảnh làng Vũ Đại, các nhân vật chính trong tác phẩm như Chí Phèo, Bá Kiến, cuộc gặp gỡ với Thị Nở, Thị Nở từ chối Chí Phèo.... và những giá trị nhân đạo sâu sắc mà tác giả muốn gởi gắm. Ngoài ra, DapAnHay xin giới thiệu với các em video bài giảng của cô Phan Thị Mỹ Huệ. Bài giảng được trình bày một cách ngắn gọn, dễ hiểu hỗ trợ cho các em trong quá trình tiếp thu bài học được tốt hơn. Mời các em cùng tham khảo. Chúc các em học tốt và đạt được kết quả cao!
Vị trí xã hội | Nhân vật | Đặc điểm |
1 | Bá Kiến (cụ tiên chỉ) | “bốn đời làm tổng lý”, uy thế ngất trời |
2 | Đám cường hào ác bá: đội Tảo, tư Đạm, bát Tùng… | Kết bè kết cánh đối chọi lẫn nhau và đối chọi với Bá Kiến, làm thành thế “quần ngư tranh thực”. |
3 | Dân làng Vũ Đại | Nông dân, thấp cổ bé họng, suốt đời bị đè nén, áp bức |
4 | Hạng người dưới đáy: Chí Phèo, Năm Thọ, binh Chức | Cùng hơn cả dân cùng, sống tăm tối như thú vật. |
NHẬN XÉT: Chỉ qua một số chi tiết chọn lọc kĩ lưỡng, sắp đặt rải rác tưởng ngẫu nhiên mà lại có tính chất quy luật, Nam Cao đã dựng nên một làng Vũ Đại sống động, hết sức ngột ngạt, đen tối. Đó chính là cái “hoàn cảnh điển hình” vừa sản sinh vừa tác động làm bộ lộ “tính cách điển hình” đó là Chí Phèo.
⇒ Từ ngôn ngữ, giọng nói, tiếng cười, cái nhìn của Bá Kiến đều biểu hiện sư khôn ngoan, lọc lõi hơn người và khác người của một kẻ có kinh nghiệm bốn đời làm tổng lí.
⇒ Xây dựng nhân vật bá Kiến, tác giả đã bóc trần bản chất của giai cấp địa chủ. Bá Kiến vừa là nguyên nhân trực tiếp, vừa là nguyên nhân sâu xa dẫn Chí đến những bi kịch đau đớn nhất của người lao động nghèo trong xã hội cũ. Nhân vật bá Kiến có ý nghĩa điển hình cho giai cấp địa chủ phong kiến đồng thời góp phần tô đậm tính cách bi kịch của Chí Phèo. Về phương diện này, tác phẩm có giá trị hiện thực và tố cáo sâu sắc.
* Nguồn gốc, lai lịch
* Quá trình tha hóa
⇒ Lúc này nhân tính của Chí đã được hồi sinh.
→ Đây chính là đỉnh cao sự thức tỉnh nhân tính của Chí.
⇒ Miêu tả cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo với thị Nở, Nam Cao đã chứng minh ngòi bút tâm lí sắc sảo của mình, thể hiện một giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Nhà văn đã phát hiện được những phẩm chất tốt đẹp của người lao động ngay cả khi họ đã mất đi nhân hình, nhân tính.
* Thị Nở từ chối Chí Phèo
Tác phẩm thể hiện nghệ thuật viết văn già dặn của Nam Cao. Giọng điệu của người kể chuyện khách quan, lạnh lùng. Xây dựng thành công nhân vật điển hình. Ngòi bút miêu tả tâm lí sắc sảo.
⇒ Nội dung phong phú, tư tưởng nhân đạo mới mẻ, nghệ thuật đặc sắc, tác phẩm xứng đáng là một kiệt tác của nhà văn.
ĐỀ: Bi kịch lớn nhất của Chí Phèo được thể hiện trong tác phẩm
Gợi ý làm bài
Các em có thể tham khảo gợi ý dưới đây:
“Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán 1930-1945. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam. Để dễ dàng trả lời được các câu hỏi trong SGK cũng như nắm được những nội dung kiến thức về bài học, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Chí Phèo.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Bi kịch Chí Phèo là bi kịch của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, bị cự tuyệt quyền làm người, hay nói một cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm người mà không thể được Nam Cao đã viết về tấn bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vô cùng sắc sảo: biến hóa lúc kể, lúc tả, triết lí thì thấm thía, trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật, làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỉ nay. Để dễ dàn lập được dàn ý và biết bài văn hoàn chỉnh về tác phẩm này, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- So sánh sự thức tỉnh của nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ và nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên
- Phân tích hình ảnh làng Vũ Đại trong truyện Chí Phèo
- Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo
- Ý nghĩa bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
- Phân tích tiếng chửi của Chí Phèo
- Cảm nhận về câu nói của bà cô Thị Nở trong truyện Chí Phèo
- Cảm nhận về tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở
- Phân tích hình ảnh cái lò gạch cũ trong truyện Chí Phèo
- Phân tích ba lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến
- Ý nghĩa cái chết của hai nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến
- Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở
- Bình giảng về tiếng chửi của Chí Phèo
- Phân tích ý nghĩa bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo
- Dàn ý So sánh hai câu nói của hai nhân vật Chí Phèo và Trương Ba
- Dàn ý liên hệ bi kịch nhân vật Trương Ba và Chí Phèo
- Giá trị nhân đạo trong Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ
- Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Giá trị nghệ thuật trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Quá trình tha hóa của Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Phân tích và chứng minh Hai câu nói cuối cùng của nhân vật Chí Phèo đã bộc lộ rõ chủ đề của tác phẩm
- Phân tích nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
- Cảm nhận về giọt nước mắt của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
- Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở
- Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo qua truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Bi kịch của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao
- Phân tích tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
- Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo
- Phân tích hành trình cuộc đời nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao
- Phân tích nhân vật Chí Phèo để làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
- Phân tích nhân vật Chí Phèo trong Chí Phèo của Nam Cao
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo.
Câu trả lời của bạn
Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, mới mẻ, vừa độc đáo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Trong đó, Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi VN hiện đại của nhà văn Nam Cao viết vào năm 1941. Truyện kể lại cuộc đời của một người dân cùng khổ tên là Chí Phèo. Chí Phèo là biểu hiện sống động của bi kịch sinh ra là người mà k được làm người. Để quên đi số phận bất hạnh của mình, Chí Phèo vùi đầu vào rượu, say triền miên và sống kiếp sống mù tối của thú vật. Những tưởng hẳn chỉ có thể sống một cuộc đời như thế, nhưng k, Chí Phèo đã thật sự có thể hồi sinh sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Chúng ta không thể, không cảm động trước quá trình hồi sinh trong cuộc đời của Chí Phèo - một người tưởng đã là một con quỷ dữ của làng Vũ Đại
Chí Phèo, nguyên là một đứa con hoang, bị bỏ rơi nơi lò gạch cũ khi vừa mới lọt lòng, vốn là người nông dân hiền lành, lương thiện nhưng đã bị xã hội phong kiến bóc lột, đè nén, áp bức trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”. Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù, biến Chí từ một người nông dân hiền lành trở thành một thằng lưu manh và trở thành tên tay sai đắc lực cho bọn cường hào trong làng. Chí gần như sống trong vô thức, Chí bị xã hội ruồng bỏ, bị cướp mất quyền làm người, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Và cứ thế Chí Phèo say triền miên. Say để quên đi quyền làm người, say để làm những việc mà người ta giao cho hắn làm, đốt phá, cướp giật, doạ nạt… của bao người dân lương thiện. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, thức dậy hãy còn say… Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời.
Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó. nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Ông đã soi rọi ánh sáng của ty thương vào tận đáy tâm hồn đen tối của con quỷ dữ làng Vũ Đại. Trong một đêm say, hắn tình cờ gặp Thị Nở - người đàn bà dở hơi xấu xí, và quá lứa lỡ thì. Thị Nở đi qua vườn nhà Chí và ngủ quên trong vườn nhà hắn vào một đêm trăng mát rười rượi. Còn Chí Phèo thì vừa uống rượu ở nhà tự Lãng về, muốn ra sông tắm, vô tình hắn gặp thị ở đó. Đêm hôm ấy, họ ăn nằm với nhau, sự chung đụng ấy hoàn toàn ngẫu nhiên, mang tính bản năng của người đàn ông trong cơn say. Những phẩm chất của người nông dân lao động tiềm tàng sâu trong con người hắn bất chợt được khơi dậy. Chút tình thương mộc mạc, tự nhiên cộng với sự quan tâm chăm sóc giản dị của Thị Nở - người con gái xấu xí ''ma chê quỷ hờn'' đã đánh thức lương tri trong Chí, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người hắn. Chính nhờ cuộc gặp gỡ đó, đã thức tỉnh phần người trong Chí, giúp Chí cởi bỏ cái vỏ quỉ dữ để sống lại làm người, khao khát hoàn lương, lương thiện. Suốt 5 ngày đêm cả hai đều chìm đắm trong men say của tình yêu.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật. Tỉnh rượu, Chí thấy lòng chợt bâng khuâng ''mơ hồ buồn''. Những lần trước, mỗi khi tỉnh rượu, hắn lại uống, vì thế say kế tiếp say. Còn lần này, Chí Phèo tỉnh rượu với trạng thái khác hẳn “người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc; hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu như những người ốm sợ cơm”. Đó là điều rất lạ ở Chí, sau bao năm, lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy, chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe thấy mọi âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về… Những âm thanh quen thuộc ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay Chí mới cảm nhận và nghe thấy, vì hôm nay Chí đã hết say. Phải chăng, những âm thanh ấy chính là tiếng gọi náo nức, thiết tha, tiếng gọi thôi thúc của cs đã vang lên rộn ràng trong tâm hồn vừa được khơi dậy của Chí... Sau đó Chí tỉnh ngộ, nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Hơn hết, cái ước mơ bình dị ngày nào ''có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm..'' bỗng dưng trở lại với Chí. Chí đã tỉnh rượu và thức tỉnh về tỉnh cảm và nhận thức. Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, và cơ thể thì đã “hư hỏng nhiều”. Tương lai đối với hắn, còn đáng buồn hơn, không chỉ buồn mà còn lo sợ, bởi hắn đã trông thấy trước “tuổi già, đói rét và ốm đau” và nhất là “cô độc”. Sau những tháng ngày sống gần như vô thức, Chí đã tỉnh táo và suy nghĩ về cuộc đời mình, triền miên trong suy nghĩ và xúc động. Như vậy, với sự trở lại của lí trí và nhận thức về chính mình, cùng những tình cảm, cảm xúc của một con người, Chí đang thức tỉnh một cách toàn diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người. Ngòi bút Nam Cao ở đây thật ấm áp, thể hiện từng biểu hiện của sự thức tỉnh ở Chí Phèo. Ông thật sự rất yêu quý những người lao động chân chính. Vì hoàn cảnh mà họ bị đẩy vào con đường tội lỗi. Nhưng ngay cả khi bị cuộc đời làm biến dạng nhân hình và làm méo mó nhân tính thì Nam Cam vẫn nhìn thấy vẻ đẹp trong sáng luôn tiềm ẩn trong con người họ. Họ chỉ cần găp điều kiện thuận lợi thì phần người sẽ bừng dậy một cách mạnh mẽ.
Đúng lúc ấy thì Thị Nở đã bưng đến cho Chí Phèo bát cháo hành đang nghi ngút khói. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Việc làm này của thị khiến hắn từ ''hết sức ngạc nhiên'' đến xúc động ''thấy mắt mình như ươn ướt'' bởi vì một lẽ hết sức đơn giản “lần đầu tiên hắn được người ta cho… xưa nay nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà''. Hắn còn cảm nhận về hương vị cháo hành, nó thơm và ngon lắm. Thị Nở còn cảm nhận thấy hắn rất hiền. Dưới ánh sáng của ty, thị Nở bỗng trở thành một người đàn bà có duyên, cx biết lườm yêu, biết e lệ, biết ''ngượng ngùng mà thinh thích khi nghe 2 tiếng ''vợ chồng''. Bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy của thị khiến Chí “ăn năn”. Trái tim tưởng chừng như chai đá của Chí Phèo đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong hắn cũng hồi sinh. Chí đã sống đúng với con người thật của mình, trở lại nguyên hình của anh canh điền ngày xưa. Tiếp đến, tâm trạng Chí đi từ xúc động đến ăn năn, hồi tỉnh. Ty của Thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao.. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được''. Cùng với mong ước được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. Và hắn nói “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Lúc này nội tâm của Chí đã bừng tỉnh, lương tri của hắn đã trỗi dậy mà thôi thúc tình cảm hắn. Hắn thật sự muốn ''thế này'' đó là muốn được ăn cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với thị… được như thế thì “thích nhỉ'' là sung sướng, hạnh phúc nào bằng. “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc, câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với thị Nở-một lời cầu hôn rất canh điền, chất phác, giản dị. Hắn muốn sống như một con người đúng nghĩa, khao khát được trở lại với cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với dân làng Vũ Đại. Chí Phèo bâng khuâng, háo hức nghĩ tới một tương lai tốt đẹp
Chính tình người của Thị Nở đã thức tỉnh hồi sinh tình người trong Chí Phèo, thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào! Phát hiện và miêu tả quá trình thức tỉnh của Chí Phèo là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực thể, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo hiện nên ý nghĩa của sự hồi sinh là sự khẳng định sức sống của thiên lương, của lòng lương thiện
Quá trình hồi sinh của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đoạn văn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Nhà văn đã cảm thông sâu sắc với bi kịch của người nông dân và khẳng định sức sống bất diệt của thiên lương. Lương thiện, khát khao hạnh phúc là bản tính tự nhiên, tốt đẹp và mạnh mẽ của con người. Không thế lực nào có thể hủy diệt. Từ đó, nhà văn kêu gọi mọi người hãy luôn tin vào con người, tin vào bản chất tốt đẹp của mỗi người và cùng nhau xây đắp phần Người trong mỗi con người để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Nêu chi tiết về hình tượng Bá Kiến trong bài Chí Phèo.
Câu trả lời của bạn
Nam Cao có phần đã dựa vào những người thật việc thật ở quê hương mình để xây dựng truyện ngắn Chí Phèo.
Đại diện cho giai cấp thông trị ở làng Vũ Đại chính là bá Kiến. Qua nhân vật này, bộ mặt xấu xa tàn bạo của bọn cường hào, địa chủ bị phơi bày rất rõ nét.
Không giống một số nhân vật địa chủ trong những tác phẩm khác của Nam Cao, ở Chí Phèo, bá Kiến hiện lên với tư cách là một nhân vật điển hình hoàn chỉnh.
Khi xây dựng nhân vật địa chủ nghị Quế keo kiệt, thô lỗ; Ngô Tất Tố đã miêu tả khá tỉ mỉ gia cảnh, rồi kể đến những hành động và ngôn ngừ của hắn trong Tắt đèn. Nhưng đối với bá Kiến, Nam Cao không hề tả diện mạo, chỉ nói đến tiêng quát “rất sang” và “cái cười Tào Tháo” mà y vẫn tự phụ hơn đời. Đơn sơ vài chi tiết nhưng nhà văn tạo cho bá Kiến bề ngoài khá độc đáo, khiến người đọc khó quên. Tuy vậy, nhân vật này trở thành sống động cơ bản còn do tài miêu tả nội tâm sắc sảo, chân thật của tác giả.
Nhà văn để cho bá Kiến xuất hiện lần đầu tiên trước đọc giả đúng lúc Chí Phèo say rượu, đến cổng nhà hắn rạch mặt, kêu làng ăn vạ. Cảnh tượng thật hỗn loạn, huyên náo. Vừa thấy Chí Phèo “nằm dài, không nhúc nhích rên khẽ như gần chết”, “thoáng nhìn qua", bá Kiến “đã hiểu cơ sự”; hắn nhanh chóng tìm ra được kế sách thích hợp nhất để ứng phó. Với sự từng trải, cụ biết rõ tác hại của đám đông này. Bố con bá Kiến thêm mất mặt, nếu để dân làng chứng kiến hành động thô tục của Chí Phèo. Hắn cũng thừa biết tâm lí của thằng “đầu bò”, đám đông kia chính là hậu thuẫn kích thích để nó hung hăng hơn. Và, cũng cần phải có ít nhiều thời gian để Chí Phèo giã rượu, đỡ táo tợn. Vả lại, trước đám đông người, bá Kiến khó có thể diễn thành công mánh khóe, mua chuộc, dụ dỗ. Muốn dụ dỗ, ắt phải nhún nhường. Đường đường là một cụ bá hét ra lửa, mà để đám dân đen chứng kiến cảnh phải ngọt nhạt với một thằng cùng đinh, thì còn ra thể thông gì? Bởi vậy, việc đầu tiên, bá Kiên tìm cách giải tán đám đông, trước hết, hắn “quát mấy bà vợ”, và đuổi họ vào nhà. Chắc những người “tuôn đến xem” nghe tiếng quát “rất sang” này đủ hiểu: cụ muôn đuổi khéo mình. Tiếp theo “quay sang bọn người làng”, bá Kiến dịu giọng hơn một chút “cả các ông các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?”. Đến đây, tất nhiên, “không ai nói gì, người ta lảng dần di”. Cho dù vừa tò mò, vừa hả hê, nhưng họ vẫn nể, vẫn sợ cụ bá. Vả lại, ngay vợ của cụ cũng phải giở giọng đường mật, gọi đầy tớ cũ của mình, nay như đã biến thành con vật gớm ghiếc bằng “anh”, vồn vã mời Chí Phèo “vào nhà uống nước”. Chưa đủ, cụ “tiên chí làng Vũ Đại”, “khét tiếng trong hàng huyện”, còn nhận có họ hàng với anh cùng đi này “rồi giết gà mua rượu cho hắn uống, xong lại đãi thêm đồng bạc để về uống thuốc..”. Chỉ cần Chí Phèo ngồi lên, bá Kiến biết là đã thắng. Tuy vậy, cụ vẫn quát mắng lí Cường, sau khi đã “đưa mắt nháy con một cái”.
Với cách cư xử như trên, chứng tỏ bá Kiến đã đi ruốc vào bụng dạ Chí Phèo lúc này: ưa phỉnh nịnh, ham cái lợi trước mắt... Rốt cuộc, bá Kiến “khôn róc đời” đạt được cả hai mục đích: vừa tạm dập tắt ngọn lửa hờn căm trong con người Chí Phèo, vừa chuẩn bị biến Chí Phèo thành tay sai lợi hại. Như vậy, qua một tình huống, cái xảo quyệt lọc lõi của tôn cường hào này được thể hiện một cách sinh động.
Già đời đục khoét đè đầu cưỡi cổ nông dân, cụ bá đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm phong phú, trong “cái nghề làm việc quan”. Phải biết “thế nào là mềm nắn rắn buông”. Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì vứt trả lại năm hào, “vi thương anh túng quá!”. Cụ có không ít thủ đoạn thâm hiểm “trị không được thì cụ dùng”. “Cụ nghĩ bụng: cũng phải có những thằng đầu bò chứ? Không có những thằng đầu bò thì lấy ai trị những thằng đầu bò?”. Cái nham hiểm ghê tởm của nhân vật này là ở chỗ tìm cách cho lũ đàn em, hoặc đám dân làng “sinh chuyện”- tức là đốt phá, chém giết lẫn nhau, để hắn “có dịp mà ăn!”
Bá Kiến đã vận dụng triệt để những kinh nghiệm đó để biến Chí Phèo - một thanh niên chất phác, tự trọng và khỏe mạnh thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”, sẵn sàng theo lệnh hắn để đi đâm chém., rồi phải kết liễu cuộc đời mình một cách thảm khốc. Rõ ràng, bi kịch của Chí Phèo đã góp phần quan trọng hoàn thiện chân dung gian hùng của bá Kiến.
Bên cạnh việc khắc họa sinh động sâu sắc bản chất lọc lõi, xảo quyệt. Nam Cao vạch trần nhân cách bỉ ổi của “tiên chỉ làng Vũ Đại”, trong những mối quan hệ kín đáo. Và Nam Cao tài năng là ở chỗ: khi cần đặc tả sự lợi dụng đê tiện và thói dâm ô vô độ của tên cường hào này, ông đã bỏ qua nhiều chi tiết rất phong phú, rất cụ thể và sinh động của nguyên mẫu. Lí Bính ở làng Đại Hoàng. Ngay cái việc gỡ gạc của cụ lí đối với người đàn bà vắng chồng và có tiền, lẫn máu ghen tuông của hắn cũng chỉ được lướt qua. Tác giả để có mấy dòng tả ý nghĩ cụ bá về người vợ trẻ và đẹp... nhưng vẫn đủ sức khắc sâu trong người đọc một nhân cách bỉ ổi và thảm hại.
Như vậy, bá Kiến vừa mang bản chất chung của giai cấp địa chủ cường hào, vừa có những nét riêng biệt sinh động không giông bất kì một tên địa chủ nào trong văn học. Điều đó giải thích vì sao hắn luôn được chúng ta nhắc đến, khi cần ám chỉ một kẻ có quyền lực, gian hùng và nham hiểm.
Bằng nhân vật bá Kiến, Nam Cao đã ghi nhận những thành công mới mẻ trong việc xây dựng nhân vật. Điều này chứng tỏ sự tiến bộ đáng kể của Nam Cao nói riêng phương pháp sáng tác hiện thực ở giai đoạn 1939 - 1945 nói chung.
Phân tích nhân vật Chí Phèo và 3 lần Chí đến nhà Bá Kiến trong truyện Chí Phèo.
Câu trả lời của bạn
Chí Phèo là sự hình thành của những mối xung đột giai cấp, đặc biệt là giai cấp thống trị và bị trị, những mối xung đột xuyên suốt tác phẩm tạo thành mạch chảy chính trong nội dung. Chí Phèo với ba lần đến nhà bá Kiến là thể hiện tài nghệ bậc thầy của Nam Cao trong việc tổ chức các mối xung đột, là tấm lòng của Nam Cao với những người nông dân bị tha hoá, lưu manh hoá trong xã hội ấy – nhà văn của tình thương lớn.
Mối xung đột ấy tập trung thể hiện giữa hai tuyến nhân vật Chí Phèo – bá Kiến. Mối xung đột đi theo mạch ngầm, dai dẳng. Từ lâu rồi dường như mối quan hệ giữa Chí Phèo và bá Kiến là mối quan hệ phụ thuộc, gắn bó. Từ khi Chí Phèo còn là anh canh điền khoẻ mạnh làm thuê cho gia đình bá Kiến, là kẻ tôi tớ mang nguồn gốc họ hàng với bá Kiến. Sự khăng khít ấy là bước đệm cho Chí Phèo tìm đến nhà bá Kiến lần đầu, đối với Chí Phèo thì con đường đến nhà bá Kiến đã quá đỗi thân quen với hắn. Con đường mòn ấy đi vào trong trí nhớ hắn từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành như con đường của sự phụ thuộc. Lần này ngay sau khi từ tù ra, nơi hắn tìm đến đầu tiên tất nhiên là nhà bá Kiến, kẻ đã ngấm ngầm đẩy hắn vào tù tội, nhơ bẩn, phó mặc hắn cho những tội ác thực dân và biến hắn thành kẻ lưu manh tha hoá. Sự tìm đến để trả thù là động cơ tất yếu của Chí Phèo. Hắn đem cuộc đời hắn đánh cuộc với số phận, thách thức với người đứng đầu làng Vũ Đại.
Những năm tháng tù tội, bản chất lưu manh hận thù khiến hắn sắt đá và liều lĩnh. Màn trả thù của hắn diễn ra ở hai cảnh: phủi và rạch mặt ăn vạ. Tiếng chửi của thằng Chí, tiếng chửi chua ngoa cứ quất thẳng vào mặt ông bá. Hắn cóc sợ đời khi đối chọi với người đứng đầu làng Vũ Đại. Hắn thù và men rượu đã cho hắn thêm cái gan liều lĩnh của ông Trời. Nhưng việc chửi ấy thành ra là không hiệu quả khi ông bá thì đi vắng mà chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu. Đâm ra là hắn phải rạch mặt ăn vạ. Hắn tự hành hạ bản thân để đối phó với ông bá. Nghe thử mà xem những tiếng ăn vạ nghe đến xé ruột ầm. ĩ làng xóm của hắn: “Ôi làng nước ôi. Cứu tôi với… Ôi làng nước ôi…! Bố con thằng Kiến nó đâm chết tôi! ”. Người đọc tưởng chừng như xung đột lên đến đỉnh điểm, cao trào thì sự xuất hiện và cái uy của ông bá làm màn kịch lắng xuống và xung đột, mâu thuẫn được giải quyết ổn thoả. Ông bá đã xoay chuyển tình thế một cách nhanh chóng bằng cái đầu óc cáo già, khôn róc đời, bằng tiếng cười, tiếng quát của mình.
Sự xoay chuyển mâu thuẫn, xung đột ấy đã tạo cho cốt truyện sự bất ngờ, độc đáo và ly kỳ. Nam Cao đã thể hiện cái nhìn tinh tế, sâu sắc của một nhà văn bậc thầy. Ông đưa mâu thuẫn lên đỉnh điểm rồi lại hạ nó xuống thành các mạch xung đột ngấm ngầm ngày càng gay gắt và mạnh mẽ hơn. Nam Cao đã để cho bá Kiến khoác lên mình Chí Phèo một cái danh hão của họ hàng để xung đột lắng xuống một cách êm đẹp, ổn thoả. Nhưng sự nhận họ nhận hàng ấy không giấu nổi cái lai lịch bất minh của Chí Phèo mà chỉ càng làm thêm nhơ nhuốc, đen tối. Chí Phèo với lần thứ nhất đến nhà bá Kiến trả thù nhưng kết quả hắn đạt được lại hoàn toàn trái ngược. Hắn được cái danh họ hàng với ông bá, được ông tiếp đón ân cần, được ông cho tiền uống rượu. Ấy là quá sức tưởng tượng với hắn. Những cái lợi trước mắt làm mờ mắt hắn, làm hắn không nhận ra kẻ thù trực tiếp của cuộc đời hắn mà ngoan ngoãn nghe theo lời bá Kiến, ra về trong niềm tự hào, kiêu hãnh. Chí Phèo đến nhà bá Kiến lần thứ nhất và kết quả của nó là sự tất yếu khi Chí Phèo tìm đến nhà bá Kiến lần thứ hai. Lần này hắn đến với động cơ hoàn toàn khác. Đến để xin được đi ở tù. Cuộc sống làng Vũ Đại đối với hắn còn khắc nghiệt hơn những năm tháng hắn đi ở tù. “Đi ở tù còn có cơm mà ăn, bây giờ về làng về nước một thước cắm dùi không có, chả làm gì lên ăn”. Câu nói say khướt của Chí Phèo gợi trong lòng bạn đọc nhiều suy ngẫm. Nhìn cả về một xã hội thối nát bất công thì sự sống con người nhỏ nhoi mỏng manh. Nơi đây, nơi làng Vũ Đại xã hội phong kiến nửa thực dân thu nhỏ này thì cuộc sống của con người lương thiện bị bóp nghẹt. Họ bị dồn vào bước đường cùng, bước đường tha hóa.
Cái nghịch lý “đi ở tù” của Chí Phèo tưởng chừng như vô lý nhưng lại rất xác thực với cuộc đời hắn. Lần này Chí Phèo tìm lại đến bá Kiến với giọng điệu hoàn toàn khác. Lối xưng con – cụ của hắn sao mà ngọt xớt vậy. Hắn đang dần tìm đến con đường tha hóa, dần thành tay sai cụ bá. Cụ bá bằng sự mưu mẹo, gian ngoa của bè lũ thống trị đã nhanh chóng xoay mũi dao của Chí Phèo sang phe cánh đối lập. Đấy là khi cụ áp dụng cái cách trị người, cụ để chúng tự xử lẫn nhau, ở giữa mà hưởng lợi. Cụ bá đã thể hiện đầy đủ bản chất của bè lũ thống trị phong kiến nham hiểm, gian ngoa, độc ác, mưu mẹo. Thế mà Chí Phèo với bản chất ngu dốt của người nông dân không nhận ra thủ đoạn của lão cáo già mà răm rắp làm theo. Kết quả mà hắn thu được từ lần thứ hai này là sự chiến thắng đầy hoan hỉ trước đội Tảo, một phe cánh hùng mạnh có thế lực trong cái làng Vũ Đại này. Chí Phèo còn giương giương tự đắc “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng tao”, khi Chí Phèo hoan hỉ nhất cũng chính là lúc hắn rơi vào nơi sâu nhất của con đường tha hoá, con đường không lối thoát. Lần thứ hai Chí Phèo đến nhà bá Kiến đã hoàn thiện con đường tha hoá của hắn, đã biến hắn thành tay sai đắc lực của bá Kiến. Chí Phèo đã trao nốt phần cuộc đời tha hoá của mình vào tay con quỷ bá Kiến. Cuộc đời hắn thế là chấm dứt không lối thoát.
Lần thứ ba Chí Phèo đến nhà bá Kiến là bước ngoặt quan trọng đỉnh điểm cho ba bận Chí Phèo đến nhà bá Kiến. Lần này hắn tìm đến nhà bá Kiến là để nó cự tuyệt. Vẫn con đường quen thuộc ấy, những bước chân hắn sao vẫn tự lần mò tìm đến với bá
Kiến trong sự thức tỉnh. Hắn đã nhận ra kẻ thù lớn nhất của cuộc đời mình là bá Kiến. Động cơ Chí Phèo đến nhà bá Kiến khác hoàn toàn so với hai lần trước. Lần này hắn ‘đến để đòi hỏi lương thiện. Sự khát khao quyền sống lương thiện, bi, kịch trong cự tuyệt quyền làm người đã dẫn lối cho hắn đến với bá Kiến. Rút dao xông vào, hận thù trong hắn đã bùng phát tiếp sức cho hắn xông thẳng vào kẻ thù “Chỉ có một cách… biết không!… Chỉ còn một cách là… cái này! Biết không!… ” Kết quả của lần ba này là cái chết của Chí Phèo và bá Kiến. Nam Cao dẫn xung đột đi từ cái mạch ngấm ngầm đến đỉnh điểm là hai cái chết. Đây là hai cái chết tất yếu. Cái chết của bá Kiến – cái ác phải đền tội, ác giả ác báo. Cái chết của bá Kiến đánh dấu sức mạnh của người nông dân trong quá trình đấu tranh với giai cấp thống trị. Còn cái chết của Chí Phèo là sự chấm dứt chuỗi đời bi kịch, kết thúc số phận đau khổ bế tắc của người nông dân, đồng thời cái chết của Chí Phèo thể hiện niềm tin của Nam Cao vào con người. Sự chiến thắng tư tưởng nhân văn Nam Cao. Những tưởng người nông dân lệ thuộc vào giai cấp thống trị nhưng hai cái chết đã phủ định hoàn toàn.
Nam Cao bằng ngòi bút tổ chức xung đột bậc thầy đã thể hiện mối xung đột giữa giai cấp thống trị và bị trị theo một mạch ngầm dẫn đến đỉnh điểm. Nam Cao với ba lần Chí Phèo đến nhà bá Kiến đã thể hiện tài năng và tình cảm của nhà văn lớn.
Phân tích chi tiết bát cháo hành của Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao.
Câu trả lời của bạn
Hẳn ai cũng biết bát cháo hành huyền thoại trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao. Một bát cháo nghĩa tình, hay cũng có thể gọi là món quà của tình yêu giữa Chí Phèo và Thị Nở. Một bát cháo rất giản đơn nhưng chất chứa bao ý nghĩa sâu sắc mà nhà văn Nam Cao đã gửi gắm vào. Ông đã dựng nên một thước phim quay chậm về thảm cảnh bi thương của xã hội phong kiến thời bấy giờ.
Ở đó, có Chí Phèo là đại diện cho những người nông dân nghèo khó bị xã hội ruồng rẫy đến mức tha hóa nhân cách, còn Bá Kiến đại diện cho thế lực cầm quyền tác ác bất nhân đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng. Khiến họ không còn là chính mình nữa. Nhưng trong nỗi đau bao giờ cũng ánh lên những nỗi niềm khát khao cháy bỏng, chi tiết bát cháo hành của Thị Nở chính là tia hy vọng sáng ngời cho cuộc đời đầy tăm tối của Chí, là cứu cánh cho những bước chân Chí đang lầy lội giữa vũng bùn hôi tanh của xã hội phong kiến.
Có thể nói, bát cháo hành ấy giống như một liều thuốc thần kỳ giải rượu cho Chí sau một cơn say dài dằng dặc. Cả một cuộc đời hơn bồn mươi năm, lần đầu tiên Chí được ăn cháo hành, lần đầu tiên được người khác cho một thứ. Bởi từ trước tới giờ Chí toàn phải cướp giật, dọa nạt mới có được những thứ mình muốn chứ chẳng bao giờ Chí được ai cho cái gì. Chí bị xã hội ruồng rẫy, bị tước đoạt quyền làm người, những tiếng chửi của Chí chẳng ai thèm để ý.
Nhưng tiếng chửi ấy lại khiến người đọc chạnh lòng và rơm rớm nước mắt khi Chí chửi mẹ cha đứa nào đẻ ra hắn để hắn phải sống một cuộc đời như thế này. Được sinh ra làm người là một diễm phúc lớn lao. Chí cũng vậy, nhưng tại sao Chí lại không được sống kiếp của một con người? Chí trở thành một con quỷ, nhưng là một con quỷ đáng khinh chứ không đáng sợ. Điều gì đã khiến Chí trở nên như vậy?
Giữa những lầy lội, những bê bối đang ngập tràn cuộc đời, Chí lại gặp Thị Nở. Chính lúc rơi vào hố sâu của lầm lỗi, của bi thương, thị lại ban cho Chí một ân huệ vô cùng lớn lao. Một bát cháo hành tuy nhỏ bé nhưng chân chất nghĩa tình. Một cháo hành rất bình thường như bao bát cháo khác, cũng chỉ có gạo và hành, nhưng nó đặc biệt vì được nấu lên từ tình thương chân thân của một người đàn bà dở hơi, xấu xí, xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn. Và cũng giống như Chí, cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm để ý đến thị.
Nhưng thị may mắn hơn là vẫn được mọi người nhìn nhận là một con người. Thị và Chí gặp nhau trong một đêm trăng sáng, khi Chí đang ngà ngà say. Họ lao vào nhau như một tiếng sét ái tình, như một lẽ thường tình tự nhiên. Sau đêm ấy, thị trở nên thương hắn, yêu hắn. Và hắn cũng thế. Thị chăm sóc Chí như một người vợ thực sự săn sóc cho chồng lúc ốm đau. Bát cháo của thị khiến lòng Chí rung động. Hương vị ngon lành của cháo hành đã vực dậy Chí sau những cơn say dài triền miên, đã kéo Chí từ cái đáy của vực thẳm trở về bên bến bờ đầy hy vọng. Thị chính là cánh cửa để Chí quay trở về làm người lương thiện. Cháo hành thơm và nóng khiến Chí thức tỉnh và sống lại với ước mơ của mình.
Ước mơ thật đơn sơ. Chí ước có được một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn. Vợ dệt vải. Khá giả mua thêm mấy sào ruộng làm ăn. Đây cũng là niềm mơ ước lớn lao của biết bao nhiêu người khác cùng thời với Chí. Nhưng xã hội nhiều bon chen quá, Chí chưa kịp thực hiện được hoài bão của mình thì đã bị nhấn chìm trong khổ đau, trong lầm lỗi. Giờ đây, bàn tay thị sẽ kéo Chí trở về, sẽ dìu Chí dậy. Những hương vị của cuộc sống theo mùi thơm của cháo hành quay trở về bên Chí. Chí cảm nhận được tiếng chim hót líu lo, tiếng mái chèo gõ cá, tiếng người đi chợ vải nói chuyện với nhau… Những thứ rất quen thuộc ngày nào cũng có nhưng vì say nên Chí không nhận ra.
Nay được thị mở lòng đón nhận, Chí quyết tâm trở lại làm người. Chí thèm được ăn những bát hành thêm nữa, thèm được làm người lương thiện. Nhìn Chí ngồi ăn cháo hành, không ai bảo hắn là kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ, chuyên đâm thuê chém mướn. Đây mới chính là con người thực sự của Chí. Hiền lành, tốt tính. Chỉ tiếc rằng, thị không đủ tỉnh táo để nấu cho Chí những bát cháo hành tiếp theo. Và Chí cũng không đủ mạnh để đứng lên làm lại từ đầu mặc dù lòng Chí đang khát khao lắm. Chí còn rủ thị sang ở cùng cho vui, cho kết thúc những ngày tháng say sưa triền miên, cho những vết sẹo trên mặt Chí mờ dần, mờ dần. Nhưng bi kịch lại một lần nữa đến với Chí. Hơi cháo hành còn chưa dứt thì thị đã quay lưng lại với Chí.
Trong cơn tuyệt vọng, men rượu lẫn mùi cháo thoang thoảng hòa quyện vào nhau. Đúng tâm trạng của một kẻ thất tình. Thị kéo Chí dậy nhưng chính thị cũng lại đẩy ngã Chí. Nhưng lần này, Chí không lún sâu vào vũng bùn ô uế như trước nữa. Chí đi thẳng tới nhà Bá Kiến để giết chết hắn, rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Chí nhận ra rằng chỉ có chết mới có thể giúp mình trở lại làm người lương thiện.
Như vậy, bát cháo hành của thị đã cứu Chí khỏi những ngày tháng tối tăm. Chí chết nhưng chết để được sống. Chết để không còn bị dân làng coi khinh nữa. Bát cháo ấy cũng chính là lời ca ngợi, là niềm hy vọng mà Nam Cao đã gửi gắm vào. Ca ngợi tấm lòng lương thiện của một người đàn bà xấu xí, dở hơi. Thị càng xấu thì tâm hồn thị càng sáng. Hơn nữa, Nam Cao cố tình dành cho Thị những chi tiết xấu nhất là để làm đòn bẩy cho tình thương nơi thị được tỏa sáng.
Và hình ảnh bát cháo hành chính là hiện vật cụ thể của tình thương ấy. Cả làng Vũ Đại, chỉ có duy nhất một mình thị nhìn nhận Chí. Nhưng bi kịch vẫn chưa buông tha cho Chí. Và Chí đã tự kết thúc bi kịch cho đời mình bằng cái chết. Chết cho những lỗi lầm, chết cho những ước mơ không bao giờ còn thực hiện được nữa. Và chết vì dẫu sao, cả đời Chí cũng đã được thưởng thức một bát cháo hành, được săn sóc tận tình từ bàn tay của một người đàn bà với tấm lòng chân thật và trong sáng.
Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở.
Câu trả lời của bạn
Nam Cao là cây bút vàng trong làng truyện ngắn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Một trong hai đề tài quen thuộc và nổi tiếng của ông đó là hình ảnh người nông dân bị bần cùng hoá, lưu manh hoá. Chí Phèo của Nam Cao là một kiệt tác trong văn xuôi hiện đại được viết vào năm 1941. Truyện là một chuỗi những bi kịch của cuộc đời Chí Phèo, như nổi trong đó là quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch cự tuyệt của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đoạn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm đáng được nhắc đến.
Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi không cha không mẹ được một ông đổ ống lươn nhặt ở lò gạch về rồi được dân làng nuôi lớn. Lớn lên, Chí vốn là người nông dân hiền lành, lương thiện nhưng đã bị xã hội phong kiến bóc lột, đè nén, áp bức trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”.
Chính Bá Kiến vì những ghen tuông mù quáng đã đẩy một anh Chí vô tội vào tù, biến Chí từ một người nông dân hiền lành trở thành một thằng lưu manh, thành tay sai đắc lực cho hắn. Lúc ấy, anh bị xã hội ruồng bỏ, bị tước đi mất quyền làm người, bị mất đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Và cứ thế Chí Phèo triền miên trong những cơn say. Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời.
Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống triền miên trong những cơn say, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó. Nhưng bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo có cơ hội để làm lại cuộc đời, để trở lại là một anh Chí lương thiện một lần nữa. Ông đã đem tình thương chạm đến tận đáy trái tim cô độc khát khao yêu thương của con người là người ta vẫn gọi là “con quỷ dữ làng Vũ Đại” đó.
Trong một đêm say, hắn tình cờ gặp Thị Nở – người đàn bà dở hơi xấu xí và ế chồng. Đêm hôm ấy, họ ăn nằm với nhau như vợ chồng. Sự quan tâm chăm sóc mà Thị Nở dành cho hắn sau cái hôm ấy dương như đã đánh thức lương tri, đánh thức bản chất lương thiện vốn có đã ngủ quên từ lâu trong con người Chí. Chính là nhờ cuộc gặp gỡ ấy mà trong Chí đã khao khát được hoàn lương để có thể được sống như một con người.
Quá trình hồi sinh của con người trong Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở cho ta thấy khả năng phân tích tâm lý nhân vật xuất sắc của Nam Cao. Khi tỉnh rượu, Chí thấy lòng mình chợt bâng khuâng ”mơ hồ buồn”. Những lần trước, mỗi khi tỉnh rượu, hắn lại uống, vì thế say kế tiếp say. Còn lần này, Chí Phèo tỉnh rượu với trạng thái khác hẳn “người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình.
Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu như những người ốm sợ cơm”. Sau bao năm, lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Tỉnh rượu hay cũng chỉnh là con người đã ngủ quên trong Chí bao lâu nay đã tỉnh lại. Hắn chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, hắn nghe thấy mọi âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về…
Những âm thanh quen thuộc ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay chỉ hôm nay Chí mới cảm nhận và nghe thấy. Âm thanh ấy chính như tiếng gọi thiết tha, thôi thúc của cuộc sống vang lên trong tâm hồn vừa được khơi dậy của Chí… Chí nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Cái ước mơ bình dị ngày nào ”có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…” bỗng dưng trở lại với Chí.
Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”. Tương lai đối với hắn, còn đáng buồn hơn, hắn còn lo sợ bởi hắn đã trông thấy trước “tuổi già, đói rét và ốm đau” và nhất là “cô độc”, hắn sợ cô độc. Cứ như vậy, Chí dần lí trí và có nhận thức về chính mình, về cuộc đời mình. Chí đang thức tỉnh một cách toàn diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người.
Khi Chí đang chìm trong những miên man bất tận khi nghĩ về cuộc đời mình thì ngay lúc ấy thì Thị Nở bưng đến cho Chí Phèo bát cháo hành đang nghi ngút khói. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Việc làm này của thị khiến hắn từ ”hết sức ngạc nhiên” đến xúc động ”thấy mắt mình như ươn ướt” bởi vì một lẽ hết sức đơn giản “lần đầu tiên hắn được người ta cho…”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà”. Hắn còn cảm nhận về hương vị cháo hành, nó thơm và ngon lắm.
Còn Thị Nở, Thị thấy Chí rất hiền. Bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Phần người dường như đã ngủ quên trong hắn dần hồi sinh tỉnh dậy. Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy làm tâm trạng Chí đi từ xúc động đến ăn năn, hồi tỉnh. Tình yêu của Thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao.. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”.
Cùng với mong ước được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. Và hắn nói “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Lúc này nội tâm của Chí đã bừng tỉnh, lương tri của hắn đã trỗi dậy. Hắn thật sự muốn ”thế này”, muốn được ăn cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với thị.. “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc, câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với Thị Nở.
Chí muốn sống như một con người đúng nghĩa, khao khát đc trở lại với cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở chính là người mở ra cánh cửa hoàn lương cho cuộc đời của hắn. Chính tình người của Thị Nở đã thức tỉnh hồi sinh tình phần trong Chí Phèo, thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu tới mức nào. Phát hiện và miêu tả quá trình thức tỉnh của Chí Phèo là một thành công trong nghệ thuật sắc của Nam Cao. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực thể, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo hiện nên ý nghĩa của sự hồi sinh là sự khẳng định sức sống của thiện lương, của lòng lương thiện.
Nhưng, phũ phàng thay thay, cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt Chí Phèo. Những định kiến của bà cô Thị Nở hay cũng như thành kiến mà xã hội này dành cho hắn như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo dập tắt ngọn lửa hoàn lương vừa nhen nhóm lên trong Chí. Rồi cả Thị Nở, người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng” dướn cái môi vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng”. Một bi kịch trong một chuỗi nhưng bi kịch của cuộc đời anh Chí.
Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện, bị cự tuyệt quyền làm người, bị gạt bỏ ra khỏi xã hội loài người. Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Định kiến xã hội thông qua bà cô thị Nở không cho hắn hoàn lương.. Chí Phèo lại uống rượu trong nỗi tuyệt vọng, đau đớn tột cùng ”ôm mặt khóc rưng rức”.
Chí Phèo uống thật say, nhưng lần này không như mọi lần, càng say thì hắn lại càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Phẫn uất, tuyệt vọng Chí xách dao đi định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận trong vô thức Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hắn nhận ra ai mới là thủ phạm, ai mới là kẻ đẩy mình vào bước đường này. Không ai hết, đó chính là Bá Kiến.
Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người, đòi lương thiện ”Tao muốn làm người lương thiện!… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh vết chai trên mặt này?… Tao không thể làm người lương thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách… biết không!” Đó là những câu hỏi không lời giải đáp đầy cay đắng. Câu hỏi chất chứa nỗi đau đớn đầy phẫn uất của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân.
Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết sự bế tắc của số phận. Đó là sự thức tỉnh về quyền sống, không chấp nhận một cuộc sống của 1 con quỷ dữ nữa, anh muốn hoàn lương mà nhưng xã hội này không cho phép. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời tố cáo mãnh liệt cái xã hội vô nhân đạo, xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái chết ấy là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa làm lại cuộc đời.
Với hình tượng nhân vật Chí phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng, đó là bi kịch bị bần cùng hoá và lưu manh hoá cả người nông dân. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Tác phẩm mang nhiều ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo.
Tác phẩm Chí Phèo thông qua quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và sự bế tắc của những khát vọng của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Phân tích cuộc đời của Chí Phèo sau khi ra tù đến khi gặp Thị Nở.
Câu trả lời của bạn
Nam Cao là nhà văn của những người nông dân lao động. Bằng ngòi bút nhân đạo sâu sắc của mình ông sáng tạo nên truyện ngắn "Chí Phèo". Chí Phèo là hiện thân cho sự đau khổ khốn cùng của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Cuộc đời Chí là một chuỗi bi kịch bất hạnh, đặc biệt là thời gian sau khi ra tù đến khi gặp Thị Nở.
Chí Phèo là một đứa trẻ đáng thương với tuổi thơ đầy bất hạnh. Hắn không cha, không mẹ, không người thân thích, không tấc đất cắm dùi, bị bỏ rơi “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp” ở cái lò gạch cũ bỏ không. Chí bơ vơ, hết đi ở cho nhà này đến nhà khác nhưng được lớn lên trong sự yêu thương của những người dân nghèo. Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho nhà lí Kiến. Khi ấy, hắn là một anh canh điền khỏe mạnh, hiền lành như đất, làm việc chăm chỉ quần quật. Nhưng vì cơn ghen tuông vu vơ, vô lý, bá Kiến (khi ấy là lý) đẩy Chí vào tù.
Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào ác bá, tàn nhẫn nhào nặn, biến anh nông dân hiền lành, khỏe mạnh, lương thiện và tự trọng thành tên lưu manh hóa. Bảy tám năm sau, Chí rời khỏi nhà tù. Nhà tù thực dân đã làm méo mó đi nhân dạng của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Trở về làng Vũ Đại, người ta đã không nhận ra hình dạng con người của anh canh điền ngày ấy. Trước mắt họ chỉ là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế”.
Những người từng yêu thương nuôi nấng hắn lớn lên ngày xưa lại lựa chọn quay lưng với hắn hôm nay. Cả xã hội ruồng bỏ hắn. Tên tuổi hắn cũng không có trong sổ làng, người ta vẫn chỉ khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả mọi người đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Ngày nào hắn cũng chửi, nhưng ai cũng nghĩ “mặc thây cha nó” “chắc nó chừa mình ra”, ai cũng chẳng thèm nghe. Hắn khác nào “những người say rượu hát”. Sự xuất hiện của tiếng chửi cùng cái dáng “vừa đi vừa chửi” của Chí gây cho người đọc nỗi ám ảnh khôn nguôi về bi kịch của một người bị tha hóa đang gặm nhấm nỗi cô đơn tuyệt vọng. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn, chửi cả “ đứa nào đẻ ra chính hắn”. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. “Hắn thèm được người ta chửi, chửi hắn có nghĩa là còn công nhận hắn là người”. Thế nhưng hắn cứ chửi, đáp lại hắn chỉ là “sự im lặng đáng sợ”, “ chỉ có 3 con chó dữ với 1 thằng say rượu”. Ra tù, Chí hoàn toàn bị xã hội cự tuyệt quyền làm người một cách tuyệt đối.
Nhân hình méo mó biến dạng, nhân tính cũng tha hóa bởi nhà tù thực dân. Nhà tù thực dân bắt nhốt một anh canh điền hiền lành khỏe mạnh rồi trả về cho xã hội một kẻ lưu manh liều mạng. Chí xông thẳng đến nhà Bá Kiến, chửi “mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”, hắn đập vỡ vỏ chai, rạch mặt cho máu chảy rồi kêu trời ăn vạ. Chí Phèo hận Bá Kiến và hành động như một tên đầu bò ngang ngược trước cổng nhà lão ta. Nhưng Bá Kiến là người mưu mô xảo quyệt, chỉ bằng một bữa rượu, vài câu mơn trớn, vài đồng bạc đãi thêm Bá Kiến đã làm “Chí Phèo vô cùng hả hê”. Thậm chí, hắn còn mơ hồ về chuyện “có họ” với lý Cường. Sau đó, Chí lại dở trò lưu manh đốt quán mụ bán rượu, vác dao đến nhà cụ Bá xin đi ở tù "bẩm quả đi ở tù sướng quá!”.
Trong sáu ngày sau khi ra tù, hắn đến nhà Bá Kiến gây sự hai lần. Hắn không sợ hãi Bá Kiến mà dám nghiến răng hăm dọa: “con phải đâm chết vài ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”. Bá Kiến đâu phải kẻ địa chủ bình thường, thủ đoạn của hắn làm Chí nhanh chóng trở thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Chí đã bán linh hồn mình cho quỷ dữ, để rồi sau đó, chính hắn lại trở thành con quỷ dữ ghê tởm của làng Vũ Đại. Hắn dần chìm vào vũng bùn tăm tối, đầy tội ác. Ý niệm về thời gian mất dần, hắn không biết “đã dài bao nhiêu năm rồi”, hắn “ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?’’. Khuôn mặt Chí Phèo lúc bấy giờ giống như “cái mặt của con vật lạ” với bao nhiêu sẹo “vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai rạch mặt ăn vạ! Cuộc đời hắn dần dần chồng chất tội lỗi lẫn tội ác “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”; “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”. Hắn đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu, để đắm mình trong những cơn say từ ngày này qua ngày khác. Và bán đi linh hồn mình, biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Ngỡ rằng, Chí đã trượt dài trên con đường lưu manh hóa không cách nào quay lại. Nhưng, tấm lòng nhân đạo của Nam Cao vẫn phát hiện ra cái tiềm ẩn trong Chí, để cho Chí gặp Thị Nở và thức tỉnh lương tâm, linh hồn mình. Cuộc gặp gỡ vô tình với Thị Nở đã gây ra nhiều biến động trong tâm lý của Chí Phèo. Giữa ngã rẽ của sự thức tỉnh nhân tính, của khát khao được sống làm người bi kịch lại xuất hiện, cuộc đời Chí lại tiếp tục bước sang trang khác...
Có thể nói, quãng thời gian từ sau khi ra tù đến khi gặp Thị Nở là quãng thời gian đau khổ, đầy bi kịch của Chí Phèo. Với ngòi bút hiện thực xuất sắc, cách miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế và logic, Nam Cao đã khắc họa thành công nhân vật Chí Phèo - kẻ lưu manh tha hóa do tội ác của xã hội thực dân. Ngôn ngữ truyện đặc biệt tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để, nhưng mang đậm hơi thở đời sống, văn hoá đời sống. Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, đồng thời cũng là ngôn ngữ của nhân vật, giọng điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc. Qua đó, Nam Cao đã tái hiện chân thực bản chất của xã hội đương thời, hủy hoại con người, đẩy người nông dân vào con đường lưu manh hóa để tồn tại. Nhà văn cũng thể hiện niềm cảm thương sâu sắc với những cuộc đời khốn khổ, gửi gắm giá trị nhân đạo sâu sắc. "Chí Phèo" nhờ vậy đã trở thành tác phẩm tiêu biểu cho tài năng và tấm lòng của Nam Cao, đặc biệt trở thành tác phẩm văn học xuất sắc của nền văn học Việt Nam.
Xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Trang truyện khép lại, song trong trái tim người đọc vẫn còn ám ảnh cái dáng đi lảo đảo khi say rượu của Chí Phèo. Và cho đến hôm nay, "Chí Phèo" vẫn là một tác phẩm có sức sống lâu bền trong các thế hệ độc giả.
Dàn ý chi tiết Cảm nhận về âm thanh sự sống trong truyện ngắn Chí Phèo.
Câu trả lời của bạn
“Chí Phèo” là truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao viết về cuộc sống bị áp bức và bi kịch tha hóa của người nông dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Trong truyện ngắn, bên cạnh việc tái hiện sinh động hiện thực xã hội phong kiến và cuộc sống của người nông dân, xây dựng đầy tinh tế đời sống nội tâm, diễn biến tâm lí của nhân vật mà còn lựa chọn và xây dựng được những chi tiết nghệ thuật vô cùng đắt giá, một trong số đó có thể kể đến là chi tiết cảm nhận của Chí Phèo sau khi tỉnh dậy khỏi cơn say dài“…tiếng chim hót ngoài kia vui quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng của mấy bà đi chợ về”.
Trong mỗi tác phẩm văn học, chi tiết nghệ thuật đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó góp phần phát triển mạch truyện đồng thời truyền tải những thông điệp nghệ thuật, tư tưởng sâu sắc của nhà văn. Chi tiết nghệ thuật là những tình tiết nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng lại có sức chứa đáng kinh ngạc về cảm xúc, tư tưởng. Đối với những nhà văn tài năng , họ sẽ không xây dựng bất cứ chi tiết nào dư thừa và không có ý nghĩa. “Chí Phèo” của Nam Cao là một minh chứng cho nhận định đó, chi tiết “tiếng hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng của mấy bà đi chợ về” đọc qua tưởng chừng chỉ là những cảm nhận bình thường của một con người, thế nhưng đặt vào hoàn cảnh cụ thể ta lại thấy đây là một chi tiết đắt giá thể hiện sự biến chuyển trong con người Chí Phèo.
Tiếng chim hót, tiếng anh thuyền chài, tiếng của mấy bà đi chợ là những âm thanh hết sức quen thuộc của cuộc sống thường nhật, thế nhưng âm thanh bình thường ấy lại mang đến những tác động phi thường đối với cảm nhận và suy nghĩ của Chí Phèo. Những âm thanh kì diệu của cuộc sống đã len lỏi vào sâu trong tâm hồn tưởng chừng đã chết của Chí Phèo để một lần nữa khơi dậy khát khao lương thiện, khát khao được sống như một người bình thường.
Chí Phèo đã bị giam hãm trong những cơn say triền miên, vì vậy đây cũng là lần đầu tiên kể từ khi ra tù hắn cảm nhận được những âm thanh tha thiết, tươi sáng đến vậy. Cảm nhận được hơi thở của cuộc sống, Chí Phèo cũng thấm thía hơn bi kịch của bản thân, cái tính người, khát vọng sống cũng vì thế mà được thức tỉnh sau những tháng ngày bán mình cho quỷ dữ.
Cùng với nhận thức hiện tại, Chí Phèo đã trải qua những trạng thái tâm lý vô cùng phức tạp, hắn cảm thấy lòng mơ hồ buồn, hắn cảm nhận được nỗi đau của một kẻ cùng đường, một con quỷ dữ đã gây ra bao lỗi lầm. Nhân vật Chí Phèo được nhà văn Nam Cao xây dựng bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Nhà văn đã hướng ngòi bút vào sâu bên trong con người Chí để phát hiện những giá trị tốt đẹp bên trong, đó là một anh Chí lương thiện bên trong lớp vỏ xù xì của một con quỷ dữ. Nhà văn đã cùng vui buồn, sướng khổ cùng nhân vật của mình. Vui mừng khi sức sống, lương tri trong Chí được thức tỉnh, hạnh phúc với mơ ước “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải” nhưng cũng buồn khi Chí thức tỉnh nhân tính lại là lúc hắn ta đau khổ nhất vì cảm nhận được bi kịch hiện tại của bản thân.
Chi tiết “tiếng hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá tiếng của mấy bà đi chợ về” trong truyện ngắn “Chí Phèo” không chỉ thức tỉnh nhân tính trong Chí mà còn mang đến những thay đổi trong cảm nhận, suy nghĩ và đặc biệt tạo tiền đề cho những thay đổi mang tính quyết định khi Chí Phèo gặp Thị Nở sau đó. Qua việc xây dựng chi tiết đặc sắc, ta không chỉ đón nhận một kiệt tác “Chí Phèo” hoàn chỉnh, sinh động mà còn thấy được tài năng và tấm lòng của nhà văn Nam Cao khi hướng về con người, bảo vệ con người.
Phân tích giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo.
Câu trả lời của bạn
Nói về người nông dân trong xã hội cũ, không thể không nhắc tới tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Ông đã xây dựng nhân vật điển hình là Chí Phèo và Thị Nở để hình tượng hóa những người nông dân sống bần cùng, khổ cực dưới ách thống trị tàn ác của bọn thực dân phong kiến. Bằng lối viết chân thực và ngòi bút sắc sảo, Nam Cao đã mang đến cho người đọc một tác phẩm có giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc.
Giá trị hiện thực là những sự thật được phản ánh thông qua nhân vật và những sự kiện mà tác giả đề cập đến. Trong Chí Phèo, Nam Cao đã dựng lên một Chí Phèo với những bước ngoặt đầy nghiệt ngã và một thị Nở xấu đến mức ma chê quỷ hờn, nhưng chính thị lại là người tác động mạnh mẽ đến Chí Phèo. Chí Phèo bị bà ba dâm đãng của Bá Kiến lợi dụng, rồi bị đẩy vào tù. Chí ôm lòng hận thù theo mình suốt những năm tháng tù đày. Ra tù, Chí trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, suốt ngày ôm chai rượu say xỉn. Chí đi tới đâu là chửi tới đó. Vô tình, Chí lại rơi vào tay Bá Kiến và làm tay sai đắc lực cho hắn, chuyên đi đâm thuê chém mướn cho hắn. Chí trở nên “nổi tiếng” khiến ai cũng khiếp sợ. Sau đêm vô tình gặp thị Nở bên gốc chuối, hai người đã ở với nhau như vợ chồng. Bát cháo của thị như một ân nghĩa cao đẹp mà cả đời Chí lần đầu tiên được nhận. Nhưng được vài ngày, thị nghe lời bà cô quay lại cự tuyệt Chí. Chí đau khổ và lại rơi vào tuyệt vọng một lần nữa. Trong cơn uất hận, Chí cầm dao đến nhà Bá Kiến giết chết hắn rồi tự tử.
Có lẽ nhà văn cũng rất buồn, rất đau khổ khi khái quát số phận nghiệt ngã của người nông dân qua nhân vật Chí Phèo. Là nhà văn, ông không thiếu những ngôn từ hoa mỹ. Nhưng với ông, văn chương chính là nơi để nói lên sự thật chứ không phải đánh bóng sự thật. Chí là một đứa trẻ mồ côi. Chí cũng rất hiền lành, chịu khó làm thuê làm mướn để kiếm sống. Nhưng xã hội bất công và giai cấp gian ác đã không cho Chí được sống yên bình trong kiếp người nông dân. Chí bị đẩy vào tù. Lòng uất hận vì bị tù oan khiến Chí thay đổi tính nết và cả ngoại hình. Chí ra tù với dáng dấp của một thằng “săng đá” và được Nam Cao cảm nhận bằng ba từ “trông gớm chết”. Chí xăm trổ, cái mặt câng câng, cái đầu cạo trọc lốc, cái răng trắng hếu… Những từ ngữ ấy quá đủ cho ta thấy Chí hiện giờ mang dáng hình của một kẻ “đầu gấu”. Đã thế, Chí còn chìm trong cơn say triền miên. Chí đi tới đâu là chửi tới đó. Nhưng không một ai thèm đáp lại tiếng chửi của Chí. Chí chỉ mong ai đó nói lên một tiếng để Chí biết rằng Chí vẫn được coi là người. Nhưng chỉ có tiếng lũ chó sủa inh ỏi và tiếng trẻ con nô đùa chạy theo trêu ghẹo Chí. Dường như Chí bị loại bỏ khỏi xã hội làm người.
Hình ảnh của Chí lúc này là hình ảnh của những người nông dân bị bần cùng hóa như Chí. Họ rơi vào hoàn cảnh khó khăn, tới bước đường cùng và đánh mất nhân cách của chính mình. Qua đó, Nam Cao muốn phơi bày tội ác của bọn thực dân phong kiến đã đẩy người nông dân vào tình cảnh này. Nếu không bị đẩy vào tù, Chí vẫn là một con người rất lương thiện, hiền lành và chịu khó. Chí vẫn sống với vai trò là một kẻ đi làm thuê làm mướn để tự nuôi thân. Và nếu xã hội không thành kiến với những kẻ ở tù về, có lẽ Chí cũng không phải chìm đắm trong những cơn say, cũng không phải gào thét lên những lời chửi rủa chua ngoa để mong có ai đó đáp lại lời mình, để Chí biết rằng Chí vẫn được coi là một con người thực sự. Nhưng bản chất xã hội lúc bấy giờ quá tàn ác, quá bất nhân. Chí đã trở thành con quỷ dữ, bọn chúng vẫn không tha.
Dù Chí được gặp thị Nở nhưng đó cũng chỉ là một tình huống để Nam Cao dẫn dắt bước chân Chí đến nhà Bá Kiến, giết chết hắn để xóa tan đi phần nào sự phẫn nộ trong lòng. Thị Nở cũng là một nhân vật điển hình cho người nông dân. Dù thị dở hơi, xấu xí, xấu tới mức ma chê quỷ hờn nhưng đó lại là những nét thô sơ nhất của tự nhiên. Tạo hóa đã không ưu ái thị về vẻ bề ngoài nhưng lại đặt vào thị tấm lòng nhân hậu vô cùng lớn lao. Thị và Chí vô tình gặp nhau trong đêm tối. Sau cơn mê về xác thịt, tình yêu trong hai con người bần cùng nhất của xã hội đã nhen nhóm và trở thành ngọn lửa rực sáng. Chí được thị ban tặng cho bát cháo hành mà cả đời Chí cũng chẳng bao giờ dám mơ tới. Chí sống giữa cuộc đời nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên Chí tỉnh táo và cảm nhận được những hương vị của cuộc sống đời thường. Rất giản dị nhưng thật đẹp làm sao. Tiếng chèo thuyền, tiếng chim hót, tiếng mọi người đi chợ nói chuyện với nhau… Những âm thanh ấy ngày nào chẳng có, vậy mà hôm nay Chí mới để ý. Những tình tiết trong cuộc tình ngắn ngủi của Chí đã phản ánh một sự thật về bản chất của người nông dân. Dù họ đã phải trải qua bao cay đắng, nhưng sau cùng lòng lương thiện vẫn luôn tồn tại, chỉ là có những lúc nó bị nhấn chìm bởi hoàn cảnh sống. Chính thị Nở đã làm cho bản chất của Chí sống lại. Nhưng cũng lại là thị đẩy Chí vào bước đường cùng thêm một lần nữa khi thị chối từ tình cảm của Chí.
Sự kiện này nói lên một sự thật cay đắng về thành kiến, về quan niệm của dân làng Vũ Đại đối với những kẻ đã bị tha hóa như Chí. Họ nhìn Chí bằng ánh mắt khinh thường và họ không còn coi Chí là người nữa. Dù trước đó thị đã yêu Chí, đã có cảm giảm thinh thích khi khắc đến hai chữ vợ chồng, nhưng vì thị chỉ là người đàn bà ế chồng và dở hơi. Hơn nữa thị lại bị người bà cô của mình quán xuyến. Sự thật đau đớn khi bị người yêu cự tuyệt khiến Chí rơi vào đau khổ tột cùng. Những tưởng cuộc đời từ nay sẽ được yên ấm nhưng bi kịch lại đến. Chút hi vọng mong manh cuối cùng của Chí đã nhanh chóng bị dập tắt bởi thành kiến của xã hội. Lúc này Chí đã quyết định đến nhà Bá Kiến, giết chết hắn rồi tự kết liễu cuộc đời mình.
Bá Kiến và cả gia đình hắn là đại diện cho tầng lớp thống trị tàn ác, bất nhân. Chính bọn chúng đã lợi dụng những người nông dân lương thiện như Chí, biến họ trở thành con quỷ dữ và không còn cơ hội được quay trở lại làm người nữa, khiến họ phải đi vào ngõ cụt và tận cùng là cái chết. Nhưng một kẻ liều lĩnh và đã trải qua quá nhiều biến cố như Chí, cái chết không còn là nỗi sợ hãi nữa. Chí chết nhưng trước khi chết, Chí muốn kéo theo cả kẻ đã làm mình ra nông nỗi này.
Còn thị, dù thị dở hơi, nhưng khi Chí chết thị vẫn đủ tỉnh táo để nhìn xuống bụng và nghĩ đến một cái lò gạch bỏ hoang. Nam Cao không viết tiếp nhưng người đọc vẫn hiểu ý định của thị. Và đứa con trong bụng thị sẽ là một Chí Phèo con. Cuộc đời người nông dân vẫn còn nhiều người phải khổ. Chí Phèo chết chưa phải là đã hết. Bá Kiến chết cũng vẫn còn Lý Cường. Thậm chí hắn còn lạnh lùng và ác độc hơn Bá Kiến. Quá dễ dàng để Nam Cao viết lên cái kết có hậu nhưng ông trân trọng sự thật, và ông cũng muốn phơi bày sự thật về xã hội đương thời để người đọc thấy rằng cuộc sống người nông dân rất khổ cực. Họ vừa phải đương đầu với cuộc sống mưu sinh, vừa phải gồng mình lên gìn giữ lấy nhân phẩm của mình. Nhiều người đã gục ngã trước hoàn cảnh, lâm vào con đường tội lỗi và bị tha hóa nhân cách như Chí.
Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình và những lời văn chân thực, giàu cảm xúc, nhà văn đã bày vẽ lại cuộc sống thực tế của những người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ. Đồng thời ông cũng vạch tội bọn thực dân phong kiến đã tàn nhẫn đẩy người nông dân vào cảnh sống lầm than. Chúng không những bóc lột tiền bạc, sức lao động của dân nghèo mà còn trà đạp lên tâm hồn và nhân cách cao cả của họ, biến họ thành những con quỷ dữ giữa cuộc đời.
Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao.
Câu trả lời của bạn
Nam Cao là một nhà văn lớn của dân tộc. Ông chuyên viết về người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ. Họ không những nghèo mà thậm chí còn bị đẩy vào bước đường cùng, bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính. Điển hình trong đó là tác phẩm Chí Phèo. Qua những biến cố nghiệt ngã trong cuộc đời Chí từ một chàng thanh niên hiền lành chịu khó trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại, Nam Cao không những nói lên sự thật cay đắng về số phận của những người nông dân bất hạnh và bất lực dưới ách thống trị tàn ác của thực dân phong kiến, mà còn thể hiện giá trị nhân đạo rất sâu sắc. Ông cảm thương và xót xa cho những mảnh đời cơ cực.
Trung tâm của tác phẩm là Chí Phèo – đại diện cho những người nông dân bị bần cùng hóa tới mức đánh mất chính bản thân mình, lao vào con đường tội lỗi và tối tăm. Chí dù không cha không mẹ nhưng Chí vẫn trở thành một con người tốt. Chí làm thuê làm mướn, chịu thương chịu khó kiếm sống nuôi thân. Nhưng đường đời vốn dĩ lắm truân chuyên, Chí bị gia đình Bá Kiến đẩy vào tù. Năm tháng tù đày và lòng hận thù biến Chí trở thành một con người hoàn toàn khác từ ngoại hình cho đến tính cách. Chí xăm trổ những hình thù quái dị, cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn… trông gớm chết. Trước đây Chí tốt đẹp bao nhiêu thì giờ đây lại xấu xa, tồi tệ bấy nhiêu. Con đường tha hóa của Chí tỉ lệ thuận với sự tàn ác, bất nhân của chế độ phong kiến. Trong xã hội ấy còn rất nhiều người giống như Chí. Chí chỉ là một nhân vật điển hình trong phần người đông đảo ấy. Họ bị như vậy không phải vì bản thân quá yếu hèn, không có nghị lực vươn lên, mà vì sự tàn ác của chế độ quá lớn. Trong khi đó họ lại chỉ là những người nông dân thấp cổ bé họng, không tiền, không địa vị, không học thức. Làm sao có thể chống lại được với giai cấp đầy quyền lực và tàn nhẫn? Nam Cao bày tỏ sự xót thương và đồng cảm sâu sắc với Chí và những con người bất hạnh như Chí.
Trong chuỗi ngày dài dằng dặc với những niềm cay đắng chồng chất giống như những vết sẹo chằng chịt trên khuôn mặt trong những lần vạch mặt ăn vạ, nhà văn đã đưa thị Nở đến với Chí. Sự kiện này đã làm Chí tỉnh thức và tìm lại được chính mình. Sau đêm gặp thị, Chí tỉnh táo và nhận thức được mọi thứ xung quanh mình. Cuộc sống thật giản đơn mà lại hạnh phúc đến vậy. Tiếng mái chèo gõ cá, tiếng chim hót, tiếng người nói lao xao đi chợ, và dáng dấp của một người đàn bà ngay cạnh bên, tất cả đã mang đến cho Chí sự quyết tâm trở lại làm người lương thiện. Đằng sau những tiếng chửi chua ngoa, sau những trận rượu say xỉn triền miên, ta lại thấy một Chí Phèo đầy lòng nhân ái và giàu tình yêu thương. Có thể thị dở hơi nên thị không ý thức được điều mình đang làm là sống cùng với một thằng không cha không mẹ, chuyên đi rạch mặt ăn vạ nhưng Chí đang hoàn toàn tỉnh táo.
Trước mặt Chí là người đàn bà ế chồng, xấu xí và ngờ nghệch nhưng điều đó có là gì khi Chí cảm nhận được tình cảm rất chân thật và trong sáng của thị. Thị chẳng hề đắn đo suy nghĩ hay có bất kì một thành kiến nào đối với một kẻ đi ở tù về như Chí. Thị dở nhưng tấm lòng của thị rất thánh thiện. Bát cháo hành thị nấu được nêm gia vị bằng sự đồng cảm, bằng tình yêu thương rất chân thật. Bát cháo ấy đã đánh thức phần người trong Chí trỗi dậy. Chí muốn cùng thị thực hiện ước mơ ngày nào của mình: có một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải thêu thùa. Ước mơ ấy không chỉ của riêng Chí mà của rất nhiều người. Chí không chê thị dở, lại càng không chê thị xấu. Có thể do tình yêu mù quáng, nhưng ước mơ kia của Chí là điều rất đúng đắn và nghiêm túc. Sau bao nhiêu biến cố xảy ra, sau những vết sẹo kéo dài trên mặt, Chí lại trở về là một con người rất hiền lành, rất tốt tính. Mối tình của Chí với thị như một ân huệ mà Nam Cao muốn dành cho đứa con đẻ của mình, để Chí được một lần trong đời sống hạnh phúc dù chỉ là ít ỏi. Bởi ngay sau đó, thị đã nghe lời bà cô cự tuyệt Chí.
Thêm lần nữa Chí chìm vào cơn say. Nhưng cơn say này khác với những cơn say trước. Bởi nó có lẫn men rượu với hơi cháo hành thoang thoảng. Sự tuyệt vọng và lòng hận thù lại trào dâng trong Chí, dẫn bước chân Chí tới thẳng nhà Bá Kiến dù trong đầu xác định đến nhà thị Nở để giết chết con khọm già nhà nó. Nhưng họ đâu có tội tình gì. Chí ra nông nỗi này đều do Bá Kiến gây nên. Chí giết chết hắn rồi tự tử. Chí không muốn sống tiếp cuộc đời đằng đẵng những khổ đau này nữa. Ngay cả một ước mơ giản đơn nhất Chí cũng không được quyền thực hiện. Chí được sinh là làm người nhưng lại sống như một con quỷ dữ, chẳng ai dám lại gần Chí. Cho tới khi thị đến nhưng cuối cùng thị cũng quay lưng lại với Chí. Chí cảm thấy cô đơn và lạc lõng giữa biển người mênh mông. Chí sợ rằng tuổi già của mình sẽ trở nên cô độc và đau khổ… Chí chết, Chí sẽ không còn phải tiếp tục chìm trong men say nữa, cũng chẳng phải xuất hiện trước mặt mọi người với dáng dấp trông gớm chết.
Dù Chí chết, nhưng còn có một Chí Phèo con trong bụng thị Nở. Thị cúi xuống và nghĩ tới cái lò gạch xa xa. Bá Kiến chết còn có Lý Cường. Hắn cũng gian ác và xảo trá như cha hắn.
Chí chết, câu chuyện kết thúc nhưng những bất công và những số phận bất hạnh như Chí Phèo vẫn còn tồn tại nhiều trong xã hội. Không biết rằng có bao nhiêu thị Nở để mang đến niềm hạnh phúc dù là ít ỏi cho những cuộc đời ấy. Qua đó, nhà văn Nam Cao muốn gửi gắm và bày tỏ niềm xót thương, sự đồng cảm của mình đối với người nông dân cùng khổ. Đồng thời ông cũng ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp, những tấm lòng lương thiện còn sót lại sau những xô bồ, bon chen của cuộc sống lao đao, lận đận.
Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, Nam Cao đã dựng lên một Chí Phèo mang giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc.
Phân tích tấm lòng lương thiện của Thị Nở trong truyện Chí Phèo của Nam Cao.
Câu trả lời của bạn
Có thể nói Chí Phèo của Nam Cao là một trong những tác phẩm xuất sắc và chân thực viết về những con người khốn khổ trong xã hội cũ. Họ khổ đến nỗi phải trà đạp lên cả nhân cách và tâm hồn mình mà sống. Như Chí Phèo từng là một anh thanh niên hiền lành, chịu khó nhưng vì lòng người gian ác và xã hội bất công đưa đẩy, anh vào tù ra tội rồi trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng may thay, trong khi không một ai còn coi Chí là người thì lại có một Thị Nở xuất hiện, làm thay đổi cả cuộc đời Chí. Xây dựng hình ảnh người phụ nữ nhưng không hiểu là vô tình hay cố ý mà Nam Cao đã dành cho Thị một hình hài xấu xí vô cùng, xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn. Nhưng trong sâu thẳm cái vỏ bọc bên ngoài ấy lại chính là một tấm lòng lương thiện rất cao quý. Cả làng Vũ Đại không ai xấu như thị nhưng cũng không ai tốt bằng thị.
Thị – một người đàn bà ế chồng, dở hơi nhưng tấm lòng thẳng thắn, trong sáng. Thị gặp Chí trong một đêm ngủ quên bên bờ ao. Hai con người cùng khổ quấn lấy nhau trong đêm trăng thanh gió mát. Rồi tự dưng tình yêu cũng đến. Thị lần đầu tiên biết đến một người đàn ông, lần đầu tiên trông thị có duyên đến lạ. Chí cũng vậy, hắn chưa từng được chăm sóc bởi bàn tay một người đàn bà. Ngay cả mẹ, Chí cũng không hề biết là ai thì làm sao biết thế nào là sự săn sóc, là đàn bà.Thị đến với Chí phần vì dở hơi, không nhận thức được Chí là ai, phần vì nhu cầu sinh lí. Thị cũng đã ba mươi tuổi rồi, chưa từng đụng chạm với bất kỳ người đàn ông nào. Nhưng sau khi thỏa mãn, Thị không vội vã quay đi mà còn có tình cảm với Chí. Trong thứ tình cảm ấy còn có cả tình thương và sự cảm thông, chia sẻ. Bởi nếu không thương, không yêu, thị sẽ không bao giờ nấu được cho Chí một bát cháo hành ngon đến thế.
Nếu không yêu, thị sẽ không nghĩ ngợi gì cho sức khỏe của Chí, sẽ mặc kệ Chí dù hắn ôm đau bệnh tật. Nhưng thị không làm vậy, lòng lương thiện đã mách bảo thị hãy săn sóc, yêu thương hắn. Dù hắn có là quỷ dữ đi chăng nữa, nhưng trước mắt thị giờ đây là một anh Chí hiền lành, tử tế. Một người đàn ông thực sự đã tỉnh dậy sau một cơn say dài triền miên. Có thể thị dở hơi, nhưng cũng chính vì dở nên thị không so đo tính toán. Giữa lúc nghèo đói thiếu thốn như vậy, thị vẫn dám “cả gan” nấu cho Chí một bát cháo hành thật ngon. Nếu bà cô ngoa ngoắt của thị mà biết thì thị lại bị ăn một trận chửi té tắt, thậm chí là đòn roi như mưa. Thị biết điều đó chứ, nhưng giờ sức khỏe của Chí quan trọng hơn. Thị còn biết ăn cháo hành sẽ ra mồ hôi, giúp cơ thể đỡ mệt hơn. Mọi người nhìn thị dở hơi, cũng có lẽ thị dở thật. Vậy một người dở hơi làm việc tốt có được coi là lương thiện không? Tất nhiên là có. Vì lòng lương thiện đã ở sẵn trong con người họ, nó bộc phát theo bản năng một cách tự nhiên nhất, chân thành nhất.
Tấm lòng lương thiện cao quý ấy đã đánh thức một con quỷ dữ bấy lâu nay thoát khỏi cơn say mê muội kéo dài. Lần đầu tiên Chí tỉnh, Chí cảm nhận mọi thứ xung quanh mình, từ những điều giản dị nhất, mộc mạc đơn sơ nhất, như tiếng mái chèo gõ cá, tiếng người đi chợ nói chuyện lao xao… Lòng lương thiện của thị còn đánh thức cả một khoảng trời ước mơ của Chí. Ước mơ ấy đã tưởng chừng như bị nhấn chìm và nhạt nhòa trong men rượu, nhưng giờ đây, men tình của thị đã làm nó quay trở lại. Chí ước có một gia đình nhỏ, có những đứa con thân yêu, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải thêu thùa. Cả hai chăm lo cho con, cùng sống bình yên và hạnh phúc. Một ước mơ thật đẹp, không cao sang nhưng vô cùng cao quý.
Vậy mà sự tàn ác, bất công của xã hội đã cướp mất ước mơ ấy của Chí tự bao giờ. Không phải Chí không có bản lĩnh, mà thế lực của thống trị quá lớn, một mình Chí không thể nào chống lại được. Đã thế, Chí lại còn bị đẩy xuống tận cùng cái đáy của xã hội. Không một ai coi Chí là người. Cho đến bây giờ, chỉ có thị dở hơi mới nhìn nhận Chí, cho Chí những khoảnh khắc yêu đương mặn nồng, cho Chí tỉnh lại giữa cuộc đời đầy nghiệt ngã. Lòng lương thiện của con người dở hơi ấy đã có sức mạnh bật lại cả những nỗi oán hận nặng nề hằn sâu trong tâm trí Chí. Bởi lúc này, Chí chỉ mong được hoàn lương, được trở lại làm người bình thường. Chí sẽ không uống rượu nữa, không chửi bới nữa. Mọi sự hận thù trong Chí đã được thị xua tan. Vừa là tình yêu mà cũng vừa là tình người đã cứu sống được kẻ đang thoi thóp nơi đáy vực thẳm của tội lỗi quay trở về với bến bờ của thiện lương.
Không những thế, lòng thương cảm của thị còn là một hồi trống đánh vào tâm khảm tất cả mọi người trong làng Vũ Đại. Nhưng cũng không thể trách họ vô tâm hay ích kỉ được, bởi Chí chính là người đã gây ra những rắc rối trước. Nếu có trách, thì cha con nhà Bá Kiến và các bà vợ của hắn là đáng trách nhất. Chính họ đã làm Chí trở thành con người tàn tạ như bây giờ. Cũng may trong cả cuộc đời dài dằng dặc của Chí đã được một lần yêu, một lần hạnh phúc, một lần quan tâm và sẻ chia. Dù cho tình cảm ấy chẳng trọn vẹn được bao lâu, nhưng “thà huy hoàng một phút rồi chợt tắt, còn hơn le lói suốt trăm năm”. Không biết, người đàn bà ế chồng, xấu xí, dở hơi ấy có điều gì đặc biệt mà lại gây ra sự ảnh hưởng lớn lao như vậy cho một con người đã chai sạn và trây lì như Chí. Điều kỳ diệu ở người đàn bà ấy chính là lòng lương thiện – điều mà mọi người trong làng Vũ Đại này đều không ai chịu bố thí dù chỉ một ít dành cho Chí. Thị bao dung, rộng lượng, thị là tấm gương cho mọi người noi theo nhưng không ai nhận ra tấm gương ấy. Thị đứng giữa cuộc đời Chí, giữa những hận thù và khổ đau đã xâm lấn tâm hồn trong trẻo ngày nào của Chí.
Thị là nét đẹp tự nhiên nhưng cũng đầy éo le giữa trang văn não nề của Nam Cao. Đang yêu thương, đang cảm thông và xót xa cho Chí như một bản năng của lòng lương thiện, thị bỗng chững lại, để về hỏi bà cô của mình đã. Bị bà chửi cho một trận, thị tức giận trút hết giận lên đầu Chí, rồi cự tuyệt Chí. Mặc cho Chí có níu tay giữ lấy thị. Thị không ác, nhưng bị chi phối bởi bà cô không chồng của mình. Lòng lương thiện của thị tuy đã mang đến sự thay đổi lớn cho Chí nhưng giờ đây, chính thị cũng không giữ được mình khi có sự can thiệp của bà cô. Giây phút đau buồn ấy khiến Chí tuyệt vọng. Nỗi tuyệt vọng của một kẻ thất tình đang trào dâng mãnh liệt. Chí đau đớn, mùi cháo hành lại thoang thoảng đâu đây, lẫn với mùi rượu khiến Chí càng uống càng tỉnh. Chí chỉ say tình, say thị mà thôi. Lòng lương thiện thị dành cho Chí trong phút chốc tắt ngấm ngầm. Lại một lần nữa, Chí bị rơi vào vực thẳm của hận thù và khổ đau.
Dù thế nào đi nữa, tấm lòng lương thiện của thị vẫn là một điểm sáng chói giữa làng Vũ Đại. Thị mang đến cho người đọc thông điệp rất ý nghĩa và sâu sắc: làm người hãy biết cảm thông, sẻ chia và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Dù là ai đi nữa, dù là kẻ tội lỗi hay xấu xa, khi nhận được tình thương thật lòng, nhất định sẽ được cảm hóa và cứu vớt. Thị đã góp phần rất lớn vào thành công của Nam Cao khi viết nên tác phẩm này. Mỗi người trong chúng ta hãy sống rộng lượng hơn, thứ tha nhiều hơn và yêu thương nhiều hơn nữa tới những cuộc đời dẫu lầm lỡ hay tội lỗi.
Cảm nghĩ của em về hình ảnh nước mắt của nhân vật Chí Phèo.
Câu trả lời của bạn
Chí Phèo vừa là tên tác phẩm vừa là tên nhân vật trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Chí Phèo mang một bi kịch một cuộc đời mà không được là một con người hoàn lương. Những giọt nước mắt của Chí Phèo khi thì làm con người ta thấy mỉa mai hả dạ nhưng đôi lúc chính những giọt nước mắt ấy khiến cho độc giả trở nên chua xót nghẹn ngào.
Giọt nước mắt đầu tiên của Chí Phèo cũng giống như những đứa trẻ khác đó chính là giọt nước mắt của những đứa trẻ chào đời. Nhưng khác ở chỗ đó không phải là tiếng khóc cất tiếng báo hiệu cho sự có mặt của mình trong cuộc đời này mà là của sự khát sữa và lạnh giá bị bỏ rơi trong lò gạch cũ. Giọt nước mắt ấy như báo hiệu cho một cuộc đời không mấy may mắn và hạnh phúc của Chí Phèo.
Tiếp đến chính là những giọt nước mắt cảm thấy nhục nhã khi bị bà Ba nhà Bá Kiến lợi dụng. Ngay sau đó anh bị Bá Kiến kiếm cớ đẩy một con người hiền lành lương thiện vào nhà tù. Chí vốn dĩ là chàng trai hiền lành khỏe mạnh, đi ở cho nhà Bá Kiến. Nhưng một điều không còn lạ lẫm trong thế giới ấy nữa một người già như Bá KIến lại có năm thê bảy thiếp nhưng Bá Kiến lại già nua cho nên bà ba - vợ của bá Kiến đã kiếm cớ lẳng lơ với Chí Phèo nhưng bị từ chối.
Bá Kiến tức giận và nhẫn tâm lập ra mưu để đẩy Chí vào tù lúc bấy giờ nước mắt Chí lại rơi vì nhục nhã và uất hận. Xã hội đã khiến cho Chí phải rơi vào cảnh tù đày như thế bởi vốn Chí thiện lương mà bị đẩy vào con đường tù tội một cách oan uổng.
Chí Phèo sau những năm tháng tù ngục đã trở về làng với bộ dạng gớm ghiếc: răng trắng hớn, xăm trổ đầy mình. Dường như giọt nước mắt của một người đàn ông được thể hiện qua những câu chửi mà mở đầu đoạn trích nhà văn Nam Cao đã cho Chí xuất hiện một cách đầy ấn tượng. Chí chửi trời chửi đời, chửi những người làng Vũ Đại nhưng dường như không ai chú ý tới Chí ngoài mấy con chó chực đứng xung quanh để sủa. Chẳng một ai quan tâm một ai muốn qua lại một người như Chí Phèo - lời chửi ấy như một tiếng khóc vừa uất ức vừa căm hận không thể nén lại.
Chí Phèo còn có những giọt nước mắt lúc ăn vạ, khi trở về làng lại trở thành thành tay sai đắc lực của Bá Kiến, ngoài đi đòi nợ thuê cho Bá Kiến thì Chí còn rạch mặt ăn vạ và làm tổn thương cả tinh thần lẫn thể xác của chính bản thân mình.
Giọt nước mắt có thể nói đắt giá nhất và hạnh phúc nhất trong đời của Chí Phèo chính là giọt nước mắt khi được Thị Nở chăm sóc. Lúc say Chí đã lỡ ăn nằm với Thị ở ngoài bờ chuối. Thị như người đã cứu rỗi cho người như Chí nấu cháo và chăm sóc Chí như người yêu của mình. Chí Phèo cảm thấy cảm động vô cùng trước sự chăm sóc của thị và ngay lập tức nghĩ tới ngôi nhà nhỏ cùng với một cuộc sống lương thiện.
Thật xót xa khi giọt nước mắt hạnh phúc ấy không được bao lâu thì Chí đối mặt với những giọt nước mắt của đau khổ. Bà cô Thị cấm Thị qua lại với Chí cho nên Chí đến thẳng nhà Bá Kiến cái kẻ mà làm cho Chí ra nông nỗi này. Chí mặc nhiên đòi người lương thiên mặc nhiên muốn sống một cuộc sống bình thường như bao người khác và cái kết cục cuối cùng khi Chí đã giết Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình giải cứu cho mọi nỗi đau trên cuộc đời này mà Chí phải chịu đựng.
Những giọt nước mắt của Chí Phèo xuyên suốt tác phẩm. Một tác phẩm với những con người những nhân vật bất hạnh. Những giọt nước mắt ấy qua những lần xuất hiện đã phần nào để lại những suy nghĩ trong lòng người đọc.
Dàn ý phân tích nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao.
Câu trả lời của bạn
A/ Mở bài: Giới thiệu nhà văn Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo
B/ Thân bài
C/ Kết bài
Tình huống tất yếu phải xảy đến đã được Nam Cao dày công chuẩn bị cho nhân vật của mình. Khi sự thâm hiểm và tàn bạo đã bị bóc trần, khi những tiếng cười và tiếng quát rất sang của cụ Bá không còn nắn gân người khác như mọi khi được nữa, đó cũng là khoảnh khắc thức tỉnh lương tri của một con người. Chí Phèo trong cơn say có những hành động thật đáng sở. Nhưng có một điều, tiếng nói vang lên “dõng dạc” lại là của một con người hoàn toàn tỉnh táo, của một anh Chí đang đòi lại quyền “làm người lương thiện” đã bị bọn cường hào như Bá Kiến tước đoạt. Sự thật được nói lên khiến Bá Kiến phải run sợ, “dịu dọng” để lảng tránh. Mặt nạ rơi xuống, Bá Kiến hiện nguyên hình là con quỷ dữ nham hiểu và hèn nhát đang cố trốn chạy sự trừng phạt của lương tri thức tỉnh. Nam Cao đã để cho Chí trong giờ phút ấy cất lên những lời đau đớn: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những vết mảnh chai trên mặt này?”. Đó là nỗi đau đớn của một người đã bị chặn mất nẻo về với thế giới thân thuộc của Con Người, bởi những định kiến khắt khe của xã hội. Muốn trở về, Chí “chỉ còn một cách” là giết chết con quỷ dữ trong chính anh. Giờ phút Chí vung dao lên kết liễu đời Bá Kiến là hành động tất yếu phải xảy ra, sau đó chính anh phải tự sát đã là một câu trả lời của Nam Cao giải đáp rõ nguyên nhân bi kịch của người nông dân nghèo trong xã cũ – sự bế tắc, quẩn quanh vẫn đè nặng lên cuộc sống của họ.
Cảm nhận của anh chị về cảnh Chí Phèo tỉnh dậy sau trận ốm trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao.
Câu trả lời của bạn
Truyện ngắn Nam Cao rất hiện đại trong kết cấu tâm lí và ngôn ngữ giàu chất sống. Nhưng đặc sắc hơn cả là nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật mà văn học thời kỳ sau còn chịu ảnh hưởng.
Chí Phèo là tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp cầm bút của nhà văn. Bên cạnh nội dung hiện thực sâu sắc và tư tưởng nhân đạo mới mẻ là nghệ thuật tả tâm lí nhân vật đặc sắc, nhất là đoạn tả tâm trạng Chí Phèo lúc tỉnh rượu rồi khao khát sống. Đây là đoạn văn tiêu biểu cho bút pháp tả tâm lí của Nam Cao: Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc… cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau.
Sau khi ở tù về, Chí Phèo trở thành người khác hẳn: lưu manh, côn đồ, hung hăng, dữ tợn và lúc nào cũng say. Hắn bị bá Kiến biến thành tay sai và sống u mê tăm tối gần mười mấy năm trời. Một đêm trăng sáng bên bờ sông, Chí Phèo gặp Thị Nở. Sáng hôm sau tỉnh rượu, Chí Phèo nhận biết thế giới quanh mình và nhận ra cảnh ngộ cay đắng, bi đát của cuộc đời. Trích đoạn miêu tả dòng suy nghĩ của Chí về thực trạng cuộc đời trong hiện tại và cả tương lai.
Hắn thấy hắn… Ngôn ngữ độc thoại cho thấy lần đầu tiên Chí Phèo sống nội tâm. Hắn chủ ngữ là con người lý trí tỉnh táo, hắn bổ ngữ là con người thân phận: già và cô độc. Chí Phèo đang suy tư, nhìn nhận về mình.
Con người tự nhận thức là một bước tiến của nhân loại đưa con người đến với ánh sáng trí tuệ và cũng là bước chuyển biến quan trọng trong số phận Chí Phèo. Dấu chấm than rớt xuống cùng cụm từ Buồn tay cho cuộc đời như một tiếng thở dài não nuột, Chí không biết chia sẻ cùng ai. Trực giá cho thấy đời hắn buồn, rồi từ đó hắn nhận ra cuộc sống thật buồn mà chính cuộc sống làm đời hắn buồn.
Lí do khiến hắn buồn đã rõ. Con người ham sống thì thường sợ tuổi già. Tuổi già đến nhanh quá nên Chí cho là phi lý: Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Điều Chí thắc mắc là hoàn toàn có lý vì có bao giờ hắn tỉnh để nhận biết thời gian, thậm chí là không gian sống của hắn. Chủ nghĩa hoài nghi là dấu hiệu đầu tiên của nhận thức. Chí Phèo bắt đầu nhận thức lại. Quy luật chảy trôi của thời gian mà Chí Phèo xem là nghịch lý thì Chí Phèo đã nhìn thấy rõ để tiếc nuối quãng đời mê muội, tội lỗi đã qua và tha thiết yêu cuộc đời này biết bao nhiêu, nhất là khi Chí Phèo vừa được nghe những âm thanh trong trẻo từ thế giới tươi xanh vọng vào.
Dòng độc thoại nội tâm tiếp tục với giọng điệu buồn da diết: Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ngoài bốn mươi chưa hẳn là già nhưng chắc chắn là không còn trẻ. Phép so sánh độc đáo của Nam Cao cho thấy sức khỏe của Chí đã bắt đầu đổ dốc, càng về cuối tốc độ càng nhanh hơn. Trận ốm lúc tờ mờ sáng là những lá vàng báo hiệu rằng mùa thu cuộc đời đã đến, khiến Chí Phèo giật mình thảng thốt lo âu khi sắp trôi về mùa đông tàn lạnh. Khả năng bươn chải với cuộc mưu sinh đã hạn chế, sự mệt mỏi đã bắt đầu xuất hiện, trong khi đó Chí Phải bắt đầu sống từ thời điểm này thì có gì buồn hơn.
Chí đang nhìn về quá khứ buồn, hiện tại đắng nên thấy trước tương lai đầy bất trắc, lo âu: Chí Phèo hình như đã trông trước thấy tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau. Mạch suy tư của Chí Phèo rất phù hợp với quy luật tâm lý, khi con người cô độc đối diện với chính mình và thấy không ai hiểu được mình. Chí thấy ba tảng đá đang đè nặng lên cuộc đời và có quan hệ tương tác. Tuổi già thường sinh bệnh tật. Tuổi già thường phải sống cô đơn. “Cái gì khô héo hơn cọng rơm khô? – Một trái tim đau buồn!” (Ma-ha-bha-ra-ta) nên sự cô độc đáng sợ hơn tất cả vì cảnh trống trải không nơi nương tựa, sự thiếu thốn tình cảm và nỗi buồn sẽ làm hao mòn sinh lực khiến sinh nhiều bệnh tật. Chí Phèo đã và đang sống giữa sa mạc cô đơn, cách ly với xã hội nên tha thiết được trở về để hưởng chút nắng ấm của bình minh, của tình người nơi mảnh đất lương thiện.
Khao khát hoàn lương mà bất lực, con người cô độc thường sợ hãi nên lúc này Chí Phèo thấy tương lai xám mịt, tâm tư nặng trĩu và Chí đã rưng rưng nước mắt.
Diễn biến tâm lí của Chí Phèo lúc này được phản ánh đúng quy luật, dòng độc thoại nội tâm, mạch suy nghĩ theo từng bước phát triển tự nhiên, không có sự áp đặt chủ quan của tác giả. Khi đối diện với chính mình trong không gian bó hẹp, chịu áp lực bởi hoàn cảnh nên nhân vật thụ động trong suy nghĩ và quẩn quanh với một điều duy nhất: già, đói rét, bệnh tật, cô độc. Do đó, đặc điểm tâm lí nhân vật đã phản ánh số phận.
Nam Cao thường có giọng văn lạnh như ở trích đoạn này, giọng điệu nhẹ nhàng, mềm mại; phép so sánh giàu chất trữ tình, vừa lột tả được nỗi buồn da diết của Chí vừa thể hiện được sự cảm thông của nhà văn. Có những câu văn pha trộn ngôn ngữ gián tiếp với trực tiếp: Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… cho thấy tác giả như nhập hẳn vào tâm trạng nhân vật để lắng nghe và cùng chia sẻ nên biểu hiện được chiều sâu tình cảm nhân đạo.
Khi đặt nhân vật trong quan hệ với chính nó và quan hệ với môi trường, nhân vật vừa có nhu cầu nhận thức vừa có nhu cầu giao tiếp nên đoạn trích đã đưa ra khái niệm con người tự nhận thức và con người cô độc. Con người tự nhận thức thì sẽ lớn hơn chính nó, vì vậy mà nó tự khắc xung đột với môi trường khi trước đó nó dung hòa được. Con người cô độc là sự nhảy cảm của Nam Cao về bản chất nguyên thủy của con người rất cần đoàn thể cộng đồng. Đó là chất triết lí của nhà văn Nam Cao.
Phân tích tình yêu trong Chí Phèo của Nam Cao.
Câu trả lời của bạn
Tình yêu là một hiện tượng đặc biệt và khá phức tạp của cuộc sống con người, là đề tài nổi bật, hấp dẫn, không hề vơi cạn của văn học nhân loại. Chính vì vậy trong văn chương, tình yêu là đề tài liên tục thu hút sự chú ý của giới sáng tác, nghiên cứu, phê bình. Khuôn mặt của tình yêu tuỳ vào quan điểm thẩm mỹ, văn hoá, xã hội của từng thời kỳ, của từng tác giả mà có những dạng tồn tại khác nhau.
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao xưa và nay vẫn được xem là một truyện ngắn tiêu biểu, xuất sắc của văn học sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê phán. Tác phẩm được chú ý khai thác ở các khía cạnh tố cáo xã hội phi nhân tính, sự áp bức của giai cấp thống trị, số phận con người bị tha hoá... nhiều hơn là nhìn từ góc độ tình yêu. Toàn bộ nội dung, kết cấu tác phẩm gắn liền với cuộc đời của nhân vật chính là Chí Phèo, có một chi tiết đáng lưu ý là: Các biến cố làm nên những đổi thay to lớn, những bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo cũng như trong kết cấu tác phẩm lại đến từ hình bóng những người đàn bà. Tuy nhiên có bóng dáng đẩy Chí Phèo vào chốn tăm tối những cũng có gương mặt tuy xấu xí nhưng lại đưa Chí Phèo ra nơi ánh sáng của cõi minh triết.
Cuộc đời Chí Phèo đột nhiên chuyển hướng do việc tiếp xúc miễn cưỡng với bà Ba Bá Kiến, một người "đàn bà phốp pháp, má hây hây", để từ một anh nông dân hiền lành chất phác trở thành một tên tù, một tên lưu manh mất hết nhân tính, mất luôn cả ý thức về mình lẫn ý thức làm người. Tuy nhiên, lần gặp gỡ với Thị Nở lại mang đến một hệ quả ngược, nó làm đảo lộn tất cả. Chính cuộc gặp gỡ với Thị Nở chứ không phải một biến cố xã hội nào đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời Chí Phèo và quyết định số phận của cả Chí Phèo lẫn Bá Kiến. Chút tình cảm tưởng chừng rất vu vơ giữa Chí Phèo và Thị Nở ấy đã tác động, chi phối một cách sâu sắc đến quan hệ giữa Chí Phèo và Bá Kiến.
Từ đó có thể thấy không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo bắt đầu từ buổi tối trước khi gặp Thị Nở, cái buổi tối mà hắn "vừa đi vừa chửi", để rồi từ đó mối quan hệ dây mơ rễ má với Bá Kiến, những khúc, đoạn trong cuộc đời Chí Phèo như một cuốn phim quay chậm được tái hiện. Tất cả những chi tiết này có tính chất như một đường truyền, một lời đề dẫn hay như những hoạ tiết có tính chất phông nền để làm nổi bật tác động của tình yêu, tình người đến cuộc đời Chí qua nhân vật Thị Nở.
Một trong những đặc trưng phong cách của Nam Cao là sử dụng những yếu tố trái khoáy, ngược nhau để mô tả hiện thực. Tên của tác phẩm cũng thường hàm chứa một điều trái khoáy như Lang rận, Chí Phèo, Tình già... Bản thân sự tồn tại nhếch nhác của nhân vật Lang rận cùng với vẻ bề ngoài bẩn thỉu là một sự trái ngược, mâu thuẫn với nghề nghiệp, vị thế xã hội mà nhân vật mang vác. Tất cả những đối nghịch đó được thâu tóm trong một cái tên: Lang rận, và được khắc sâu hơn trong sự tương phản giữa vẻ bên ngoài nhếch nhác, thấp kém với đời sống tâm hồn cao đẹp. Hay trong truyện Nửa đêm, người cha có tên là Thiên Lôi nhưng lại đặt tên con là Đức - như hai mặt của một quá trình biện chứng nhân quả...v.v.
Từ những chi tiết đó có thể hiểu tại sao Nam Cao lại lạ hoá câu chuyện tình Chí Phèo - Thị Nở như vậy. Không lãng mạn thơ mộng như các câu chuyện tình của Tự Lực Văn Đoàn, buổi tối gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở bắt đầu bằng hình ảnh Chí Phèo "vừa đi vừa chửi... chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo", cuộc đời hắn chìm trong những cơn say. Chưa bao giờ hắn tỉnh táo để "nhớ rằng hắn có ở đời". Tức trong hắn chỉ tồn tại không phải ý thức mà là một khối u u mê mê, tối tăm đặc quánh, vô cảm, vô thức. Ngay cả sự hiện hữu của bản thân, hắn cũng không nhận thức được, hắn chỉ kinh ngạc rồi cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi khi phát hiện ra mình dưới dạng một cái bóng trên đường trăng nhễ nhại, méo mó. Chính hình ảnh này hướng đến sự ẩn dụ về một dạng tồn tại bất toàn của con người trong xã hội cũ. Con người không được sống thực là chính mình mà chỉ là những cái bóng, nhưng cũng không được là cái bóng của chính mình mà là bóng của giai cấp thống trị nên thành "cái vật xệch xạc, một cái gì đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại". Với cái bóng đó, với ý thức hiện hữu về sự méo mó của chính mình, Chí Phèo đến với Thị Nở. Đó là cuộc gặp gỡ tất yếu là hệ quả từ hai cuộc đời trống rỗng và bất toàn của hai con người.
Thị Nở trước khi gặp Chí Phèo vốn chỉ là một thực thể không có đường nét cá tính gì đặc biệt mà còn khùng khùng dại dại, còn dung nhan là những đường nét tự nhiên, thô mộc đến mức dị hợm: Trên một khuôn mặt ngắn ngủn, có cái mũi "vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành" và một đôi môi "cũng cố to cho không thua cái mũi" hơn nữa, lại dày và có "màu thịt trâu xám ngoách". Toàn bộ "nhan sắc" của Thị Nở được Nam Cao tóm lại trong một nhận xét là "xấu đến ma chê quỷ hờn". Từ hai cuộc đời, hai thân phận khiếm khuyết, hai trí tuệ mông muội tăm tối của Chí Phèo - Thị Nở, Nam Cao đã để cho họ kết hợp lại như một sự liên kết hoàn hảo để tạo ra một con người mới thống nhất trong sự bừng nở trở lại của một trí tuệ minh triết. Đó là Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
Với Nam Cao, tình yêu không đi liền với sự lý tưởng hoá đối tượng, với sự hâm mộ sùng bái người yêu mà bắt đầu chỉ thuần túy là bản năng. Ánh trăng trong mắt của Chí Phèo đêm gặp Thị Nở mang đầy màu sắc nhục thể, cứ "xanh rời rợi như là ướt nước". Cây dâu tây gần bờ sông thì "thân mềm oặt", những tàu chuối trong vườn nhà hắn thì "nằm ngửa, ưỡn cong cong lên" thỉnh thoảng lại "giẫy lên đành đạch như là hứng tình". Cái bóng - dấu ấn về sự hiện hữu méo mó của bản thân Chí Phèo cũng được phát hiện trong lúc này. Hành động chiếm đoạt Thị Nở của Chí Phèo lúc đầu chỉ thuần túy là bản năng nhưng chính trong cõi âm u của bản năng ấy một ánh lóe diệu kỳ đã bùng dậy hé mở cho ta nhìn thấy bản thể tốt đẹp của con người.
Nam Cao đã vượt trước những nhà văn của thời đại ông ở chỗ không dừng lại ở những tình yêu lý tưởng thuần tuý tinh thần như của Loan và Dũng trong Đoạn Tuyệt (Khái Hưng), Lan và Ngọc trong Hồn bướm mơ tiên (Khái Hưng), Thanh và Ngọc trong Dòng sông Thanh Thuỷ (Nhất Linh), mà ông đã hợp nhất tình yêu trong sự hoà hợp tinh thần và thể xác. Đó là những chi tiết làm căn cứ để khẳng định đây là tình yêu chứ không thuần tuý là bản năng khi Nam Cao tiếp tục miêu tả thêm lúc Chí Phèo đau bụng và ói mửa, được Thị Nở dìu về lều... Hành động ban đầu là bản năng đã làm sống dậy tình yêu, sống dậy phần nhân tính tưởng không có hay đã chết trong con người của cả Chí Phèo lẫn Thị Nở. Ở đây có sự tái sinh, phục sinh của tinh thần nhờ tình yêu và sự gắn kết hai thân xác. Nó đã cải hóa, tái sinh Chí Phèo, tình yêu cho Chí Phèo và Thị Nở ý thức về chính mình. Trước đây, họ chỉ là hai khối mông muội, Chí Phèo thì hung bạo và triền miên trong vô thức và những cơn say vô tận: "Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận". Vậy nhưng trong tình cảm với Thị Nở, Chí Phèo đã tìm thấy chính mình, khám phá ra chính mình, hơn thế nữa khám phá ra sự sống. Con người ý thức, con người cảm xúc của Chí Phèo sống dậy.
Lần đầu tiên hắn tỉnh hẳn rượu, đó là cái tỉnh của ý thức. Tại sao Chí Phèo "càng uống lại càng tỉnh ra?". Bởi vì tình yêu của hắn và Thị Nở đã làm thay đổi tâm điểm cuộc sống của hắn. Tâm điểm đó đã trượt từ cõi u minh của vô thức những ngày trước đây về với cõi thực tại, bắt Chí Phèo thừa nhận một thực tại cuộc sống đang tồn tại dù có hay không có hắn. Nó định vị tâm điểm cuộc sống của Chí Phèo từ những cơn say nghiêng ngả vào một cuộc sống bình thường. Chính vì vậy mà hắn tỉnh, hắn đã nhìn thấy chính bản thân mình. Thấy "bâng khuâng" rồi "lòng mơ hồ buồn"rồi "nghĩ vẩn vơ"... Thị Nở cũng thế, lần đầu tiên Thị lắng nghe cảm xúc của tâm hồn mình để "trằn trọc" "nghĩ ngợi" "tưởng tượng bâng quơ" .v.v..
Những giới hạn của cuộc đời Chí Phèo như đã được phá bỏ, nó mở rộng, liên thông với cuộc đời bên ngoài. Chính tình yêu đã mở thông lối về với cuộc đời của Chí Phèo, hắn cảm nhận được cuộc sống xung quanh: "Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn !".
Tình yêu cũng gia tăng thêm kích thước cho cuộc đời hắn. Trước đây Chí Phèo vô cảm, vô tâm, không có ý thức về chính bản thân mình nhưng nay hắn có cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là quá khứ với những kỷ niệm yêu thương đầm ấm, là mùi hương từ bát cháo hành và những săn sóc ân cần của Thị Nở, những kỷ niệm xa xưa cũng hiện về. Hắn từng mơ tới một viễn cảnh bình yên với chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải... hắn còn sợ già, sợ cô độc và muốn làm hòa với mọi người, muốn làm người lương thiện. Sự chuyển vị này là hệ quả tất yếu do tình yêu đem lại, nó khắc họa một cách sâu sắc bản thể bất toàn và cô độc của Chí Phèo lẫn Thị Nở trước khi yêu và được yêu. Chính tình yêu đã bù đắp khiếm khuyết trong tâm hồn, tái sinh một cuộc đời và làm giàu có đời sống nội tâm của nhân vật này rất nhiều.
Chính vì thức tỉnh, vì đã được khai hóa và giàu có nhờ tình yêu nên khi bị Thị Nở từ chối "và ngoay ngoáy cái mông đít ra về", Chí Phèo mới cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ. Sức mạnh của tình yêu đã đưa hai nhân vật này đến một tâm điểm tuyệt đối của cuộc sống, trong khi thực tại lại không như vậy, nó vẫn tồn tại những định kiến xã hội không dễ buông tha cho con người nên thiên đường tình yêu, khát vọng làm người của Chí rơi tõm vào hiện thực trần trụi và vỡ toang, buộc Chí Phèo phải đối diện với hiện thực với nỗi đau khổ, tuyệt vọng để vùng lên cầm dao giết chết Bá Kiến. Lời chì chiết của bà cô Thị Nở như là một chi tiết "giải thiêng" tình yêu của Chí Phèo. Nó thực tế, trần trụi đến tàn nhẫn. Đó là cái giá mà Chí Phèo và Thị Nở phải trả để đến với nhau, những thành trì xung quanh tình yêu ấy không dễ gì phá nên Chí Phèo tự kết liễu đời mình là một cách chọn lựa thích hợp nhằm chối bỏ sự thỏa hiệp, quay lại cuộc sống trước kia.
Sau những tác phẩm về tình yêu của Tự Lực Văn Đoàn của chủ nghĩa lãng mạn thì Chí Phèo của Nam Cao là một khám phá. Bởi Nam Cao vẫn viết về tình yêu nhưng không phải về bản thân tình yêu Chí Phèo - Thị Nở, mà sâu xa hơn, Nam Cao muốn hướng người đọc đến những vấn đề ngoài tình yêu. Đó là vấn đề về văn hóa, về con người và xã hội, về bản năng và vô thức, những ý niệm về thân phận con người, sự tự do thoát khỏi những buộc ràng của định kiến xã hội, khao khát làm người. Chính vì vậy tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao không mang dáng dấp của truyện tình theo nghĩa thông thường ta vẫn hiểu, cũng không chuyển tải nội dung tình yêu theo cách thông thường mà theo một cách rất trái khoáy, rất nghịch dị mang dấu ấn riêng của Nam Cao. Nó làm cho hiện thực cuộc sống không còn bị gò ép trong cái khuôn khổ thông thường, quen thuộc trong cái nhìn của mọi người mà hiện ra một cách đột ngột bất ngờ tạo sự ngạc nhiên trong cảm nhận.
Phân tích nỗi thống khổ của người nông dân bị áp bức trước Cách mạng qua nhân vật Chí Phèo.
Câu trả lời của bạn
Năm 1941, truyện ngắn "Đôi lứa xứng đôi" của Nam Cao ra mắt độc giả. Đầu năm 1946, truyện được tái bản, ông đổi tên truyện thành "Chí Phèo". Nó là một tác phẩm viết về đề tài nông dân trước Cách mạng được xếp vào loại kiệt tác trong nền văn học Việt Nam hiện đại, làm cho tên tuổi Nam Cao trở thành bất tử.
Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh một cách chân thực khách quan trong từng chi tiết về nỗi thống khổ của người nông dân bị áp bức, bị lưu manh hóa trước Cách mạng.
Chí Phèo bốn mươi hay ngoài bốn mươi, lúc hắn chết? Hai mươi năm đầu, đời hắn đầy nước mắt. Tám năm đi tù trong oan uổng và uất hận. Hơn mười năm cuối đời, hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, chỉ biết rượu và chửi, chỉ có máu và nước mắt. Chỉ có ba người quan hệ với hắn là Bá Kiến, vợ ba Bá Kiến và Thị Nở. Đó là lí lịch Chí Phèo.
Chí Phèo là một đứa không cha không mẹ, tứ cố vô thân. Kiếp người của hắn khổ từ khi nằm trong bụng một người đàn bà chửa hoang, cất tiếng khóc oe oe, mẹ hắn đùm hắn vào cái váy đụp vứt ở lò gạch cũ. Khi hắn xám ngắt, anh thả ống lưới rước hắn về đem cho mụ đàn bà góa mù; sau đó mụ ta bán hắn cho bác phó cối. Và khi bác phó cối chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Một hoang thai, một vật vứt đi, một vật cho không, một vật đem bán, một kẻ bơ vơ làm thuê kiếm sống. Đó là trang đời cô đơn, đầy nước mắt của Chí Phèo. Một tuổi thơ đầy bất hạnh, đáng thương!
Năm 20 tuổi, Chí Phèo làm canh điền cho Bá Kiến. Chí Phèo bị vợ ba Bá Kiến lợi dụng "bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng" mà hắn bị đi tù bảy, tám năm. Một anh cố nông hiền lành đã bị người ta lợi dụng, bị tù oan uổng. Chính Bá Kiến là chủ mưu làm hại Chí Phèo. Nhà tù thực dân đã lưu manh hóa anh cố nông hiền lành này. Sau tám năm đi tù về, Chí hoàn toàn thay đổi. Cái đầu trọc lốc, cái mặt câng câng, cái răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy! Phải chăng Chí ngạo đời, thách thức với thiên hạ cho bõ uất ức căm hờn? Hay anh cố nông này bị nhà tù thực dân tha hóa, làm biến chất?
Nỗi thống khổ của Chí Phèo đến mức cùng cực là sau khi hắn đi tù về. Hắn đã gây ra bao "sự kiện", bao chuyện động trời. Chửi Bá Kiến, đến nỗi "mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất!". Xô xát với Lý Cường rồi rạch mặt, kêu làng ăn vạ. Cụ Bá phải xử nhũn với hắn, giết gà thết rượu, đãi thêm đồng bạc để hắn về uống thuốc! Chí Phèo đốt quán mụ bán rượu. Ngồi uống rượu với chuối xanh chấm muối ở ngôi miếu con cạnh bờ sông, cầm dao nhọn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai xin đi ở tù: "Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi ở tù"..., "con phải đâm chết dăm ba thằng, rồi cụ bắt con giải huyện". Một sự thật cay đắng phũ phàng, như Chí Phèo nói: "... bẩm quả đi ở tù sướng quá. Đi ở tù còn có cơm mà ăn, bây giờ về làng về nước, một thước cắm dùi không có, chủ làm gì nên ăn". Bá Kiến là một tên cường hào xảo quyệt "trị không lợi thì cụ dùng". Chỉ một câu mơn trớn, cụ cho Chí Phèo biết là anh ta với Lý Cường, con trai cụ " còn có họ kia đấy". Chỉ một câu nói khích, Bá Kiến sai anh đầu bò này cầm dao đi thẳng đến nhà đội Tảo đòi nợ. Vô học, ngu dốt và lưu manh (sản phẩm của chế độ thực dân), Chí Phèo đã bị Bá Kiến "chinh phục". Năm đồng bạc, năm sào vườn ở bãi sông, Chí được cụ Bá "thưởng" cho. Năm đó Chí Phèo hăm bảy hăm tám, hắn "bỗng thành ra có nhà", hắn trở thành "anh chân tay mới" của Bá Kiến.
Đoạn đời hơn mười năm còn lại của Chí Phèo đầy máu và nước mắt. Hắn bị đầu độc bằng rượu và các món lợi khác. Hắn trở thành kẻ đâm thuê chém mướn. Hắn "đập phá bao nhiêu cơ nghiệp... làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện". Hai bàn tay hắn vấy đầy máu và tội ác. Cuộc đời hắn là những cơn say dài bất tận, mênh mông: "hắn đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say nóng rượu trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận". Chí Phèo đã bị cướp mất cả hình người lẫn linh hồn. Người ta biến hắn thành một con quỷ dữ. Cái mắt hắn "vàng vàng", "sạm màu lại", "vằn dọc vằn ngang... biết bao nhiêu là sẹo . Hắn bị đẩy xuống hố thẳm tội ác. Cái thẻ biên tên tuổi hắn cũng không có. Hắn không biết tuổi hắn, "hắn không còn ngày tháng nữa", cả làng Vũ Đại "đều sự hận thù tránh mặt hẳn mỗi lần hắn qua".
Chí Phèo đâu phải là kẻ mạnh! Hắn là một tên điên khùng, là một kẻ mất trí, là một con quỷ dữ. Cuộc uống rượu giữa hắn với Tự Lãng, một kẻ làm nghề thầy cúng kiêm hoạn lợn cho thấy nỗi cô đơn bơ vơ của những kiếp người đau khổ. Cuộc "làm tình" năm ngày đêm của hắn với Thị Nở, một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi, dở hơi xấu ma chê quỷ hờn là một bước ngoặt trong cuộc đời Chí? Bát cháo hành và bàn tay săn sóc của Thị Nở đã đánh thức chút ít lương tri còn sót lại trong con người Chí Phèo. Hắn buồn nhớ lại mơ ước bình dị thời trai trẻ. Hắn "thèm lương thiện". Hắn muốn tùng với Thị Nở ở chung "một nhà cho vui" "làm thành một cặp rất xứng đôi". Muốn thoát khỏi lốt quỷ dữ, muốn trở lại làm người, nhưng ai cho Chí làm người nữa? Bà cô Thị Nở không cho thị lấy "một thằng không cha", chỉ có một nghề là "rạch mặt ăn vạ". Thị Nỡ đã phải chối bỏ cuộc tình. Thị đã giúi cho hắn một cái làm cho "hắn lăn khoèo xuống sân". Ai cho Chí Phèo làm người lương thiện? Làm thế nào để mất đi những vết sẹo mảnh chai trên mặt hắn? Đó là nỗi thống khổ của Chí Phèo. Chí Phèo đã bị xô đẩy vào con đường cùng bế tắc, không có lối thoát! Hắn đã uống rượu cho thật say! Hắn đến gặp Bá Kiến để "đòi lương thiện". Hắn đà đâm chết Bá Kiến rồi hắn tự sát! Đó là quy luật khốc liệt ở đời: "ác giả ác báo!". Từ một cố nông lương thiện, Chí Phèo bị biến thành quỷ dữ, bị cướp mất cả hình người lẫn linh hồn, rồi từ quỷ dữ mà "thèm lương thiện", mà muốn được trở lại làm người nhưng không thể được, không ai cho Chí được làm người!. Đó là một kiếp người đầy máu và nước mắt. Đó là nỗi thống khổ của Chí Phèo, nỗi thống khổ của người nông dân bị lưu manh hóa trước cách mạng.
Nam Cao đã khắc họa và xây dựng nhân vật Chí Phèo thành một nhân vật điển hình cho sự thống khổ và lưu manh hóa của tầng lớp nông dân nghèo trong xã hội thực dân phong kiến. Chí Phèo lại có những nét riêng, tính cách riêng. Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức... đều là đầu bò, lưu manh, nhưng mỗi đứa lại có một cách riêng, một cuộc đời riêng, một số phận riêng. Chí Phèo, Lão Hạc, Lang Rận, v.v... đều chết bi thảm, nhưng mỗi người lại tự tử, tự sát một cách khác nhau.
Nam Cao có tài kể chuyện, sử dụng ngôn ngữ nhân vật trong đối thoại, độc thoại rất sinh động, nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật Chí Phèo một cách sâu sắc. Ông đã phản ánh một cách chân thực, cụ thể nỗi thống khổ của người nông dân nghèo trước cách mạng. Qua cuộc đời thống khổ và cái chết bi thảm của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã gióng lên một tiếng chuông cảnh tỉnh: Hãy cứu lấy con người, hãy cứu lấy những người nông dân nghèo khổ, đau khổ, dốt nát... Hãy xóa bỏ xã hội thực dân, phong kiến nguồn gốc của sự áp bức bóc lột, của cái ác và đau thương. Qua đó, ta càng thấy rõ, truyện Chí Phèo là một kiệt tác văn chương chứa chan tinh thần nhân đạo thống thiết!
Suy nghĩ về hình tượng nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn Chí Phèo.
Câu trả lời của bạn
Ngô Tất Tố thành công với bức tranh hiện thực cùng khổ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng còn Nam Cao lại khiến người ta nhớ khi viết về đề tài sự lưu manh của con người trong một thời đại tối tăm. Năm 1941, truyện ngắn Chí Phèo (lúc đầu có tên là Đôi lứa xứng đôi) ra đời là một lời cảnh tỉnh con người trước hiện thực tàn bạo của xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là một xã hội tàn nhẫn với lắm kẻ lưu manh, đểu giả và thâm sâu. Chúng sẵn sàng vùi dập hay hãm hại con người. Chúng cũng sẵn sàng tước đoạt ở người khác quyền sống, sự sống. Nhân vật Bá Kiến là một điển hình sâu sắc cho loại con người ấy.
Nếu nhân vật Nghị Quế nổi bậc ở cái tính ăn bẩn, keo kiệt và thô lỗ của hắn, nhân vật Nghị Hách đặc sắc ở cái nết dâm bậy, thì ở nhân vật Bá Kiến hội tụ đầy đủ mọi điều xấu xa, bỉ ổi ở trên đời. Có thể nói cái xằng bậy nào hắn ta cũng có. Hắn cũng có đủ bản lĩnh của một tên cáo già, gian hùng khét tiếng. Hắn chính là đại diện cao nhất của cái xã hội tàn bạo, bất nhân, cạn kiệt tình người. Đó là một xã hội "quần ngư tranh thực" đầy ghê tởm. Ở đó, kẻ mạnh hiếp kẻ yếu, từng người, từng người lũ lượt đánh mất bản chất lương thiện vốn có của mình chỉ vì miếng ăn.
Bá Kiến là một nhân vật phản diện điển hình. Qua nhân vật Bá Kiến, mọi điều dơ bẩn của cái xã hội thối nát ấy được phơi bày rõ ràng, chân thực, sinh động và đầy xót xa.
Có thể nói, cái trí xảo và gian tham của Bá Kiến cũng có dòng có dõi. Hắn xuất thân trong một gia đình đã từng bốn đời làm Lí trưởng. Bản thân hắn làm Lí trưởng rồi Chánh tổng. Cái xuất thân dòng dõi ấy, khiến Bá Kiến kế thừa mọi mánh khóe ở đời. Bằng đủ mọi mưu mô và thủ đoạn khôn khéo, hắn đã lần lượt leo lên đỉnh cao danh vọng. Từ tiên chỉ làng Vũ Đại hắn leo lên làm Bá hộ rồi Chánh hội kỳ hào, Huyện hào. Đến cả cái danh Bắc Kì nhân dân đại biểu hắn cũng chiếm lấy. Hắn khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Đâu chỉ có dân lành mới sợ cái uy của cụ Bá, mà cả bọn lưu manh lẫn cường cào đối đối nghịch cũng dè chừng và kiên nể hắn ta lắm. Ở làng Vũ Đại, Bá Kiến quyền uy chẳng khác gì một tên chúa đất.
Tuy không chú ý tô đậm nhân vật này nhưng Bá Kiến lại rất nổi bậc trong tác phẩm. Bằng một vài sự miêu tả của Nam Cao cũng đủ làm nhân vật này in đậm trong trí nhớ người đọc. Bá Kiến tuy là một nhân vật loại hình nhưng với những nét độc đáo, khiến nhân vật này rất ấn tượng, không thể nào quên.
Trước hết, Bá Kiến là loại cường hào cáo già lọc lõi. Tên "chúa đất" nào chẳng tham lam, gian manh chuyên đi đè đầu cưỡi cổ nông dân. Nhưng tham lam kiểu Bá Kiến là một loại hiếm thấy.
Sự gian manh sừng sỏ của Bá Kiến thể hiện sâu sắc trong cách hắn trị người và cách hắn đã đẩy Chí Phèo, một anh nông dân hiền lành như cục đất vào tù và khuất phục Chí Phèo sau khi hắn ra khỏi tù.
Nhà văn để cho Bá Kiến xuất hiện đầu tiên trước độc giả đúng lúc Chí Phèo say rượu, đến cổng nhà hắn để rạch mặt, kêu làng, ăn vạ. Vừa trông thấy Chí Phèo nằm trước cửa, không nhúc nhích như thể gần chất, Bá Kiến hiểu ngay cơ sự. Hắn thừa biết ý định của Chí Phèo khi gây ra hành động này. Với sự từng trải của một tên cáo già gian hùng, Bá Kiến biết rõ tác hại của đám đông nhốn nháo này. Với địa vị là Bá hộ, quyền uy thét ra lửa, không thể để Chí Phèo làm cho mất mặt. Bá Kiến đã mau chóng tìm được cách đối phó hữu hiệu.
Trước hết, hắn xua đám đông ra về. Hắn biết rõ sự ồn ào của đám đông càng làm cho con thú kia thêm hung hăng. Chí Phèo cũng mượn đám đông để gây khó cho hắn. Bá Kiến ra lời quát tháo mọi người chẳng qua là kế trì hoãn, kéo dài thời gian để Chí Phèo vơi bớt cơn say rượu. Đối với hắn, cái loại ngang bướng như Chí Phèo đâu phải là chưa từng gặp. Hắn có nhiều kinh nghiệm trừng trị loại "đầu bò" như Chí lắm rồi.
Mặt khác, trước đám đông, hắn không thể nói lời nhũn nhặn để dụ dỗ Chí Phèo được. Muốn dụ dỗ, ắt phải nhún nhường. Đường đường là một cụ bá hét ra lửa mà để đám dân đen chứng kiến cảnh ngọt nhạt với một thằng cùng đinh, thì còn ra cái thể thống gì?
Với người nhà, hắn quát lấy lệ, đuổi họ vào nhà. Với người làng, hắn vạch rõ phận sự không liên quan để khiến họ về nhà: "cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?". Dù rất hả hê và muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng họ cũng lảng dần đi vì nể sợ cái uy của cụ Bá.
Đến khi "chỉ còn trơ lại Chí Phèo", thì cái tài phỉnh dụ của Bá Kiến mới bộc lộ hết ra. Trước hết, cụ bắt đầu giở giọng đường mật, nịnh nọt, dỗ dành Chí Phèo. Lão nhún nhường gọi Chí bằng anh rồi vồn vã mời Chí vào nhà uống nước.
Sự xuống nước của lão già ranh ma ấy khiến cho cơn hung hăng của Chí phèo vơi đi cả nửa. Chí cũng ngạc nhiên lắm nhưng để xem chuyện gì đang xảy ra, Chí đã nghe theo lão. Bá Kiến đã chiến thắng ngay ở bước đầu tiên. Chỉ cần Chí Phèo ngheo theo lão việc này, thì tất sẽ nghe theo việc khác nữa.
Không để Chí Phèo kịp nhận ra trò bịp ấy, lão lập tức tiến một bước thâm độc khác. Lão nhận mình có họ có hàng với Chí Phèo. Dĩ nhiên, Chí Phèo chẳng biết thật giả thế nào. Nhưng cũng thấy được đối đãi, trong lòng không giận nữa.
Chỉ cần Chí Phèo ngồi lên ghế là Bá Kiến biết mình đã thắng. Để hoàn toàn khuất phục con quỷ ấy, Bá Kiến hô người giết gà, mua rượu thết đãi Chí Phèo như đối đãi với hàng thượng khách. Chí Phèo nhận rượu nghĩa là chấp nhận cái "tấm lòng" của Bá Kiến, nghĩa là không gây sự nữa. Cuối bữa rượu, Bá Kiến còn biếu Chí Phèo mấy đồng bạc để ru lòng gã lang thang này.
Bá Kiến như đi vào suy nghĩ của người khác, thấu hiểu mọi điều và dự đoán chính xác mọi hành động. Cái lão già "khôn róc đời" ấy quả thật rất đáng sợ.
Đặc biệt, Nam Cao đã để cho nhân vật Bá Kiến độc thoại nội tâm nhằm phơi bày những ý nghĩ tỉnh táo nhưng nham hiểm của hắn. Đó là những phương châm, thủ đoạn thống trị người nông dân rất khôn ngoan và hiệu quả mà Bá Kiến đã đúc rút từ bốn đời làm tổng lý.
Với những kẻ lì lợm như Chí Phèo trị không được thì lão dùng. Cái kế của lão đó là "dùng những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò". Kế sách ấy không những thâm độc, nham hiểm mà còn rất côn đồ. Với lão, sự đời không nên cố chấp. Không ăn được thì buông bỏ, hà tất cố đấm ăn xôi để mang họa vào thân. Lão luôn tâm niệm "bám thằng có tóc chứ không bám thằng trọc đầu". Với triết lý "thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân", "mềm nắn rắn buông" hết sức mềm dẻo, uyển chuyển và hợp lý
Nhờ "biết mềm, biết cứng, biết thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù" rất được việc trong chuyện đến "tác hại bất cứ anh nào không nghe mình". Bá Kiến đã tập hợp được một phe cánh, bè đảng xung quanh mình. Thế lực và sức mạnh không ngừng được tăng cường, lấn át tất cả, làm cho bọn cường hào đối địch trong làng phải nể sợ, kiêng dè.
Sự gian xảo của hắn được phơi bày trọn vẹn trong âm mưu hại người. Nếu ghét kẻ nào, lão ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, đưa vào chốn tù tội hoặc khốn cùng. Nhưng rồi lão lại dắt tay họ lên để họ phải cảm ơn. Lão sẵn sàng dùng mọi cách để đòi được số tiền cần lấy, để rồi ném trả với luận điệu thương hại giả dối vì thương kẻ bần hàn cùng túng quá. Hắn diễn kịch cứ như thật. Vì thế mà nhận cho ra bộ mặt thật của tên cáo già Bá Kiến không phải là điều dễ dàng.
Tất cả những thói lưu manh, côn đồ, đểu giả ấy được rèn luyện chỉ để bóc lột người khác mà thôi. Bá Kiến nổi tiếng hơn ở cái danh "già đời trong nghề đục khoét". Để vơ vét được nhiều tiền của, lão đã vận dụng hết các ngón nghề điêu luyện, không trừ ngón nào. Với người nông dân hiền lành nhưng khốn khó, lão tha hồ bóp nặn trong những vụ thu thuế. Không cách này thì cách khác, người nông dân phải cật lực nộp đủ tiền thuế. Không có thì lão cho vay. Mà vay thì phải trả gấp năm gấp mười.
Đối với "những thằng bạt mạng" hắn không ngừng thu nạp để giúp hắn dùng trong việc đòi nợ hay gây thanh thế cho hắn. Hắn luôn dùng đúng, người đúng việc. Bởi thế mà, không có cái nợ nào hắn không đòi được, không có kẻ thù nào mà hắn không làm cho điêu đứng, tán gia bại sản. Chí phèo đối với hắn như một con tốt thí mạng. Bằng tiền, hắn mua chuộc cả con người Chí. Hắn biến thù thành bạn. Những người bạn "đặc biệt" của hắn sớm hôm quanh quẩn quanh làng, hễ có việc là hắn sai bảo.
Nam Cao cũng đã vạch rõ nhân cách bỉ ổi, đê tiện của lão cáo già vô sỉ ấy. Bá Kiến không chỉ mưu mô mà còn là một lão già mất nết, dâm đãng và đồi bại. Chuyện lão có bốn năm bà vợ thì cũng thường tình. Nhưng ở tuổi ngoài sáu mươi mà hắn còn ghen bóng, ghen gió. Nỗi hậm hực của lão đối với "những thằng trai trẻ" đã khiến hắn nhẫn tâm đẩy bao con người vô tội vào tù ra tội. Chính hắn lại là người rất háo sắc và thích chơi bời, trác táng, sa đọa và hư hỏng hơn ai hết. Hắn bí mật đi lại với vợ Binh Chức. Câu chuyện ăn chơi của lão ở trên tỉnh thì ai cũng biết.
Đặc tả nhân vật Bá Kiến là một trong những thành công nghệ thuật của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo. Những loại cường hào như Bá Kiến trong xã hội là không hiếm. Sức mạnh đích thực nằm ở cái cách Nam Cao miêu tả, vừa rõ ràng vừa khinh bỉ tột độ. Cộng với lớp từ ngữ phong phú, chân thực giống như một chất tẩy rửa từng bước lột trần bộ mặt xấu xa, đê tiện, bỉ ổi và dâm ô của Bá Kiến.
Nhân vật Bá Kiến vừa mang bản chất chung của giai cấp địa chủ cường hào, vừa có những nét riêng biệt sinh động không giống bất kỳ một tên địa chủ nào khác trong văn học. Điều đó giải thích vì sao hắn luôn được chúng ta nhắc đến khi cần ám chỉ một kẻ có quyền lực, gian hùng và nham hiểm. Hắn là cái nguyên nhân không chỉ dẫn đến cái bi kịch thảm khốc của cuộc đời Chí Phèo mà còn của biết bao con người lương thiện khác.
Người đọc hả hê khi nhìn thấy Bá Kiến nằm giãy chết trong vũng máu. Nhưng người đọc cũng lập tức lo âu và suy nghĩ. Bá Kiến này chết nhưng trong xã hội vẫn còn có biết bao Bá Kiến khác. Những kẻ đối địch bấy lâu của cá kiến chờ đợi cái chết của lão mà nhảy lên tiếp tục đè đầu, cưỡi cổ người nông dân. Kiếp sống lầm than không bao giờ dứt.
Tác phẩm Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ; đồng thời là lời kết tội đanh thép xã hội thực dân - phong kiến đẩy con người vào bi kịch cùng cực, bế tắc, tuyệt vọng. Nhân vật Bá Kiến quả là một thành công ngoài dự định của nhà văn. Cách miêu tả nhân vật phản diện, cách điển hình hóa nhân vật, khác sâu đời sống nội tâm có lẽ Nam Cao là nhà văn thành công nhất.
Bên cạnh Suy nghĩ về hình tượng nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn Chí Phèo các em cần tìm hiểu thêm những nội dung khác như Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo từ buổi sáng sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời để thấy rõ bi kịch của nhân vật này hay phần Phân tích nhân vật Chí Phèo để làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao. nhằm củng cố kiến thức của mình.
Phân tích nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao.
Câu trả lời của bạn
Nhà văn Nam Cao có phần đã dựa vào những người thật việc thật ở quê hương mình để xây dựng truyện ngắn Chí Phèo. Đại diện cho giai cấp thống trị ở làng Vũ Đại chính là Bá Kiến. Qua nhân vật này, bộ mặt xấu xa tàn bạo của bọn cường hào, địa chủ bị phơi bày rất rõ nét.
Không giống một số nhân vật địa chủ trong những tác phẩm khác của Nam Cao, ở Chí Phèo, Bá Kiến hiện lên với tư cách là một nhân vật điển hình hoàn chỉnh. Khi xây dựng nhân vật địa chủ nghị Quế keo kiệt, thô lỗ; Ngô Tất Tố đã miêu tả khá tỉ mỉ gia cảnh, rồi kể đến những hành động và ngôn ngữ của hắn trong Tắt đèn. Nhưng đối với Bá Kiến, nhà văn Nam Cao không hề tả diện mạo, chỉ nói đến tiếng quát “rất sang” và “cái cười Tào Tháo” mà y vẫn tự phụ hơn đời. Chỉ đơn sơ vài chi tiết nhưng ông đã tạo cho Bá Kiến một bề ngoài khá độc đáo, khiến người đọc khó quên. Tuy vậy, nhân vật này trở thành sống động cơ bản còn do tài miêu tả nội tâm sắc sảo, chân thật của tác giả.
Nam Cao để cho Bá Kiến xuất hiện lần đầu tiên trước độc giả đúng lúc Chí Phèo say rượu, đến cổng nhà hắn rạch mặt, kêu làng ăn vạ. Cảnh tượng thật huyên náo, hỗn loạn. Vừa thấy Chí Phèo “nằm dài, không nhúc nhích rên khẽ như gần chết”, “thoáng nhìn qua", lão “đã hiểu cơ sự”; lão nhanh chóng tìm ra được kế sách thích hợp nhất để ứng phó. Với sự từng trải, lão biết rõ tác hại của đám đông này. Bố con lão thêm mất mặt, nếu để dân làng chứng kiến hành động thô tục của Chí Phèo. Lão cũng thừa biết tâm lý của thằng “đầu bò”, đám đông kia chính là hậu thuẫn kích thích để nó hung hăng hơn. Và, cũng cần phải có ít nhiều thời gian để Chí Phèo giã rượu, đỡ táo tợn.
Vả lại, trước đám đông người, Bá Kiến khó có thể diễn thành công mánh khóe, mua chuộc, dụ dỗ. Muốn dụ dỗ, ắt phải nhún nhường. Đường đường là một cụ Bá hét ra lửa, mà để đám dân đen chứng kiến cảnh phải ngọt nhạt với một thằng cùng đinh thì còn ra thể thống gì? Bởi vậy, việc đầu tiên, Bá Kiến tìm cách giải tán đám đông. Trước hết, lão “quát mấy bà vợ”, và đuổi họ vào nhà. Chắc những người “tuôn đến xem” nghe tiếng quát “rất sang” này đủ hiểu: cụ Bá muôn đuổi khéo mình. Tiếp theo “quay sang bọn người làng”, Bá Kiến dịu giọng hơn một chút “cả các ông các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?”. Đến đây, tất nhiên, “không ai nói gì, người ta lảng dần di”. Cho dù vừa tò mò, vừa hả hê, nhưng họ vẫn nể, vẫn sợ cụ Bá. Vả lại, ngay vợ của cụ cũng phải giở giọng đường mật, gọi đầy tớ cũ của mình, nay như đã biến thành con vật gớm ghiếc bằng “anh”, vồn vã mời Chí Phèo “vào nhà uống nước”. Chưa đủ, cụ “tiên chỉ làng Vũ Đại”, “khét tiếng trong hàng huyện”, còn nhận có họ hàng với anh cùng đinh này “rồi giết gà mua rượu cho hắn uống, xong lại đãi thêm đồng bạc để về uống thuốc..”. Chỉ cần Chí Phèo ngồi lên, Bá Kiến biết là đã thắng. Tuy vậy, cụ vẫn quát mắng lí Cường, sau khi đã “đưa mắt nháy con một cái”.
Với cách cư xử của lão, chứng tỏ bá Kiến đã đi guốc vào bụng dạ Chí Phèo lúc này: ưa phỉnh nịnh, ham cái lợi trước mắt… Rốt cuộc, Bá Kiến “khôn róc đời” đã đạt được cả hai mục đích: vừa tạm dập tắt ngọn lửa hờn căm trong con người Chí Phèo, vừa chuẩn bị biến Chí Phèo thành tay sai lợi hại. Trong mọi tình huống tên cường hào này đều hiện rõ cái bản chất xảo quyệt lọc lõi , nó được thể hiện một cách rất sinh động.
Già đời đục khoét, đè đầu cưỡi cổ nông dân, cụ Bá đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm phong phú, trong “cái nghề làm việc quan”. Phải biết “thế nào là mềm nắn rắn buông”. Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì vứt trả lại năm hào, “vi thương anh túng quá!”. Cụ có không ít thủ đoạn thâm hiểm “trị không được thì cụ dùng”. “Cụ nghĩ bụng: cũng phải có những thằng đầu bò chứ? Không có những thằng đầu bò. thì lấy ai trị những thằng đầu bò?”. Cái nham hiểm ghê tởm của nhân vật này là ở chỗ tìm cách cho lũ đàn em, hoặc đám dân làng “sinh chuyện”- tức là đốt phá, chém giết lẫn nhau, để lão “có dịp mà ăn!”
Bá Kiến đã vận dụng triệt để những kinh nghiệm đó để biến Chí Phèo – một thanh niên chất phác, tự trọng và khỏe mạnh thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”, sẵn sàng theo lệnh hắn để đi đâm chém, rồi phải kết liễu cuộc đời mình một cách thảm khốc. Rõ ràng, bi kịch của Chí Phèo đã góp phần quan trọng hoàn thiện chân dung gian hùng của Bá Kiến.
Bên cạnh việc khắc họa sinh động sâu sắc bản chất lọc lõi, xảo quyệt. Nhà văn Nam Cao đã vạch trần nhân cách bỉ ổi của “tiên chỉ làng Vũ Đại” trong những mối quan hệ kín đáo. Và tác giả tài năng là ở chỗ: khi cần đặc tả sự lợi dụng đê tiện và thói dâm ô vô độ của tên cường hào này, ông đã bỏ qua nhiều chi tiết rất phong phú, rất cụ thể và sinh động của nguyên mẫu. Lý Bính ở làng Đại Hoàng. Ngay cái việc gỡ gạc của cụ lý đối với người đàn bà vắng chồng và có tiền, lẫn máu ghen tuông của hắn cũng chỉ được lướt qua. Tác giả để có mấy dòng tả ý nghĩ cụ Bá về người vợ trẻ và đẹp… nhưng vẫn đủ sức khắc sâu trong người đọc một nhân cách bỉ ổi và thảm hại.
Như vậy, Bá Kiến vừa mang bản chất chung của giai cấp địa chủ cường hào, vừa có những nét riêng biệt sinh động không giống bất kì một tên địa chủ nào trong văn học. Điều đó giải thích vì sao hắn luôn được chúng ta nhắc đến, khi cần ám chỉ một kẻ có quyền lực, gian hùng và nham hiểm.
Bằng nhân vật Bá Kiến, nhà văn Nam Cao đã ghi nhận những thành công mới mẻ trong việc xây dựng nhân vật. Điều này chứng tỏ sự tiến bộ đáng kể của ông nói riêng, phương pháp sáng tác hiện thực ở giai đoạn 1939 – 1945 nói chung.
Khi một nhà văn Khi một nhà văn mới bước vào làng văn, điều đầu tiên tôi sẽ hỏi anh ta là anh sẽ mang lại điều gì mới cho văn học ( Lep Tonxtoi). Bằng những hiểu biết của mình về truyện ngắn Chí Phèo anh/ chị hãy thay mặt nhà văn Nam Cao trả lời câu hỏi ấy
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Phân tích tâm trạng của Chí Phèo khi bị Thị Nở từ chối chung sống.
Câu trả lời của bạn
Nam Cao viết văn từ những năm 30 của thế kỉ XX, là một nhà văn có tấm lòng đôn hậu, chứa chan tình yêu thương. Những trang văn của Nam Cao thường viết về người nông dân thấm đượm tình cảm nhân đạo sâu sắc. Nhắc đến Nam Cao người ta không thể không nhắc đến tác phẩm đã khẳng định vị trí của ông trong những năm 41 - Chí Phèo - tác phẩm viết về bi kịch của nhân vật Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo gồm hai bi kịch nối tiếp nhau, một là bi kịch bị đẩy vào con đường tha hóa, hai là bi kịch bị cự tuyệt quyền là người. Sau khi bị Thị Nở cự tuyệt, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bắt đầu.
Sau năm ngày chung sống với Thị Nở, Chí đã bị Thị Nở tuyệt tình. Một chân trời tràn đầy hạnh phúc vừa mở ra trước mắt Chi đã tối sầm lại. Tại sao Thị Nở lại tuyệt tình với Chí? Vì Thị Nở vốn đã dở hơi nhưng nguyên nhân chính là do bà cô của Thị Nở kiên quyết không cho Chí Phèo lấy Thị Nở. Vì Chí Phèo là thằng không cha, không mẹ, là kẻ lưu manh côn đồ, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Suy nghĩ của bà cô Thị Nở cũng chính là định kiến xã hội đầy bất công đối với Chí. Bà cô Thị Nở, dân làng Vũ Đại không biết và cũng không tin vào sự hoàn lương của Chí. Với họ, Chí mãi mãi là con quỷ dữ. Và thế là định kiến xã hội đã bóp chết tình người mong manh của Thị Nở, đã chặn đứng đường trở lại xã hội lương thiện của Chí. Phát hiện, tố cáo, lên án định kiến xã hội là một đóng góp mới đáng kể của Nam Cao trong văn học Việt Nam hiện đại.
Bị Thị Nở tuyệt tình, Chí lâm vào bi kịch bị cự tuyệt vô cùng đau đớn tuyệt vọng. Vị mất Thị Nở là mất tất cả, mất sự bấu víu cuối cùng, là mất đi tổ ấm, mất đi cơ hội làm người mà chí hằng ao ước đến cháy lòng. Có thể thấy, Nam Cao như đã hóa thân vào nhân vật của mình để diễn tả đến tận cùng cơn bão lòng của Chí với những cung bậc cảm xúc, phức tạp, tinh vi. Ban đầu, nghe Thị Nở chút lời bà cô vào mặt, Chí thảng thốt, bàng hoàng đến chết lặng. Chí không tin vào tai, vào mắt mình, Chí dường như không hiểu nổi, đến khi hiểu ra, Chí ngẩn mặt, ngẩn người. Đất dưới chân Chí như đang sụp đổ. Thoáng một cái, Chí như hít thấy hơi cháo hành, Chí tiếc nuối quá khứ hạnh phúc biết bao. Chí giật mình sửng sốt, Chí đứng lên gọi, đuổi theo, nắm tay. Chí đã cố gắng níu lấy Thị Nở bằng mọi cách nhưng mọi nỗ lực của Chí đều trở nên vô vọng.
Hụt hẫng, đau đớn, tan nát cõi lòng, Chí lôi rượu ra uống, nhưng càng uống lại càng tỉnh. Giấc mơ hạnh phúc, khát vọng hoàn lương phút chốc tan tành mây khói để lại trong lòng Chí nỗi đau mênh mang, thăm thẳm mà không một thứ rượu nào có thể làm nguôi ngoai. Nỗi đau ấy đã nhấn chìm, nuốt chửng cả rượu. Yếu tố phi lý đã được Nam Cao vận dụng một cách tài tình để phơi trải nỗi đau tận cùng trong lòng Chí. Càng uống càng tỉnh, hơi rượu không sặc sụa, Chí thấy thoang thoảng hơi cháo hành. Lơ lửng, chờn vờn trước mắt, hơi cháo hành hiện ra như một sự trêu ngươi, chọc tức, như lưỡi dao sắc xuyên thẳng vào trái tim rỉ máu của Chí, cứ nát cõi lòng tan hoang của Chí, đẩy Chí vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Chí ôm mặt khóc, dưng dức, khóc như thể chưa bao giờ được khóc, tức tưởi, đau đớn tuyệt vọng. Tiếng khóc của người lương thiện bị cự tuyệt quyền làm người
Dõi theo đoạn văn diễn tả tâm trạng khi bị Thị Nở cự tuyệt, người đọc không chỉ thán phục tài năng mổ xẻ nội tâm thần tình của ngòi bút Nam Cao mà còn cảm phục trái tim nhân đạo vĩ đại của nhà văn. Ta nghe trong trang văn như có cả tiếng khóc thảm thương của Nam Cao trước bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.
Như vậy chúng tôi đã gợi ý Thuyết minh về thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, các em cần tìm hiểu thêm Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo từ buổi sáng sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời để thấy rõ bi kịch của nhân vật này và cùng với phần Phân tích nhân vật Chí Phèo để làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trong truyện ngắn cùng tên để có thể hiểu rõ hơn về nội dung này.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *